Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tiểu luận Khái quát đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại, rút ra ý nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.56 KB, 24 trang )

Khái quát đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại, rút ra ý nghĩa

MỤC LỤC

Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 6

GV: TS.Nguyễn Trung Dũng

1


Khái quát đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại, rút ra ý nghĩa

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hy Lạp là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại, đã trải qua
những thời kỳ phát triển rực rỡ của xã hội loài người. Nơi đây hội tụ những điều kiện
hết sức thuận lợi cho nền văn hóa tinh thần, trong đó triết học là một lĩnh vực phát
triển mạnh mẽ, trở thành đỉnh cao của nền văn minh Hy Lạp, là môn khoa học của
mọi khoa học.
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời vào khoảng cuối thế kỷ VII – đầu thế kỷ VI
TCN và tồn tại đến thế kỷ II – III sau CN, trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu
dài và sâu sắc các quan hệ xã hội. Là quê hương thứ hai của nền triết học Phương
Tây, được hình thành trên cơ sở của nền kinh tế công thương nghiệp phát triển, xã
hội chiếm nô đạt tới mức cao và trên nền tảng của những thành tựu khoa học tự
nhiên, ít bị chi phối bởi tôn giáo. Ngay từ xa xưa, người Hy Lạp đã sản sinh ra những
tư tưởng triết học với các hình thái, xu hướng khác nhau, phản ánh những quan điểm
của các giai cấp và các khuynh hướng kinh tế, chính trị khác nhau, có thể kể đến
những nhà triết học tiêu biểu như: Héraclite, Đêmôcrít, Xôcrát, Platông, Aristote…
Trong những điều kiện lịch sử hết sức đặc biệt đó, triết học Hy Lạp cổ đại ra
đời với những đặc điểm mang tính thời đại nhưng cũng thể hiện được bước đột phá
trong nhận thức và suy luận. Có thể nói, triết học Hy Lạp cổ đại là thành tựu rực rỡ


của nền văn minh phương Tây, tạo nên cơ sở xuất phát của văn hoá châu Âu và là
một quả núi đồ sộ trong thế giới triết học của loài người.

Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 6

GV: TS.Nguyễn Trung Dũng

2


Khái quát đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại, rút ra ý nghĩa
1. Điều kiện ra đời và phát triển triết học Hy Lạp cổ đại
1.1. Điều kiện ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại
1.1.1.

Điều kiện tự nhiên

Hy Lạp cổ đại là quốc gia rộng lớn có khí hậu ôn hòa, bao gồm miền Nam bán
đảo Ban Căng, miền ven biển phía Tây Tiểu Á và nhiều hòn đảo ở miền Egee. Hy
Lạp giống như một bàn tay chìa các ngón ra biển Địa Trung Hải trong bản đồ Châu
Âu. Hy Lạp có vị trí tự nhiên rất thuận lợi để trồng trọt, chăn nuôi và các hoạt động
giao thương, mua bán.
Phía Đông là lãnh thổ thuộc về châu Á, đây là một nền thương mại kỹ nghệ cực
thịnh và một nền văn hóa phong phú. Trung Bộ có nhiều dãy núi ngang dọc và
những đồng bằng trù phú, có thành phố lớn như Athen. Nam Bộ là bán đảo
Pelopongnedơ với nhiều đồng bằng rộng lớn phì nhiêu thuận lợi cho việc trồng trọt,
phát triển nông nghiệp.
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi như vậy nên Hy Lạp cổ đại sớm trở thành một
quốc gia chiếm hữu nô lệ có một nền công, thương nghiệp phát triển, một nền văn
hoá tinh thần phong phú đa dạng. Đồng thời, Hy Lạp là nơi sinh ra những nhà triết

gia nổi tiếng với những triết lý trở nên bất hủ.
1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Quá trình hình thành xã hội có giai cấp ở Hy Lạp cổ đại kéo dài từ thế kỷ XI VIII TCN. Kết quả của quá trình này là làm cho vai trò sở hữu tư nhân của giai cấp
quý tộc ở Hy Lạp lớn hơn các nước Cận Đông, làm cho công xã tan rã nhanh, tạo
tiền đề để hình thành các nhà nước – thị thành, làm xuất hiện sự đối lập giữa thành
thị với nông thôn tạo nên hoạt động buôn bán, trao đổi sản phẩm sôi động trong lòng
nhà nước- thị thành, giữa các công xã, trên quy mô cả nước. Kết quả ấy cho thấy
quan hệ vật chất giữa các cá nhân mà địa vị xã hội được xác định bởi giá trị tài sản
của họ đã thay thế quan hệ mang tính chất tự nhiên cùng huyết thống, gia tộc giữa
người với người trước đây. Trong cơ cấu kinh tế- xã hội của nhà nước thị thành, lao
động cưỡng bức nô lệ giữ vai trò chủ đạo, nên ta gọi hình thái xã hội Hy Lạp cổ đại
là hình thái chiếm hữu nô lệ.
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 6

GV: TS.Nguyễn Trung Dũng

3


Khái quát đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại, rút ra ý nghĩa
Đặc điểm của chế độ kinh tế, xã hội ở Hy Lạp cổ đại đã đem lại tính chất độc
đáo cho một nền văn hoá hết sức phong phú. Nguyên nhân quyết định của sự hưng
thịnh nền văn hoá này là phân công giữa lao động trí óc và chân tay. Tầng lớp trí
thức ở Hy Lạp cổ đại không còn bị ràng buộc với sự hoạt động phụng sự tôn giáo.
Họ xuất thân từ tầng lớp thị dân khá giả, thương gia, chính khách.
1.1.3. Sự phân rã của thần thoại và sự xuất hiện triết học
Thần thoại (tiếng Hy Lạp là Mythologia) là sự phản ánh thực tại một cách
hoang đường trong ý thức nguyên thuỷ. Người Hy Lạp cổ đã dùng thần thoại để giải
thích những hiện tượng trong tự nhiên và đời sống xã hội.
Những hiện tượng ấy phản ảnh vào ý thức tạo thành hình thức lịch sử đầu tiên

của thế giới quan, trong đó, tư tưởng và tình cảm, tri thức và nghệ thuật, tinh thần và
vật chất, khách quan và chủ quan, hiện thực và suy tưởng, tự nhiên và siêu nhiên
chưa được phân đôi. Cùng với sự phát triển của xã hội, thần thoại cũng trải qua
những bước phát triển nhất định biểu hiện mức độ trưởng thành của ý thức. Đỉnh cao
của sự phát triển ấy chính là sự thay thế hình thức thế giới quan thần thoại bằng thế
giới quan mới, bắt đầu từ thời đại Hôme với hai tác phẩm nổi tiếng là Iliat và Ôđixê.
Trong các tác phẩm ấy, trước hết ta thấy tính cách các vị thần. Ở đây thần và
người không khác nhau về tính cách. Sau số phận của các vị thần là những thông
điệp của cuộc sống, những bài ca về lòng yêu nước, tình cảm vợ chồng, cha mẹ, anh
em. Các vị thần cũng mắc phải những thói hư tật xấu như con người: ghen tuông,
hiềm khích, đố kỵ, lừa dối,…Thứ hai, sự chắp nối các câu chuyện về sinh hoạt giữa
người với người, có thể thấy được sự phác thảo sơ lược của Hôme và Hêxiốt về
nguồn gốc thế giới. Nếu ở Hôme, các lực lượng lịch sử- tự nhiên còn ẩn trong vỏ bọc
thiên nhiên, thì đến Hêxiốt bức tranh sinh thành và biến hoá của vũ trụ đã mang dáng
vẻ của một vũ trụ quan sơ khai, Hêxiốt coi vũ trụ được sinh ra từ trạng thái hỗn
mang, sau đó hình thành trái đất, trái đất vận động sinh thành các sự vật, hiện tượng
tự nhiên. Điều quan trọng của sự xuất hiện sau này của triết học chính là cái trạng
thái hỗn mang ấy đã được mô tả như là sơ sở mang tính thực thể.
Sự xuất hiện triết học không phải là một quá trình nảy sinh từ thần thoại mà
chỉ xuất hiện khi hoạt động của con người có thể dựa vào các khái niệm được hình
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 6

GV: TS.Nguyễn Trung Dũng

4


Khái quát đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại, rút ra ý nghĩa
thành trên cơ sở tích luỹ kinh nghiệm từ sản xuất, xã hội, đạo đức phong phú của
người Hy Lạp cổ đại. Triết học tách khỏi thần thoại với quá trình hình thành khái

niệm lâu dài từ thế kỷ VII TCN. Từ các hình tượng thần thoại, nhờ đặc trưng vốn có
của triết học là duy lý hoá đã biến đổi thành các khái niệm. Quá trình duy lý hoá thế
giới quan thần thoại là quá trình dựa vào tri thức khoa học mà Talet và sau đó là các
nhà khoa học tự nhiên khác xây dựng nên.
Tri thức toán học, thiên văn có vai trò to lớn trong quá trình duy lý hoá thế
giới quan. Người đầu tiên nêu lên thuật ngữ triết học- thuật ngữ mà sau đó được
nhiều nhà hiền triết Hy Lạp sử dụng chính là Pitago (khoảng 580-500TCN). Sự xuất
hiện thuật ngữ triết học “yêu mến sự thông thái” đã đánh dấu một dạng tri thức thuần
tuý lý luận. Đối với các nhà triết học, thì công việc suy xét, suy tư trở thành công
việc chủ yếu trong cuộc sống của họ. Các nhà tư tưởng Hy Lạp đã phát triển tư tưởng
triết học hết sức phong phú. Chính từ các hình thức có mầm mống mà nảy nở hầu hết
các loại thế giới quan sau này.
1.1.4. Sự kế thừa và phát triển văn hoá Cận Đông
Lịch sử và lịch sử văn hoá của Hy Lạp cổ đại là một bộ phận không tách rời
trong lịch sử các nước phương Đông, trước hết và các nước Cận Đông. Vì vậy, muốn
nhận thức đúng về nguồn gốc, quá trình phát triển văn hoá vật chất, tinh thần của Hy
Lạp thì phải tính đến những ảnh hưởng to lớn và sự giao lưu văn hoá Hy Lạp với các
nước phương Đông.
Vùng Cận Đông có nhiều nước. Các nước thuộc Lưỡng Hà và Ai Cập là phát
triển hơn cả. Lưỡng Hà có ba quốc gia lớn là Sumer, Atxiria, Babylon. Nhà sử học
Hy Lạp Hêrôđốt đã mô tả Babylon như một thành phố vượt xa các thành phố khác
trên thế giới về sự giàu có và tráng lệ. Người Babylon sống bằng buôn bán. Họ đã
vượt qua vịnh Ba Tư chuyên chở hàng hoá từ Ấn Độ về buôn bán với Tiểu Á, Ba Tư,
Xiri. Các nhà thông thái và thầy tế ở Babylon hiểu biết nhiều về thiên văn, lập được
bản đồ sao, biết dự đoán nguyệt thực và nhật thực. Như vậy, nền văn minh Lưỡng Hà
đã tạo nên những giá trị văn hoá như làm xuất hiện trường học đầu tiên trong lịch sử,
ra đời cuốn lịch sử và xuất hiện chữ viết đầu tiên của nhân loại. Nhiều môn khoa học
cụ thể ra đời như thiên văn học, đại số, y học. Các truyền thuyết về sự hồi sinh từ cõi
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 6


GV: TS.Nguyễn Trung Dũng

5


Khái quát đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại, rút ra ý nghĩa
chết, các bản tình ca, các câu chuyện ngụ ngôn đầu tiên đều xuất hiện ở đây. Hệ
thống pháp chế đầu tiên cũng được soạn thảo từ Lưỡng Hà. Tóm lại, nơi đây bắt đầu
cuộc sống tinh thần đầu tiên của nhân loại nói chung, phương Tây nói riêng.
Ai Cập cổ đại, Vương quốc của các Pharaôn thần thánh, với ba thiên niên kỷ
tồn tại đã hình thành một nền văn hoá đặc sắc và hoành tráng: phát minh chữ tượng
hình, lập niên lịch, khởi đầu việc xác định niên đại đều đặn, những thành tựu to lớn,
trong toán học và y học, những Kim Tự Tháp hùng vĩ, nền điêu khắc cách điệu hoá
và hoa văn Ai Cập thú trên các tường thành, vật dụng, đồ gỗ và dụng cụ gia đình. Đó
là đóng góp của người cổ đại vào nền văn hoá thế giới nói chung, văn hoá phương
Tây nói riêng.
Vào các thế kỷ VIII-VII TCN, thông qua hoạt động buôn bán, trao đổi hàng
hoá với các nước Cận Đông nhất là với Babylon, Ai Cập, người Hy Lạp đã có dịp
tiếp xúc, học hỏi và hoà hợp với nền văn minh Lưỡng Hà, Ai Cập. Nội dung tiến bộ
của nền văn hóa cổ đại các nước Cận Đông không mất khỏi kho báu tinh thần của
nhân loại mà được nền văn hoá Hy Lạp kế thừa phát triển.
**Các điều kiện trên quy định nội dung, tính chất của triết học Hy Lạp cổ đại.
Nét đặc thù của triết học Hy Lạp cổ đại là có khuynh hướng nghiêng về thảo luận
bản thể, bản tính thế giới, thể hiện chủ nghĩa lý tính, hướng về khoa học ngoại tại,
khách quan. Vì vậy, triết học Hy Lạp cổ đại đã chứa đựng mầm mống của tất cả thế
giới quan duy vật.
1.2. Lịch sử phát triển
Quá trình lịch sử lâu dài với không ít những thăng trầm của vùng đất Hy Lạp cổ
đại gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội và tư tưởng triết học của nó trong đó sự
phân chia xã hội thành giai cấp, sự phân công lao động xã hội thành lao động trí óc

và lao động chân tay đã dẫn tới sự hình thành một đội ngũ các nhà trí thức chuyên
nghiệp chuyên nghiên cứu về khoa học, triết học... Sự hình thành triết học Hy Lạp
không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết quả tất yếu của việc kế thừa những di
sản tinh tuý của truyền thống trong sáng tác dân gian, trong thần thoại, trong các
mầm mống của tri thức khoa học (khoa học tự nhiên). Nhưng bên cạnh đó, sự xuất
hiện của những trí thức khoa học và triết học trong thời kỳ này đã tạo nên một bước
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 6

GV: TS.Nguyễn Trung Dũng

6


Khái quát đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại, rút ra ý nghĩa
ngoặt lớn về nhận thức của con người, phá vỡ ý thức hệ thần thoại và tôn giáo
nguyên thuỷ.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của nền sản xuất, những tri thức về khoa học tự
nhiên phát triển mạnh, được trình bày trong hệ thống triết học - tự nhiên của các nhà
triết học cổ đại, bên cạnh đó, khoa học thời bấy giờ chưa phân ngành nên các nhà
triết học đồng thời cũng là các nhà Toán học, nhà Vật lý học... Từ các yếu tố đó có
thể khẳng định rằng, triết học Hy Lạp cổ đại ngay từ khi ra đời đã có sự gắn bó với
nhu cầu thực tiễn và gắn với khoa học.
*Lịch sử Hy Lạp cổ đại trải qua 4 thời kỳ: thời kỳ Cờ rét - Myxen (Crète Mycens), thời kỳ Hôme (Homère), thời kỳ thành bang, thời kỳ Maxêđôin
(Macédoine).
+ Thời kỳ Cờ rét - Myxen (đầu thiên niên kỷ III - thế kỷ XII TCN): Dựa trên
công cụ đồng thau, ở vùng Cờ rét và Myxen đã hình thành các nhà nước hùng mạnh.
Năm 1194 - 1184 TCN Myxen đã tấn công và tiêu diệt thành Tơroa (Troie) ở Tiểu Á,
nhưng sau đó người Dôviêng với vũ khí bằng sắt tiến xuống và tiêu diệt các quốc gia
ở Cờ rét và Myxen.
+ Thời kỳ Hôme (Thế kỷ XI - IX TCN): Đây là thời kỳ Hy Lạp cổ đại bước

vào xã hội chiếm hữu nô nệ với sự xuất hiện và nhanh chóng khẳng định của chế độ
sở hữu tư nhân kéo theo sự phân hoá giàu nghèo, sự ra đời và xung đột giai cấp diễn
ra mạnh mẽ.
+ Thời kỳ Thành bang (thế kỷ VIII - VI TCN): Đây là thời kỳ quan trọng nhất
trong lịch sử Hy Lạp cổ đại. Lúc bấy giờ đồ sắt được dùng phổ biến, năng xuất lao
động tăng nhanh, sản phẩm thặng dư dồi dào, chế độ sở hữu tư nhân được củng cố...
xã hội bị phân hoá ra thành lao động chân tay và lao động trí óc. Đất nước bị phân
chia thành nhiều nước nhỏ: mỗi nước lấy một thành phố làm trung tâm, trong đó,
Xpát (Sparte) và Aten (Athèns) là hai thành bang hùng mạnh nhất, làm nòng cốt cho
lịch sử Hy Lạp cổ đại.
Nằm ở phía nam bán đảo Pêlôpôngnedơ, Thành bang Xpát bảo thủ về chính
trị, lạc hậu về kinh tế - văn hoá, nhưng lại mạnh về quân sự, do đó nó đã chi phối các

Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 6

GV: TS.Nguyễn Trung Dũng

7


Khái quát đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại, rút ra ý nghĩa
thành bang lân cận. Năm 530 TCN, Xpát đã cầm đầu đồng minh Pêlôpôngnedơ tranh
quyền bá chủ ở Hy Lạp.
Do phát triển mạnh mẽ về công thương nghiệp và trải qua nhiều lần cải cách
dân chủ nên Thành bang Aten có chế độ dân chủ và nền kinh tế - văn hoá phát triển
rực rỡ nhất lúc bấy giờ. năm 490 TCN, quân Ba Tư xâm lược Hy Lạp, nhưng sau đó,
năm 479 TCN, đã bị quân đội Aten đánh bại trên cánh đồng Maratoong. Vào năm
478 TCN, nhờ sức mạnh của mình mà Aten đã quy tụ 200 thành bang khác thành lập
đồng minh Đêlốt (Déles).
Do thực hành đường lối chính trị - kinh tế khác nhau mà vào năm 431 TCN,

cuộc chiến tranh giữa hai đồng minh Pêlôpôngnedơ và Đêlốt đã xảy ra ở
Pêlêpôngnedơ. Năm 404 TCN, cuộc chiến kết thúc với sự thất bại hoàn toàn của
đồng minh Đêlốt. Do lúc bấy giờ không có thành bang nào đủ mạnh để làm bá chủ
nên Hy Lạp cổ đại lại rơi vào một cuộc tranh giành quyền lực mới.
+ Thời kỳ Maxêdôin: Maxêđôin một nước nhỏ nằm ở phía bắc Hy Lạp nhưng
phát triển nhanh mạnh, nhờ giành được chiến thắng quyết định mà vua Philip II (382
- 336 TCN) của xứ Maxêdôin triệu tập hội nghị toàn Hy Lạp thông qua quyết định
giao cho Maxêdôin quyền chỉ huy quân đội toàn Hy lạp để tấn công Ba tư. Năm 336
TCN, Philip II mất, con là Alecxandrơ đã chinh phục cả một vùng rộng lớn Ba tư,
Tây Ấn Độ, Bắc Phi và lập nên đế quốc Maxêdôin đóng đô ở Babilon. Năm 323
TCN, do Alecxandrơ chết đột ngột mà các tướng lĩnh đã đánh nhau để tranh giành
quyền lực. Sang thế kỷ III TCN, đế quốc này bị chia thành 3 nước lớn (Maxêdôin Hy lạp, Ai cập và Xini và vài nước nhỏ).
Vào lúc này ở phía Tây Hy Lạp, La Mã đã trở thành một đế quốc hùng mạnh
và đang theo đuổi mưu đồ chinh phục phía đông Địa Trung Hải. năm 168 TCN,
Maxêdôin bị La Mã tiêu diệt. Năm 146 Hy Lạp bị nhập vào La Mã và sau đó, đế
quốc này chinh phục dần các quốc gia phương Đông khác.
Chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp cổ đại kéo dài cho tới thế kỷ IV. Trong thời
đại này, người Hy Lạp đã xây dựng một nền văn minh vô cùng xán lạn với những
thành tựu rực rỡ thuộc các lĩnh vực khác nhau. Chúng là cơ sở hình thành nên nền

Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 6

GV: TS.Nguyễn Trung Dũng

8


Khái quát đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại, rút ra ý nghĩa
văn minh phương Tây hiện đại. Vì vậy Ăngghen đã nhận xét: "Không có cơ sở văn
minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì cũng không có Châu Âu hiện đại được".

Về văn học, người Hy Lạp đã để lại một kho tàng thần thoại phong phú,
những tập thơ chứa chan tình cảm, những vở kịch hấp dẫn... phản ánh cuộc sống sôi
động, lao động bền bỉ, cuộc đấu tranh kiên cường chống lại những lực lượng tự nhiên
- xã hội... của người Hy Lạp cổ đại. Về nghệ thuật, người Hy Lạp đã để lại những
công trình kiến trúc, điêu khắc, hội họa có giá trị. Về luật pháp, người Hy Lạp đã
sớm xây dựng một nền pháp luật và được thực hiện khá nghiêm tại thành bang Aten.
Về khoa học tự nhiên, các thành tựu toán học, thiên văn học, vật lý... được các nhà
khoa học tên tuổi như Talet, Pytago, Acximet, Ơclit... sớm phát hiện ra. Đặc biệt
người Hy Lạp cổ đại đã để lại một di sản triết học đồ sộ và sâu sắc.
Chế độ chiếm hữu nô lệ đã tạo cơ sở cho sự phân hoá lao động và đề cao lao
động trí óc, coi thường lao động chân tay. Điều này thúc đẩy sự hình thành tầng lớp
tri thức biết xây dựng và sử dụng hiệu quả tư duy lý luận để ngiên cứu triết học và
khoa học. Triết học và khoa học đã ra đời và phát triển mạnh mẽ. Nền triết học Hy
Lạp cổ đại cùng trải qua giai đoạn hình thành, phát triển và suy tàn cùng với lịch sử
Hy Lạp cổ đại.
2. Đặc điểm của Triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại xuất hiện vào lúc xã hội đã phát triển lên chế độ chiếm
hữu nô lệ với hai giai cấp chủ yếu là chủ nô và nô lệ nên nó là hệ tư tưởng, là thế giới
quan của giai cấp chủ nô thống trị, đồng thời nó còn là công cụ bảo vệ, duy trì địa vị,
quyền lợi của giai cấp chủ nô, là công cụ nô dịch, đàn áp các giai cấp khác về mặt tư
tưởng. Bên cạnh tính giai cấp rõ rệt đó, triết học Hy Lạp cổ đại coi trọng, đề cao vai
trò của con người, coi con người là tinh hoa của tạo hoá. Do là một trong những nền
triết học mở đường trong lịch sử triết học nhân loại, hơn nữa các quan niệm triết học
được rút ra trên cơ sở suy luận, suy đoán từ sự quan sát trực tiếp các sự kiện xảy ra
trong tự nhiên, trong xã hội nên triết học Hy Lạp cổ đại mang nặng tính sơ khai, chất
phác, ngây thơ. Tuy nhiên, từ trong sự khởi đầu đó, các nhà triết học sau này đã nhìn
thấy ở triết học Hy Lạp cổ đại mầm mống của tất cả các kiểu thế giới quan sau này
và xem nó là một đỉnh cao của triết học nhân loại. Tuỳ thuộc vào từng thời kỳ lịch
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 6


GV: TS.Nguyễn Trung Dũng

9


Khái quát đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại, rút ra ý nghĩa
sử, tuỳ từng không gian địa lý cụ thể mà triết học Hy Lạp cổ đại chia thành các
trường phái và các giai đoạn phát triển khác nhau.
Trên thực tế, mặc dù triết học duy vật Hy Lạp ra đời trên nền tảng thần thoại và
tôn giáo nhưng thế giới quan lại hoàn toàn mới lạ dựa trên cơ sở trí tuệ sâu sắc đã đem
lại cho con người giải quyết đúng đắn những vấn đề do cuộc sống con người đặt ra,
giúp họ có cách sống hợp lý trong xã hội. Có thể coi triết học Hy Lạp cổ đại là đỉnh
cao của văn minh Hy Lạp, đỉnh cao của nền văn minh phương Tây cổ đại, và là một
trong những điểm xuất phát của lịch sử triết học thế giới, với các đặc trưng cơ bản:
2.1. Tính giai cấp sâu sắc
Triết học Hy Lạp cổ đại đã thể hiện nó là thế giới quan, ý thức hệ và phương
pháp luận của giai cấp chủ nô thống trị trong xã hội bấy giờ. Vì thế, dễ hiểu tại sao
phần lớn các nhà triết học thời kì này đều coi nô lệ không phải là con người mà chỉ là
công cụ biết nói.
Như vậy ngay từ đầu nó đã mang tính giai cấp sâu sắc. Bất chấp mọi bất công
và tệ nạn xã hội thời đó, triết học cổ Hy Lạp vẫn là một công cụ lý luận nhằm duy trì
trật tự xã hội theo kiểu chiếm hữu nô lệ, bảo vệ sự thống trị của giai cấp chủ nô.
Chẳng hạn, Platon coi nông dân và thợ thủ công là hạng người thấp nhất trong “Nhà
nước tư tưởng” của ông.
Tính giai cấp của một học thuyết triết học, theo các nhà nghiên cứu, không chỉ
thể hiện ở chỗ học thuyết đó biểu hiện lập trường của một giai cấp hay đảng phái nào
đó, mà còn là ở chỗ nó thể hiện tư tưởng của một khuynh hướng, trào lưu triết học
nhất định. Những mâu thuẫn trong xã hội cổ đại được thể hiện trong sự xung đột về tư
tưởng của các nhà triết học cổ Hy Lạp tiêu biểu nhất là sự xung đột giữa “đường lối
Đêmôcrit” và “đường lối Platon”. Triết học Hy Lạp và La Mã cổ đại như Ph.Ăngghen

chỉ rõ đã chứa đựng dưới dạng mầm mống mọi dạng thế giới quan sau này.
2.2 Tính bao trùm về mọi lĩnh vực trong thế giới quan của con người
2.2.1. Giá trị về thế giới quan
Ra đời trong điều kiện còn quá ít và sơ khai nên trình độ phát triển tư tưởng
văn hóa của nhân loại thời kì này nói chung còn thấp. Triết học thời kì này đã đề cập
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 6

GV: TS.Nguyễn Trung Dũng

10


Khái quát đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại, rút ra ý nghĩa
tới những vấn đề thế giới quan cơ bản của con người. Tuy nhiên do sự đối lập giữa
lao động trí óc với lao động chân tay quá lớn, nên nhìn chung các quan niệm triết học
còn mang nặng tính tự biện.
Trước hết chúng ta phải hiểu thế giới quan là như thế nào? Triết học có vai trò
như thế nào đối với thế giới quan?
Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản
thân con người,về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới đó. Triết học giữ
vai trò định hướng cho quá trình cũng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân,
mỗi cộng đồng trong lịch sử. Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong
cuộc sống con người và xã hội loài người. Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác
lập nhân sinh quan tích cực và trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan
trọng về sự trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như của mỗi cộng đồng xã hội nhất
định. Sự hòa nhập giũa tri thức và niềm tin tạo thành thế giới quan.
Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại không dừng lại ở sự nhận xét muôn hình muôn
vẻ của thế giới, họ đã đi tìm cơ sở của nó với cách quy nó về một nguyên nhân phổ
biến, sâu sắc hơn về một nguyên thể đầu tiên. Các nhà triết học duy vật thời kỳ này
đã cố tình “xây dựng nên mặt lý luận về thế giới, thế giới gồm có cái gì, và tác động

như thế nào vào các khái niệm trong đời sống và lao động hằng ngày”. Công lao của
các nhà duy vật Hy Lạp cổ đại là đã xây dựng được giả thiết về cơ cấu nguyên tử của
vật chất. Nét nổi bật của triết học duy vật là các nhà triết học đều cho rằng thế giới là
do vật chất tạo thành, có vận động và có biến đổi, tuy rằng quan niệm vật chất tạo
thành thế giới của mỗi nhà triết học có khác nhau:
Theo Talet thì nước là bản chất của vạn vật, nước luôn thay đổi hình thái và vì
thế chính nước đã sản sinh ra các vật thể khác nhau. Talet đã mở ra một thời đại tư
duy mới, sự tìm tòi cái mới của ông xoay quanh bản chất sự vật. Mọi sự vật được
làm bằng gì? hay loại "chất liệu" tạo nên sự vật là gì? Điều mà Talet muốn đạt được
khi nêu những câu hỏi này là tìm một cách nào đó cắt nghĩa được sự kiện này rằng
có nhiều loại sự vật như đất, mây và đại dương, và một số những sự vật này thay đổi
từ lúc này qua lúc khác để trở thành một cái gì khác và chúng cũng giống nhau ở một
số cách thức nào đó. Đóng góp độc đáo của Talet cho tư duy chính là ông quan niệm
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 6

GV: TS.Nguyễn Trung Dũng

11


Khái quát đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại, rút ra ý nghĩa
rằng, mặc dù có những sự khác biệt trong các sự vật khác nhau, nhưng vẫn có một sự
giống nhau cơ bản giữa tất cả các sự vật ấy, và cái nhiều nhưng tương quan với nhau
nhờ cái một. Ông giả thiết rằng có một yếu tố duy nhất nào đó, một “chất liệu” nào
đó chứa đựng nguyên lý hành động hay biến đổi của chính nó và là nền tảng cho mọi
thực tại vật lý. Arixtôt viết rằng Talet đã đạt tới kết luận đó nhờ quan sát các sự kiện
đơn sơ có lẽ từ việc ông thấy rằng mọi vật được nuôi từ chất ẩm, nhiệt phát sinh từ
chất ẩm và được duy trì từ chất ẩm…sự kiện hạt giống của mọi vật đều có bản chất
ẩm, nước là nguồn gốc của bản chất ẩm ướt của các sự vật. Tính chính xác trong sự
phân tích của Talet về thành phần của sự vật không quan trọng bao nhiêu so với việc

ông nêu lên câu hỏi về bản tính của thế giới. Câu hỏi của ông đã đặt ra bối cảnh cho
một loại tìm tòi mới, một loại tìm tòi có thể được đem ra tranh luận về giá trị của
chính nó. Talet đã chuyển đổi cơ sở tư duy từ một nền móng thần thoại sang một nền
móng có tính chất tìm tòi, khoa học hơn. Hơn nữa, từ điểm khởi hành sơ khai của
ông những người khác sẽ nối tiếp ông với những giải pháp khác, nhưng họ luôn luôn
đặt vấn đề của ông trước mắt họ.
Anaximăng lại cho rằng nguồn gốc của vũ trụ là vô cực, vô cùng rối ren và
phức tạp, luôn chia thành những mặt đối lập nhau như khô và ướt, nóng và lạnh,
chính các mặt đối lập này lại kết hợp với nhau và tạo ra vạn vật. Ông đồng ý với thầy
của mình (Talet) rằng có một chất liệu nào đó là nền tảng cấu tạo nên mọi vật.
Nhưng khác với Talet, thực thể sơ đẳng mà từ đó mọi sự vật đặc thù này phát sinh là
một lĩnh vực vô định hay vô hạn. Các sự vật cụ thể thì đặc thù, còn nguồn gốc của
chúng thì vô định, các sự vật cụ thể thì hữu hạn, còn chất liệu nguyên thủy thì vô
biên, vô hạn. Không những Anaximăng cống hiến một ý niệm mới về thực thể
nguyên thủy của sự vật ông còn đẩy xa công trình triết học bằng cách cố gắng tìm ra
một giải thích nào đó cho ý niệm mới của ông. Anaximăng đã tự đặt cho mình câu
hỏi làm sao chất liệu sơ đẳng hóa thành nhiều sự vật khác nhau mà chúng ta thấy trên
thế giới.
Anaximăng là nhà triết học thứ ba và cuối cùng của phái Milê, ông hài lòng với
khái niệm cái vô hạn là nguồn gốc của mọi vật. Ông cho rằng nguồn gốc của vạn vật
bắt đầu từ không khí, nhờ không khí và sự chuyển động của nó, vạn vật trong vũ trụ
được tạo ra và sau đó lại quay về dạng không khí. Anaximăng xác định khí là thực
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 6

GV: TS.Nguyễn Trung Dũng

12


Khái quát đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại, rút ra ý nghĩa

thể sơ dẳng từ đó phát sinh mọi vật, ông đã chạm tới được những khái niệm rất có
giá trị về sự “loãng khí” và “tụ khí” như là những hình thái đặc thù của chuyển động
dẫn tới sự thay đổi trong không khí mà ta có thể thay đổi được. Anaximăng đã có
nhiều tiên đoán khoa học, coi không khí là nguồn gốc và bản chất chung của tất thảy
mọi vật, vì thế người ta không thể sống nếu như không thở. Ông coi mưa đá là kết
quả kết băng của các tia nước trên cao và khi băng đá bị không khí làm tan ra thì tạo
thành tuyết. Anaximăng đã đề ra một ý niệm mới rất quan trọng, đó là những khác
biệt về “chất” được tạo thành do những khác biệt về “lượng”. Sự giãn nở và co tụ
của khí diễn ra những thay đổi về lượng, và những thay đổi này khi xảy ra trong một
thực thể duy nhất, sẽ cắt nghĩa cho sự phát sinh nhiều vật thể khác nhau. Ông cũng là
người đưa ra giả thuyết giải thích về các hiện tượng nhật thực và nguyệt thực.
Anaximăng là một nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại. Ông là người đầu tiên
đưa ra khái niệm về khởi nguồn hay sự hình thành vật thể trong vũ trụ. Ông coi vật
chất là vô tận, không có giới hạn,tạo ra sự đa dạng trong thế giới. Ông cho rằng
nguồn gốc và cơ sở của của mọi sự vật là apeirôn (là một cái vô định hình, vô cùng
tận, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt). Theo ông, mọi sự vật không chỉ có bản chất chung
apeirôn, mà còn xuất hiện từ nó. Tự bản thân apeirôn sinh ra mọi cái đồng thời là cơ
sở vận động của chúng. Toàn bộ vũ trụ được cấu từ apeirôn tồn tại như một vòng
tuần hoàn biến đổi không ngừng. Ở học thuyết vũ trụ của ông thì trái đất nằm ở trung
tâm vũ trụ, có hình dạng một hình trụ bẹt. Chung quanh trái đất có ba cái vòng tròn
tự quay: vòng mặt trời, vòng mặt trăng và vòng sao.
Ampêđôc cho rằng vạn vật được sinh ra không phải do đơn tố, mà do cả bốn
yếu tố vật chất cấu thành, đó là đất, nước, lửa và không khí. Ông đồng ý cái hiện
hữu là tự có và không thể hủy diệt, đơn giản là nó tồn tại, và ông nói rằng “từ cái gì
hoàn toàn không có thì không thể có, cái gì trở nên hiện hữu và hiện hữu mà hoàn
toàn bị hũy diệt thì không thể hoàn thành được và không thể hiểu được, vì nó sẽ luôn
luôn tồn tại ở nơi đó, bất kể người ta đặt nó ở đâu trong bất cứ hoàn cảnh nào”.
Anaxago là người làm cho triết học có một phát biểu quan trọng khi đưa ra một
giải thích mới về quá trình mà vật chất mang hình thức của những sự vật cụ thể.
Đóng góp quan trọng của ông là khái niệm về tinh thần mà ông phân biệt với vật


Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 6

GV: TS.Nguyễn Trung Dũng

13


Khái quát đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại, rút ra ý nghĩa
chất. Ông thấy thế giới và mọi vật thể trong đó có một cấu trúc trật tự và phức tạp,
đòi hỏi một cái tồn tại có tri thức và năng lực làm nguyên lý giải thích. Một nguyên
lý lí trí như vậy được ông đưa ra khái niệm tinh thần như là nguyên lý làm cho vật
chất có một trật tự. Theo ông, bản chất của thực tại có thể được hiểu cách tốt nhất
bao gồm tinh thần và vật chất. Anaxago đã phân biệt được tinh thần với vật chất
bằng cách nói rằng không giống với vật chất, tinh thần “không pha trộn với gì cả,mà
đứng một mình, tự mình”, nhưng ông không phân biệt hai thế giới khác nhau, thế giới
tinh thần và thế giới vật chất, mà ông thấy hai thế giới này luôn luôn tương quan và
gắn bó với nhau. Những khái niệm này có giá trị và ảnh hưởng to lớn trong triết hoc
Hy Lạp sau này. Nhìn chung, thế giới quan của Anaxago là sự phát triển đến đỉnh
cao lập trường đa nguyên.
Hêraclit đã tiếp cận được với quan niệm duy vật, nhưng mang nặng tính vĩnh
viễn và bất diệt của thế giới, nhấn mạnh đến tính chất vận động của vật chất thông
qua sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập, mọi sự vật đều vận động, mọi sự vật đều biến
đổi. Ông quan niệm chính lửa là nguồn gốc sinh ra tất thảy mọi vật. Mọi cái biến đổi
thành lửa và lửa thành mọi cái tựa như trao đổi vàng thành hàng hóa và hàng hóa
thành vàng. Theo Hêraclit, chuẩn mực của mọi sự vật, được hiểu không chỉ là từ
ngữ, mà còn là quy luật khách quan của vũ trụ, quy định trật tự và chuẩn mực của
mọi cái. Dưới con mắt của ông, mọi sự vật trong thế giới của chúng ta đều thay đổi,
vận động, phất triển không ngừng. Chúng ta không thể quên luận điểm bất hủ của
ông “chúng ta không thể tắm hai lần trên một dòng sông”. Mọi cái chỉ xảy ra một

lần, không lặp lại mặc dù giữa các sự vật có thể có sự kế thừa nhất định.Vũ trụ là một
thể thống nhất,nhưng trong lòng nó luôn luôn diễn ra các cuộc đấu tranh giữa các sự
vật, lực lượng đối lập nhau. Nhờ có cuộc đấu tranh đó mà mới có hiện tượng sự vật
này chết đi có sự vật khác thay thế. Điều đó làm cho vũ trụ thường xuyên phát triển
và trẻ mãi không ngừng. Vì thế đấu tranh là vương quốc của mọi cái, là quy luật phát
triển của vũ trụ. Bản thân cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập luôn diễn ra sự hài hòa
thống nhất.
Đêmôclit là người đã có phán đoán có giá trị về vận động: vận động gắn liền
với vật chất và tồn tại vĩnh viễn. Ông là nhà duy vật vĩ đại nhất của Hy Lạp cổ điển,
là người đã từng có những cuộc tranh luận công khai, quyết liệt với các nhà triết học
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 6

GV: TS.Nguyễn Trung Dũng

14


Khái quát đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại, rút ra ý nghĩa
duy tâm. Lênin coi Đêmôclit là người thể hiện rõ rệt nhất chủ nghĩa duy vật trong
thời kì cổ đại. Nổi bật triết học duy vật của Đêmôclit là học thuyết về nguyên tử.
Khái niệm nguyên tử được xây dựng trên cơ sở các khái niệm “tồn tại” và “không
tồn tại”. Trái với quan niệm của nhà triết học duy tâm Platôn, “tồn tại” theo
Đêmôclit là cái được xác định, cái đa dạng và cái có ngoại hình. Còn cái “không tồn
tại” là cái không xác định, cái vô hình, bất động, vô hạn. Nó không ảnh hưởng gì đến
các vật thể nằm trong nó, nhờ nó mà các vật thể có thể vận động được. Nguyên tử
theo Đêmôclit là hạt vật chất nhỏ nhất tới mức không thể phân chia thêm được nữa,
chúng tồn tại vĩnh viễn. Phỏng đoán có giá trị của Đêmôclit là ông cho rằng vận
động gắn liền với vật chất và tồn tại vĩnh viễn. Các sự vật là do các nguyên tử liên
kết lại với nhau tạo nên. Tính đa dạng của nguyên tử làm nên tính đa dạng của thế
giới các sự vật. Nguyên tử tự thân, không vận động nhưng khi kết hợp với nhau

thành vật thể thì làm cho vật thể và thế giới vận động không ngừng. Trong quan
điểm của Đêmôclit đã có mầm mống của cái thuyết về chất có trước và chất có sau
của sự vật. Nhiều nguyên tử kết hợp lại với nhau thành vật thể, các phân rã thì vật thể
bị tiêu diệt. Như vậy, trực giác Đêmôclit đã có một ảnh hưởng lâu dài và sâu đậm
trong lịch sử. Lý thuyết của ông về các vật thể chuyển động như một sự giải thích tự
nhiên, đưa ra một quan niệm mới về vật chất, phủ nhận tính chất không thể phá hủy
của các nguyên tử.
Như vậy, từ những quan niệm về thế giới của các nhà triết học duy vật Hy Lạp
cổ đại đã tạo nên cơ sở khoa học cho những nghiên cứu về thế giới và vũ trụ của con
người sau này. Trong khi triết học Phương Đông thời kì này còn chịu ảnh hưởng
nặng nề của thần linh, tôn giáo, triết học của các nhà duy tâm như Platôn coi ý niệm
là cái có trước, còn thế giới sự vật là cái có sau và được sáng tạo bởi ý niệm, thì các
nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại đã có sự tìm tòi mới về vận động của thế giới tự
nhiên. Họ đã chỉ ra rằng trạng thái của vật chất và các đặc tính của nó đều biến đổi
nhưng bản thân nó thì không sinh ra và cũng không chết đi mà tồn tại vĩnh viễn. Vật
chất cũng không thể được sáng tạo ra và cũng không thể bị tiêu diệt, sự vận động của
nó là quá một trình tự nhiên, không phụ thuộc vào bất kì lực lượng siêu tự nhiên nào.
Học thuyết của các trường phái duy vật đầu tiên xem nước, không khí và lửa như là
vật chất mà trong khi vận động đã sản sinh ra tất cả mọi vật thể về quá trình của thế
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 6

GV: TS.Nguyễn Trung Dũng

15


Khái quát đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại, rút ra ý nghĩa
giới. Học thuyết về sự chuyển hóa lẫn nhau của các vật thể và quá trình ấy là những
mầm mống của quan điểm duy vật biện chứng về sự biến đổi của vật chất từ trạng
thái này sang trạng thái khác. Trong thế kỉ II TCN, các nhà duy vật Anaxago và

Ampêđôcơ đã phát triển hơn nữa các quan niệm triết học và khoa học tự nhiên về vật
chất,với cống hiến chuyển từ quan niệm trực quan cảm tính về vật chất sang vấn đề
cấu tạo của vật chất.
2.2.2. Giá trị về nhận thức luận
Các nhà triết học phái Milê và Hêraclit đã tự giải quyết vấn đề cơ bản của nhận
thức luận-vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức một cách duy vật. Trường phái Milê
trong trường phái duy vật ra đời sớm nhất trong triết học Hy Lạp cổ đại (thế kỉ II
TCN), trường phái này đã đi tìm cơ sở ấy trong các dữ kiện cho việc nghiên cứu hiện
thực đem lại. Xuất phát từ trực quan cảm tính họ đã lấy một hiện tượng nào đó của tự
nhiên làm cơ sở và coi nó vô cùng tận.
Anaximăng đã tự đặt ra cho mình câu hỏi làm sao chất liệu sơ đẳng hóa thành
nhiều sự vật khác nhau mà chúng ta thấy trên thế giới. Như vậy ông đã có một bước
tiến về nhận thức, theo nghĩa nó là một cố gắng xử lý các sự kiện bằng cách đặt ra
các giả thuyết thay vì cắt nghĩa những hiện tượng tự nhiên bằng lối diễn tả thần thoại
và không thể tranh luận. Hơn nữa, điều mà ông muốn nói về nguồn gốc của sự vật
cho thấy dáng dấp của một sự suy tư mạnh bạo.
Ở các nhà triết học trường phái Milê chỉ chủ yếu bàn đến những vấn đề bản thể
luận, thì bên cạnh đó, Hêraclit còn phân tích nhiều vấn đề nhận thức luận. Một mặt,
ông đánh giá cao vai trò của các giác quan trong nhận thức các sự vật đơn lẻ,mặt
khác, cho rằng mục đích tối cao của chúng ta là nhận thức lôgic, nhận thức sự thống
nhất của vũ trụ và sự thông thái tối cao. Phần đông mọi người sống theo những quan
niệm riêng của mình. Hạnh phúc không phải là sự hưởng lạc đơn thuần về thể xác
mà là ở việc biết suy nghĩ, nói và hành động tuân theo thế giới tự nhiên, Lênin đánh
giá cao những quan niệm đó của Hêraclit, cho rằng chúng đã thể hiện một trong
những điểm cơ bản của phép biện chứng.
Đối với Đêmôcrit, ông đã có những quan điểm tiến bộ hơn, ông đã phân biệt sự
khác nhau giữa con người và con vật là ở chỗ trong con người chúng ta có nhiều
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 6

GV: TS.Nguyễn Trung Dũng


16


Khái quát đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại, rút ra ý nghĩa
nhiệt lượng hơn và các chất cấu thành sạch sẽ hơn so với động vật. Ông đã định
nghĩa con người như một động vật nhưng về bản tính, có khả năng học được bất kì
cái gì, có chân tay,cảm giác và sự năng động trí tuệ làm trợ giúp cho mọi cái. Ông đã
chia nhận thức của con người thành hai trình độ: nhận thức cảm tính và nhận thức
chân lý (đáng tin cậy).
Nhận thức luận của Arixtôt có vai trò quan trọng trong lịch sử triết học Hy Lạp
cổ đại. Lý luận nhận thức của ông được xây dựng một phần trên cơ sở phê phán học
thuyết Platôn về “ý niệm” và “sự hồi tưởng”. Trong lý luận nhận thức của mình, ông
đã thừa nhận thế giới khách quan là đối tượng của nhận thức, là nguồn gốc kinh
nghiệm và cảm giác. Arixtôt đã thừa nhận tính khách quan của thế giới: nhờ cảm
giác về đối tượng mà có tri thức đúng, có kinh nghiệm và lý trí hiểu biết được về đối
tượng. Như vậy, các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại đã có một trình độ nhận
thức cao hơn về thế giới, về con người, giúp cho con người có cách nhìn nhận đúng
dắn hơn. Những lý luận nhận thức này là nền tảng cho những nghiên cứu khoa học
của nhân loại, đi tới sự phát triển cao hơn, tiến bộ hơn sau này.
2.3. Coi trọng vấn đề con người
Nhìn chung các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều khẳng định con người là tinh
hoa cao quý nhất của tạo hóa. “Con người là thước đo tất thảy mọi vật” (Pitago).
Con người thời cổ đại được nhìn nhân chủ yếu với tổ chức cá thể, giá trị con người
chủ yếu chỉ được bàn đến ở khía cạnh đạo đức, giao tiếp, nhận thức luận.
Các nhà duy vật Hy Lạp cổ đại đặc biệt là Đêmôclit và Arixtôt đã có những tư
tưởng, những quan niệm tiến bộ hơn về con người và xã hội. Các ông đã cung cấp cơ
sở cho ý niệm về chủ nghĩa thế giới đại đồng, theo đó mọi con người đều là những
công dân bình đẳng của thế giới này.
Đêmôcrit thoát khỏi quan điểm máy móc về vấn đề đạo đức học. Ông đã khai

triển một bộ quy tắc đạo đức rất cao vời cho hành vi con người, đòi hỏi sự điều độ
trong mọi sự và việc vun trồng văn hóa như cách thức chắc chắn nhất để đạt những
mục tiêu đáng ao ước nhất của cuộc đời,đó là sự vui tươi. Theo Đêmôcrit, phẩm chất
con người không phải ở lời nói mà ở việc làm. Con người cần hành động có đạo đức,
còn hạnh phúc của con người là ở khả năng trí tuệ, khả năng tinh thần nói chung,
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 6

GV: TS.Nguyễn Trung Dũng

17


Khái quát đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại, rút ra ý nghĩa
đỉnh cao của hạnh phúc là trở thành nhà thông thái,trở thành công dân thế giới. Trái
với quan niệm của Platôn về xã hội rằng ông ủng hộ việc xây dựng nhà nước của ý
niệm, ra sức bảo vệ lợi ích của tầng lớp chủ nô dân chủ, đấu tranh chống lại chủ nô
quý tộc.
Đối với Arixtôt thì vấn đề đạo đức học được ông xếp vào loại khoa học quan
trọng sau triết học.Trong đạo đức của ông đặc biệt quan tâm đến vấn đề phẩm hạnh.
Theo ông phẩm hạnh là cái tốt đẹp nhất, là lợi ích tối cao mà mọi công dân cần phải
có. Phẩm hạnh của con người thể hiện ở quan niệm về hạnh phúc,hạnh phúc phải gắn
liền với hoạt động nhận thức, với ước vọng làm điều thiện.
Vấn đề đạo đức được các nhà duy vật Hy Lạp lần đầu tiên đề cập đến như là
mối quan tâm hàng đầu của triết học,đã đạt tới một trong những bước ngoặt quan
trọng nhất. Lần đầu tiên con người được đề cập tới phẩm chất và hạnh phúc của
mình.
2.4. Tính biện chứng sơ khai
Nhìn chung do hạn chế của thời đại về trình độ phát triển kinh tế, khoa học kĩ
thuật, các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại chưa thể giải thích tự nhiên một cách
chích xác và không giải thích được mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.

Những tư tưởng triết học còn mang nặng tính thô sơ máy móc, nhiều quan niệm duy
vật nhưng sơ khai, tự phát.
Bên cạnh những quan niệm duy vật mang tính sơ khai, máy móc, thế giới quan
của Talet còn ít nhiều chịu ảnh hưởng của các quan niệm thần thoại và tôn giáo
nguyên thủy khi ông cho rằng thế giới chúng ta đầy rẫy các vị thần linh, không lý
giải được hiện tượng từ tính của nam châm và hổ phách, ông khẳng định chúng có
linh hồn. Các vị thần linh trong ý tưởng của ông, là những hoạt động trong thế giới
làm cho mọi sự vật có thể vận động và biến đổi được.
Cũng như Talet, Anaximăng cũng chịu ảnh hưởng của thần thoại và tôn giáo,
khẳng định điểm tận cùng thế giới. Mọi sự vật theo ông đều sinh ra từ apeirôn và có
lỗi lầm với nhau, mọi cái cuối cùng đều trở thành apeirôn, ít nhiều mang tính thần bí.

Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 6

GV: TS.Nguyễn Trung Dũng

18


Khái quát đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại, rút ra ý nghĩa
Ampeđôc, lại thần thánh hóa các khởi nguyên của thế giới và đi đến nhân cách
hóa mọi sự vật, tức là quy cho chúng những đặc tính mà trên thực tế chỉ riêng con
người mới có. Ông cho rằng mỗi khởi nguyên đều tồn tại độc lập, bất biến, do đó
mang tính thần thánh, chúng được coi như những vị thiên thần, chẳng hạn lửa được
coi là “thần Dớt chói lọi”…
Đêmôcrit khi nói đến nguyên tử thì chưa đạt đến quan niệm khẳng định khối
lượng của nguyên tử, cho rằng nguyên tử không có trọng lượng. Ông thừa nhận rằng
trong con người có một phần bản chất thiên thần. Quan niệm của ông về tư duy và ý
thức còn ngây thơ, cảm tính. Đặc biệt coi chế độ nô lệ là hợp lý và cũng cần sử dụng
biện pháp có thể.

Tóm lại, tất cả những điều được thể hiện ở các tư tưỏng triết học Hy Lạp cổ đại
đó là sự tự phát, hay chúng không được các nhà triết học ý thức được một cách tự
giác, còn mang những tính thô sơ, chất phác, mới chỉ chú ý đến các hiện tượng bề
ngoài mà không thể giải thích được một cách đầy đủ bản chất bên trong của sinh vật
cũng như mối liên hệ giữa các sinh vật và hiện tượng.
2.5. Triết học Hy Lạp cổ đại gắn liền với thành tựu khoa học tự nhiên
Triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp
mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau, nhằm xây dựng một bức tranh về thế giới
như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong nó. Do
trình độ tư duy lý luận còn thấp, nên khoa học tự nhiên lúc này chưa đạt tới trình độ
mổ xẻ, phân tích tự nhiên để đi sâu vào bản chất sự vật, mà chỉ mới nghiên cứu tự
nhiên trong tổng thể để dựng nên bức tranh tổng quát về thế giới. Vì vậy, các nhà
triết học đồng thời là các nhà khoa học tự nhiên, họ quan sát trực tiếp các hiện tượng
tự nhiên để rút ra những kết luận triết học. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đồng thời
là các nhà toán học và thiên văn học như Talet, Pytago, Ơclit,… cả các nhà vật lý
học như Asimet, Đêmôcrit, Lơxip,.. hay nhà y – sinh học như Hippocrat,…
2.6. Triết học Hy Lạp cổ đại có sự phân chia và đối lập
Triết học Hy Lạp cổ đại có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu,
trường phái duy vật - duy tâm, biện chứng - siêu hình, vô thần - hữu thần. Chủ nghĩa
duy vật được hình thành từ trường phái Milet- trường phái Heraclite, trường phái Đa
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 6

GV: TS.Nguyễn Trung Dũng

19


Khái quát đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại, rút ra ý nghĩa
nguyên và đạt được đỉnh cao như trong trường phái Nguyên tử luận. Đối lập với chủ
nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy tâm được hình thành trong trường phái triết

học Pythagore, trải qua trường phái duy lý Elee và đạt được đỉnh cao trong trường
phái duy tâm khách quan của Platon, tức thế giới ý niệm.
3. Ý nghĩa, ưu điểm và hạn chế
3.1. Ý nghĩa của triết học Hy Lạp cổ đại đối với lịch sử triết học và ngày nay
Dựa trên phân tích các trường phái duy vật và duy tâm, triết học Hy Lạp cổ đại
đã đóng góp rất to lớn vào nền triết học của thế giới. Những điều sau đây thể hiện ý
nghĩa của triết học Hy Lạp cổ đại trong lịch sử nhân loại:
- Các nhà duy vật Hy Lạp cổ đại, bằng cách này hay cách khác, đều đã có
những giải đáp của mình cho vấn đề nguồn gốc, bản chất của con người. Trong chỉnh
thể thống nhất của thế giới, con người được các nhà triết học Hy Lạp cổ đại khẳng
định có mối quan hệ khăng khít, không thể tách rời với giới tự nhiên. Con người và
giới tự nhiên là thống nhất với nhau có cùng nguồn gốc, bản chất.
Như vậy, có thể nói, họ đã bước đầu nhận thấy sự gắn bó giữa con người và
giới tự nhiên. Đây chính là nền tảng cho quan niệm của Mác và Ăngghen sau này.
Mặc dù chưa thoát khỏi tính chất trực quan, nhưng quan niệm của các nhà triết học
duy vật cổ đại Hy Lạp về nguồn gốc, bản chất con người đã đặt nền móng cho quan
niệm đúng đắn về con người trong triết học sau này.
- Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại không chỉ thấy mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên, mà họ còn đề cập đến con người trong mối quan hệ với xã hội. Đây
cũng là quan niệm mà sau này Mác đã kế thừa và hoàn thiện.
- Tính nhân văn trong quan niệm của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại về con
người là làm thế nào để con người có được tự do, hạnh phúc. Mỗi triết gia có thể có
cách lý giải riêng của mình về vấn đề này, nhưng sự quan tâm đến nó đã thể hiện tính
nhân văn của triết học Hy Lạp cổ đại, đặc biệt là trong bối cảnh tồn tại nhiều trắc trở,
bất công của xã hội Hy Lạp.
- Khi đánh giá cao tri thức và những hiểu biết của con người, các nhà triết học
Hy Lạp cổ đại đã đề cao những nhà thông thái, coi họ là những người có tri thức, có
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 6

GV: TS.Nguyễn Trung Dũng


20


Khái quát đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại, rút ra ý nghĩa
hiểu biết sâu rộng. Trong quan niệm của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại, đặc biệt là
quan niệm của Socrate đã đánh giá cao vai trò của tri thức, theo ông có tri thức con
người mới có đạo đức, tự do, hạnh phúc.
- Trong nền dân chủ chủ nô, cùng với sự quan tâm đến giới tự nhiên và vũ trụ,
các vấn đề con người và xã hội cũng đã được các nhà triết học Hy Lạp cổ đại tìm
hiểu một cách sâu sắc. Con người với họ không chỉ là chủ thể, mà còn là một đối
tượng nghiên cứu. Thời cực thịnh của sự phát triển xã hội cho phép các công dân
nghĩ về trách nhiệm và quyền lợi tập thể gắn với quyền lợi quốc gia. Nhà khai sáng
đầu tiên trong thế giới cổ đại phương Tây - Prôtago đã khẳng định: “Con người thước đo của vạn vật”. Sự khẳng định này lấy con người làm hệ quy chiếu để giải
quyết các vấn đề về tồn tại và nhận thức. Trong sự tự do mang tính tự ý thức đó,
Prôtago xem nghệ thuật tranh luận như là phương thức chứng minh vai trò của chủ
thể. Socrate đã chọn cách tiếp cận khác, khi nhấn mạnh rằng, sự tự do mang tính tự ý
thức được đề cao chỉ trong chừng mực nó được gắn với mục đích đạo đức cao nhất cái Thiện phổ quát.
Nền văn minh hiện đại Châu Âu bắt nguồn từ nền văn minh Hy Lạp và chúng
ta đã không thể hiểu đầy đủ văn hóa Châu Âu ngày nay nếu không đi ngược thời gian
để tìm hiểu những thành tựu huy hoàng của văn hóa Hy Lạp cổ đại, Ăngghen viết
“Chúng ta luôn luôn phải quay về với những thành tựu trong triết học cũng như
trong mọi lĩnh vực khác của dân tộc nhỏ bé này, một dân tộc mà tài năng và hoạt
động có tính chất toàn diện của nó đã đảm bảo cho nó có một địa vị mà không có
một dân tộc nào khác có tham vọng đạt tới trong lịch sử tiến hóa của nhân loại”.
3.2. Ưu điểm và hạn chế:
Cùng với sự phát triển của nền văn minh, triết học Hy Lạp cổ đại đã cho chúng
ta thấy được những thành tựu vượt bậc, có thể đánh giá những ưu điểm và một số
hạn chế của triết học Hy Lạp cổ đại như sau:
3.2.1. Ưu điểm:

- Triết học cổ Hy Lạp như hồi chuông tỉnh thức giấc mộng thần thánh muôn
đời của người dân Hy Lạp, tách vai trò của thần thánh ra khỏi ý thức hệ của con
người.
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 6

GV: TS.Nguyễn Trung Dũng

21


Khái quát đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại, rút ra ý nghĩa
- Vai trò của tự nhiên và con người được đề cập một cách khách quan nhằm đi
đến tìm hiểu con người và tự nhiên từ đâu mà có và đi về đâu.
- Đạo đức lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại được đề cập.
- Là nền tảng cho các trường phái triết học sau này.
- Khoa học Duy nghiệm và Duy lý manh nha hình thành.
- Trả lời phần nào câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức thế giới không?
3.2.2. Hạn chế:
- Triết học duy vật Hy Lạp cổ đại thể hiện tính bao trùm của nó về mọi lĩnh
vực trong thế giới quan của con người. Ra đời trong điều kiện còn quá ít và sơ khai
nên trình độ phát triển tư tưởng văn hóa của nhân loại thời kì này nói chung còn
thấp. Triết học thời kì này đã đề cập tới những vấn đề thế giới quan cơ bản của con
người, tuy nhiên do sự đối lập giữa lao động trí óc với lao động chân tay quá lớn, nên
nhìn chung các quan niệm triết học còn mang nặng tính tự biện.
- Triết học cổ Hy Lạp còn nằm trên tư duy trừu tượng là chủ yếu.
- Các vấn đề triết học còn chưa rõ ràng, còn rời rạc chưa hệ thống hóa.
- Tuy có đặt vai trò của con người, nhưng chưa hoàn toàn tách khỏi yếu tố
thần linh.

Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 6


GV: TS.Nguyễn Trung Dũng

22


Khái quát đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại, rút ra ý nghĩa
KẾT LUẬN
Với gần một thiên niên kỷ tồn tại, triết học Hy Lạp cổ đại đã để lại những dấu
ấn đậm nét trên con đường phát triển của triết học phương Tây, tạo nên những giá trị
tinh thần to lớn, làm phong phú thêm kho báu tư tưởng nhân loại. Có thể thâu tóm ba
chủ đề chính nổi bật lên trong sáng tác của các nhà triết học Hy Lạp từ thời kỳ hình
thành các thị quốc đầu tiên đến thời kỳ Hy Lạp hóa: trước hết là tìm hiểu tự nhiên,
thứ hai là lý giải khả năng nhận thức của con người và thứ ba là vấn đề con người và
xã hội.
Nền văn minh hiện đại Châu Âu bắt nguồn từ nền văn minh Hy Lạp và chúng
ta đã không thể hiểu đầy đủ văn hóa Châu Âu ngày nay nếu không đi ngược thời gian
để tìm hiểu những thành tựu huy hoàng của văn hóa Hy Lạp cổ đại, Ăngghen viết:
“chúng ta luôn luôn phải quay về với những thành tựu trong triết học cũng như trong
mọi lĩnh vực khác của dân tộc nhỏ bé này, một dân tộc mà tài năng và hoạt động có
tính chất toàn diện của nó đã đảm bảo cho nó có một địa vị mà không có một dân tộc
nào khác có tham vọng đạt tới trong lịch sử tiến hóa của nhân loại”.
Điểm xuất phát cho sự phát triển triết học cổ đại là chủ nghĩa duy vật triết học.
Sự phát triển của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại đã trải qua một sự tiến hóa phức
tạp, đã phản ánh được những vấn đề thế giới, con người một cách trung thực hơn mà
các nhà triết học trước đây chưa làm được. Chủ nghĩa duy vật Hy Lạp cổ đại tuy mộc
mạc chất phác nhưng những giá trị của nó có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển triết
học nói riêng và khoa học nói chung. Triết học Hy Lạp là một hoạt động trí tuệ, nó
không chỉ là vấn đề thấy hay tin, mà còn là vấn đề suy nghĩ, và triết học còn có nghĩa
là suy nghĩ những vấn đề cơ bản theo một phong cách tìm tòi chân chính và tự do.


Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 6

GV: TS.Nguyễn Trung Dũng

23


Khái quát đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại, rút ra ý nghĩa

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu từ sách:

1. Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và Nghiên cứu sinh không
thuộc chuyên ngành triết học) (2007), Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, NXB Lý luận
Chính trị, Hà Nội;

2. Giáo trình Triết học Mác – Lênin (2006), Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội;

3. Giáo trình Một số chuyên đề về Triết học (Dành cho học viên cao học và
nghiên cứu sinh) (2014), Trường Đại học Ngân hàng Tp. Hồ Chí Minh;

4. PGS.TS Lương Minh Cừ, TS.Nguyễn Trung Dũng (2014), Tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người và giải phóng con người (sách chuyên khảo), NXB Chính
trị Quốc gia;

5. PGS.TS Đỗ Minh Hợp (2014), Lịch sử triết học phương Tây, tập 1 - Triết học
cổ đại, triết học trung cổ, triết học phục hưng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.

Tài liệu trực tuyến:
1. />2. />3. Bách khoa toàn thư mở:

Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 6

GV: TS.Nguyễn Trung Dũng

24



×