Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

Thực tiễn giải quyết tranh chấp về kinh doanh thương mại tại Toà kinh tế Toà án nhân dân thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 124 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp

1

Th.S Nguyễn Anh Tú

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan chuyên đề tốt nghiệp với đề tài: “ Pháp luật về giải
quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại bằng con đường tòa án. Thực
tiễn giải quyết tranh chấp về kinh doanh thương mại tại Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội”, là đề tài nghiên cứu của riêng tôi không sao chép từ bất kỳ tài
liệu nào. Nếu bị phát hiện sao chép, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước
Trường và Khoa.
Sinh viên
Vũ Huyền Trang

Sinh viên: Vũ Huyền Trang

Lớp: Luật Kinh doanh K46


2

Chuyên đề tốt nghiệp

Th.S Nguyễn Anh Tú

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


1. BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự năm

2. TAND

Toà án nhân dân

3. VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

4. HĐTP

Hội đồng thẩm phán

Sinh viên: Vũ Huyền Trang

Lớp: Luật Kinh doanh K46


Chuyên đề tốt nghiệp

3

Th.S Nguyễn Anh Tú

LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động kinh doanh, thương mại là một hoạt động có từ rất xa xưa trên
thế giới. Ngay từ thời cổ đại đã xuất hiện các thương gia, các nhà buôn và giữa

họ diễn ra các hoạt động trao đổi hàng hoá. Chính các hoạt động này đã góp
phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, sự giao lưu văn hoá giữa các dân tộc.
Ngày nay, khái niệm kinh doanh, thương mại ngày càng được hoàn thiện và mở
rộng hơn để phù hợp với sự phát triển của xã hội, nó không chỉ còn là một khái
niệm chung chung mà đã được cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật. Hầu hết
các quốc gia đều có các văn bản pháp luật để điều chỉnh, mặc dù có thể tên gọi
có thể khác nhau. Như ở Nhật Bản và Thái Lan thì văn bản pháp luật điều chỉnh
là Bộ luật thương mại, còn ở Philipin và Việt Nam thì văn bản đó là Luật
thương mại. Khái niệm kinh doanh, thương mại còn được quy định trong nhiều
Hiệp định quan trọng của các tổ chức như ASEAN, WTO, trong luật mẫu về
trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL. Tuy nhiên, đây là một lĩnh vực
rất nhạy cảm và phức tạp nên việc xảy ra tranh chấp là một vấn đề khó tránh
khỏi. Nhìn chung, hiện nay trên thể giới có 4 phương thức giải quyết cơ bản đó
là: thương lượng, hoà giải, trọng tài thương mại và tại toà án. Tuỳ và đặc điểm

Sinh viên: Vũ Huyền Trang

Lớp: Luật Kinh doanh K46


Chuyên đề tốt nghiệp

4

Th.S Nguyễn Anh Tú

của mỗi quốc gia mà phương thức giải quyết nào được sử dụng phổ biến hơn. Ở
Việt Nam, giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại bằng con đường
toà án đang là phương thức giải quyết thông dụng và phổ biến nhất hiện nay.
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại bằng con đường toà án

mang tính cưỡng chế cao và các bên không cần phải có sự thoả thuận trước.
Hà Nội là một thành phố lớn tập trung rất nhiều hoạt động của đất nước.
Trong đó thì hoạt động kinh doanh, thương mại diễn ra rất sôi động, điều đó
cũng dẫn tới một thực tế là có rất nhiều tranh chấp giữa các bên trong quan hệ
này. Do đó Toà án nhân dân Hà Nội nói chung và Toà kinh tế nói riêng với tư
cách là toà án cấp tỉnh đóng vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết các
tranh chấp này.
Trong phạm vi nghiên cứu của chuyên đề này, tôi không nghiên cứu toàn
bộ các vấn đề về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại mà chỉ tập
trung nghiên cứu một số vấn đề cơ bản như về thẩm quyền của toà án, trình tự
thủ tục giải quyết tại phiên toà sơ thẩm và thực tiễn giải quyết tại Toà kinh tế Toà án nhân dân thành phố Hà Nội.
Qua việc nghiên cứu này chúng tôi cũng xin đưa ra một số kiến nghị mong
hoàn thiện hơn nữa pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương
mại bằng con đường toà án.
Cơ cấu của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương
mại bằng con đường toà án
Chương 2: Thực tiễn giải quyết tranh chấp về kinh doanh thương mại tại
Toà kinh tế Toà án nhân dân thành phố Hà Nội
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp trong
thời gian tới
Trong quá trình viết báo cáo tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận
tình của giáo viên hướng dẫn – ThS. Nguyễn Anh Tú và bác Phạm Tuấn Anh –

Sinh viên: Vũ Huyền Trang

Lớp: Luật Kinh doanh K46


Chuyên đề tốt nghiệp


5

Th.S Nguyễn Anh Tú

Chánh tòa kinh tế, TAND tp Hà Nội cùng các cô, chú thẩm phán, cán bộ tòa án
của tòa.
Trong quá trình viết bài có thể chưa thu thập được đầy đủ thông tin, rất
mong sự đóng góp ý kiến của mọi người!

CHƯƠNG 1: PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG
KINH DOANH THƯƠNG MẠI BẰNG CON ĐƯỜNG TÒA ÁN
1.1 Khái quát chung về tranh chấp trong kinh doanh thương mại
1.1.1 Khái niệm kinh doanh thương mại
Thuật ngữ “thương mại” ban đầu được dùng để chỉ các hoạt động buôn
bán của các thương gia. Chính vì thế, theo nghĩa hẹp khái niệm thương mại
được hiểu là hoạt động mua bán hàng hoá với mục đích kiếm lời. Cùng với quá
trình phát triển kinh tế thị trường, khái niệm thương mại được mở rộng dần
sang các lĩnh vực khác liên quan đến mua bán hàng hoá, ban đầu là các dịch vụ
kèm theo như vận tải, bảo hiểm, thanh toán… Ngày nay, khái niệm thương mại
được hiểu theo nghĩa rất rộng nó bao hàm tất cả các hoạt động nhằm mục đích
sinh lời từ đầu tư, sản xuất đến phân phối và cả dịch vụ sau bán hàng…
Ở các nước trên thể giới, khái niệm thương mại ngày càng được mở rộng
ra với với một nội hàm rộng lớn, bao gồm tất cả các hoạt động nhằm mục đích
tìm kiếm lợi nhuận. Ví dụ như, Bộ luật thương mại số 48 của Nhật Bản ngày
9/3/1899, thuật ngữ thương mại được dùng để chỉ những hoạt động mua bán

Sinh viên: Vũ Huyền Trang

Lớp: Luật Kinh doanh K46



Chuyên đề tốt nghiệp

6

Th.S Nguyễn Anh Tú

nhằm mục đích lợi nhuận và hầu hết các dịch vụ trên thị trường như dịch vụ
vận tải, cung ứng điện hay khí đốt, uỷ thác, bảo hiểm, ngân hàng. Luật thương
mại của Philipin tuy không đưa ra các hành vi thương mại cụ thể mà quy định
phạm vi điều chỉnh là các hoạt động nhằm thúc đẩy sự trao đổi hàng hoá dịch
vụ với mục đích lợi nhuận. Ngoài ra, luật thương mại của Philipin còn điều
chỉnh các giao dịch thương mại trong tất cả các lĩnh vực kể cả lĩnh vực vận
chuyển hành khách. Bộ luật thương mại của Thái Lan cũng đưa ra khái niệm
thương mại khá rộng không chỉ bao gồm việc mua bán hàng hoá mà cả các hoạt
động thuê tài sản, thuê mua tài sản, tín dụng, thể chấp, đại diện, môi giới, bảo
hiểm, công ty, hợp danh… Tuy nhiên, sự phát triển của thương mại trên toàn
cầu đã làm nảy sinh nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm thương mại của
nhiều nước. Nhằm mục đích giảm bớt sự khác biệt, từng bước thống nhất hoá
cách hiểu về pháp luật thương mại trong quan hệ kinh tế quốc tế, ngày
21/6/1985 Uỷ ban pháp luật thương mại Liên Hợp Quốc (UNCITRAL) đã
thông qua Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế trong đó đưa ra khái niệm
về thương mại, theo đó thuật ngữ “thương mại” cần được giải thích theo nghĩa
rộng liên quan đến tất cả các mối quan hệ có bản chất thương mại, dù là quan
hệ hợp đồng hay không phải là quan hệ hợp đồng. Những mối quan hệ thương
mại gồm, nhưng không giới hạn ở các giao dịch: bất cứ giao dịch thương mại
nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ, thoả thuận phân phối, đại
diện hoặc đại lý thương mại, uỷ thác hoa hồng, cho thuê, xây dựng các công
trình, tư vấn, kỹ thuật, đầu tư, cấp vốn, ngân hàng, bảo hiểm, thoả thuận khác

hoặc tô nhượng, liên doanh và các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc
kinh doanh, chuyên chở hàng hoá hay hành khách bằng đường biển, đường
không, đường sắt hoặc đường bộ. Cách hiểu khái niệm thương mại nêu trên
cũng tương đồng với cách hiểu trong một số hiệp định quan trọng của ASEAN,
Hiệp định thành lập tổ chức thương mại quốc tế gồm nhiều Hiệp định cấu thành
như Hiệp định GATT, GATS, TRIMP, TRIPS,…

Sinh viên: Vũ Huyền Trang

Lớp: Luật Kinh doanh K46


Chuyên đề tốt nghiệp

7

Th.S Nguyễn Anh Tú

Ở Việt Nam thuật ngữ “thương mại” được sử dụng khá rộng rãi trong đời
sống xã hội, tuy nhiên, có lẽ, hầu hết mọi người đều hiểu theo nghĩa thông
thường đó là hoạt động mua bán nhằm mục đích kiếm lời. Tuy không trực tiếp
nêu ra khái niệm “thương mại” nhưng trong một số đạo luật của chúng ta cũng
ít nhiều nói đến khái niệm này. Năm 1990, Quốc hội thông qua hai đạo luật rất
quan trọng, đó là Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân. Hai luật này đã
đưa ra một khái niệm mới trong khoa học pháp lý Việt Nam có liên quan nhiều
đến việc áp dụng pháp luật thương mại, đó là khái niệm “kinh doanh”. Khái
niệm “kinh doanh” cũng được nhắc lại trong Luật doanh nghiệp 1999, theo đó
“kinh doanh là việc thưc hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá
trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trường nhằm mục đích sinh lợi” (khoản 3 điều 2). Khái niệm này trong một

chừng mực nhất định có những quan điểm tương đồng với khái niệm thương
mại theo nghĩa rộng được sử dụng phổ biến trên thế giới hiện nay và cũng được
giải thích tại Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế năm 1985. Khái niệm
“thương mại” theo Luật thương mại 1997 được hiểu theo nghĩa hẹp, bao gồm
14 hành vi điều chỉnh các quan hệ mua bán hàng hoá và dịch vụ liên quan trực
tiếp đến mua bán hàng hoá. Thậm chí đối tượng của việc mua bán hàng hoá
cũng chỉ bị giới hạn ở các động sản, chủ yếu là các máy móc, thiết bị, nguyên
liệu, vật liệu phục vụ sản xuất, tiêu dùng, các động sản khác được lưu thông
trên thị trường, nhà ở dùng để kinh doanh dưới hình thức cho thuê, mua bán
(điều 5 Luật thương mại 1997). Các bất động sản như nhà máy, công trình xây
dựng (không phải là nhà ở), các quyền tài sản như cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu,
các hành vi liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa như vận chuyển hàng,
thanh toán tiền mua hàng qua hệ thống ngân hàng… cũng không thuộc phạm vi
điều chỉnh của Luật thương mại 1997. Pháp lệnh trọng tài thương mại ra đời và
có hiệu lực ngày 01/7/2003 nêu rõ: “Hoạt động thương mại là việc thực hiện
một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm
mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diện, đại lý thương mại, ký

Sinh viên: Vũ Huyền Trang

Lớp: Luật Kinh doanh K46


Chuyên đề tốt nghiệp

8

Th.S Nguyễn Anh Tú

gửi, thuê, cho thuê, thuê mua. Xây dựng, tư vấn, kỹ thuật, li xăng, đầu tư, tài

chính, ngân hàng, bảo hiểm, thăm dò, khai thác, vận chuyển hàng hoá, hành
khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành
vi thương mại khác theo quy định của pháp luật”. Song có thể nói, khái niệm
thương mại được hiểu theo nghĩa rộng này mới chỉ được tồn tại trong một văn
bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao mang tính nội dung. Sự ra đời
khái niệm “kinh doanh” theo Luật doanh nghiệp 1999, sự tồn tại khái niệm
“kinh tế” trong Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989, cũng như khái niệm “thương
mại” theo Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 đã tạo sự nhận thức khác biệt
trong cách hiểu về “thương mại” so với Luật thương mại 1997. Phạm vi điều
chỉnh rộng hẹp của khái niệm thương mại trong hệ thống pháp luật nói trên đã
tạo ra sự mâu thuẫn, chồng chéo trong việc áp dụng các quy định của pháp luật
về nội dung (Luật doanh nghiệp 1999, Luật thương mại 1997, Pháp lệnh hợp
đồng kinh tế 1989) cũng như luật tố tụng (Pháp lệnh trọng tài thương mại
2003). Đặc biệt điều này còn ảnh hưởng đến quá trình Việt Nam thích ứng với
các quy định và tập quán thương mại quốc tế. Có thể nói đây là một trong
những trở ngại lớn nhất của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,
cụ thể là việc thực thi Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ cũng như các
cam kết của Việt Nam khi đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế
giới. Việc xác định phạm vi điều chỉnh theo diện hẹp của Luật thương mại 1997
trên thực tế đã phát sinh nhiều vấn đề, không chỉ trong quá trình thực hiện các
giao dịch thương mại mà còn ảnh hưởng đến việc giải quyết các tranh chấp
thương mại, tiếp sau đó là việc công nhận và cho thi hành các bản án, phán
quyết của trọng tài nước ngoài.
Khắc phục những nhược điểm trên, năm 2005 tại kỳ họp thứ 7, khoá XI,
Quốc hội đã thông qua Luật thương mại 2005, có hiệu lực thi hành
ngày01/01/2006 thay thế Luật thương mại 1997. Theo đó thì khái niệm “thương
mại” đã được mở rộng rất nhiều thông qua khái niệm “hoạt động thương mại”
như sau: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm

Sinh viên: Vũ Huyền Trang


Lớp: Luật Kinh doanh K46


Chuyên đề tốt nghiệp

9

Th.S Nguyễn Anh Tú

mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi khác” (khoản 1 điều 3 Luật thương mại 2005).
Khái niệm hàng hoá cũng được mở rộng “hàng hoá bao gồm tất cả các loại
động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai và những vật gắn liền với
đất đai”. Luật thương mại có phạm vi điều chỉnh rộng, không bị giới hạn trong
14 hành vi thương mại của Luật thương mại năm 1997. Luật này đã điều chỉnh
tất cả các hoạt động thương mại bao gồm thương mại hàng hoá, thương mại
dịch vụ và các khía cạnh thương mại của đầu tư và sở hữu trí tuệ phù hợp với
quy định của WTO và UNITRAL. Việc mở rộng này giúp cho việc giải quyết
các tranh chấp quốc tế được thực hiện dễ dàng hơn.
1.1.2 Tranh chấp trong kinh doanh thương mại
Tranh chấp trong kinh doanh, thương mại là những bất đồng xảy ra trong
hoạt động thương mại. Khái niệm này tưởng chừng rất đơn giản, nhưng thực ra
cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về tranh chấp trong kinh
doanh thương mại. Ngay cả Luật thương mại 2005 là luật chuyên ngành điều
chỉnh quan hệ thương mại giữa thương nhân, nhưng cũng không hề có quy định
cụ thể nào về tranh chấp trong kinh doanh thương mại. Do đó việc xác định
chính xác thế nào là tranh chấp trong kinh doanh thương mại hiện nằm tản mạn
trong các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, mỗi văn bản lại có quy định khác nhau.
Trong khoản 1 điều 29 BLTTDS có quy định: “Tranh chấp phát sinh trong hoạt

động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với
nhau và đều có mục đích lợi nhuận”. Nhưng trong nghị quyết số 01/2005/NQHĐTP của Toà án nhân dân tối cao lại hướng dẫn Toà kinh tế có nhiệm vụ,
quyền hạn giải quyết các tranh chấp và các yêu cầu về kinh doanh thương mại
quy định tại điều 29 và 30 BLTTDS; các tranh chấp kinh doanh, thương mại mà
một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh, nhưng đều có mục đích lợi
nhuận. Pháp lệnh trọng tài 2003 quy định “Trọng tài thương mại là phương
thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên
thoả thuận…”. Mà hoạt động thương mại được Pháp lệnh này quy định là việc

Sinh viên: Vũ Huyền Trang

Lớp: Luật Kinh doanh K46


Chuyên đề tốt nghiệp

10

Th.S Nguyễn Anh Tú

thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của các cá nhân, tổ chức kinh
doanh. Do đó, so với BLTDS thì Pháp lệnh trọng tài quy định khái niệm tranh
chấp trong kinh doanh, thương mại rộng hơn bao gồm mọi cá nhân, tổ chức
kinh doanh mà không yêu cầu phải có đăng ký kinh doanh.
1.2

Phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại

1.2.1 Thương lượng trực tiếp giữa các bên
Đó là việc khi có tranh chấp hai bên có thể tự bàn bạc, dàn xếp, thảo

luận để đưa ra phương án giải quyết tranh chấp mà không cần có sự trợ giúp
của bên thứ ba cũng như là thông qua một thủ tục tố tụng nào. Phương thức này
là phương thức cố điển, thông dụng nhất bởi nó dễ thực hiện, ít tốn kém, ít tổn
hại đến uy tín cũng như bí mật kinh doanh, không bị ràng buộc bởi bất kỳ một
nguyên tắc pháp lý nào, đặc biệt là giữ được mối quan hệ lâu dài giữa các bên,
thậm chí còn tăng cường sự hiểu biết, sự hợp tác giữa các bên nếu như thương
lượng thành công. Khi xảy ra tranh chấp thì hầu như các bên sẽ lựa chọn
phương thức này đầu tiên, họ chỉ lựa chọn phương thức khác khi mà đã thực
hiện phương thức này nhưng không có kết quả. Xuất phát từ bản chất của các
mối quan hệ trong kinh doanh thương mại, đó là các quan hệ dân sự theo nghĩa
rộng, do vậy mà nguyên tắc tự do thoả thuận cũng được đặt lên hàng đầu. Theo
đó thì trong quan hệ kinh doanh thương mại, cũng như việc giải quyết các tranh
chấp hoàn toàn có quyền tự thoả thuận trên cơ sở những gì mà pháp luật không
cấm. Thương lượng chính là sự thể hiện quyền tự do thoả thuận, tự do định đoạt
của các bên tranh chấp. Các bên tự đề xuất các phương phương án, cách thức
thoả thuận mà không phải tuân theo bất kỳ một thủ tục pháp lý nào. Có thể nói
việc thương lượng giữa các bên có 3 đặc trưng cơ bản sau: thứ nhất là các bên
tự mình bàn bạc thoả thuận để giải quyết tranh chấp mà không cần có sự giúp
đỡ của bất kỳ bên thứ ba hay cơ quan nào. Thứ hai là quá trình thương lượng
giữa các bên không phải tuân theo bất cứ một nguyên tắc hay trình tự thủ tục tố
tụng mang tính pháp lý nào. Pháp luật chỉ quy định thương lượng như một
quyền của các bên mà không quy định các hành vi cụ thể của các chủ thể. Do

Sinh viên: Vũ Huyền Trang

Lớp: Luật Kinh doanh K46


Chuyên đề tốt nghiệp


11

Th.S Nguyễn Anh Tú

đó các bên hoàn toàn có thể thoả thuận những gì mà pháp luật không cấm. Thứ
ba là việc thực hiện các kết quả thương lượng là hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự
nguyện của các bên, không có một sự ràng buộc cưỡng chế mang tính pháp lý
nào. Có chăng, cái ràng buộc các bên thực hiện trong trường hợp này đó là uy
tín của các bên mà thôi. Quá trình giải quyết tranh chấp có thể được thực hiện
bằng nhiều phương thức khác nhau do hai bên lựa chọn, hai bên có thể gặp mặt
trực tiếp hoặc gửi cho nhau các tài liệu thể hiện các quan điểm của mình nhằm
đưa ra được cách giải quyết hợp lý hoặc cũng có thể kết hợp thương lượng trực
tiếp và gián tiếp.
Tóm lại, thương lượng là phương thức rất thuận tiện, đơn giản, ít tốn
kém, nhanh chóng, linh hoạt, hiệu quả bảo vệ được uy tín, bí mật trong kinh
doanh của các bên. Tuy nhiên, nó sẽ là rất khó thực hiện nếu các bên không có
thiện chí, đặc biệt là kết quả thương lượng có thể sẽ không được các bên thực
hiện, các bên có thể tìm cách trì hoãn thương lượng kéo dài vụ tranh chấp. Do
đó, khi lựa chọn phương thức này để giải quyết các bên cũng cần lưu ý để có
thể tìm ra được cách thức giải quyết cho phù hợp nhất.
1.2.2 Hoà giải các tranh chấp
Hoà giải là phương thức giải quyết tranh chấp cùng với sự hỗ trợ của bên
thứ ba làm trung gian hoà giải. Bên thứ ba tham gia giải quyết tranh chấp với
vai trò là người thuyết phục, đưa ra ý kiến để các bên tham khảo. Khác với hình
thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại hay toà án, ở đây, các ý
kiến của bên thứ ba chỉ mang tính chất tham khảo, các bên có thể nghe theo
hoặc không, quyết định cuối cùng vẫn thuộc về các bên. Hoà giải với sự tham
gia của bên thứ ba trong trường hợp này là hoà giải ngoài tố tụng, còn hoà giải
được tiến hành tại trọng tài hay toà án là hoà giải trong tố tụng.
Hoà giải ngoài tố tụng có các đặc trưng cơ bản sau:

Thứ nhất, trong quá trình giải quyết tranh chấp luôn có sự xuất hiện của
bên thứ ba làm trung gian đưa ra các ý kiến, các giải pháp để các bên có thể lựa
chọn. .

Sinh viên: Vũ Huyền Trang

Lớp: Luật Kinh doanh K46


Chuyên đề tốt nghiệp

12

Th.S Nguyễn Anh Tú

Điểm khác biệt giữa hoà giải và thương lượng chính là sự xuất hiện của bên
thứ ba. Thương lượng được thực hiện bởi cơ chế giải quyết nội bộ, còn hoà giải
lại luôn có người thứ ba tham gia. Tuy nhiên, bên thứ ba làm trung gian hoà
giải không có quyền quyết định, không có quyền áp đặt bất cứ một vấn đề gì
ràng buộc các bên, họ chỉ là người đưa ra các sang kiến, các giải pháp mang
tính thuyết phục còn quyền quyết định cuối cùng vấn thuộc về các bên.
Hoà giải cũng khác biệt với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài hay toà
án. Cả ba hình thức này đều có sự xuất hiện của bên thứ ba, nhưng vai trò bên
thứ ba của toà án hay trọng tài lại có quyền đưa ra các phán quyết ràng buộc
các bên.
Thứ hai, quá trình giải quyết tranh chấp bằng hoà giải không phải tuân
theo một quy trình tố tụng khuôn mẫu nào do pháp luật quy định. Mọi cách
thức để giải quyết tranh chấp đều do các bên thoả thuận cũng giống như thương
lượng.
Thứ ba, cũng giống như thương lượng, kết quả hoà giải thành cũng được

thực thi hoàn toàn trên sự tự nguyện của các bên, không có một cơ chế pháp lý
nào bảo đảm hay cưỡng chế thi hành. Giải quyết tranh chấp bằng hoà giải,
người thứ ba được các bên lựa chọn có vai trò rất quan trọng. Pháp luật không
hề quy định về tiêu chuẩn của bên thứ ba, tuy nhiên, để được các bên tin tưởng
lựa chọn họ phải là người có đầy đủ các yếu tố như: có trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, am hiểu pháp luật, có kinh nghiệm thực tiễn, đặc biệt là phải độc lập
với các bên. Họ phải là người không có lợi ích liên quan hoặc xung đột với lợi
ích của các bên tranh chấp.
Tóm lại, cả hoà giải và thương lượng thực chất là phương thức giải quyết
tranh chấp thông qua cơ chế thoả thuận của các bên, nó không mang tính chất
tố tụng, đơn giản, ít tốn kém và kết quả phụ thuộc chủ yếu vào sự tự nguyện
của các bên. Ngoài ra, hoà giải với sự tham gia của bên thứ ba trong quá trình
giải quyết tranh chấp nên còn có ưu điểm mà thương lượng không có. Người
thứ ba làm trung gian hoà giải thông thường là người có trình độ, am hiểu, có

Sinh viên: Vũ Huyền Trang

Lớp: Luật Kinh doanh K46


Chuyên đề tốt nghiệp

13

Th.S Nguyễn Anh Tú

kinh nghiệm, khách quan, biết được vị thế của các bên nên thường dễ làm cho ý
chí của các bên dễ gặp nhau hơn. Kết quả hoà giải được ghi nhận và có sự
chứng kiến của bên thứ ba nên mức độ tôn trọng và tự nguyện cao hơn so với
thương lượng. Tuy nhiên, cũng giống như thương lượng, hoà giải cũng gặp phải

khó khăn về vấn đề thi hành và khi hoà giải có sự xuất hiện của bên thứ ba nên
có thể làm ảnh hưởng đến uy tín và bí mật kinh doanh của các bên tranh chấp.
1.2.3 Giải quyết tranh chấp tại trọng tài thương mại
Trọng tài thương mại là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt
động của trọng tài viên với tư cách là bên thứ ba độc lập, nhằm chấm dứt xung
đột bằng việc đưa ra một phán quyết trên cơ sở sự thoả thuận của các bên tranh
chấp và có hiệu lực bắt buộc đối với mỗi bên. Theo quy định của Pháp lệnh
trọng tài thương mại năm 2003 thì “trọng tài thương mại là phương thức giải
quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thoả thuận
và được tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng do pháp lệnh này quy định”
(khoản 1 điều 2). Như vậy, qua khái niệm này ta đã phần nào thấy được bản
chất của trọng tài thương mại. Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
bằng trọng tài thương mại có các đặc trưng như sau:
Thứ nhất, trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của
bên thứ ba là các trọng tài viên hoặc trọng tài viên duy nhất và việc giải quyết
tranh chấp tại trọng tài thương mại phải được các bên thoả thuận. Giống như
hoà giải, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại cũng có sự xuất hiện
của bên thứ ba. Tuy nhiên, trong hoà giải pháp luật không quy định điều kiện
của bên trung gian hoà giải còn trong tố tụng trọng tài pháp luật có quy định
điều kiện của trọng tài viên, nếu trọng tài viên tham gia giải quyết tranh chấp
không đủ điều kiện như pháp luật quy định thì có thể ảnh hưởng đến hiệu lực
của quyết định trọng tài. Theo quy định tại điều 12 Pháp lệnh trọng tài thương
mại 2003 thì trọng tài viên phải thoả mãn những điều kiện sau: là công dân Việt
Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực
vô tư khách quan; có bằng đại học và đã qua thực tế công tác theo ngành học từ

Sinh viên: Vũ Huyền Trang

Lớp: Luật Kinh doanh K46



Chuyên đề tốt nghiệp

14

Th.S Nguyễn Anh Tú

năm năm trở lên; người đang bị quản chế hành chính, đang bị truy cứu trách
nhiệm hình sự hoặc đã bị kết án mà chưa được xoá án tích không được làm
trọng tài viên; Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Chấp hành viên, công
chức đang công tác tại toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều
tra, Cơ quan thi hành án không được làm trọng tài viên. Tại điều 3.2 Pháp lệnh
cũng quy định rõ là khi giải quyết tranh chấp, trọng tài viên phải độc lập, khách
quan, vô tư, phải căn cứ vào pháp luật và tôn trọng thoả thuận của các bên. Như
vậy, không phải ai cũng có thể trở thành bên thứ ba giải quyết tranh chấp trong
tố tụng trọng tài.
Đối với hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại thông
qua thương lượng hoặc hoà giải thì khi có tranh chấp các bên có thể không cần
có thoả thuận trước mà vẫn có thể thương lượng hoặc hoà giải được. Còn đối
với hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thì các bên bắt
buộc phải có thoả thuận trọng tài, nếu không hình thức này sẽ không được sử
dụng để giải quyết tranh chấp. Theo quy định tại khoản 2 điều 2 Pháp lệnh
trọng tài thương mại 2003 thì “thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên
cam kết giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã
phát sinh trong hoạt động thương mại”. Thoả thuận trọng tài phải được lập bằng
văn bản, thoả thông qua thư, điện báo, telex, fax, thư điện tử hoặc hình thức văn
bản khác thể hiện rõ ý chí của các bên, giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài
được coi là thoả thuận trọng tài bằng văn bản. Thoả thuận trọng tài có thể là
điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc một thoả thuận riêng (điều 9 Pháp
lệnh trọng tài thương mại). Tuy nhiên, thoả thuận trọng tài là để giải quyết

tranh chấp nếu phát sinh nên nó không thể phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng
mà điều khoản hợp đồng tồn tại độc lập với với hợp đồng. Việc gia hạn, huỷ bỏ
hợp đồng không ảnh hưởng đến hiệu lực của điều khoản trọng tài (điều 11 PL
trọng tài thương mại).

Sinh viên: Vũ Huyền Trang

Lớp: Luật Kinh doanh K46


Chuyên đề tốt nghiệp

15

Th.S Nguyễn Anh Tú

Thoả thuận trọng tài không phải đương nhiên có hiệu lực, nó có thể vô
hiệu nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại điều 10 PL trọng tài
thương mại.
Đặc trưng thứ hai của giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đó
là quá trình giải quyết tranh chấp thông qua một thủ tục tố tụng chặt chẽ. Đây là
điểm khác biệt cơ bản giữa phương thức trọng tài và hai phương thức giải quyết
trước. Giải quyết tranh chấp tại trọng tài, trọng tài viên và các bên đương sự
phải tuân thủ đúng trình tự tố tụng mà pháp luật trọng tài, điều lệ và quy tắc tố
tụng của tổ chức trọng tài đó quy định. Nếu quy trình tố tụng này không được
tuân thủ, một hoặc các bên không có cơ hội công bằng để trình bày trường hợp
của mình trước trọng tài viên thì quyết định của trọng tài có thể sẽ không được
công nhận và không được cho thi hành.
Đặc trưng thứ ba, kết quả của việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài là
phán quyết do trọng tài tuyên bố với các đượng sự của vụ tranh chấp. Phán

quyết của trọng tài vừa kết hợp yếu tố thoả thuận (các bên đương sự có thể thoả
thuận về nội dung tranh chấp, cách thức giải quyết tranh chấp, luật áp dụng đối
với tranh chấp…), vừa kết hợp yếu tố tài phán và phán quyết này có giá trị bắt
buộc đối với các bên. Mặc dù phán quyết trọng tài là kết quả của sự thoả thuận
có tính chất riêng tư giữa các bên tranh chấp nhưng phán quyết của trọng tài
vẫn có hiệu lực bắt buộc đối với các bên tranh chấp trừ khi một trong số các
bên có yêu cầu toà án tuyên bố huỷ quyết định trọng tài và toà đã xem xét cho
huỷ quyết định trọng tài. Nếu các bên không tự nguyện thi hành thì có thể bị
cưỡng chế thi hành.
Về hình thức thì trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức là trọng
tài vụ việc (trọng tài Ad-hoc, Hội đồng trọng tài do các bên thoả thuận thành
lập và sẽ giải tán khi giải quyết xong tranh chấp); trọng tài thường trực (trọng
tài quy chế) là các trung tâm trọng tài, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có trụ sở cố
định, có danh sách trọng tài viên va hoạt động theo điều lệ riêng.

Sinh viên: Vũ Huyền Trang

Lớp: Luật Kinh doanh K46


Chuyên đề tốt nghiệp

16

Th.S Nguyễn Anh Tú

Trọng tài thương mại là hình thức giải quyết tranh chấp kết hợp được
nhiều ưu điểm của các hình thức giải quyết tranh chấp khác như: đảm bảo sự tự
do thoả thuận ý chí, bí mật và uy tín cho các bên, giữ được quan hệ giữa các
bên sau khi giải quyết như hình thức thương lượng, hoà giải, đảm bảo sự chặt

chẽ về thủ tục tố tụng và tính tài phán như hình thức toà án. Lựa chọn trọng tài,
các bên tranh chấp có thể yên tâm vì tranh chấp sẽ được trọng tài giải quyết
nhanh chóng, dứt điểm, tránh lãng phí về thời gian và tiền bạc. Do vậy mà
trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp phổ biến ở những nước có nên kinh
tế thị trường phát triển, được các nhà kinh doanh sử dụng như một hình thức tối
ưu để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh, thương
mại.
1.2.4 Giải quyết tranh chấp tại toà án
Toà án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân
danh quyền lực nhà nước, được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt,
chặt chẽ và bản án hay quyết định của toà án về vụ tranh chấp nếu không có sự
tự nguyện tuân thủ sẽ được bảo đảm thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà
nước.
Các đặc trưng cơ bản của phương thức giải quyết tranh chấp bằng con
đường toà án như sau:
Thứ nhất, việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại toà án có sự
tham gia của bên thứ ba đó là toà án thông qua hoạt động xét xử của hội đồng
xét xử gồm có các thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Toà án là cơ quan xét xử
nhân danh quyền lực nhà nước và việc giải quyết tranh chấp bằng toà án không
cần phải có sự thoả thuận trước. Nếu như các bên không có thoả thuận gì về
phương thức giải quyết tranh chấp thì tranh chấp sẽ được giải quyết tại toà án
nếu như các bên không tự thương lượng hoặc hoà giải được. Cũng giống như
hình thức trọng tài thì các thành viên tham gia hội đồng xét xử cũng phải thoả
mãn các điều kiện mà pháp luật có quy định. Nếu không thoả mãn các điều kiện

Sinh viên: Vũ Huyền Trang

Lớp: Luật Kinh doanh K46



Chuyên đề tốt nghiệp

17

Th.S Nguyễn Anh Tú

này thì không được tham gia xét xử, nếu không thì bản án do những người này
tuyên có thể không có hiệu lực.
Thứ hai, việc giải quyết tranh chấp tại toà án phải tuân thủ nguyên tắc tố
tụng do pháp luật quy định. Việc sai nguyên tắc tố tụng có thể bị kháng cáo
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm hoặc thủ tục xét lại bản án đã có hiệu lực
pháp luật.
Thứ ba, kết quả của việc giải quyết tranh chấp là bản án do Hội đồng xét
xử tuyên có giá trị bắt buộc đối với các bên khi nó có hiệu lực pháp luật, nó có
thể bị kháng cáo, kháng nghị. Khi bản án đã có hiệu lực thi hành thì các bên
phải tự nguyện thi hành, nếu không sẽ bị cưỡng chế theo quy định của pháp
luật.
Cả trọng tài thương mại và toà án đều là hai phương thức giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại theo mang tính chất tố tụng nhưng chúng có
những điểm khác biệt cơ bản sau: toà án là cơ quan nhà nước, do đó phán quyết
của toà án mang tính quyền lực, pháp lý, còn trọng tài là tổ chức xã hội nghề
nghiệp (phi chính phủ), do đó phán quyết của trọng tài mang tính xã hội, pháp
lý. Toà án có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp kinh tế theo quy định của
pháp luật. Trọng tài có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh trong
hoạt động thương mại nếu trước hoặc khi xảy ra tranh chấp các bên có thoả
thuận trọng tài và thoả thuận đó không vô hiệu. Toà án xét xử công khai, trừ
trường hợp cần xét xử kín để giữ gìn bí mật của nhà nước, thuần phong mỹ tục
của dân tộc hoặc để giữ kín bí mật của các đương sự theo yêu cầu chính đáng
của họ. Phiên họp giải quyết tranh chấp theo thủ tục của trọng tài thương mại
không công khai. Nguyên tắc hoà giải là thủ tục bắt buộc trừ một số trường hợp

đối với phương thức toà án, còn trọng tài thì không cần. Lựa chọn trọng tài
thương mại để giải quyết tranh chấp các bên có nhiều quyền tự định đoạt hơn
như là có thể chọn trung tâm trọng tài hoặc hội đồng trọng tài do các bên thành
lập, có thể lựa chọn và đề nghị thay đổi trọng tài viên còn trong tố tụng toà án
thì các bên không có quyền chọn mà chỉ có thể đề nghị thay đổi thành phần hội

Sinh viên: Vũ Huyền Trang

Lớp: Luật Kinh doanh K46


Chuyên đề tốt nghiệp

18

Th.S Nguyễn Anh Tú

đồng xét xử nếu chứng minh được rằng họ không thoả mãn điều kiện do pháp
luật quy định.
Trên đây mới chỉ nói qua về bản chất của phương thức giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại bằng con đường toà án, còn cụ thể về thẩm quyền
nguyên tắc giải quyết, trình tự, thủ tục giải quyết xin được nghiên cứu kỹ lưỡng
trong phần II dưới đây.
1.3 Giải quyết tranh chấp về kinh doanh thương mại tại toà án
1.3.1 Khái quát về cơ cấu tổ chức của toà án
Ở Việt Nam, hệ thống được tổ chức theo đơn vị hành chính, lãnh thổ.
Theo quy định tại điều 2 Luật tổ chức toà án nhân dân năm 2002 thì ở Việt
Nam có các toà án sau: Toà án nhân dân tối cao; các toà án nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương; các toà án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành
phố trực thuộc tỉnh; các toà quân sự; các toà khác do luật định. Trong đó toà án

nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất trong hệ thống toà án. Toà án nhân
dân tối cao gồm có các toà: toà quân sự trung ương, toà hình sự, toà dân sự, toà
kinh tế, toà lao động, toà hành chính và các toà phúc thẩm toà án nhân dân tối
cao. Trong đó thì toà hình sự, toà dân sự, toà kinh tế, toà lao động, toà hành
chính, toà án nhân dân tối cao, giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của pháp luật
tố tụng. Các toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ và quyền hạn
phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật của toà án cấp dưới trực tiếp bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của
pháp luật; giải quyết khiếu nại đối với các quyết định của toà án nhân dân cấp
tỉnh về tuyên bố phá sản; giải quyết khiếu nại tố cáo đối với các quyết định của
toà án nhân dân cấp tỉnh về việc giải quyết các cuộc đình công theo quy định
của pháp luật.
Toà án nhân dân cấp tỉnh gồm có toà hình sự, toà dân sự, toà kinh tế, toà
hình sự, toà hành chính, trong trường hợp cần thiết Uỷ ban thường vụ Quốc hội
quyết định thành lập thêm các toà chuyên trách theo đề nghị của chánh án toà

Sinh viên: Vũ Huyền Trang

Lớp: Luật Kinh doanh K46


Chuyên đề tốt nghiệp

19

Th.S Nguyễn Anh Tú

án nhân dân tối cao. Trong đó, toà kinh tế có những nhiệm vụ và quyền hạn là
sơ thẩm những vụ án kinh tế theo quy định của pháp luật, phúc thẩm những vụ

án kinh tế mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của toà án
cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật, giải quyết việc
phá sản theo quy định của pháp luật.
Toà án nhân dân cấp huyện không có các toà chuyên trách, các vụ việc
thuộc thẩm quyền của toà án cấp huyện sẽ được giao cho các thẩm phán chuyên
trách giải quyết. Do đó những vụ án hình sự thì sẽ giao cho những thẩm phán
chuyên trách về hình sự, những vụ án kinh tế sẽ được giao cho những thẩm
phán chuyên trách về kinh tế vv… TAND cấp huyện có thẩm quyền sơ thẩm
những vụ án theo quy định của pháp luật.
Trong phạm vi nghiên cứu của chuyên đề này, chúng tôi chỉ tập trung
vào nghiên cứu phương thức giải quyết tranh chấp về kinh doanh thương mại
nên theo quy định của pháp luật nó sẽ thuộc thẩm quyền của toà kinh tế hay của
thẩm phán chuyên trách về các tranh chấp trong kinh doanh thương mại tại toà
án cấp huyện, do đó tất cả những vấn đề nói dưới đây về phương thức giải
quyết tranh chấp kinh tế tại toà án đều là thẩm quyền của toà kinh tế hoặc là
thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh tế của toà án nhân dân cấp huyện.
1.3.2 Đặc điểm của quan hệ pháp luật tố tụng kinh tế tại toà án
Trong kinh doanh giữa các chủ thể phát sinh các quan hệ kinh tế mà nội
dung là các quyền và nghĩa vụ của họ, mỗi bên đều phải thực hiện các nghĩa vụ
của mình. Tuy nhiên, do nhiều lý do khác nhau có thể một bên không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng không đầy đủ, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp
của bên kia dẫn đến tranh chấp kinh tế và yêu cầu tất yếu là phải giải quyết
tranh chấp đó. Khi tranh chấp kinh tế xảy ra, để đảm bảo nguyên tắc tự nguyện
thoả thuận trong kinh doanh, pháp luật cho phép các bên gặp nhau tự bàn bạc
tìm cách giải quyết. Trong trường hợp các bên không thể giải quyết được bằng
thương lượng, hoà giải và cũng không có thoả thuận trọng tài hoặc thoả thuận
trọng tài vô hiệu thì tranh chấp kinh tế đó sẽ được giải quyết theo một thủ tục

Sinh viên: Vũ Huyền Trang


Lớp: Luật Kinh doanh K46


Chuyên đề tốt nghiệp

20

Th.S Nguyễn Anh Tú

luật định ở toà án (TAND cấp huyện hoặc toà kinh tế TAND cấp tỉnh). Quá
trình giải quyết một vụ tranh chấp kinh tế theo một thủ tục nhất định trước cơ
quan toà án gọi là tố tụng kinh tế. Trong quá trình giải quyết vụ việc kinh
doanh thương mại thì phát sinh các mối quan hệ giữa toà án với những bên
tham gia tố tụng kinh tế, và giữa họ với nhau. Đặc điểm của các quan hệ này là:
-

Chúng phát sinh trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh tế ở toà án

-

Một trong các chủ thể bắt buộc của quan hệ pháp luật kinh tế là toà án

-

Căn cứ pháp lý phát sinh tranh chấp, đồng thời làm phát sinh quan

hệ pháp luật tố tụng kinh tế là sự vi phạm pháp luật kinh tế hoặc sự tranh chấp
về quyền và nghĩa vụ giữa các bên;
-


Mục đích của việc giải quyết tranh chấp tại toà án là nhằm bảo vệ

các quyền và lợi ích hợp pháp đang bị vi phạm của các bên tham gia quan hệ
kinh tế nói riêng và nền kinh tế nói chung;
-

Nội dung của pháp luật kinh tế bao gồm những quy định về những

nguyên tắc giải quyết tranh chấp kinh tế, thẩm quyền và trình tự giải quyết
tranh chấp kinh tế của toà án các cấp, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia
tố tụng.
1.3.3 Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về kinh doanh, thương
mại tại toà án
Từ trước ngày 01/01/2005 thì văn bản quy phạm pháp luật về tố tụng
được áp dụng để giải quyết các tranh chấp kinh tế đó là Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án kinh tế ngày 16 tháng 3 năm 1994. Kể từ ngày 01/01/2005
(ngày có hiệu lực của BLTTDS) thì văn bản quy phạm pháp luật về tố tụng
được áp dụng là BLTTDS 2004 thay thế cho Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án kinh tế.
1.3.4 Các nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết các tranh chấp về
kinh doanh, thương mại theo BLTTDS 2004
Nguyên tắc cơ bản của một đạo luật là tổng hợp những tư tưởng, quan điểm
chỉ đạo mang tính chất khái quát, xuyên suốt trong cả đạo luật. Nội dung của

Sinh viên: Vũ Huyền Trang

Lớp: Luật Kinh doanh K46


Chuyên đề tốt nghiệp


21

Th.S Nguyễn Anh Tú

các quy định tiếp theo chỉ là sự cụ thể hoá các tư tưởng này. Do vậy trong giải
quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại thì toà án cũng phải tuân thủ
đầy đủ các nguyên tắc này để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
Theo quy định của BLDS 2004 thì trong giải quyết các vụ án dân sự có 21
nguyên tắc. Trong các nguyên tắc này thì có 4 nguyên tắc được coi là cơ bản và
đặc trưng trong tố tụng dân sự nói chung cũng như trong tố tụng kinh tế nói
riêng.
-

Nguyên tắc về quyền quyết định và tự định đoạt của các đương sự

(Điều 5 BLTTDS 2004).
“1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu toà án có thẩm
quyền giải quyết vụ việc dân sự. Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi
có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi
đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.
2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền
chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự
nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.”
Các quan hệ kinh tế là các quan hệ được xác lập một cách tự nguyện, xuất
phát từ ý chí và nguyện vọng của các bên mà không có bất cứ sự cưỡng ép, đe
doạ nào trong quá trình xác lập, thực hiện. Trong quan hệ này các bên hoàn
toàn có quyền quyết định quyền và nghĩa vụ của mình và được nhà nước bảo
đảm nếu không trái với các quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Nên khi
phát sinh tranh chấp, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu nhà nước bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của mình, nhưng ngược lại, họ cũng có quyền từ bỏ quyền
lợi của mình đã bị xâm phạm cho dù đã có quyền yêu cầu nhà nước bảo vệ.
Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự được thể hiện trong
suốt các giai đoạn của quá trình tố tụng: họ có thể khởi kiện hoặc không khởi
kiện, trong quá trình giải quyết vụ việc, các đương sự có quyền chấm dứt, thay
đổi các yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự nguyện, không
trái pháp luật và đạo đức xã hội. Việc thực hiện quyền này của đương sự không

Sinh viên: Vũ Huyền Trang

Lớp: Luật Kinh doanh K46


Chuyên đề tốt nghiệp

22

Th.S Nguyễn Anh Tú

chỉ dừng lại việc giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, thủ tục phúc thẩm mà còn
được thể hiện cả trong các giai đoạn của quá trình thi hành bản án, quyết định
của toà án có hiệu lực pháp luật.
-

Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng kinh tế

“1. Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án và
chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh

như đương sự.
3. Toà án chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp
do Bộ luật này quy định.”
Xuất phát từ nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của các đương sự
thì các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, và khi đã thực hiện quyền đó thì họ đồng thời có nghĩa vụ đưa ra chứng
cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, hoặc đưa ra
chứng cứ để phản đối yêu cầu của bên kia, vì không ai khác ngoài các đương sự
là người biết rõ nhất nguyên nhân, điều kiện phát sinh tranh chấp, hoặc yêu cầu
có liên quan đến quyền và lợi ích, cũng như những bằng chứng để chứng minh
cho yêu cầu của mình.
Việc quy định đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho
yêu cầu của mình là phù hợp, nhưng trên thực tế nảy sinh nhiều vấn đề phức
tạp, làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án. Chẳng hạn, do tính chất của
việc giải quyết tranh chấp, nếu bên nguyên đơn có lợi thì họ sẽ nhiệt tình tìm
kiếm, sẵn sàng cung cấp chứng cứ cho Tòa án, và bên bị đơn thì ngược lại, nếu
bị bất lợi thì họ không muốn cung cấp chứng cứ cho Tòa án, hoặc khi có vấn đề
liên quan đến cơ quan quản lý hữu quan, Tòa án có văn bản yêu cầu các cơ
quan này cung cấp tài liệu theo quy định của pháp luật, nhưng do nhiều nguyên
nhân khác nhau nên khó thực hiện được ngay. Do đó nếu không có cơ chế để
Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ thì sẽ hạn chế nhiều đến việc giải quyết vụ

Sinh viên: Vũ Huyền Trang

Lớp: Luật Kinh doanh K46


Chuyên đề tốt nghiệp

23


Th.S Nguyễn Anh Tú

án, ảnh hưởng đến thời hạn và chất lượng giải quyết vụ án. Trong điều kiện như
vậy, thẩm phán muốn có căn cứ giải quyết vụ án một cách công bằng, đúng
pháp luật thì phải tự mình tiến hành một số biện pháp thu thập chứng cứ.
Tuy nhiên bên cạnh mặt tích cực này, quy định như vậy sẽ tạo ra cho thẩm
phán cơ chế giải quyết vụ việc khép kín từ thu thập chứng cứ, đánh giá chứng
cứ đến xét xử, khó bảo đảm nguyên tắc khách quan, nhất là trong trường hợp có
vấn đề tiêu cực sẽ dẫn đến việc lạm dụng quyền lực, xét xử không đúng, làm
ảnh hưởng đến lòng tin của người dân vào Tòa án, vào pháp luật.
Liên quan đến việc thu thập và cung cấp chứng cứ trong TTDS, BLTTDS
2004 đã bổ sung quy định về trách nhiệm của “Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ cho
đương sự, Toà án chứng cứ trong vụ án mà cá nhân, cơ quan, tổ chức đó đang
lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Toà án; trong trường hợp không
cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Toà án biết và
nêu rõ lý do của việc không cung cấp được chứng cứ.”(Điều 7/BLTTDS 2004)
-

Nguyên tắc hoà giải trong tố tụng dân sự (điều 10 BLTTDS 2004).

“Toà án có trách nhiệm tiến hành hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để các
đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định
của Bộ luật này.”
Bản chất của quan hệ pháp luật kinh tế là các quan hệ tự nguyện, do đó việc
giải quyết tranh chấp kinh tế cũng phải dựa trên nguyên tắc này theo những
biện pháp nhất định, trong đó hoà giải là một biện pháp quan trọng và là
nguyên tắc bắt buộc trong tố tụng dân sự. Hoà giải có ý nghĩa hết sức quan
trọng, được thực hiện nhằm mục đích phát huy truyền thống đoàn kết, tương trợ

giữa các bên tham gia quan hệ kinh tế, nâng cao kết quả giải quyết tranh chấp
kinh tế. Đồng thời làm tốt hoà giải sẽ hạn chế những tốn kém về tiền bạc, thời
gian của nhà nước, công sức của cán bộ nhà nước cũng như của công dân, hạn
chế những khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp.

Sinh viên: Vũ Huyền Trang

Lớp: Luật Kinh doanh K46


Chuyên đề tốt nghiệp

24

Th.S Nguyễn Anh Tú

BLTTDS 2004 cũng được quy định cụ thể việc hoà giải được thực hiện ở tất
cả các giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm, từ khi chuẩn bị xét xử đến khi bắt đầu xét
xử tại phiên toà, trừ những vụ án không được hoà giải như yêu cầu đòi bồi
thường gây thiệt hại đến tài sản của nhà nước hoặc những vụ án kinh tế phát
sinh từ những giao dịch trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội.
-

Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự

(điều 21 BLTTDS 2004)
“1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của
pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp
luật.

2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên toà đối với những vụ án do toà án
thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, các việc dân sự thuộc thẩm quyền
giải quyết của toà án, các vụ việc dân sự mà viện kiểm sát kháng nghị bản án,
quyết định của toà án.”
Hoạt động tố tụng dân sự khá đa dạng, phức tạp, lại dễ xâm phạm đến quyền,
lợi ích hợp pháp của các chủ thể nên ngoài việc áp dụng pháp luật phải quy
định cụ thể quyền, nghĩa vụ tố tụng của các chủ thể thì cần phải có cơ chế kiểm
sát các hoạt động này. Chính vì thế, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng dân sự đã được pháp luật quy định là một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng
dân sự.
Khác với tố tụng hình sự thì viện kiểm sát với vai trò thực hiện quyền công
tố tham gia tất cả các vụ án, trong tố tụng kinh tế viện kiểm sát không tham gia
tất cả những vụ án mà chỉ tham gia những phiên toà theo quy định của pháp
luật. Trước đây thì viện kiểm sát có quyền khởi tố đối với một số vụ việc dân
sự, nhưng hiện nay thì vấn đề có khởi kiện hay không phụ thuộc vào các đương
sự, viện kiểm sát không có quyền khởi tố nữa.
1.3.5 Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về kinh doanh thương mại
của toà án

Sinh viên: Vũ Huyền Trang

Lớp: Luật Kinh doanh K46


Chuyên đề tốt nghiệp

25

Th.S Nguyễn Anh Tú


Trong kinh doanh thương mại, khi xảy ra tranh chấp không phải lúc nào toà
án cũng có thẩm quyền giải quyết. Toà án chỉ giải quyết khi có yêu cầu của
đương sự (nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự) và tranh
chấp đó phải thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án. Ở nước ta, hệ thống toà
án được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ, để tránh chồng chéo thì việc
phân định thẩm quyền giữa các toà án là rất quan trọng, tránh tình trạng một vụ
án có thể được rất nhiều toà thụ lý hoặc không có toà nào thụ lý. Điều này cũng
góp phần cho toà án giải quyết nhanh chóng và đúng đắn các vụ việc. Bên cạnh
đó, việc xác định thẩm quyền giữa các toà án một cách hợp lý, còn tạo điều
kiện thuận lợi cho các đương sự tham gia tố tụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp trước toà án, giảm bớt những phiền phức cho đương sự. Ngoài ra, việc xác
định thẩm quyền của các toà án một cách hợp lý và khoa học còn có ý nghĩa
quan trọng trong việc xác định những điều kiện về chuyên môn, nghiệp vụ cần
thiết của đội ngũ cán bộ ở mỗi toà án và các điều kiện khác, trên cơ sở đó có kế
hoạch đáp ứng bảo đảm cho toà án thực hiện được chức năng, nhiệm vụ.
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về kinh doanh thương mại là quyền xem
xét giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại, quyền ra quyết định khi
giải quyết các tranh chấp đó theo quy định của pháp luật.
Khác với thẩm quyền xét xử hành chính và thẩm quyền xét xử hình sự của
toà án, thẩm quyền của toà án trong giải quyết các tranh chấp kinh tế có những
đặc trưng sau:
Thứ nhất, toà án nhân danh quyền lực nhà nước, độc lập trong việc xem xét
giải quyết và ra các phán quyết đối với các vụ việc phát sinh từ các quan hệ
mang tính chất kinh doanh thương mại.
Thứ hai, thẩm quyền của toà án được thực hiện theo thủ tục tố tụng dân sự.
Do vậy, ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc chung về tố tụng thì toà án khi xem
xét và giải quyết các tranh chấp phải tôn trọng và bảo đảm quyền thoả thuận,
quyền tự do định đoạt của các đương sự. Phạm vi thẩm quyền được giới hạn

Sinh viên: Vũ Huyền Trang


Lớp: Luật Kinh doanh K46


×