Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TIỂU LUẬN QLNN TRÊN LĨNH vực AN NINH QUỐC PHÒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.45 KB, 17 trang )

-1-

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRÊN LĨNH VỰC
QUỐC PHÒNG, AN NINH
-----------------A. PHẦN MỞ ĐẦU
Kinh nghiệm lịch sử dựng nước và giữ nước hằng nghìn năm của dân
tộc ta đã chứng minh, ở thời đại nào, các Nhà nước Việt Nam cũng rất coi
trọng tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước. Trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng được cơ
chế, chính sách và biện pháp quản lý Nhà nước về quốc phòng, an ninh, phù
hợp với điều kiện hoàn cảnh của đất nước trong chiến tranh. Vì vậy, đã huy
động được các tổ chức kinh tế, xã hội và nhân dân đóng góp rất lớn sức
người, sức của cho tiền tuyến, cho chiến trường với khẩu hiệu: “Tất cả cho
kháng chiến, tất cả để đánh thắng kẻ thù xâm lược”.
Ngày nay, đất nước ta đã chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh” 1, vững bước đi lên con đường xây dựng CNXH
mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Tuy đất nước có hòa bình, có
những thời cơ và vận hội mới, nhưng cũng đang đứng trước những nguy cơ
và thách thức mới. Đảng ta đã chỉ rõ: Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ
xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ
Tổ quốc và các thành quả cách mạng.
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn
biến nhanh chóng, phức tạp, tiềm ẩn những yếu tố khó lường, tuy chiến tranh
lớn ít có khả năng xảy ra, nhưng ở nhiều khu vực vẫn còn tiếp tục nổ ra các
cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột tôn giáo, sắc tộc…. Đối
với nước ta, các thế lực thù địch vẫn ráo riết chống phá sự nghiệp ách mạng
của nhân dân ta, chủ yếu bằng chiến lược diễn biến hoà bình, nhằm xoá bỏ
chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản, chuyển hoá cách mạng nước ta đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Các hành động xâm hại chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nước ta vẫn


tiếp diễn dưới nhiều hình thức, âm mưu và với các thủ đoạn hết sức tinh vi.
Điều đó đặt ra cho nhiệm vụ quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh để bảo
vệ Tổ quốc là rất nặng nề.
1

Văn phòng TW Đảng, (2016), Văn kiện ĐHĐBĐTQ lần thứ XII, tr. 220.


-2Tên tác giả, thời gian xuất bản, tựa đề của tài liệu (tên bài nghiên cứu hoặc sách), số của
tạp chí, nhà xuất bản (nếu la sách), số trang.

Như vậy, Đảng ta luôn xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng
tâm, nhưng không tách rời nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong
thời kỳ mới, đòi hỏi Nhà nước ta phải có sự đổi mới quản lý trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực quản lý quốc phòng và an
ninh.
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cần
phải có sức mạnh tổng hợp. Một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh tổng
hợp là phải có được nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh.
Điều đó chỉ có được khi mọi công dân, mọi tổ chức, mọi lực lượng, mọi cấp,
mọi ngành ý thức đầy đủ được nghĩa vụ, trách nhiệm đối với việc xây dựng
nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Do đó, cần nhận thức rõ vị trí,
đặc trưng, nội dung, biện pháp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh
nhân dân. Từ đó, vận dụng vào thực hiện tốt trách nhiệm của mình trong xây
dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
Quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh là một trong những nhiệm vụ
trọng yếu của quản lý nhà nước nói chung. Chất lượng, hiệu quả quản lý nhà
nước về quốc phòng, an ninh đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự
nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận Quốc phòng toàn dân, gắn

với an ninh nhân dân vững mạnh, đảm bảo cho công cuộc bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam XHCN.


-3-

B. NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
TRÊN LĨNH VỰC QUỐC PHÒNG, AN NINH:
1. Khái niệm về Quốc phòng, An ninh:
1.1 Khái niệm quốc phòng:
Quốc phòng là công cuộc giữ nước của một quốc gia, gồm tổng thể các
hoạt động đối nội và đối ngoại về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa
học của Nhà nước và nhân dân để phòng thủ đất nước, tạo nên sức mạnh toàn
diện, cân đối, trong đó sức mạnh quân sự làm nòng cốt, nhằm giữ vững hòa
bình, đẩy lùi, ngăn chặn các hoạt động gây chiến của kẻ thù và sẵn sàng đánh
thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức, mọi quy mô.
Quốc phòng bao gồm các hoạt động của cả nước, trong đó lực lượng vũ
trang nhân dân làm nòng cốt. Kẻ thù xâm lược từ bên ngoài thường câu kết
với các lực lượng phản động bên trong, do đó quốc phòng phải kết hợp chặt
chẽ với an ninh để bảo vệ đất nước, bảo vệ chế độ XHCN. Tổ chức quốc
phòng của mỗi nước phụ thuộc trực tiếp vào chế độ xã hội, vào truyền thống
dân tộc, vào điều kiện khách quan, chủ quan cụ thể. Nhiều nước quan niệm
quốc phòng là một bộ phận của an ninh quốc gia.
Trong công tác quốc phòng phải chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang
quân đội chính quy tinh nhuệ từng bước hiện đại hoá.
1.2 Khái niệm về An ninh:
An ninh đã có từ lâu vì nó là nhu cầu tất yếu của xã hội, một xã hội
phát triển ổn định thì phải có an ninh ổn định
Khái niệm an ninh được xem xét trên hai góc độ

Nghĩa thông thường an ninh là an ninh quốc gia đây là sự ổn định và
phát triển về mọi một chế độ xã hội và độc lập như quyền thống nhất toàn vẹn
lãnh thổ của một quốc gia.
Nội dung của an ninh quốc gia là ổn định mối quan hệ chính trị giữa
giai cấp cầm quyền đối với giai cấp khác, đảm bảo chủ quyền quốc gia của
nhà nước này với nhà nước khác trên thế giới, an ninh quốc gia còn được
khẳng định qua quan hệ kinh tế đối ngoại là khẳng định được độc lập chủ


-4quyền toàn vẹn lãnh thổ đất nước.
Trong an ninh quốc gia thì phải đảm bảo được an ninh chính trị là sự ổn
định và phát triển bền vững về chế độ chính trị trong một quốc gia, đảm bảo
hiệu lực quản lý nhà nước, an toàn nội bộ, an ninh kinh tế là sự ổn định và
phát triển đúng hướng xã hôị chủ nghĩa và sự phát triển vững mạnh của kinh
tế đất nước, an ninh lãnh thổ là sự ổ định an toàn về chính trị xã hội trên toàn
lãnh thổ quốc gia, là sự phát triển của một xã hội có tổ chức và kỷ cương trên
cơ sở pháp luật. Ngoài ra còn có cả an ninh nông thôn và tư tưởng văn hoá…
Nghĩa rộng thì lại bao gồm cả an ninh và trật tự an toàn xã hội trong đó
trật tự an toàn xã hội là hệ thống các quan hệ xã hội được hình thành và đảm
bảo bởi hệ thống các quy phạm pháp luật của nhà nước và các chuẩn mực đạo
đức thuần phong mĩ tục trong đời sống cộng đồng dân tộc, một quốc gia. Nhờ
đó mà nhân dân sống có tổ chức, kỷ cương và mọi lợi ích chính đáng của họ
đước đảm bảo.
Hai khái niệm an ninh và quốc phòng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
vì an ninh quốc phòng là hai mặt của quá trình bảo vệ đất nước chúng hỗ trợ
nhau quốc phòng mạnh là điều kiện tốt nhất để có an ninh bên trong, ngược
lại an ninh tốt sẽ triệt tiêu các bất ổn, vậy trong an ninh có quốc phòng trong
quốc phòng có an ninh.
2. Quan điểm của Đảng về quốc phòng an ninh hiện nay
“Tăng cường quốc phòng, an ninh, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo

vệ vững chắc chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và bảo đảm
an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội”
Thực hiện tốt Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tăng
cường quốc phòng, an ninh, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo đảm ổn định
chính trị - xã hội và môi trường hòa bình để xây dựng, bảo vệ đất nước;
không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; ưu tiên hiện đại hoá một số quân chủng,
binh chủng, lực lượng; bảo đảm số lượng hợp lý, có sức chiến đấu cao, hoàn
thành tốt nhiệm vụ. Tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động của các lực
lượng thực thi pháp luật trên biển. Chú trọng xây dựng lực lượng dân quân
tự vệ và lực lượng dự bị động viên; phát triển công nghiệp quốc phòng, an
ninh. Đẩy mạnh tuyên truyền trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân về
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
Kết hợp tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh với nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội; các dự án phát triển kinh tế, xã hội trong các khu vực phòng thủ
phải bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh, nhất là ở những vị trí trọng


-5yếu, chiến lược. Xây dựng đường tuần tra biên giới. Nâng cao hiệu quả hoạt
động của các khu kinh tế - quốc phòng và phát triển bền vững kinh tế, xã hội khu
vực dọc biên giới và biển, đảo. Có chính sách phù hợp để triển khai thực hiện
một số nhiệm vụ đặc thù về quốc phòng, an ninh.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh, tranh thủ sự ủng hộ
của cộng đồng quốc tế để duy trì môi trường hòa bình, củng cố quốc phòng,
an ninh và bảo vệ chủ quyền quốc gia, khẩn trương hoàn thành phân định biên
giới. Tham gia hoạt động giữ gìn hòa bình của Liên hợp quốc phù hợp với
điều kiện của Việt Nam.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã

hội. Xây dựng xã hội kỷ cương, an toàn. Đẩy mạnh phòng, chống, đẩy lùi tội
phạm, tệ nạn xã hội. Tăng cường an ninh, an toàn thông tin mạng. Bảo đảm
trật tự, an toàn và giảm tai nạn giao thông.(VK ĐHĐ XII, 312)
3. Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hoà bình, ổn định chính
trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn,
làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch
đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội là
nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân, trong đó
Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt. Xây dựng
thế trận quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân
vững chắc. Phát triển đường lối, nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân và
lý luận, khoa học an ninh nhân dân. Chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế về
quốc phòng, an ninh.
Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội là nền
tảng vững chắc của quốc phòng - an ninh. Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi
với tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với
quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên từng địa
bàn.
Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng,
Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin yêu. Xây dựng Quân đội nhân dân
với số quân thường trực hợp lý, có sức chiến đấu cao; lực lượng dự bị động
viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp. Xây dựng lực lượng Công an nhân
dân vững mạnh toàn diện; kết hợp lực lượng chuyên trách, bán chuyên trách,



-6các cơ quan bảo vệ pháp luật với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc. Chăm lo nâng cao phẩm chất cách mạng, trình độ chính trị, chuyên
môn, nghiệp vụ cho cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang; bảo đảm đời
sống vật chất, tinh thần phù hợp với tính chất hoạt động của Quân đội nhân
dân và Công an nhân dân trong điều kiện mới. Xây dựng nền công nghiệp
quốc phòng, an ninh, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang được trang bị kỹ
thuật từng bước hiện đại.
Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý
tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an
nhân dân và sự nghiệp quốc phòng - an ninh.
2.1 Quốc phòng, an ninh là vấn đề trọng yếu, thường xuyên của
cách mạng Việt Nam.
Đây là quan điểm nhất quán, xuyên suốt quá trình Đảng lãnh đạo cách
mạng Việt Nam. Quan điểm này luôn được cụ thể hoá cho phù hợp với đặc
điểm tình hình, nhiệm vụ của cách mạng ở từng giai đoạn cụ thể của đất nước.
Từ khi chưa có chính quyền cũng như khi đã giành được chính quyền, trở
thành đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định quốc phòng,
an ninh là lĩnh vực trọng yếu trong đời sống xã hội. Minh chứng cho điều này
được thể hiện đầy đủ, sinh động trong các nghị quyết của Đảng ta ở các thời
kỳ cũng như trong thực tiễn quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác.
Trong thời kỳ đổi mới, để phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị
trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, Đảng ta xác định: “Xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt
Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta
luôn luôn cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng”.
Quan điểm mang tính lý luận này về quốc phòng, an ninh tiếp tục được
Đảng ta khẳng định trong các kỳ đại hội của Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm

2011) khẳng định: “Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước
và toàn dân” 2.
Như vậy, sự nghiệp xây dựng quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc là
trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của toàn Đảng, toàn dân; trong đó,
Quân đội nhân dân và Công an nhân dân có vai trò đặc biệt quan trọng. Bên
2

Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nxb ST, H.,1991,
tr.10.


-7cạnh đó, để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới cần
phải nắm vững những tư tưởng chỉ đạo về việc kết hợp thực hiện các nhiệm
vụ trong cùng một thể thống nhất, như kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng Việt Nam; kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế; phát
huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, tính tích cực của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác quốc phòng, an ninh…
(3)
234,233,82.

, (5), (6), (7), (8). Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại họi đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb CTQG, H., 2011, tr.82,

Quan điểm mang tính nhất quán, xuyên suốt coi củng cố quốc phòng,
giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn dân
và Nhà nước, gắn tăng cường quốc phòng, an ninh với mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội là định hướng chỉ đạo việc thực hiện các nhiệm vụ
quốc phòng, an ninh trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.

2.2 Nền quốc phòng và an ninh mang tính chất của dân, do dân, vì
dân phát triển theo hướng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự
cường và ngày càng hiện đại.
Quan điểm này xuất phát từ bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa và
truyền thống khiêm nhường của dân tộc Việt Nam, luôn mong muốn hoà
bình, ổn định trên tất cả các phương diện, hướng tới quan hệ hữu nghị, hợp
tác cùng phát triển với các quốc gia; đồng thời, tạo ra môi trường an toàn, ổn
định để phát triển đất nước. Quan điểm này xác định tính chất của quốc
phòng, an ninh cũng như mục đích và phương hướng phát triển quốc phòng,
an ninh trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong thời kỳ hiện nay, quan điểm về xây dựng nền quốc phòng toàn
dân đã được đổi mới cả về nội dung lẫn tổ chức thực hiện. Trước diễn biến
phức tạp, gay gắt và quyết liệt của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc
hiện nay trên thế giới, để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam, chúng ta cần
tỉnh táo nhận biết rõ bạn – thù, đồng thời tăng cường sức mạnh quốc phòng,
an ninh đủ sức bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc; ngăn chặn, đầy lùi, làm thất bại mọi âm mưu, hành
động can thiệp, phá hoại của các thế lực thù địch. Để thực hiện nhiệm vụ đó,
Đảng ta đã khẳng định: “Xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân,
kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân trong điều kiện mới” 3.
Nền quốc phòng của nước ta là nền quốc phòng toàn dân, với tính tự vệ
tích cực. Mục tiêu của quốc phòng, an ninh là giữ vững môi trường hoà bình
cho sự nghiệp phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Với tính
chất, mục tiêu đó, nền quốc phòng và an ninh được xây dựng theo hướng toàn
3

Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nxb ST, H.,1991,
tr.17.



-8dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường và ngày càng hiện đại. Phương
hướng này chỉ rõ phải xây dựng và phát huy tiềm năng và lực lượng mọi mặt
của đất nước cả về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội... vào củng cố quốc
phòng, bảo vệ an ninh quốc gia. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng đã khẳng định: “Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả
về tiềm lực và thế trận; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững
mạnh; xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực hiện nhiệm vụ chiến
lược bảo vệ Tổ quốc”(5).
(3)
234,233,82.

, (5), (6), (7), (8). Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại họi đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb CTQG, H., 2011, tr.82,

Trong quá trình tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, phải quán
triệt sâu sắc tính chất, nội dung, yêu cầu về toàn dân, toàn diện, tự lực, tự chủ,
tự cường và hiện đại. Đây chính là tư tưởng xuyên suốt quá trình chỉ đạo và tổ
chức thực hiện việc tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh trong giai
đoạn hiện nay ở nước ta.
2.3 Sức mạnh quốc phòng, an ninh là sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị kết hợp với sức mạnh dân tộc, sức mạnh thời đại, sức
mạnh của thế trận quốc phòng toàn dân và gắn với thế trận an ninh nhân
dân.
Quan điểm này chỉ rõ sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân
và an ninh nhân dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Sức mạnh ấy là sự kết
tinh, phản ánh sức mạnh của chế độ chính trị, sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, của trí tuệ và sức lực con người Việt Nam, của truyền thống dân
tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước
ta. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
là nền tảng vững chắc để xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân
dân, là sức mạnh nguồn cội để từ đó phát huy cao độ ý chí tự chủ, tự cường

của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân thành một khối vững chắc,
với niềm tin, sự quyết tâm không gì lay chuyển nổi trong sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định:
“Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống
chính trị, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững ổn
định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi
âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó
với các mối đe doạ an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị
động, bất ngờ trong mọi tình huống”(6).
Đây là quan điểm chỉ đạo các hoạt động xây dựng và phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vào thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an
ninh cũng như tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh trong thời kỳ mới.


-9Bên cạnh đó, Đảng và nhân dân ta cũng ý thức sâu sắc rằng, sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay đòi hỏi phải kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đây là một chủ trương, chiến lược, sách
lược đúng đắn nhằm củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân bảo
vệ Tổ quốc. Trên cơ sở chủ trương, chiến lược đó, chúng ta đã huy động và
kết hợp được sức mạnh bên trong với sức mạnh bên ngoài tạo ra tiền đề thuận
lợi cho việc giữ gìn môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước. Sự
kết hợp đúng đắn những nỗ lực của dân tộc, những khả năng và sức mạnh
trong nước với sự giúp đỡ của quốc tế đã và đang làm cho sức mạnh của
chúng ta được nhân lên gấp bội.
Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay còn là sức mạnh
của sự kết hợp giữa thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân
dân trong một thể thống nhất, hoàn chỉnh. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI xác định: “Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp

chặt chẽ với thế trận an ninh vững chắc”(7).
Để thực hiện tốt sự chỉ đạo này, phải tiếp tục củng cố và hoàn thiện nền
quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và thế trận quốc phòng toàn dân gắn
với thế trận an ninh nhân dân trên từng địa bàn tỉnh, thành phố; đặc biệt, xây
dựng thế trận trên các địa bàn chiến lược, gắn liền với việc xây dựng lực
lượng chính quy, cơ động, tinh nhuệ.
2.4 Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh là trách nhiệm của
Đảng, Nhà nước, của toàn dân; trong đó, Quân đội nhân dân và Công an
nhân dân là lực lượng nòng cốt.
Văn kiện Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Tăng cường quốc phòng,
giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu,
thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân
và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt”(8). Quan điểm này xác định rõ
trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị, của toàn dân, của lực
lượng vũ trang đối với vấn đề tăng cường quốc phòng, an ninh trong giai đoạn
hiện nay ở nước ta. Xác định rõ vai trò, trách nhiệm của Nhà nước, của toàn
dân, các tổ chức kinh tế, xã hội đối với việc thực hiện các nhiệm vụ về quốc
phòng, an ninh. Nội dung của quan điểm này thể hiện:
- Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh
nhân dân, nòng cốt là các lực lượng vũ trang nhân dân, phát huy sức mạnh
tổng hợp của đất nước để bảo vệ Tổ quốc.
Quản lý quốc phòng, an ninh là một chức năng của Nhà nước. Vai trò
quản lý nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh biểu hiện thông qua việc
Nhà nước là chủ thể thay mặt nhân dân, được nhân dân uỷ quyền và trao cho
quyền lực quản lý lĩnh vực quốc phòng, an ninh theo cơ chế: Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.


- 10 - Cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân nhận
thức và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong lĩnh vực quốc

phòng, an ninh.
- Trong sự nghiệp quốc phòng và an ninh, vai trò đặc biệt quan trọng,
nòng cốt là các lực lượng vũ trang nhân dân. Lực lượng vũ trang nhân dân
phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng
chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Tăng cường quốc phòng, giữ
vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ gắn với việc xây dựng Quân đội
nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy tinh nhuệ, từng bước
hiện đại, có bản lĩnh chính trị vững vàng; trung thành tuyệt đối với Tổ quốc,
với Đảng và nhân dân.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Tính chất toàn dân
của nền quốc phòng, an ninh ở nước ta đòi hỏi phải phát huy quyền làm chủ,
trí tuệ, sự sáng tạo của nhân dân trong quá trình tham gia và thực hiện chính
sách, pháp luật về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Đảng ta chỉ rõ: Để
phát huy sức mạnh, trí tuệ của nhân dân vào quá trình củng cố, xây dựng nền
quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân phải đặc biệt coi trọng việc
giáo dục nâng cao trình độ chính trị, tính tích cực của nhân dân trong việc
thực hiện pháp luật, chính sách về quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội.
2.5 Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quốc
phòng và an ninh.
Đây là quan điểm nhất quán của Đảng. Quan điểm này xác định nguyên
tắc lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh; đồng thời, chỉ
rõ sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định đối với sự nghiệp quốc phòng
và an ninh ở nước ta.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam kể từ khi có Đảng đã khẳng
định, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng
Việt Nam nói chung, của sự nghiệp quốc phòng, an ninh nói riêng. Điều 4,
Hiến pháp 1992 (sửa đổi) đã khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Đảng là người lãnh đạo, tổ chức quá trình xây dựng nền quốc phòng

toàn dân, nền an ninh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chỉ có Đảng mói có đủ năng lực tổ chức, động viên, huy động đầy đủ mọi
khả năng của đất nước và lực lượng của nhân dân vào quá trình xây dựng,
củng cố nền quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc
nhằm ngăn chặn, đẩy lùi, làm thất bại mọi âm mưu, hành động của các thế lực
và bọn xâm lược. Đảng đề ra đường lối, chiến lược quốc phòng, an ninh để
lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội triển khai các hoạt động xây dựng, củng cố
nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân.


- 11 Trong những năm qua, nếu không có sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về
mọi mặt của Đảng đối với quốc phòng và an ninh thì không thể huy động
được cả hệ thống chính trị và toàn dân tham gia xây dựng nền quốc phòng và
an ninh nhân dân vững chắc, toàn diện. Sự lãnh đạo của Đảng đối với quốc
phòng, an ninh có nội dung toàn diện:
- Đảng hoạch định đường lối, chiến lược quân sự, xác định mục tiêu,
nhiệm vụ, các chủ trương, chính sách lớn về quốc phòng, an ninh phù hợp với
tình hình thực tiễn.
- Đảng đề ra đường lối, học thuyết quân sự, xác định những phương
hướng cơ bản phát triển tiềm lực quân sự, quốc phòng của đất nước, nâng cao
sức chiến đấu của quân đội; đồng thời Đảng lãnh đạo việc tổ chức hiện thực
hoá quan điểm, đường lối ấy vào cuộc sống.
- Đảng lãnh đạo tiến hành công tác tư tưởng, công tác giáo dục quốc
phòng, an ninh cho toàn dân nhằm nâng cao nhận thức, trình độ hiểu biết và
trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc của mỗi cá nhân người Việt Nam, của các chủ thể
khác trong xã hội.
- Đảng đưa ra những quyết sách đúng đắn để động viên, cổ vũ, tập hợp,
đoàn kết và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên sự
đồng thuận xã hội, thưc hiện thành công nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
Cùng với khẳng định nguyên tắc lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi

mặt đối với quốc phòng, an ninh, trong giai đoạn hiện nay, Đảng cần nhận
thức đúng mối quan hệ giữa vai trò lãnh đạo của mình và hoạt động quản lý
của Nhà nước. Thông qua Nhà nước, Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình
đối với toàn xã hội nói chung và với công tác quốc phòng, an ninh nói riêng.
Tóm lại, quốc phòng, an ninh là những lĩnh vực đặc biệt quan trọng. Kế
thừa và phát huy truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước trong suốt chiều
dài lịch sử của dân tộc ta, trên cơ sở phân tích khoa học, lôgic và cụ thể những
đặc điểm của tình hình thế giới, của thực tiễn yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng
Việt Nam, Đảng ta đã tổng kết và xác định những quan điểm chỉ đạo sự
nghiệp xây dựng, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội. Những quan điểm này có giá trị to lớn trong việc chỉ đạo hoạt
động thực tiễn tổ chức, xây dựng, quản lý nền quốc phòng toàn dân và nền an
ninh nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện
nay./.
3. Nội dung Quản lý Nhà nước trên lĩnh vực Quốc phòng – An
ninh:
Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện việc quản lý
quốc phòng theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Nội dung cơ bản của
công tác quản lý nhà nước về quốc phòng gồm ban hành hệ thống văn bản


- 12 quy phạm pháp luật về quốc phòng; ký kết các điều ước quốc tế về hợp tác
quốc phòng, xây dựng quy hoạch, kế hoạch động viên quốc phòng; tổ chức,
chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng và các biện pháp cần thiết để bảo
vệ Tổ quốc.
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan duy nhất có quyền ban hành các đạo
luật liên quan đến chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế
- xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, quyết định vấn đề chiến tranh và
hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo

đảm quốc phòng và an ninh quốc gia; tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang...
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động quốc
phòng của Nhà nước. Trong thời gian từ năm 2005 đến nay, Quốc hội đã
thông qua nhiều đạo luật liên quan đến quốc phòng như Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, Luật Quốc
phòng, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật
An ninh Quốc gia, Luật Công an nhân dân, Luật Biên giới quốc gia... Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội đã thông qua nhiều pháp lệnh về quốc phòng như Pháp
lệnh Cảnh sát biển, Pháp lệnh Dân quân tự vệ, Pháp lệnh Tình báo, Pháp lệnh
Bộ đội Biên phòng, Pháp lệnh Động viên quốc phòng, Pháp lệnh Công nghiệp
quốc phòng...
Chủ tịch nước là Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh, thống lĩnh
các lực lượng vũ trang nhân dân. Chủ tịch nước công bố quyết định tuyên bố
tình trạng chiến tranh, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố
tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương; công bố và ban
hành các đạo luật, pháp lệnh về quốc phòng khác; quyết định phong hàm cấp
thượng tướng, đại tướng cho sĩ quan trong lực lượng vũ trang nhân dân.
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng
hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành các nghị định, nghị quyết để cụ thể
hoá việc thực hiện các luật, pháp lệnh về quốc phòng. Chính phủ cũng ban
hành các chính sách về củng cố quốc phòng và xây dựng quân đội, lập quy
hoạch, kế hoạch động viên quốc phòng; tổ chức, chỉ đạo thực hiện các nhiệm
vụ quốc phòng và các biện pháp cần thiết để bảo vệ Tổ quốc. Theo phân cấp,
các bộ ngành tiến hành giáo dục quốc phòng, hợp tác quốc tế trong một số
lĩnh vực liên quan đến quốc phòng, bảo đảm đời sống vật chất cho lực lượng
vũ trang và thực hiện các chính sách hậu phương quân đội, kiểm tra việc thực
hiện nhiệm vụ quốc phòng... Từ năm 2004 đến nay, Chính phủ và Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến quốc phòng. Chính phủ
đã thể chế hóa trách nhiệm của các ngành các cấp và các tầng lớp nhân dân
trong công tác xây dựng các tỉnh (thành phố) thành các khu vực phòng thủ

vững về chính trị, giàu về kinh tế, mạnh về quốc phòng - an ninh làm cơ sở
vững chắc cho nền quốc phòng toàn dân. Thủ tướng Chính phủ quyết định


- 13 phong hàm cấp thiếu tướng, trung tướng cho sĩ quan trong lực lượng vũ trang
nhân dân.
Bộ Quốc phòng là cơ quan tham mưu cho Đảng và Nhà nước về đường
lối, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng bảo vệ Tổ quốc; quản lý nhà nước về lĩnh
vực quốc phòng trong phạm vi cả nước; tổ chức thực hiện việc xây dựng,
quản lý và chỉ huy Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ; quản lý các dịch vụ
công theo quy định của pháp luật. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng vừa là người chỉ
đạo thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về quân sự, quốc phòng theo
quy định của pháp luật, vừa chịu trách nhiệm tổ chức, xây dựng, quản lý và là
người chỉ huy cao nhất của Quân đội nhân dân và Dân quân tự vệ. Bộ Quốc
phòng có Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, các tổng cục và các đơn vị
trực thuộc khác. Bộ Quốc phòng quyết định phong hàm cấp tá, cấp úy cho sĩ
quan trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Bộ Tổng tham mưu là cơ quan chỉ huy, điều hành Quân đội nhân dân,
Dân quân tự vệ và thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về quốc phòng.
Bộ Tổng tham mưu tổ chức, chỉ đạo sự phát triển của quân đội và dân quân tự
vệ đồng thời chỉ huy các hoạt động quân sự. Bộ Tổng tham mưu có Tổng
Tham mưu trưởng, các Phó Tổng tham mưu trưởng, các cục chức năng về tác
chiến, huấn luyện, quân lực, dân quân tự vệ, nhà trường quân đội... Tổng
Tham mưu trưởng - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng là người thay thế Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng điều hành các hoạt động của Bộ Quốc phòng khi Bộ trưởng
vắng mặt. Tổng Tham mưu trưởng chỉ đạo các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ
Tổng Tham mưu xây dựng chiến lược quốc phòng; quy hoạch, kế hoạch
phòng thủ đất nước, chủ trì phối hợp, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các Bộ,
các cơ quan ngang Bộ, Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện các quy định pháp
luật về quốc phòng, kiểm tra đôn đốc các đơn vị quân đội chấp hành pháp luật

của Nhà nước, mệnh lệnh của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Tổng cục Chính trị là cơ quan chỉ đạo và tiến hành Công tác Đảng,
Công tác Chính trị trong quân đội. Tổng cục có Chủ nhiệm và các Phó Chủ
nhiệm, các cục chức năng chịu trách nhiệm về công tác cán bộ, tuyên huấn, tổ
chức đảng, công tác dân vận, an ninh quân đội... Tổng cục Chính trị là cơ
quan quản lý hành chính đối với hệ thống toà án quân sự, viện kiểm sát quân
sự các cấp.
Các cơ quan chức năng cấp tổng cục của Bộ Quốc phòng gồm Tổng
cục Kỹ thuật, Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng và Tổng
cục Tình báo quốc phòng. Các tổng cục có Chủ nhiệm và các Phó Chủ nhiệm
(riêng Tổng cục Tình báo quốc phòng có Tổng cục trưởng và các Phó Tổng
cục trưởng); Chính uỷ và Phó Chính uỷ; cơ quan Tham mưu, cục Chính trị,
các cơ quan và đơn vị trực thuộc phù hợp với chức năng, nhiệm vụ.
Tổng cục Hậu cần là cơ quan đầu ngành về hậu cần của Quân đội nhân


- 14 dân Việt Nam; có chức năng tham mưu, chỉ đạo, tổ chức bảo đảm vật chất,
bảo đảm sinh hoạt, bảo đảm quân y, bảo đảm vận tải... cho Quân đội. Tổ
chức hiện nay gồm: Văn phòng Tổng cục Hậu cần, Bộ Tham mưu Hậu cần,
Cục Chính trị, Cục Hậu cần, các cục chuyên ngành (Quân nhu, Quân y,
Doanh trại, Xăng dầu, Vận tải...) và một số cơ quan, cơ sở, đơn vị trực thuộc
khác.
Tổng cục Kỹ thuật là cơ quan đầu ngành kỹ thuật của Quân đội nhân
dân Việt Nam có chức năng tham mưu, bảo đảm kỹ thuật cho quân đội, có các
cục chức năng chịu trách nhiệm về bảo đảm kỹ thuật cho các quân khu, quân
đoàn, quân chủng, binh chủng. Tổng cục còn có các cơ quan, đơn vị, học
viện, trường kỹ thuật chuyên ngành, các nhà máy, xí nghiệp sửa chữa vũ khí
và các đơn vị trực thuộc khác.
Tổng cục Công nghiệp quốc phòng chịu trách nhiệm sản xuất vũ khí,
trang bị quân dụng cho quân đội và dân quân tự vệ. có các cục chức năng, các

nhà máy sản xuất vũ khí, khí tài, các trường dạy nghề, các đơn vị trực thuộc.
Tổng cục Tình báo quốc phòng là cơ quan tình báo chuyên trách chiến
lược của Đảng, Nhà nước Việt Nam; cơ quan tình báo chuyên trách quân sự
của Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng. Tổng cục Tình báo Quốc phòng
là lực lượng trực tiếp thực hiện công tác tình báo ở cấp chiến lược; là cơ quan
tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội
nhân dân Việt Nam về tổ chức lực lượng và hoạt động tình báo, đồng thời là
cơ quan đầu ngành trực tiếp chỉ đạo nghiệp vụ tình báo đối với hệ thống quân
báo - trinh sát toàn quân.
Cục Cảnh sát biển trực thuộc Bộ Quốc phòng là lực lượng chuyên trách
của Nhà nước thực hiện chức năng quản lý về an ninh, trật tự, an toàn, bảo
đảm việc chấp hành pháp luật của Nhà nước Việt Nam và các điều ước quốc
tế có liên quan mà Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc
tham gia trên các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam. Việt Nam có 4 vùng
Cảnh sát biển. Cảnh sát biển được trang bị các loại tàu, thuyền đáp ứng các
yêu cầu quản lý việc chấp hành pháp luật liên quan đến chủ quyền, quyền chủ
quyền, quyền tài phán ở các khu vực biển Việt Nam. Mọi hoạt động của lực
lượng cảnh sát biển Việt Nam do Bộ Quốc phòng trực tiếp tổ chức, quản lý và
điều hành.
Cục Cứu hộ, Cứu nạn thuộc Bộ Quốc phòng làm nhiệm vụ của cơ quan
thường trực của Uỷ ban Quốc gia tìm kiếm, cứu nạn, chịu trách nhiệm điều
phối các lực lượng cả trong và ngoài quân đội trong công tác cứu hộ, cứu nạn,
giảm nhẹ thiên tai và khắc phục hậu quả các thảm hoạ.
Cục Đối ngoại trực thuộc Bộ Quốc phòng là cơ quan quản lý nhà nước
về đối ngoại quốc phòng của quân đội, thực hiện chức năng tham mưu cho
Thường vụ Quân uỷ Trung ương và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về chủ trương,


- 15 phương hướng và biện pháp công tác đối ngoại quân sự; hướng dẫn và quản
lý các hoạt động đối ngoại quốc phòng; lập kế hoạch và tổ chức các hoạt động

đối ngoại quân sự trong các lĩnh vực được phân công; là đại diện của Bộ
Quốc phòng trong quan hệ với Tuỳ viên quốc phòng các nước, các đại diện
ngoại giao, các tổ chức quốc tế và khu vực tại Việt Nam.
Tham mưu, giúp việc cho Bộ Quốc phòng có Văn phòng Bộ Quốc
phòng đồng thời là Văn phòng Quân uỷ Trung ương và các cơ quan chức
năng khác.
II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
QUỐC PHÒNG AN NINH TẠI QUẬN 7 – TP HỒ CHÍ MINH:
1. Đặc điểm tình hình
2. Thực trạng bộ máy Quản lý Nhà nước về Quốc phòng An ninh tại
Quận 7.
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về Quốc
phòng – An ninh tại Quận 7
KẾT LUẬN:
1TR
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại họi đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb CTQG, H.,
2011, tr.82, 234,233,82.
Luật An ninh quốc gia, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005
Luật Công an nhân dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005
Luật Quốc phòng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005
1) . Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.7. Nxb CTQG, H., 2002, tr.229.
(2) , (4). Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Nxb ST, H.,1991, tr.10, 17.
(3) , (5), (6), (7), (8). Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại họi đại biểu toàn
quốc lần thứ XI. Nxb CTQG, H., 2011, tr.82, 234,233,82.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr. 81-82.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr. 234.


- 16 (3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr. 234.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr. 238
8. Sự gắn kết giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh chưa thật chặt
chẽ
Tiềm lực quốc phòng, an ninh chưa đáp ứng được yêu cầu. Bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn
vẹn lãnh thổ còn nhiều khó khăn, thách thức. Phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an
ninh ở một số nơi gắn kết chưa thật chặt chẽ. Chưa có cơ chế, chính sách để phát triển mạnh mô
hình công nghiệp lưỡng dụng. An ninh, trật tự và an toàn xã hội trên một số địa bàn còn phức tạp .
Bảo vệ bí mật quốc gia còn nhiều yếu kém. Công tác bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, an ninh
mạng còn nhiều bất cập. Tình hình trật tự, an toàn giao thông còn diễn biến phức tạp, tai nạn giao
thông vẫn còn nghiêm trọng.

Câu 13: Trình bày hệ thống QLNN về an ninh và quốc phòng
+Hệ thống QLNN về an ninh quốc phòng : bao gồm các vơ quan quản lý
thẩm quyền chung thì theo hiến pháp1992 bao gồm:
-ở trung ương : Gồm chính phủ thủ tướng chính phủ, các bộ , các cơ quan
ngang bộ UBNN và UB thuộc chính phủ
-ở địa phương: UBND các cấp , Chủ tịch UBND các cấp cơ quan chuyên môn
của UB , cơ quan quân sự ở địa phươngvà đơn vị sự nghiệp doanh nghiệp của
trung ương và địa phương đóng trên địa bàn địa phương này
-theo luật tổ chức chính phủ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam năm
2001 thì chính phủ có nhiệm vụ và quyền hạn “ củng cố và tăng cường quốc
phòng toàn dân an ninh nhân dân đảm bảo an ninh quốc gia và trật tự an toàn

xã hội”.
-thẩm quyền của chính phủ trong lĩnh vực này bao gồm quyền kiến nghị lập
pháp, lập quy, quyền quản lý điều hành toàn bộ công tác quốc phòng quân sự
theo đúng pháp luật, quyền xây dựng lãnh đạo và tổ chức toàn bộ hệ thống
các tổ chức cơ quan quản lý nhà nước.
-theo hiến pháp, UBND là cơ quan thẩm quyền chung đứng đầu bộ máy quản
lý thuộc đơn vị hành chính – lãnh thổ của mình, UBND thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về quốc phòng quân sự thuộc địa phương mình.
-Cơ quan quản lý thẩm quyền riêng gồm Bộ quốc phòng có nhiệm vụ quyền
hạn và trách nhiệm quản lý nhà nước về quốc phòng . Còn tổ chức quân đội
nhân dân ở các địa phương được chia ra làm 4 cấp: quân khu , bộ chỉ huy
quân sự tỉnh thành phố trực thuộc trung ương, bộ chỉ huy quân sự huyện,
quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh;phường đội, xã đội là cơ sở nhỏ nhất


- 17 của quân đội nhân dân Việt nam.
#Hệ thống quản lý nhà nước về an ninh
-Cơ quan thẩm quyền chung bao gồm chính phủ, thủ tướng chính phủ, các bộ,
cơ quan ngang bộ, uỷ ban nhân dân và các uỷ ban khác thuộc chính phủ
-ở địa phương thì uỷ ban nhân dân các cấp, chủ tịch uỷ ban , các cơ quan
chuyên môn đơn vị tổ chức đóng trên địa bàn.
-theo luật tổ chức chính phủ thì chính phủ có quyền kiến nghị lập pháp lập
quy, quản lý và điều hành toàn bộ công cuộc bảop vệ an ninh quốc gia theo
luật.
-còn UBND là cơ quan thẩm quyền chung ở địa phương về quản lý an ninh
trên đơn vị hành chính lãnh thổ của mình.
-Cơ quan thẩm quyền riêng : cơ quan trung ương là Bộ công an có nhiệm vụ
lãnh đạo, quản lý công tác bảo vệ an ninh quốc gia trong cả nước.
-ở địa phương chia ra 3 cấp: Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,
công an cấp huyện, cấp xã, là các đơn vị quản lý nhà nước về an ninh ở địa

phương .



×