Tải bản đầy đủ (.docx) (140 trang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC: KẾT HỢP PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO DỰ ÁN VỚI HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CHO HỌC SINH LỚP 11 PHẦN HÓA HỌC VÔ CƠ TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.76 MB, 140 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
------***------

TRẦN ANH TUẤN

KẾT HỢP PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO DỰ ÁN VỚI HOẠT
ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CHO HỌC SINH LỚP 11 PHẦN
HÓA HỌC VÔ CƠ TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Chuyên ngành: Lí luận và Phương pháp dạy học môn Hoá học
Mã số: 60.14.01.11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đặng Thị Oanh

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành tại khoa Hoá học – Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội.
Với tấm lòng tri ân và biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn cô
giáo PGS.TS. Đặng Thị Oanh, người đã tận tình hướng dẫn em trong suốt
quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Em xin chân thành cám ơn tập thể các thầy cô giáo khoa Hoá học, đặc
biệt là các thầy cô giáo trong tổ Phương pháp giảng dạy bộ môn Hóa học đã
tạo điều kiện, giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu luận
văn.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn BGH cùng các thầy cô giáo trường


THPT Việt Bắc, THPT Chu Văn An và THPT Đồng Đăng đã nhiệt tình giúp
đỡ trong quá trình hoàn thành luận văn.
Và thật thiếu sót nếu không cảm ơn các em học sinh khối 11 của
trường THPT Việt Bắc. Chính sự tham gia nhiệt tình của các em trong quá
trình học tập đã tiếp thêm sức mạnh để thầy hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin cám ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ, động
viên tôi hoàn thiện luận văn này.
Hà Nội, tháng 9 năm 2015
TÁC GIẢ


TRẦN ANH TUẤNDANH
MỤC CHỮ VIẾT TẮT

DA
DHTDA
GV
HS
NCKH
LĐC
LTN
PPDH
THCS
THPT
TNSP

Dự án
Dạy học theo dự án
Giáo viên
Học sinh

Nghiên cứu khoa học
Lớp đối chứng
Lớp thực nghiệm
Phương pháp dạy học
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Thực nghiệm sư phạm


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Một số đặc trưng cơ bản của chương trình dạy học định hướng nội
dung và chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực
Bảng 1.2: So sánh quá trình NCKH của HS với quá trình NCKH của các nhà
khoa học
Bảng 2.1: Phân phối chương trình hóa học vô cơ lớp 11
Bảng 2.2: Một số dự án trong chương trình hóa học vô cơ lớp 11 THPT
Bảng 2.3: Bảng mô tả các kĩ năng và chỉ báo mức độ đánh giá kĩ năng
Bảng 2.4: Bảng kiểm quan sát đánh giá kĩ năng NCKH
Bảng 2.5: So sánh học theo dự án và hoạt động nghiên cứu khoa học của HS
Bảng 3.1: Bảng phân phối tần số, tần suất, tần suất lũy tích
Bảng 3.2: Tổng hợp phân loại HS theo kết quả điểm bài kiểm tra
Bảng 3.3: Mô tả và so sánh dữ liệu kết quả bài kiểm tra

Bảng 3.4: tổng hợp kết quả đánh giá kỹ năng NCKH trước và sau khi nghiên
cứu của LTN

DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1: Sơ đồ những đặc điểm của DHTDA
Hình 1.2: Quy trình tổ chức cho học sinh học theo dự án
Hình 1.3: Sơ đồ những đặc điểm của nghiên cứu khoa học
Hình 1.4: Các bước tổ chức thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học
Hình 2.1: Quy trình hướng dẫn HS NCKH
Hình 2.2: Quy trình thực hiện dự án kĩ thuật


Hình 3.1: Đồ thị đườnglũy tích
Hình 3.2: Đồ thị tổng hợp phân loại kết quả học tập

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
“Vì sự nghiệp mười năm thì phải trồng cây, vì sự nghiệp trăm năm thì phải
trồng người” – Hồ Chí Minh.
Đối với chủ tịch Hồ Chí Minh, giáo dục - sự nghiệp “trồng người” luôn luôn
là một chiến lược vừa cơ bản, lâu dài, vừa là quốc sách hàng đầu của Đảng và Nhà
nước ta. Cùng với quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và trong xu
hướng hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, chúng ta càng nhận thức rõ nét hơn nữa
về vai trò cốt tử của giáo dục đối với sự bền vững và hưng thịnh của đất nước. Theo
đó, một loạt các đường lối chủ trương quan trọng về giáo dục đã được Đảng và Nhà
nước ta đưa ra, trở thành kim chỉ nam cho việc phát triển, đổi mới và hoàn thiện
phương pháp dạy và học trong nhà trường nói chung, và đặc biệt là đối với chương
trình giáo dục Trung học phổ thông (THPT) nói riêng. Cụ thể:
Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI ghi nhận: “Đổi mới
chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo
hướng hiện đại; nâng cao chất lượng toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý
tưởng, giáo dục truyềnthống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng
tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI quy định về việc đổi mới căn bản,

toàn diện giáo dục và đào tạo: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học
theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến
thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy
móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học
tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu
trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại
khóa, nghiên cứu khoa học...”


Luật Giáo dục số 38/2005/QH11, Điều 28 cũng qui định: "Phương pháp
giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học
sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự
học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh".
Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 – 2020 ban hành kèm theo
Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ chỉ rõ: "Tiếp
tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo
hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của
người học…".
Về cơ bản, tinh thần của các đường lối chủ trương nêu trên đều hướng tới
nhiệm vụ trọng yếu là thực hiện cuộc cách mạng về phương pháp dạy học theo
hướng tích cực nhằm phát huy cao độ tinh thần chủ động, sáng tạo, phát huy tiềm
năng ẩn chứa trong mỗi con người, biết vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn
đóng góp cho công cuộc xây dựng đất nước. Hiện nay một số phương pháp dạy học
(PPDH) theo hướng tích cực đã và đang được áp dụng trong quá trình dạy học.
Trong các PPDH tích cực hiện nay thì dạy học theo dự án (DHTDA) đáp ứng tương
đối tốt các yêu cầu đổi mới PPDH theo định hướng trên.
Một trong những hình thức DHTDA mang lại hiệu quả giáo dục cao là tổ
chức cho học sinh (HS) trực tiếp tham gia các dự án (DA) nghiên cứu khoa học
(NCKH). Bằng việc cho HS tham gia vào NCKH sẽ giúp HS tiếp cận với phương

pháp NCKH, lĩnh hội kiến thức một cách chủ động góp phần hình thành tính năng
động, sáng tạo, khả năng vận dụng kiến thức lý thuyết vào giải quyết các vấn đề
thực tế của HS. Bên cạnh đó, để HS thực hiện tốt các DA NCKH cũng cần phải có
sự hướng dẫn của giáo viên (GV), sự kết hợp của các viện nghiên cứu. Vì vậy GV
cũng phải năng động tìm tòi phát triển các cách dạy mới. Việc NCKH mang lại tác
động tích cực lên cả người học và người dạy từ đó góp phần vào việc đổi mới
phương pháp giáo dục và dạy học trong nhà trường.
Mặt khác, với đặc thù của bộ môn Hoá học là một môn khoa học vừa lí


thuyết vừa thực nghiệm, việc dạy học bộ môn Hóa học hiện nay vẫn còn nặng về lí
thuyết chưa chú trọng nhiều đến thực hành và vận dụng kiến thức. HS khi học môn
Hóa học chỉ tập trung nhiều vào các bài tập nặng về lí thuyết nặng và tính toán,
phần lớn các em chưa biết những kiến thức được học về các chất ở môn Hóa học có
thể vận dụng như thế nào, có thể giải quyết được những vấn đề gì trong thực tiễn
xung quanh các em. Vì vậy việc khuyến khích HS tham gia thực hiện các dự án
NCKH về những vấn đề, thực trạng xung quanh cuộc sống sẽ tạo ra hứng thú trong
học tập, giúp HS nhanh chóng hiểu bài hơn, học sâu hơn, qua đó khơi dậy tiềm
năng, phát huy được những ý tưởng sáng tạo, hình thành các kĩ năng, giúp người
học đạt được kết quả cao nhất.
Chính vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Kết hợp phương pháp dạy học
theo dự ánvới hoạt độngnghiên cứu khoa học cho học sinh lớp 11 phần hóa học
vô cơ Trung học phổ thông” với mong muốn góp phần đổi mới PPDH theo hướng
dạy học tích cực kết hợp với việc tạo ra những nền tảng kỹ năng nghiên cứu khoa
học nhất định cho HS. Việc vận dụng rộng rãi và thành công phương pháp DHTDA
kết hợp với NCKH cho HS chắc chắn sẽ góp phần quan trọng vào công cuộc đổi
mới phương pháp giáo dục trong nhà trường; góp phần hình thành tính năng động,
sáng tạo, chủ động và khả năng vận dụng kiến thức lý thuyết đã học vào thực tế
cuộc sống của HS.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

2.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu về dạy học theo dự án
Phương pháp DHTDA và hoạt động NCKH của HS THPT ở Việt Nam trong
những năm gần đây đã được quan tâm nghiên cứu và áp dụng. Tuy nhiên, các vấn
đề này vẫn còn khá mới mẻ, cũng như các công trình nghiên cứu về vấn đề này
trong lĩnh vực hoá học còn rất ít và mới chỉ xuất hiện trong thời gian gần đây. Đặc
biệt là hoạt động NCKH của HS chỉ thực sự được chú trọng từ khi Việt Nam tham
gia Hội thi Khoa học và Kỹ thuật Quốc tế (Intel ISEF) 2012.
Tính đến thời điểm hiện tại, cũng đã có một số công trình luận văn và luận
án tiến sĩ nghiên cứu quan trọng về phương pháp DHTDA và lý luận về phương


pháp NCKH. Nhưng các công trình nghiên cứu này vẫn còn được nghiên cứu rời
dưới giác độ của hai mảng vấn đề khác nhau.
Cụ thể, đầu thế kỷ 20, các nhà sư phạm Mỹ (Woodward; Richard; J.Dewey;
W.Kilpatrick) đã xây dựng cơ sơ lý luận cho phương pháp DHTDA và coi đó là
PPDH quan trọng để thực hiện quan điểm dạy học lấy HS làm trung tâm, nhằm
khắc phục nhược điểm của dạy học truyền thống coi giáo viên (GV) là trung tâm.
Với những ưu điểm vượt trội, DHTDA đã và đang thu hút được sự quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu, dưới đây là một số bài viết và công trình nghiên cứu tiêu biểu
về PPDH tích cực này:
1. Đào Thị Như (2008), Xây dựng tư liệu dạy học và áp dụng PPDH dự án
cho dạy học nội dung ứng dụng các phi kim và hợp chất của chúng trong chương
trình hoá học THPT – nâng cao, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học sư phạm Hà
Nội.
2. Tạ Thị Thu Hương (2010), Vận dụng phương pháp dạy học theo dự án đối
với chương nhóm Oxi, lớp 10 nâng cao, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Đặng Thị Minh Thu (2009), Phát triển năng lực chủ động tích cực học tập
của HS trong dạy học hoá học thông qua hình thức dạy học dự án, Luận văn thạc sĩ,
Trường Đại học sư phạm Hà Nội.

4. Nguyễn Thị Thanh Mai (2011), Áp dụng dạy học theo dự án trong dạy
học Hoá học ở trường Trung học phổ thông, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
2.2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu về nghiên cứu khoa học
Trên thế giới, Intel ISEF là hội thi khoa học lớn nhất thế giới dành cho HS
phổ thông từ lớp 9 – 12, ở 17 lĩnh vực NCKH khác nhau nhằm tăng cường hiệu quả
và sáng kiến sử dụng công nghệ trong dạy và học, sự thông thạo và kỹ năng giải
quyết vấn đề ở giới trẻ, thúc đẩy sự tiến bộ trong dạy và học các môn khoa học, toán
học, kỹ thuật… Đây là hội thi khoa học có quy mô lớn nhất thế giới, tạo điều kiện
cho các nhà khoa học và sáng chế trẻ đến trao đổi ý kiến, trình bày những DA khoa


học tiên tiến và thi tài để giành được phần thưởng và học bổng.
Ở Việt Nam, bắt đầu từ năm học 2013-2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quyết
định tổ chức cuộc thi khoa học, kỹ thuật cấp quốc gia cho HS trung học cơ sở
(THCS) và trung học phổ thông hằng năm và coi đây như là một cuộc thi có tính chất
tương đương cuộc thi HS giỏi quốc gia. Mục đích cuộc thi [4a, 4b]:
- Khuyến khích HS trung học nghiên cứu, sáng tạo khoa học, công nghệ, kỹ
thuật và vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn.
- Thúc đẩy đổi mới hình thức tổ chức và PPDH; đổi mới hình thức và
phương pháp đánh giá kết quả học tập; phát triển năng lực của HS; nâng cao chất
lượng dạy và học trong các cơ sở giáo dục.
- Tăng cường sự phối hợp, hỗ trợ của các trường đại học, cao đẳng, cơ sở
nghiên cứu, các tổ chức và cá nhân với công tác nghiên cứu KHKT của HS trường
trung học.
- Tạo cơ hội để HS trung học giới thiệu kết quả NCKH, kỹ thuật của mình;
tăng cường giao lưu văn hóa, giáo dục giữa các cơ sở giáo dục, giữa các địa
phương; chọn DA tham dự Cuộc thi cấp quốc gia.
Bên cạnh đó, nghiên cứu các vấn đề về lí luận NCKH từ trước đến nay cũng
đã có nhiều sách tham khảo hoặc giáo trình cho các GV và sinh viên như:

1. PGS.TS. Vũ Cao Đàm (2011), Giáo trình phương pháp luận nghiên cứu
khoa học, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
2. PGS.TS. Phạm Viết Vượng (2001), Phương pháp luận nghiên cứu khoa
học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. GS. Nguyễn Văn Lê (1997), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nhà
xuất bản trẻ.
4. TS. Phạm Trung Thanh, Th.S. Nguyễn Thị Lý (2000), Phương pháp thực
hiện đề tài nghiên cứu khoa học trong sinh viên, Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật.
Tuy nhiên, việc kết hợp phương pháp DHTDA với hoạt động NCKH cho HS
vẫn còn là một hướng mới cần được nghiên cứu sâu sắc cả về cơ sở lý luận và thực
tiễn. DHTDA và NCKH có khá nhiều điểm chung nên khi được kết hợp với nhau sẽ


hỗ trợ nhau, đem lại hiệu quả cao trong giảng dạy và học tập của cả thầy và trò, giúp
phát triển khả năng sáng tạo, hình thành các kỹ năng, phương pháp tư duy tích cực,
chủ động cho HS.
Hiện nay, việc kết hợp này mới được đề cập đến trong hai công trình nghiên
cứu sau:
1. Phạm Thị Thủy (2013),Kết hợp dạy học và nghiên cứu khoa học cho học
sinh lớp 12 phần hóa học hữu cơ Trung học phổ thông,Luận văn thạc sĩ, Trường
Đại học sư phạm Hà Nội; và
2. Nguyễn Minh Hải (2014), Kết hợp dạy học và nghiên cứu khoa học cho
học sinh lớp 11 phần hóa học vô cơ Trung học phổ thông, Luận văn thạc sĩ, Trường
Đại học sư phạm Hà Nội.
Đây là các tài liệu quý cho các GV áp dụng phương pháp DHTDA cũng như
tham gia hướng dẫn HS trong hoạt động NCKH. Với hai công trình nghiên cứu trên,
các tác giả đã phần nào làm định hình được việc kết hợp phương pháp DHTDA với
hoạt động NCKH trong công tác giảng dạy HS khối THPT. Tuy nhiên, chỉ với hai
công trình nghiên cứu trên thì vẫn chưa thể làm rõ nét, sâu sắc việc kết hợp này
cũng như chưa thể giúp sự vận dụng các phương pháp mới này trong việc dậy và

học bộ môn Hóa học được khả thi và được áp dụng rộng rãi.
3. Mục đích nghiên cứu
Kết hợp DHTDA với việc tổ chức hướng dẫn NCKH cho HS lớp 11 phần
Hóa học vô cơ THPT, nhằm nâng cao hứng thú học tập, góp phần rèn luyện kĩ năng
NCKH, vận dụng kiến thức lí thuyết vào thực tiễn cho HS THPT.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
-

Nghiên cứu tổng quan về cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của phương

pháp DHTDA và hoạt động NCKH của HS THPT.
-

Nghiên cứu thực trạng việc DHTDA và công tác hướng dẫn HS NCKH ở

một số trường THPT tỉnh Lạng Sơn.


-

Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa hóa học lớp 11 phần hóa học vô

cơ để tuyển chọn, xây dựng nguyên tắc, quy trình triển khai thực hiện dự án học tập
và đề tài hóa học có liên quan đến việc NCKH của HS.
-

Tổ chức hướng dẫn HS lớp 11 thực hiện dự án, và triển khai đề tài

NCKH liên quan đến kiến thức phần hóa học vô cơ nhằm xác định tính khả thi, tính
phù hợp và hiệu quả.

-

Tiến hành thực nghiệm sư phạm.

5. Khách thể , đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học môn Hóa học cho HS lớp 11 THPT.
5.2. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình kết hợp phương pháp DHTDA với hoạt động NCKH bộ môn Hóa
học cho HS lớp 11 THPT.
5.3. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu được giới hạn trong chương trình môn Hóa học vô cơ
lớp 11 và tiến hành thực nghiệm sư phạm (TNSP) ở khối 11 trường THPT Việt Bắc,
thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu kết hợp phương pháp DHTDA với tổ chức tốt tập huấn cho HS về hoạt
động NCKH, đồng thời với sự hướng dẫn của GV trong quá trình tiến hành đề tài
nghiên cứu thì sẽ góp phần rèn luyện kĩ năng NCKH, vận dụng kiến thức lí thuyết
vào thực tiễn cho HS, qua đó nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Hóa học trong
các trường THPT.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết


Phân tích tài liệu: Phân tích các nguồn tư liệu, số liệu sẵn có về DHTDA,
NCKH nói chung, về hoạt động NCKH của HS THPT nói riêng và đặc biệt là cách
GV hướng dẫn HS nghiên cứu khoa học và thực hiện dự án học tập.
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Điều tra thực tiễn bằng phương pháp quan sát, phỏng vấn, phiếu điều tra về
DHTDA ở một số trường THPT.

- Dạy TNSP.
7.3. Phương pháp xử lý thông tin
Sử dụng toán thống kê xác xuất để phân tích và xử lý các kết quả TNSP.
8. Đóng góp mới của luận văn
Tổng quan và làm sáng tỏ về phương diện lý luận trong việc kết hợp phương
pháp DHTDA và hoạt động NCKH cho HS THPT đồng thời chỉ rõ tầm quan trọng
của công tác này trong giáo dục ở nhà trường phổ thông hiện nay.
Điều tra đánh giá thực trạng việc vận dụng phương pháp DHTDA và việc
triển khai NCKH cho HS ở một số trường THPT thuộc tỉnh Lạng Sơn.
Đề xuất nguyên tắc lựa chọn nội dung, xây dựng và triển khai dự án trong
học tập thuộc phần hóa học vô cơ lớp 11 THPT.
Đề xuất một số đề tài NCKH trong chương trình hóa học vô cơ lớp 11. Áp
dụng quy trình nghiên cứu, tổ chức tập huấn phương pháp NCKH và hướng dẫn 1
đề tài NCKH cho HS lớp 11.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của phương pháp dạy học theo dự án và
hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh Trung học phổ thông.
Chương 2. Kết hợp việc dạy học theo dự án với hoạt động nghiên cứu khoa
học cho học sinh lớp 11 phần hóa học vô cơ Trung học phổ thông.
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm.


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO
DỰ ÁN VÀ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Quan điểm chỉ đạo về đổi mới phương pháp dạy học
1.1.1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tiếp cận phát

triển năng lực
Để thực hiện được mục tiêu đã đề ra tại Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8
khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu trên, một trong
những nhiệm vụ trọng yếu là phải thực hiện cuộc cách mạng về PPDH theo định
hướng tiếp cận phát triển năng lực cho người học, phát huy cao độ tinh thần chủ
động, sáng tạo của HS để các em có thể phát huy tối đa năng lực và tri thức của
mình, biết vận dụng kiến thức vào thực tiễn đóng góp cho công cuộc xây dựng đất
nước, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực (hay còn gọi là dạy
học định hướng kết quả đầu ra) được bàn đến nhiều từ những năm 90 của thế kỷ XX
và ngày nay đã trở thành xu hướng giáo dục quốc tế. Giáo dục định hướng phát
triển năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục
tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri
thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho HS năng lực giải quyết
các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. Chương trình này nhấn mạnh vai trò
của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức.
Khác với chương trình dạy học định hướng nội dung, chương trình dạy học
định hướng phát triển năng lực tập trung vào việc mô tả chất lượng đầu ra, có thể
coi là “sản phẩm cuối cùng” của quá trình dạy học. Việc quản lý chất lượng dạy học
chuyển từ việc điều khiển “đầu vào” sang điều khiển “đầu ra”, tức là kết quả học
tập của HS.
Chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực không quy định những
nội dung dạy học chi tiết mà quy định những kết quả đầu ra mong muốn của quá


trình giáo dục, trên cở sở đó đưa ra những hướng dẫn chung về việc lựa chọn nội
dung, phương pháp, tổ chức và đánh giá kết quả dạy học nhằm đảm bảo thực hiện
được mục tiêu dạy học tức là đạt được kết quả đầu ra mong muốn. Trong chương
trình dạy học định hướng phát triển năng lực, mục tiêu học tập, tức là kết quả học
tập mong muốn thường được mô tả thông qua hệ thống các năng lực

(competency). Kết quả học tập mong muốn được mô tả chi tiết và có thể quan sát,
đánh giá được. HS cần đạt được những kết quả yêu cầu đã quy định trongchương
trình.
Dưới đây là bảng so sánh một số đặc trưng cơ bản của chương trình dạy học
định hướng nội dung và chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực:
Tiêu chí

Chương trình dạy học định
hướng nội dung

Chương trình dạy học định hướng
phát triển năng lực

Mục tiêu
giáo dục

Mục tiêu dạy học được mô tả
không chi tiết và không nhất
thiết phải quan sát, đánh giá
được.

Kết quả học tập cần đạt được mô tả
chi tiết và có thể quan sát, đánh giá
được; thể hiện được mức độ tiến bộ
của HS một cách liên tục.

Nội dung
giáo dục

Việc lựa chọn nội dung dựa vào

các khoa học chuyên môn,
không gắn với các tình huống
thực tiễn. Nội dung được quy
định chi tiết trong chương trình.

Lựa chọn những nội dung nhằm đạt
được kết quả đầu ra đã quy định, gắn
với các tình huống thực tiễn. Chương
trình chỉ quy định những nội dung
chính, không quy định chi tiết.

Phương
pháp dạy
học

GV là người truyền thụ tri thức,
là trung tâm của quá trình dạy
học. HS tiếp thu thụ động
những tri thức được quy định
sẵn.

- GV chủ yếu là người tổ chức, hỗ
trợ HS tự lực và tích cực lĩnh hội tri
thức. Chú trọng sự phát triển khả
năng giải quyết vấn đề, khả năng
giao tiếp,…;
- Chú trọng sử dụng các quan điểm,
phương pháp và kỹ thuật dạy học
tích cực; các PPDH thí nghiệm, thực
hành.


Hình thức
dạy học

Chủ yếu dạy học lý thuyết trên Tổ chức hình thức học tập đa dạng;
lớp học.
chú ý các hoạt động xã hội, ngoại
khóa, NCKH, trải nghiệm sáng tạo;


đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin và truyền thông trong dạy và học.
Đánh giá Tiêu chí đánh giá được xây Tiêu chí đánh giá dựa vào năng lực
kết quả học dựng chủ yếu dựa trên sự ghi đầu ra, có tính đến sự tiến bộ trong
tập của HS nhớ và tái hiện nội dung đã học. quá trình học tập, chú trọng khả năng
vận dụng trong các tình huống thực
tiễn.
Bảng 1.1: Một số đặc trưng cơ bản của chương trình dạy học định hướng nội
dung và chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực
Tại Hội thảo khoa học về “Quản lý dạy học chuyển từ tiếp cận nội dung sang
tiếp cận năng lực, vấn đề và giải pháp” diễn ra tại Hà Nội, các nhà khoa học,
chuyên gia, nhà quản lý giáo dục đều cho rằng, cần phải thay đổi ngay phương pháp
kiểm tra, đánh giá HS theo hướng chú trọng năng lực của người học, nhất là tư duy
sáng tạo, vận dụng giải quyết những vấn đề trong cuộc sống.
PGS. TS. Hà Thế Truyền (Học viện Quản lý giáo dục) cũng nhận định, để
đổi mới phương pháp dạy học theo hướng chú trọng phát triển năng lực HS phổ
thông, cần phải vận dụng dạy học theo tình huống, dạy HS định hướng hành động,
tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin hợp lý. Đặc biệt,
sau năm 2015, nhà trường phổ thông cần thay đổi theo hướng quan tâm phát triển
năng lực cá nhân, lấy HS làm trung tâm và việc đánh giá chỉ nhằm định hướng cho

người học phương pháp và con đường tiếp tục học tập. Hiện nay, phần lớn các
chuyên gia, nhà quản lý giáo dục khẳng định, việc dạy học theo hướng tiếp cận
năng lực người học được xem là chìa khóa để đổi mới giáo dục.
Và một trong những PPDH đáp ứng được định hướng trên đó là phương
pháp DHTDA và tổ chức hoạt động NCKH cho HS THPT.
1.1.2. Các năng lực cần hình thành và phát triển cho học sinh Trung học
phổ thông
1.1.2.1. Năng lực chung
Khái niệm năng lực: Khái niệm năng lực (competency) có nguồn gốc từ
tiếng Latinh “competentia”. Năng lực là một thuộc tính tâm lí phức hợp, là điểm hội


tụ của kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm và thái độ, trách nhiệm. Hiện nay có rất
nhiều khái niệm khác nhau về năng lực nhưng nhìn chung năng lực đều được hiểu
là sự thành thạo, khả năng thực hiện của cá nhân đối với công việc. Theo Bernd
Meiner – Nguyễn Văn Cường, năng lực được định nghĩa như sau: “Năng lực là khả
năng thực hiện có trách nhiệm và hiệu quả các hành động, giải quyết các nhiệm vụ,
vấn đề trong các tình huống thay đổi thuộc các lĩnh vực nghề nghiệp, xã hội hay cá
nhân trên cơ sở hiểu biết, kĩ năng, kĩ xảo và kinh nghiệm cũng như sẵn sàng hành
động.” [3, tr 68]
Cũng theo Bernd Meier – Nguyễn Văn Cường, cấu trúc chung của năng lực
hành động được mô tả là sự kết hợp của 4 năng lực thành phần: năng lực chuyên
môn, năng lực phương pháp, năng lực xã hội, và năng lực cá thể [3, tr 68-69]. Bốn
năng lực thành phần trên cũng được chia nhỏ hơn thành các năng lực cụ thể như
năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực giao tiếp…
Từ đó, có thể định hướng một số năng lực chung cần hình thành và phát triển cho
HS THPT.
Theo dự thảo “Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể trong chương trình
giáo dục phổ thông mới”, các năng lực chung của HS THPT gồm các năng lực sau:
- Năng lực tự học;

- Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo;
- Năng lực thẩm mỹ;
- Năng lực thể chất;
- Năng lực giao tiếp;
- Năng lực hợp tác;
- Năng lực tính toán;
- Năng lực công nghệ thông tin và truyền thông (ICT).
1.1.2.2. Năng lực đặc thù môn Hóa học
Từ các năng lực chung trên đây, mỗi môn học đều phải xác định những năng
lực chuyên biệt riêng và con đường hình thành năng lực đó của bộ môn. Đối với bộ


môn Hóa học, các năng lực chuyên biệt, đặc thù cần hình thành và phát triển cho
HS THPT là:
- Năng lực sử dụng ngôn ngữ hóa học;
- Năng lực thực hành thí nghiệm;
- Năng lực NCKH;
- Năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn;
- Năng lực giải quyết vấn đề thông qua môn Hóa học.
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của phương pháp dạy học theo dự án
1.2.1. Khái niệm dạy học theo dự án
Theo định nghĩa của Bộ Giáo dục Singapore “DHTDA là hoạt động học tập
nhằm tạo cơ hội cho HS tổng hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực học tập và áp dụng
một cách sáng tạo vào thực tế cuộc sống” [12, tr.125].
Theo Intel (Mỹ): DHTDA là một hình thức dạy học trong đó HS thực hiện
một nhiệm vụ học tập phức hợp, gắn với thựctiễn, kết hợp lí thuyết với thực hành và
đánh giá kết quả. Hình thức chủ yếu là theo nhóm, kết quả dự án là những sản
phẩm hành động có thể giới thiệu được.
Phân loại các loại dự án học tập theo quỹ thời gian: tùy vào mức độ phức tạp
của dự án mà quyết định thời gian thực hiện và dựa vào thời gian thực hiện, có thể

phân chia các dự án học tập làm 3 loại:
+ Dự án nhỏ: tiến hành trong một số giờ học (2-6 giờ);
+ Dự án trung bình: tiến hành trong một số ngày (1 tuần hoặc 40 giờ học).
+ Dự án lớn: tiến hành trong nhiều ngày hoặc nhiều tuần.
1.2.2. Đặc điểm của dạy học theo dự án
DHTDA có các đặc điểm sau:


Định
Định hướng
hướng hứng
hứng thú
thú

Định
Định hướng
hướng thực
thực tiễn
tiễn

Định
Định hướng
hướng hành
hành động
động

DẠY
DẠY HỌC
HỌC THEO
THEO DỰ

DỰ

Mang
Mang tính
tính phức
phức hợp
hợp

ÁN
ÁN

Cộng
Cộng tác
tác làm
làm việc
việc

Định
Định hướng
hướng kĩ
kĩ năng
năng mềm
mềm

Định
Định hướng
hướng sản
sản phẩm
phẩm


Tính
Tính tự
tự lực
lực cao
cao của
của HS
HS

Hình 1.1: Sơ đồ những đặc điểm của DHTDA

- Định hướng thực tiễn: Chủ đề của dự án xuất phát từ những tình huống của thực
tiễn xã hội, nghề nghiệp và đời sống. Nhiệm vụ dự án cần chứa đựng những vấn đề
phù hợp với trình độ và khả năng của người học.

- Định hướng hứng thú người học: HS được tham gia đề xuất và chọn đề tài, nội
dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân. Ngoài ra, hứng thú của HS
cần được tiếp tục phát triển trong quá trình thực hiện dự án.

- Định hướng hành động: Trong quá trình thực hiện dự án có sự kết hợp giữa nghiên
cứu lí thuyết và vận dụng lí thuyết và hoạt động thực tiễn, thực hành. Thông qua đó
kiểm tra, củng cố, mở rộng hiểu biết lí thuyết cũng như rèn luyện kĩ năng hành
động, kinh nghiệm thực tiễn của người học.

- Định hướng sản phẩm: Trong quá trình thực hiện dự án, các sản phẩm được tạo ra.
Sản phẩm của dự án bao gồm những thu hoạch lí thuyết, những sản phẩm vật chất
của hoạt động thực tiễn, thực hành. Những sản phẩm này có thể sử dụng, công bố,
giới thiệu.


- Định hướng kĩ năng mềm: Làm việc theo dự án sẽ hỗ trợ phát triển cả kĩ năng tư

duy siêu nhận thức lẫn tư duy nhận thức như hợp tác, tự giám sát, tìm kiếm, phân
tích dữ liệu và đánh giá thông tin… Trong suốt quá trình thực hiện dự án, các câu
hỏi định hướng sẽ kích thích HS tư duy và liên hệ với các khái niệm mang ý nghĩa
thực tiễn cao. Đồng thời, HS còn có cơ hội hình thành và rèn luyện các kĩ năng
mềm cần có của con người trong thế kỉ XXI như: kĩ năng học tập và thích ứng, kĩ
năng thu thập và xử lí thông tin, kĩ năng sống và hoạt động nghề nghiệp,…

- Tính phức hợp: Nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc môn
học khác nhau nhằm giải quyết một vấn đề mang tính phức hợp (liên môn).

- Có ý nghĩa thực tiễn xã hội: các dự án học tập góp phần gắn việc học tập trong nhà
trường với việc giải quyết các vấn đề của thực tiễn đời sống, xã hội.

- Tính tự lực cao của người học: Trong DHTDA, người học cần tham gia tích cực
và tự lực vào các giai đoạn của quá trình dạy và học. Điều đó cũng đòi hỏi và
khuyến khích tính trách nhiệm, sự sáng tạo của người học. GV chủ yếu đóng vai trò
tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ. Tuy nhiên, mức độ tự lực cần phù hợp với kinh nghiệm,
khả năng của HS và mức độ khó khăn của nhiệm vụ.

- Cộng tác làm việc: Các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm, trong đó
có sự cộng tác làm việc và sự phân công công việc giữa các thành viên trong nhóm.
DHTDA đòi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kĩ năng cộng tác làm việc giữa các
thành viên tham gia, giữa HS và GV cũng như với các lực lượng xã hội khác tham
gia trong dự án. Đặc điểm này còn gọi là học tập mang tính xã hội.
1.2.3. Vai trò của người dạy và người học trong dạy học theo dự án
DHTDA là phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm. Thay vì sử
dụng một kế hoạch bài học cứng nhắc, hướng dẫn người học đi theo một con đường
cụ thể để đạt được kết quả học tập hoặc mục tiêu của bài học, DHTDA cho phép
nghiên cứu sâu về một chủ đề có giá trị về mặt thực tế hơn là về mặt học tập. Thông
qua việc tạo ra sản phẩm cụ thể, có ý nghĩa, có thể là một vở kịch, thuyết trình đa

phương tiện hay một bài thơ, người học thể hiện những gì họ đã học được. Ngoài ra,
người học đặc biệt có quyền tự chủ nhiều hơn, chịu trách nhiệm nhiều hơn cho việc


học của mình.Với phương pháp dạy học này, cả GV lẫn HS đều phải thay đổi vai
trò và nhiệm vụ của mình so với phương pháp dạy học truyền thống.
Đối với GV, không như phương pháp dạy học truyền thống, nơi GV đóng vai
trò chủ động trong mọi hoạt động, DHTDA mang lại sự đổi mới trong vai trò và
nhiệm vụ của GV như sau:

- Vai trò của GV là hướng dẫn, tư vấn cho các hoạt động của HS chứ không phải chủ
động trong mọi hoạt động dạy học.

- Xây dựng dự án liên quan đến nội dung bài học để giúp HS chiếm lĩnh kiến thức
của bài.

- Tạo điều kiện cho HS tham gia thiết lập các mục tiêu và kết quả học tập, chú ý đến
thái độ học tập, năng lực và mối quan tâm của HS khi xây dựng dự án cũng như
thiết kế các hoạt động dự án.

- Lên lịch trình đánh giá và đánh giá HS trong suốt tiến trình học tập, sử dụng những
hình thức đánh giá khác nhau và cho ý kiến phản hồi thường xuyên.

- Nhận diện các tình huống và điều chỉnh kịp thời để đem lại sự thành công cho dự
án.

- Đánh giá tổng thể sau khi kết thúc dự án, tổ chức thảo luận bộ câu hỏi định hướng
để củng cố nội dung bài học và rút kinh nghiệm.

- Hợp tác cùng các đồng nghiệp để xây dựng dự án liên môn (nếu có).

Đối với HS, theo các nghiên cứu, DHTDA mang lại hiệu quả cao trong giáo
dục và HS là đối tượng hưởng lợi nhiều nhất. Để có được những lợi ích mà
DHTDA mang lại, HS không thể làm việc theo thói quen và đóng vai trò thụ động
như trong các lớp học truyền thống. Các em cần thay đổi suy nghĩ và vai trò cũng
như nhiệm vụ của mình trong học tập, cụ thể như sau:

- Đóng vai trò trung tâm trong mọi hoạt động.
- Thực hiện dự án bằng cách thực hiện các vai mô phỏng được chỉ định.


- Phối hợp với các thành viên trong nhóm để lên kế hoạch thực hiện dự án sao cho có
tính khả thi (quyết định cách tiếp cận vấn đề, tự hoạch định và tổ chức các hoạt
động nhóm để giải quyết vấn đề).

- Thu thập, xử lí thông tin từ nhiều nguồn theo vai trò được đảm nhận, từ đó tích lũy
kiến thức bài học và nhiều giá trị khác từ quá trình làm việc để hoàn thành sản
phẩm dự án.

- Tự định hướng các hoạt động thực hiện dự án.
- Tự đánh giá bản thân và đánh giá nhóm suốt quá trình thực hiện dự án.
- Đánh giá sự tiến bộ trong quá trình thực hiện dự án.
- Hình thành và rèn luyện các kĩ năng thế kỉ XXI (kĩ năng sáng tạo và đổi mới, tư duy
độc lập và giải quyết vấn đề, giao tiếp và cộng tác, các kĩ năng thông tin, truyền
thông và công nghệ, kĩ năng đời sống và nghề nghiệp: linh hoạt, thích ứng, chủ
động, tự định hướng, lãnh đạo…) và các kĩ năng tư duy bậc cao.
1.2.4. Các bước dạy học theo dự án
DHTDA được thực hiện theo 5 bước như sau:

- Có thể khởi đầu bằng các ý tưởng mà HS quan tâm hoặc
những định hướng, chỉ dẫn của GV.

h chủ đề, nhiệm vụ học tập và nghiên cứu gắn với yêu- cầu
hoặc
phần
Có của
thể môn
xây học
dựng
cáchọc
tiểu
chủ đề bằng cách đặt những câu
hỏi: Ai?, Cái gì? Ở đâu? Khi nào? Tại sao? Như thế nào?

- Xác định mục tiêu của DA;
- Hình dung nội dung chi tiết và các công việc cụ thể, cách
thức thực hiện, các điều kiện cần thiết như nguồn tư liệu, thiết
bị, kinh phí, người tham gia,… Dự kiến thời gian, địa điểm
triển khai công việc, phân công người thực hiện, dự kiến sản
Bước 2:Các nhóm hình thành đề cương và lập kế hoạch thực hiện
phẩm cần đạt;
- Khơi gợi sự hứng thú: tập thể nhóm phải động viên, khích lệ
thể hiện sự say mê, hứng khởi khi thực hiện nhiệm vụ.
- Thu thập thông tin: từ sách báo, tạp chí, mạng internet, khảo
sát, điều tra, phỏng vấn, thực địa,…;
- Xử lí thông tin: tổng hợp, phân tích dữ liệu (có thể biểu hiện
bằng sơ đồ, biểu đồ,.…);
Bước 3: Các nhóm thực hiện nhiệm vụ

Bước
5: trước tập thể lớp
Bước 4:Giới thiệu sản

phẩm
Đánh giá kết quả đạt được so với mục tiêu xác định


- Thảo luận thường xuyên giữa các thành viên trong nhóm để
giải quyết các vấn đề và kiểm tra tiến độ;
- Xây dựng sản phẩm: tập hợp các kết quả thành một sản
phẩm cuối cùng.
Trình bày, giới thiệu sản phẩm bằng các cách: Bài viết,
Powerpoint, bản đồ, tranh ảnh, mô hình, kể cả việc đóng kịch,
kể truyện,…

- HS tự rút ra những bài học từ việc học theo DA: đã học
được gì? Hình thành được những thái độ tích cực nào? Có hài
lòng về kết quả thu được không? Đã gặp những khó khăn gì
và đã giải quyết như thế nào?
- GV: Đánh giá chất lượng sản phẩm giới thiệu, kết quả tự
đánh giá, phương pháp làm việc.

1.2.5. Quy trình tổ chức cho học sinh học theo dự án
Bước 1: Lập kế hoạch
a) Lựa chọn chủ đề
GV và HS cùng nhau đề xuất ý tưởng, xác định chủ đề và mục đích của dự
án. Từ chủ đề lớn, GV tổ chức hướng dẫn HS phát triển tìm các chủ đề nhỏ là vấn
đề nghiên cứu cụ thể. Sơ đồ tư duy và sơ đồ câu hỏi 5W1H là công cụ hiệu quả xác
định, lựa chọn ý tưởng cũng như những vấn đề cần giải quyết xung quanh dự án.
b) Lập kế hoạch
HS cần lập kế hoạch để xác định các vấn đề cần nghiên cứu liên quan đến
tiểu chủ đề nhằm giải quyết trả lời câu hỏi nghiên cứu và phân công nhiệm vụ trong
nhóm. Ai sẽ làm nhiệm vụ gì và thời hạn hoàn thành, xác định phương tiện và dự

kiến sản phẩm. Sau khi lập được kế hoạch các nhóm cử đại diện trình bày, các
nhóm khác và GV bổ sung ý kiến, HS chỉnh sửa hoàn thiện kế hoạch. Sau đó GV
hướng dẫn HS cách thực hiện dự án, tổng hợp kết quả, trình bày báo cáo, đánh giá
rút kinh nghiệm. GV cần cung cấp cho mỗi nhóm sổ theo dõi dự án.
Bước 2: Thực hiện dự án


a) Thu thập thông tin: Theo nhiệm vụ đã được phân công, các thành viên
trong nhóm thu thập thông tin từ sách báo, internet, làm thực nghiệm, điều tra,
phỏng vấn...Các phương tiện hỗ trợ cần sử dụng như: phiếu phỏng vấn, phiếu ghi
dữ liệu, phiếu thiết kế các hoạt động thực nghiệm, máy ghi âm, máy ảnh,...
b) Xử lí thông tin
Sau khi đã thu thập được các dữ liệu cần tiến hành xử lí dữ liệu bằng bảng,
biểu đồ, sơ đồ, so sánh, đối chiếu.... Trong nhóm thường xuyên trao đổi thảo luận
để tập hợp dữ liệu, giải quyết vấn đề, kiểm tra tiến độ. Đồng thời xin ý kiến của GV
cần sự giúp đỡ kịp thời để đảm bảo tiến độ và hướng đi của dự án.
Bước 3: Tổng hợp báo cáo sản phẩm
a) Xây dựng sản phẩm
Các thành viên trong nhóm cùng tổng hợp tất cả các kết quả đã phân tích
thành sản phẩm cuối cùng có thể trình bày dưới nhiều dạng khác nhau: bài thuyết
trình, đóng kịch, hát, trưng bày triển lãm, Powerpoint...
b) Trình bày báo cáo sản phẩm
GV tổ chức cho HS trình bày các sản phẩm đã làm. Không nên để một HS
phụ trách báo cáo mà nên chia nhỏ để nhiều thành viên cùng được có cơ hội thể
hiện khả năng của mình. Trong buổi này, GV nên mời các chuyên gia liên quan đến
dự án, ban giám hiệu tham gia và đặt câu hỏi, cũng như đưa ý kiến nhận xét, góp
phần làm cho buổi báo cáo thêm sinh động, hấp dẫn và thiết thực.
c) Đánh giá rút kinh nghiệm
GV thiết kế cho các nhóm tự chấm điểm và chấm điểm lẫn nhau, đánh giá
Bài dạy

Thực tiễn cuộc sống
sản phẩm của từng nhóm. GV tổng kết các phiếu tự đánh giá của các nhóm, nhận
truyền thống
xét, cho điểm từng nhóm và rút kinh nghiệm
Xây dựng bản kế hoạch dạy học dự án

Kế hoạch hoạt động GV

Kế hoạch hoạt động HS

Đề ra tiêu chí đánh giá

Sản phẩm dự án

Kết quả là sự phát triển các năng lực, kĩ năng của HS


Hình 1.2: Quy trình tổ chức cho học sinh học theo dự án
1.2.6. Một số kỹ năng thực hiện dự án cần hướng dẫn cho học sinh
Trong quá trình tổ chức DHTDA, cần hướng dẫn cho HS các kỹ năng thực
hiện dự án sau:

- Kỹ năng thu thập và xử lý thông tin: bao hàm những khả năng rút ra những thông
tin từ một tư liệu và ghi chép từ một thông báo hay bài phát biểu.

- Kỹ năng giao tiếp: như vấn đáp, lắng nghe tích cực, tiếp nhận và phản hồi thông tin,
xử lý tình huống, giải quyết mâu thuẫn, hợp tác và hỗ trợ trong nhóm.

- Kỹ năng tư duy sáng tạo: Thông qua những sản phẩm tư duy của HS như: các cuộc
thảo luận, các bảng biểu, sơ đồ, và những ghi chép, GV có thể biết được nhiều điều

về quá trình tư duy của HS, lựa chọn PPDH phù hợp cho mỗi đối tượng là cá nhân
hay nhóm HS.

- Kỹ năng trình bày: Tạo ra một bài thuyết trình là một nghệ thuật. Đó là khả năng
của những người thuyết trình trong quá trình truyền đạt thông tin một cách hấp dẫn
và cách dẫn dắt nội dung thông tin nhằm thu hút nhiều người nghe hơn và trình bày
thông tin đầy đủ và chính xác trong một khoảng thời gian ngắn.

- Kĩ năng sử dụng CNTT: sử dụng Power Point, Mindmap, Word,…
1.2.7. Một số lưu ý khi hướng dẫn học sinh học theo dự án
Để thực hiện thành công phương pháp DHTDA, GV cần lưu ý một số vấn đề
sau khi hướng dẫn HS:


×