Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tiểu luận Đảng lãnh đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân ngang tầm với sự nghiệp đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.86 KB, 25 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh là
nguyên tắc, yêu cầu khách quan, của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội Chủ nghĩa. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là nhân tố
cốt lõi, nền tảng để đất nước ta tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ
quốc. Đó cũng là tư tưởng chỉ đạo nhất quán, xuyên suốt của Đảng đối với
cách mạng Việt Nam, được Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) tiếp tục quán
triệt, coi đó là một trong những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu để thực hiện
thắng lợi “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”.
Dưới sự lãnh chỉ đạo của Đảng về quốc phòng toàn dân và an ninh nhân
dân trong điều kiện mới nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân của
cả hệ thống chính trị xây dựng bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Đảng ta xác định: “Xây dựng nền quốc phòng và an ninh nhân dân vững
mạnh toàn diện”. Nghiên cứu nắm vững vấn đề này chẳng những cho chúng
ta thấy được tính đúng đắn, sáng tạo của đảng trong sự nghiệp đổi mới mà
còn cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm về xây dựng và bảo vệ tổ quốc
trong điều kiện có hoà bình để làm cơ sở để Đảng đề ra các chủ trương xây
dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước.
Xuất phát từ những lý luận trên, tôi chọn nội dung: "Đảng lãnh đạo xây
dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân ngang tầm với sự nghiệp
đổi mới " làm đề tài nghiên cứu.

1


NỘI DUNG
1. Lý luận, thực tiễn và những nội dung cơ bản xây dựng nền Quốc
phòng toàn dân
* Lý luận và thực tiễn xây dựng nền quốc phòng toàn.


Khi bàn về xây dựng nền quốc phòng, Lênin khẳng định:“Một khi
chúng ta đã bắt tay vào công cuộc hoà bình kiến thiết của chúng ta, thì chúng
ta sẽ đem hết sức mình ra để tiếp tục tiến hành công cuộc đó không ngừng.
Đồng thời..., hãy chăm lo đến khả năng quốc phòng của đất nước ta và của
Hồng quân ta như chăm lo con ngươi trong mắt mình”1. Như vậy khi đất
nước hoà bình thì vấn đề xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân
dân vững mạnh là yêu cầu khách quan, là nguyên tắc và bài học kinh nghiệm
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. ở nước ta Sau thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng lãnh đạo cả nước đi lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội ( CNXH). Trải qua hơn 10 năm xây dựng, tình hình kinh tế, xã
hội của đất nước có sự phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện một bước,
an ninh- quốc phòng được giữ vững. Tuy nhiên, thành quả đó là chưa vững
chắc, nền kinh tế đang đứng trước sự khủng hoảng, chưa đáp ứng được yêu
cầu xây dựng CNXH trong điều kiện thời bình, cách mạng nước ta chưa theo
kịp sự phát triển chung của các nước trên thế giới. Trước tình hình đó, Đảng
ta luôn nắm vững, tôn trọng quy luật khách quan, nhìn thẳng vào sự thật nói rõ
sự thật, đúc rút kinh nghiệm cải tổ, cải cách của các nước trên thế giới,từ nhu
cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, Đảng tiến hành lãnh đạo đổi mới đất
nước. Trước tình hình đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
( tháng 12 năm 1986 ) quyết định đề ra đường lối đổi mới, đường lối đó tiếp
tục được phát triển qua các kỳ Đại hội VII, VIII, IX. Đến Đại hội X, Đảng ta
một lần nữa khẳng định kiên trì mục tiêu đổi mới trên nền tảng chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta luôn
xác định phải đổi mới toàn diện trong đó có lĩnh vực quốc phòng- an ninh
2


được thể hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin về bảo vệ tổ quốc. Từ
những vấn đề cơ bản nhất tiềm lực quốc phòng, tiềm lực kinh tế, lực lượng
quân sự như sức mạnh quân sự, tiềm lực quân sự, tiềm lực khoa học – công

nghệ, quy luật chiến tranh, mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ tổ quốc...
xuất phát từ thực tiễn yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong
tình hình mới của đất nước. Đảng lãnh đạo đổi mới tư duy trên lĩnh vực quốc
phòng- an ninh, bảo vệ tổ quốc. Mặt khác, cuộc cách mạng khoa học công
nghệ trên thế giới đang diễn ra như vũ bão, trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, cuốn hút tất cả các nước tham gia, không phân biệt chế độ chính
trị. Từ đó, có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế các nước, xu thế quốc tế hoá, hợp
tác hoá, việc tranh thủ thời cơ, vận hội phát triển giành cho tất cả các quốc
gia. Nhưng cũng đặt ra những thách thức mới đối với các nước chậm, đang
phát triển, trong đó có nước ta. Từ đó, Đảng ta nhận thức rằng, xây dựng nền
quốc phòng toàn dân - an ninh nhân dân là hết sức quan trọng, là hai phạm trù
khác nhau, với hoạt động cụ thể và đặc thù từng nhiệm vụ, nhưng chúng có
quan hệ biện chứng, khăng khít với nhau cùng chung mục tiêu bảo vệ vững
chắc tổ quốc Việt Nam XHCN. Đảng xác định: “ Củng cố quốc phòng, giữ
vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn dân và
của nhà nước”1. Nền quốc phòng- an ninh được giữ vững, khi đó sẽ là điều
kiện để giữ vững ổn định chính trị, an ninh chính trị quốc gia, trật tự an toàn
xã hội, bảo đảm cho sự nghiệp xây dựng CNXH đi đến thắng lợi.
Xuất phát từ vị trí của quốc phòng toàn dân và an ninh nhân trong điều
kiện mới. Quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là hai lĩnh vực khác nhau
nhưng cùng chung một mục tiêu là nhằm bảo vệ nền độc lập dân tộc, toàn vẹn
lãnh thổ, chủ quyền và an ninh quốc gia nhằm chống chiến tranh xâm lược từ
bên ngoài và chống những âm mưu phá hoại từ bên trong thực hiện chiến lược
Đảng Cộng sản Việt Nam- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ, Nxb CTQG Sự thật,
H.1991, tr.16.
1

3



“diễn biến hoà bình” và bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch để bảo vệ chế
độ, bảo vệ Đảng, Nhà nước bảo vệ nhân dân, bảo vệ thành quả của cách
mạng, bảo vệ an ninh quốc gia- an toàn xã hội trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Trong đó Quốc phòng toàn dân là công việc giữ nước của nhà
nước và nhân ta, gồm tổng thể các hoạt động đối nội, đối ngoại về quân sự,
chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học nhằm tạo nên sức mạnh toàn diện, cân
đối của đất nước, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, đẩy lùi ngăn chặn,
các hoạt động phá hoại hoà bình, chống phá độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, sẵn sàng đánh thắng mọi loại hình chiến tranh xâm lược cũng như đập tan
mọi âm mưu bạo loạn lật đổ; bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ của tổ quốc và mọi thành quả xây dựng chủ nghĩa xã hội. An ninh
nhân dân là bảo vệ an ninh của tổ quốc bằng hoạt động của nhà nhà nước và
của nhân dân, chủ động phát hiện, ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hành
động xâm phạm an ninh, chế độ, tật tự an toàn xã hội, ngăn ngừa tội phạm,
nhằm duy trì trì trạng thái ổn định, phát triển của đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền lợi, tính mạng tài sản của nhân dân.
Như vậy, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân là phải đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước quản lý, và nhân dân làm chủ, của cả hệ
thống chính trị và của toàn dân tộc phát huy sức mạnh tổng hợp để nhằm bảo
vệ nền độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ nhân dân… Nền quốc
phòng bao gồm tổng thể hoạt động đối nội, đối ngoại về quân sự, chính trị,
kinh tế, văn hoá, khoa học của Nhà nước và của nhân dân và cả dân tộc để
phòng thủ đất nước khi có điều kiện hoà bình, để giữ vững hoà bình, an ninh
quốc gia ngăn chặn và đẩy lùi các hoạt động xâm lược từ bên ngoài gây mất
ổn định chính trị trong nước bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Từ khi đất nước thống nhất, bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, Đảng ta quyết định đặt nhiệm vụ trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng đất

4



nước, nhưng không một phút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, luôn coi trọng
nhiệm quốc phòng an ninh
* Thực tiễn trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt
Nam:
Phát huy truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc ta. Xây
dựng đất nước đi đôi với bảo vệ Tổ quốc là quy luật tồn tại phát triển của dân
tộc Việt nam. Từ những năm đầu dựng nước, vào cuối thế kỷ thứ III trước
công nguyên đến nay dân tộc ta phải tiến hành hàng chục chiến tranh xâm
lược bảo vệ tổ quốc, hàng trăm cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng. Có
thời kỳ kéo dài hàng thế kỷ dân tộc phải đứng lên chiến đấu liên tục đánh đuổi
quân xâm lược, bảo vệ giang sơn gấm vóc của mình thời gian chống ngoại
xâm của chúng ta cộng lại dài hơn 12 thế kỷ. Vì phải thường xuyên chống
ngoại xâm nên dân tộc ta luôn luôn đề cao tinh thần cảnh giác,đề phòng chuẩn
bị đất nước đánh giặc ngay trong thời bình; khi chiến tranh xẩy ra thực hiện
vừa đánh giặc vừa lao động sản xuất; thắng giặc rồi phải lo xây dựng đất
nước. Đất nước giàu mạnh là cơ sở tạo ra sức mạnh cho quốc phòng đủ sức
ngăn ngừa đẩy lùi, làm thất bại âm mưu, kế hoạch xâm lược của kẻ thù. Quốc
phòng mạnh là điều kiện bảo đảm sự bình yên cho đất nước, tập trung xây
dựng kiến thiết nước nhà. Dựng nước đi đôi với giữ nước trở thành quy luật
tồn tại, phát triển của dân tộc ta quy luật đó thường được thể hiện nội dung
sau: Tích cực chuẩn bị cho đất nước về mọi mặt ngay trong thời bình, thực
hiện “ Quốc phú binh cường”, chủ động đánh địch khi chiến tranh xẩy ra.
Muốn giữ nước, bảo vệ Tổ quốc phải luôn “đề phòng việc không ngờ” phải có
“kế lâu dài”, phải “ trù phương lược tốt”, chăm lo công việc giữ nước từ lúc
chưa nguy “lo trị nước từ khi chưa loạn”. trong thời bình phải chuẩn bị đất
nước mọi mặt nhằm lo cho dân đủ, sống yên bình không lo đói rét, phép nước
nghiêm không lo quan lại nhiễu sách….quân binh mạnh kho lo cương vực bị
đụng chạm…Giữ nước phải “dựa vào dân”, “lấy dân làm gốc” kết hợp cới tổ
5



chức kết hợp với lực lượng vũ trang nhiều thứ quân, là tư tưởng quan trọng
trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Được Hồ Chí Minh kế thừa
và phát triển thành những luận điểm căn bản của chiến tranh nhân dân, trong
hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc chống Pháp và chống Mỹ xâm
lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong kế sách đánh giặc giữ
nước phù hợp, linh hoạt, sáng tạo, của cha ông ta có kế sách là mang tính chất
toàn dân. Trong lịch sử phần lớn các cuộc chiến tranh cũng như các cuộc khởi
nghĩa vũ trang đã lôi cuốn được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia đây
là cở sở quan trong trong quá trình lãnh đạo chỉ đạo xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, công cuộc bảo vệ Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa trong thời đại
ngày nay. Trung thành, nhất quán quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin, truyền
thống dựng nước giữ của dân tộc Hồ Chí Minh khẳng định tính tất yếu phải
xây dựng nền quốc phòng toàn dân. “Trong điều kiện hoàn cảnh nào thì
chúng ta cũng phải ra sức cũng cố quốc phòng, Xây dựng nền quốc phòng
toàn dân vững mạnh là điều kiện để bảo đảm cho chúng ta bảo vệ tổ quốc,
sẵn sàng đánh thắng mọi kẻ thù trong mọi tình huống. Cho nên, khi tổ quốc
được độc lập phải tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân.”2
Như vậy, Theo Hồ Chí Minh, Nền quốc phòng mà chúng ta đang xây
dựng là nền quốc phòng toàn dân, mang tính chất của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân, phát triển theo hướng toàn dân, toàn diện, hiện đại và liên minh
dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước. Nghĩa là Xây
dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân ở nước ta không những dựa trên
quy luật lịch sử về vai trò quần chúng nhân đối với sự phát triển của xã hội,
mà còn bắt nguồn từ chiều sâu truyền thống việt nam về sự nghiệp dựng nước
và giữ nước,giành và giữ chính quyền được chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
phát huy trong thời đại mới qua khởi nghĩa toàn dân, kháng chiến toàn dân.

2


Hồ Chí Minh toàn tập 7Nxb CTQG,H,2000, tr 573

6


Tính chất toàn dân được phản ánh lời kêu gọi bất hủ của Chủ Tịch Hồ Chí
Minh: “Bất kỳ kỳ đàn ông đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không chia tôn
giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam phải đứng lên đánh thực dân
pháp cứu Tổ Quốc, Ai có súng dùng súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm,
không có gươm dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực
dân cứu nước”3. Như vậy, cho chúng ta thấy rằng tính ưu việt của nền quốc
phòng toàn dân là toàn dân tham gia hoạt động quốc phòng.Với tính chất toàn
dân, nền quốc phòng của ta mới bảo đảm được vững chắc trên mọi miền đất
nước, được cung cấp sức người, sức của vô tận, được cũng cố thường xuyên.
khi có chiến tranh công cuộc động viên toàn dân sẽ nhanh chóng phát huy
hiệu lực để mở rộng các lực lượng vũ trang nhân dân và các lực lượng phục
vụ chiến đấu.Đây cũng là điều kiện cơ bản để bảo vệ thành quả cách mạng,
giữ gìn hoà bình, phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, của toàn dân bảo
vệ Tổ quốc.
Quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, kế thừa phát huy truyền thống
dân tộc, nắm chắc tình hình thế giới và trong nước và nhất là thực trạng nền
quốc phòng toàn dân, để đáp ứng yêu cầu phát triển của sự nghiệp đổi mới,
trong xác định đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân
dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam giai đoạn trong thời kỳ mới.
* Nội dung xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân được
Đảng ta xác định:
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân trên những nội dung cụ
thể: xây dựng tiềm lực quốc phòng, thế trận quốc phòng, lực lượng quốc phòng

toàn dân theo hướng toàn dân, toàn diện, hiện đại, liên minh.
Xây dựng tiềm lực của quốc phòng toàn dân:

3

Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân,H1975, tr, 21

7


Xây dựng tiềm lực quốc phòng toàn dân là khả năng tinh thần vật chất của
quốc gia có thể huy động bảo vệ Tổ quốc, tiềm lực đó dựa trền nền tổng hợp các
tiềm lực chính trị – tinh thần, tiềm lực kinh tế, tiềm lực khoa học công nghệ và
tiềm lực quân sự được xây dựng, tổ chức quản lý nhằm mục tiêu cũng cố quốc
phòng giữ vững an ninh quốc gia, đồng thời phát huy thực lực của nền quốc
phòng, bao gồm cả con người và các điều kiện vật chất, tự nhiên khác. Xây dựng
lực lượng quốc phòng bao gồm cả xây dựng tiềm lực và thực lực quốc phòng,
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tiềm lực và thực lực quốc phòng.
Xây dựng tiềm lực về chính trị tinh thần:
Trong xây dựng toàn diện tiềm lực quốc phòng, vấn đề quan trọng hàng
đầu là xây dựng tiềm lực chính trị – tinh thần. Tiềm lực chính trị – tinh thần
biểu hiện ý chí chí quyết tâm, trạng thái chính trị, tinh thần, tâm trạng xã hội,
lòng tin của nhân dân vào các lực lượng vũ trang vượt qua mọi thử thách khắc
nghiệt của chiến tranh, mọi thách thức, nguy cơ trong cuộc chiến chống “diễn
biến hoà bình” bạo loạn lật đổ, kiên trì đấu tranh đến thắng lợi cuối cùng để
bảo vệ tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. tiềm lực chính trị- tinh thần là
nhân tố tạo thành sức mạnh, quyết định hiệu quả việc sử dụng phát huy các
tiềm lực khác, nó là ưu thế tuyệt đối của chiến tranh chính nghĩa. Do đó, nó
giữ vai trò vị trí đặc biệt quan trọng trong xây dựng tiềm lực quốc phòng. Sự
phát triển của tiềm lực chính trị tinh thần của quân và dân ta phải hướng vào

mục tiêu quyết thắng trong cuộc chiến tranh chống xâm lược với mọi quy mô
của các thế lực thù địch, mà điều quan trọng đầu tiên là không bị bất ngờ mà
sẳn sàng chuyển sang thời chiến, sẵn sàng động viên thời chiến. Nội dung xây
dựng tiềm lực chính trị tinh thần hiện nay là xây dựng chế độ chính trị xã hội
ngày càng vững mạnh; tiếp tục cải cách, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa nhằm không ngừng tăng cường pháp chế đi đôi với phát huy
dân chủ; phát huy khối đại đoàn kết toàn dân; không ngừng giác ngộ cách
mạng, giác ngộ chính trị cho nhân dân, xây dựng lòng tin vững chắc của nhân
8


dân với Đảng và chế độ. Đồng thời là sự biểu hiện ở sự thống nhất ở ý chí
ngày càng cao của toàn dân toàn quân thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
Xây dựng tiềm lực về kinh tế
Tiềm lực kinh tế là khả năng về kinh tế có thể khai thác huy động để
phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng - an ninh. Đây là nhân tố cơ
bản tạo nên tiềm lực quốc phòng, là cơ sở vật chất của nền quốc phòng toàn
dân, giữ vai trò quyết định đến tiềm lực quốc phòng. Nội dung xây dựng tiềm
lực kinh tế của ta trong giai đoạn hiện nay phải gắn xây dựng tiềm lực kinh tế
–quốc phòng an ninh với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước; Tạo ra thế bố trí chiến lược thống nhất về kinh tế và quốc phòng an
ninh trên phạm vi cả nước, từng địa bàn. kai thác mọi tiềm năng cho sự phát
triển kinh tế trên các vùng, các lĩnh vực, đảm bảo cho mỗi bước phát triển
kinh tế là một bước phát triển cũng cố quốc phòng và an ninh; xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật, kinh tế xã hội cho cả nước và mỗi vùng lãnh thổ, đặc biệt là
vùng kinh tế trọng điểm về kinh tế và quốc phòng để đủ sức chủ động đối phó
với mọi tình huống xẩy ra bảo đảm hậu cần tại chổ; Tiềm lực kinh tế phải có
nội lực mạnh để bảo vệ, đảm bảo cơ sở vật chất kỷ thuật cho sự răn đe củat
quốc phòng an ninh trong thời bình với các mưu đồ xâm lược.Nội lực của

tiềm lực kinh tế biểu hiện ở tính cơ động cao ở nền kinh tế, sẵn sàng chuyển
từ thời bình sang thời chiến một cách nhanh nhất, hoạt động có hiệu quả,
chuyển hướng một số ngành công nghiệp quốc gia từ sản xuất sản phẩm phục
vụ thời bình sang sản xuất sản phẩm phục vụ yêu cầu của chiến tranh
Xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ:
Tiềm lực khoa học công nghệ là xây dựng khả năng của khoa học bao
gồm khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, công nghệ có thể huy
động nhằm giải quyết các mục tiêu trước trước mắt, lâu dài của xã hội. Đối
với nước ta trong qúa trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và
9


bảo vệ Tổ quốc thì xây dựng và phát triển khoa học- công nghệ trở thành
nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cũng cố quốc phòng an ninh
Tiềm lực khoa học- công nghệ được biểu hiện chủ yếu ở các mặt như : khả
năng phát triển khoa học, số lượng và chất lượng đội ngũ khoa học, cơ sở vật
chất phục vụ cho công tác nghiên cứu, ứng dụng phổ biến khoa học- công
nghệ. Tập tung đầu tư xây dựng và phát triển khoa học – công nghệ trên một
số mặt chủ yếu: luyện kim cơ khí chế tạo, hoá chất, giao thồng thông vận tải,
bưu chính viễn thông, điện tử khoa học xã hội nhân văn… chú trọng đào tạo
bồi dưỡng,dụng đội ngũ khoa học,nhất là cán bộ trẻ đầu ngành. Đổi mới, từng
bước hiện đại hoá cơ sở hạ tầng, phòng thí nghiệm, tạo tiềm lực khoa học
công nghệ đủ mạnh cùng khoa học công nghệ cả nước giải quyết các nhiệm
vụ khoa học- công nghệ và môi trường trong lĩnh vực quân sự, nền quốc
phòng toàn dân ngày càng đặt ra nhiều nhiệm vụ mới,yêu cầu mới mà khoa
học công nghệ phải đáp ứng phải huy động các khả năng khoa học- công nghệ
quốc gia, trong đó khoa học công nghệ làm nòng cốt để nghiên cứu những
vấn đề chiến lược quốc phòng- an ninh để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo
đảm an ninh, tật tự an toàn xã hội cách đánh chiến lược, chiến dịch và chiến
thuật. ứng dụng các công nghệ tiên tiếửtong sữa chữa, bảo trì, cải tiến chế tạo

các loại vũ khí, phương tiện kỷ thuật, quân trang quân dụng phù hợp với điều
kiện tác chiến mới, trong tình hống đấu tranh vũ trang, phi vũ trang.
Xây dựng tiềm lực quân sự:
Là xây dựng tiềm lực quân sự là khả năng vật chất và tinh thần có thể
huy động được để tạo thành sức mạnh quân sự, phục vụ cho nhiệm vụ quân
sự, cho chiến tranh. Nó được hình thành trên cơ sở của thành tựu các tiềm lực
trên, sức mạnh tiềm lực quân sự biểu hiện sức mạnh của Nhà nước, sức mạnh
của lực lượng vũ trang.
Xây dựng tiềm lực quân sự của đất nước yêu cầu phải xây dựng lực
lượng vũ trang theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước
10


hiện đại; phải xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cần thiết cho mọi hoạt
động của lực lượng vũ trang trong thời bình và thời chiến; xây dựng và bố trí
chiến lược của nền quốc phòng toàn dân đáp ứng yêu cầu xây dựng kinh tế
đất nước và nhu cầu chiến tranh đặt ra...
Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân vững mạnh.
Đây là tổ chức bố trí lực lượng của toàn dân trên toàn bộ lãnh thổ theo ý định
chiến lược bảo vệ Tổ quốc đáp ứng yêu cầu bảo vệ trong thời bình và khi
chiến tranh xảy ra. Xây dựng thế trận quốc phòng phải tiến hành trên nhiều
nội dung như: Xây dựng cơ sở chính trị xã hội, thế trận lòng dân; phân vùng
chiến lược bảo vệ Tổ quốc; xây dựng hậu phương từng vùng chiến lược và
hậu phương chiến lược quốc gia; xây dựng các tỉnh, thành phố thành khu vực
phòng thủ vững chắc; tổ chức các lực lượng vũ trang sẵn sàng đối phó mọi
tình huống; tổ chức hệ thống phòng thủ dân sự bảo vệ nhân dân, bảo vệ kinh
tế; kết hợp xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế với cải tạo địa hình xây dựng các
công trình quân sự...
Để thực hiện tốt nội dung xây dựng nền quốc phòng toàn dân trên cần nắm
vững một số giải phá chủ yếu là: Thường xuyên coi trọng đẩy mạnh giáo dục

quốc phòng nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn dân, của toàn bộ hệ thống chính
trị đối với sự nghiệp quốc phòng, không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật về
quốc phòng an ninh bảo vệ Tổ quốc; kết hợp chặt chẽ xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân với nền an ninh nhân dân và thế trận an
ninh nhân dân; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng -an ninh, quốc phòng an
ninh với kinh tế trong chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội...
2. Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về xây dựng nền Quốc
phòng toàn dân trong tình hình mới.
Sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã
hội hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào, các thế lực thù địch càng điên
cuồng chống phá cách mạng thế giới. Đế quốc Mỹ âm mưu thiết lập “trật tự
11


thế giới mới”- thế giới một cực khẳng định ưu thế tuyệt đối đứng đầu của Mỹ,
khẳng định ưu thế tuyệt đối của Mỹ về quân sự, chính trị, kinh tế, đe doạ độc
lập chủ quyền các quốc gia dân tộc. Với việc triển khai chiến lược an ninh
mới, tăng cường can thiệp các nước hòng áp đặt giá trị kiểu Mỹ trên thế giới,
bỏ qua vai trò của Liên hiệp quốc, Mỹ tự cho phép mình quyền lãnh đạo thế
giới. Lợi dụng tình hình xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo Mỹ ngang nhiên
can thiệp lấy lý do chống khủng bố gây nguy cơ mất ổn định ở nhiều nơi,
nhiều nước trên thế giới. Đối khu với khu vực châu Á - Thái Bình Dương Mỹ
điều chỉnh chiến lược do đó tiềm ẩn gây mất ổn định khu vực có thể xẩy ra. Việt
Nam la một trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch với mục tiêu xoá bỏ chế
độ chủ nghĩa xã hội bằng “chiến lượcdiễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ. Tình
hình trong nước, bên cạnh những thành tựu rất quan trọng về kinh tế - xã hội
ta đã đạt được như: chính trị - xã hội ổn định; kinh tế tăng trưởng khá; đời
sống nhân dân được nâng lên; lòng tin của dân được củng cố đã phát huy
được sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân kết
hợp quốc phòng và an ninh với kinh tế và đối ngoại có tiến bộ, quốc phòng và

an ninh được tăng cường, các lực lượng vũ trang nhân dân làm tốt nhiệm vụ
bảo vệ độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh quốc
gia....Song vẫn còn tồn tại “bốn nguy cơ của cách mạng Việt Nam” những biểu
hiện trái với mục tiêu của xã hội chủ nghĩa vẫn còn tồn tại như: còn một bộ
phận không nhỏ cán bộ đảng viên suy thoái về tư tưởng, đạo đức lối
sống...mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân xảy ra ở nhiều nơi, việc tranh chấp
khiếu kiện kéo dài ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và ổn định xã hội…
trong nhận thức và tư duy của một số đảng viên đảng trong nội bộ đảng khi
xác định đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và
xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân còn nhiều vấn đề bất
cập như chủ quan, phiến diện, mơ hồ, ảo tưởng mất cảnh giác, nền quốc
phòng toàn dân, an ninh nhân dân thế trận quốc phòng toàn dân,an ninh nhân
12


dân tuy được củng cố nhưng chưa toàn diện và chưa thật vững chắc. Chậm
hình thành chiến lược thống nhất gắn quốc phòng - an ninh với phát triển kinh
tế xã hội...khả năng trình độ sẵn sàng chiến đấu, sức cơ động chưa cao, còn
mất cảnh giác dẫn đến bất ngờ lúng túng...Trong xây dựng quân đội về chính
trị tuy còn nhiều cố gắng song trình độ lý luận, tính nhạy bén, bản lĩnh chính
trị, đạo đức lối sống ở không ít cán bộ đảng viên chưa tương xứng yêu cầu
nhiệm vụ quân đội, công tác tư tưởng ở một số đơn vị còn giản đơn kém hiệu
quả; trình độ chính trị của quân đội chưa đáp ứng yêu cầu; chưa xác định
chiến lược tổng thể về trang bị quân đội và công nghiệp quốc phòng...nhận
thức về nhiệm vụ sản xuất làm kinh tế chưa sâu sắc.... Đứng trước yêu cầu
nhiệm vụ xây dựng bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trước âm mưu thủ
đoạn của kẻ thù. để khắc phục khuyết điểm trên và thực hiện mục tiêu lý
tưởng của mình, Đảng cần phải nhận thức đúng hơn về vị trí, chức năng, tầm
quan trọng của quốc phòng toàn dân và an ninh nhân từ đó để lãnh đạo, chỉ
đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân đáp ứng nhiệm vụ

cách mạng trong thời kỳ mới.
Quán triệt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốcViệt Nam xã hội chủ
nghĩa mà Đại hội V đã chỉ rõ: trong khi “đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng
chủ nghĩa xã hội”, “không một phút nơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc”, Đại
hội Đảng lần thứ VI (12/1986) tiếp tục bổ sung lên một bước mới về xây
dựng nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc với chủ trương: “Tăng cường
khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước. Phát huy sức mạnh của cả hệ
thống chuyên chính vô sản, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc
phòng với kinh tế, đẩy mạnh công cuộc xây dựng nền quốc phòng toàn dân,
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và hậu phương ngày càng vững
mạnh...”. Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng xác định công cuộc bảo vệ Tổ
quốc, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cần được tiến hành bằng
sức mạnh của mọi lực lượng; Các cấp, các ngành, bằng mọi phương tiện cần
13


thiết, trong từng địa bàn, ở tất cả mọi đơn vị, phải thực hiện nghiêm túc nhiệm
vụ quốc phòng an ninh, coi đó là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên, phải chú
trọng tổ chức phong trào cách quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, phát huy
vai trò, hiệu lực lãnh đạo của Đảng, thể chế hoá đường lối chính sách của
Đảng đối với xây dựng nề quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân.
Nắm vững và đánh giá đúng tình hình thế giới và trong nước, Đảng ta
tiếp tục nhấn mạnh bốn nguy cơ đối với cách mạng Việt Nam là: tụt hậu về
kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội
chủ nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan liêu, “diễn biến hoà bình” do các thế
lực thù địch gây ra - đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen, tác
động lẫn nhau, làm cho tình hình trở lên phức tạp. Đặc biệt, tình trạng tham
nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị,đạo đức lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và giảm lòng tin trong nhân dân;

nước ta vẫn còn là nước kinh tế kém phát triển, mức sống nhân dân còn thấp,
trong khi đó cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt, nếu chúng ta không nhanh
chóng vươn lên thì sẽ càng tụt hậu xa hơn về kinh tế. Bởi vậy, nắm bắt cơ hội,
vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ mới, trong đó “Nhiệm vụ
của quốc phòng an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, sự ổn định chính trị, trật tự và an
toàn xã hội, quyền làm chủ của nhân dân, làm thất bại mọi âm mưu, hành động
của các thế lực đế quốc, phản động phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân
ta”1. là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và nhân dân ta.
Chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân theo hướng cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại với lực lượng dự bị động viên, dân
quân tự vệ hùng hậu, có sức chiến đấu cao; nâng cao phẩm chất cách mạng,
trình độ chính trị, quân sự, văn hoá, khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ cho các lực
1

Cương lĩnh xây dựng đất nươc...Nxb Sự thật, H.1991, tr. 16

14


lượng vũ trang; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ chiến sĩ trong
Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, đến đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII Đảng ta xác định xây dựng quân đội và công an nhân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; trong nhiệm vụ quốc
phòng đến đại hội đảng IX,Tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân mà nòng cốt là quân đội nhân dân. Thực hiện xây dựng quân đội cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Đến đaị hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định: xây dựng quân đội và công an
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Như vậy từ
khi tiến hành đổi mới đến nay đảng ta luôn quan tâm xây dựng đến lực

lượng của nền quốc phòng toàn dân trong đó lực lượng bộ đội và công an
làm trụ cột. Thường xuyên nâng cao giác ngộ và cảnh giác cách mạng cho
quần chúng nhân dân, xây dựng vững chắc thế trận “ Lòng dân” thế trận
quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trong điều kiện mới.
Trong xây dựng sức mạnh cho nền quốc phòng toàn dân Đại hội VIII
của Đảng (6/1996) tiếp tục khẳng định “phát huy sức mạnh tổng hợp của
toàn dân, của cả hệ thống chính trị, từng bước tăng cường tiềm lực quốc
phòng và an ninh đất nước, xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân,
thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân và thế trận an
ninh nhân dân” 2
Về sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định: “Sức
mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân,
của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng
toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân”1.
Sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc được tạo thành bởi nhiều yếu tố:
chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá...trong đó yếu tố giữ vai trò quyết định và
24

Văn kiện Đại hội VIII, Nxb CTQG, H, 1996, tr, 118

1

15


được biểu hiện tập trung nhất là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
trong đó sức mạnh dân tộc bao giờ cũng giữ vai trò quyết định nhất trong xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, phải hết sức coi trọng phát huy sức mạnh

thời đại và kết hợp sức mạnh thời đại với sức mạnh dân tộc.
Quan điểm của đảng ta về mục đích của xây dựng nền quốc phòng ngày
càng hoàn thiện và có sự phát triển đó xác định nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc: đại
hộiđại biểu lần VIII: “Bảo vệ vững chắc độc lập, an ninh, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của đất nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa”1.. Đến Đại hội Đảng IX, nội hàm tư duy mới về bảo vệ tổ quốc được Đảng
chỉ ra rất rộng, bao gồm: “ Bảo vệ tổ quốc là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh chính trị quốc gia, trật tự an
toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc”. 2
Tư duy mới về bảo vệ tổ quốc được Đảng ta xác định, bao hàm nội
dung rộng lớn, đặt ra cho nhiệm vụ quốc phòng- an ninh trong điều kiện mới
hết sức nặng nề. Qua đó, chúng ta càng thấy được vị trí, vai trò của nhiệm vụ
quốc phòng- an ninh trong chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Từ đó toàn
Đảng, toàn dân cần có nhận thức đầy đủ, có sự quan tâm đúng mức, để hoàn
thành tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới. Tư duy
mới về quốc phòng- an ninh, bảo vệ tổ quốc chỉ rõ nhiệm vụ là phải đánh
thắng mọi kẻ thù xâm lược từ bên ngoài và bọn phản động bên trong, chống
chệch hướng XHCN, nâng cao cảnh giác cách mạng với các đối tượng chống
phá cách mạng. Kiên quyết đánh bại mọi âm mưu, hành động thù địch, phản
cách mạng, xâm phạm an ninh chính trị quốc gia, trật tự an toàn xã hội: Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong
1

,2. Văn kiện Đại hội VIII, Nxb CTQG, H, 1996, tr, 118.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX , Nxb CTQG, H.2001,
tr.117,118.
2

16



tình hình mới, đã chỉ rõ: “Bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ vững chắc độc lập chủ
quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa
bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Như vậy, mục tiêu bảo vệ Tổ quốc đã được bổ sung phát triển, đầy đủ,
toàn diện hơn, thể hiện nhận thức, tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc.
Nội dung bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện toàn cầu hoá kinh
tế và hội nhập kinh tế quốc tế, đã khắc phục sự phiến diện trong tư duy chỉ
nhấn mạnh đến bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; làm
rõ hơn mối quan hệ thống nhất, chặt chẽ, biện chứng giữa các nội dung trong
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, khắc phục những quan
niệm một chiều, giản đơn về bảo vệ Tổ quốc, chỉ nhấn mạnh đến mặt tự nhiênlịch sử, hoặc chỉ nhấn mạnh bảo vệ chính trị – xã hội. Trong giai đoạn hiện nay
phải nắm vững, mục tiêu phương châm, quan điểm chỉ đạo về bảo vệ Tổ quốc
việt nam xã hội chủ nghĩa Để thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược là
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa trong tình hình mới, đòi hỏi trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an
ninh nhân dân cần tập trung thực hiện tốt các yêu cầu chủ yếu sau:
Một là, Đặt quốc phòng và an ninh trong mối quan hệ thống nhấ tcùng
mục tiêu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thấu suốt tư tưởng chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh
trong tình hình mới đó là: kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Kết hợp quốc phòng và an ninh với kinh tế. Gắn nhiệm vụ quốc phòng
với nhiệm vụ an ninh, khẳng định mối quan hệ khăng khít giữa hai mặt đó
trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; phối hợp
17



chặt chẽ hoạt động quốc gia và an ninh với hoạt động đối ngoại. Củng cố
quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên
của Đảng, Nhà nước và của toàn quân, toàn dân. Phát huy sức mạnh tổng hợp
của hệ thống chính trị để tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh;
Hai là, Kết hợp xây dựng lực lượng và thế trận của nền quốc phòng
toàn dân với xây dựng lực lượng và thế trậncủa nền an ninh nhân dân.
Xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ
với thế trận an ninh nhân dân khẳng định vai trò vị trí quan trọng của nhiệm
vụ quốc phòng, tăng cường quốc phòng, an ninh là đòi hỏi khách quan trong
tình hình mới. xác định phương hướng xây dựng nền quốc phòng toàn dân
trong giai đoạn mới là phải xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, độc
lập tự chủ, tự lực tự cường, ngày càng hiện đại; Hoàn thiện hệ thống pháp luật
về bảo vệ Tổ quốc; thể chế hoá các chủ trương chính sách của Đảng về xây
dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Thường xuyên chăm lo
xây dựng Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và công
an và sự nghiệp củng cố quốc phòng - an ninh.
Ba là, cũng cố quốc phòng an ninh, bảo vệ tổ quốc là sự nghiệp của
toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của đảng
“Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết
toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc
phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân”1.
Bốn là, Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân đủ
mạnh đáp ứng mọi yêu cầu của phương thức đấu tranh bảo vệ tổ quốc trong
điều kiện mới xây Đấu tranh quốc phòng trong tình hình mới, phải quán triệt
quan điểm,chủ trương, đường lối đối nội, đối ngoại; nắm vững nguyên tắc chiến
lược, vận dụng sáng tạo sách lược phù hợp với từng đối tượng, chú trọng “thêm
1


18


bạn, bớt thù”. Quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, chủ động, tích cực
phòng thủ vững chắc, bảo vệ từ xa; chủ động giải quyết tình huống kịp thời,
nhanh gọn, không để mở rộng, kéo dài, kẻ địch lợi dụng tạo cớ can thiệp. Khi sử
dụng lực lượng vũ trang, nhất là quân đội phải tuân theo đúng quy định của Bộ
Chính trị và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Phát huy sức mạnh tại chỗ, lấy cơ sở để
giải quyết là chủ yếu, chú ý vận dụng phù hợp các biện pháp giáo dục, kiên trì
vận động thuyết phục đi đôi với xử lý nghiêm bằng biện pháp hành chính và
pháp luật,đánh giá đối tượng, đối tác trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân
Trong quá trình xây dựng nền quốc phòng toàn dân cần chủ động dự báo các
khả năng, tình huống có thể xảy ra đối với đất nước. Dự báo càng chính xác,
càng có điều kiện để chuẩn bị ngăn ngừa và đối phó có hiệu quả. Những năm
tới, đất nước ta có nhiều thuận lợi để phát triển, đồng thời cũng phải đối mặt
với những nguy cơ, thách thức đe doạ sự tồn tại của đất nước và chế độ xã hội
chủ nghĩa. Tuy chiến tranh xâm lược ít có khả năng xảy ra, nhưng cần phải
hết sức cảnh giác đề phòng tình hình có những diễn biến xấu, phức tạp khó
lường
3. Một số giải pháp chủ yếu xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế
trận quốc phòng toàn dân gắn với an ninh nhân dân, thế trận an ninh
nhân trong thời kỳ mới.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân trong giai đoạn mới
phải tiến hành đồng bộ các vấn đề sau:
Một là, Nâng cao ý thức trách nhiệmcủa toàn dân, của cả hệ thống
chính trị, thực hiện nhiệm vụ cũng cố quốc phòng giữ vững an ninh, bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Thường xuyên giáo dục đề cao tinh thần trách nhiệm của toàn dân và
hệ thông chính trị trong nhận thức và thực hiện nhiệm vụ chiến lược xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

19


Về mục tiêu lý tưởng của đảng, lòng yêu nước, đấu tranh có hiệu quả
các luận điệu của địch chống phá cách mạng nước ta.
Xây dựng nếp sống làm việc theo hiến pháp và pháp luật nghiêm chỉnh
chấp hành chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước về xây dựng nền
quốc phòng toàn dân và an ninh nhân sẵn sàng chấp hành lệnh động viên thời
chiến ở các cấp độ.
Hai là, Nâng cao chất lượng các lực lượng vũ trang nhân dân, nòng
cốt là quân đội nhân dân và công an nhân.
Về cơ cấu tổ chức và quân số phải đảm bảo tính hợp lý phù hợp với
điều chỉnh chiến lược quốc phòng an ninh trong điều kiện mới. Đối với quân
đội làm tốt chức năng của mình là đội quân chiến đấu, đội quân lao động sản
xuất và đội quân công tác, thực hiện nhiều nhiệm vụ chính trị- xã hội quan trọng
theo yêu cầu mới. xây dựng quân đội nhân dân và công an nhânh dân theo
hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại để thực sự là lực
lượng nòng cốt. Các cấp các nghành tăng cường công tác nghiên cứu khoa học,
sáng, chế tạo các loại vũ khí trang thiết bị và các phương tiện cần thiết.
Thường xuyên làm tốt công tác đảng, công tác chính trị đối với lực lượng
vũ trang.
Thường xuyên bổ sung và thực hiện các chính sách đối với các lực lượng
vũ trang về hậu phương quân đội và công an nhân trong thời kỳ mới
Thường xuyên làm tốt ccong tác phát hiện bồi dưỡng,đào tạo, sắp xếp quy
hoạch sứ dụng cán bộ hợp lý.
Tiếp tục đổi mới công tác nghiên cứu khoa học quân sự, kịp thời đáp
ứng xây dựng lực lượng vũ trang theo yêu cầu mới. Cần tập trung nghiên cứu
có trọng tâm trọng điểm, thiết thực, hiệu quả, sát thực tế. Trước tình hình mới,

cần đầu tư nghiên cứu phát triển nghệ thuật quân sự, nghệ thuật chiến tranh
nhân dân nhằm đáp ứng yêu cầu chống chiến tranh kiểu mới của địch. Hoàn
chỉnh quy hoạch tổng thể về xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ, có cơ
20


chế, chính sách thu hút, quản lý, sử dụng nhân tài, phát huy mọi tiềm lực khoa
học cả trong và ngoài nước cho xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Trong tình hình mới, quân dân tự vệ có nhiều thay đổi về tổ chức, biên chế,
xây dựng và hoạt động. Cần nghiên cứu đổi mới mô hình tổ chức dân quân tự
vệ cho phù hợp với các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế đối ngoại. Tổ chức
dân quân tự vệ rộng khắp, nhưng phải tập trung có trọng điểm. Biên chế trang
bị tuy vẫn thô sơ nhưng phải kết hợp với tương đối hiện đại và hiện đại. Huấn
luyện toàn diện nhưng phải kết hợp với chuyên sâu. Cần đặc biệt coi trọng
giáo dục, rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ kỹ chiến thuật
đáp ứng yêu cầu tác chiến với mọi tình huống cả thời bình và thời chiến.
Tiếp tục sắp xếp các doanh nghiệp, kiện toàn các cơ sở, đầu mối sản
xuất, sửa chữa, chú trọng phát huy năng lực của các địa phương. Quy hoạch
tập trung để chủ động phân công sản xuất, cải tiến, nâng cấp, hiện đại hoá các
loại vũ khí trang bị, cơ sở vật chất kỹ thuật, thống nhất trên cả ba vùng chiến
lược. Phát triển kinh tế gắn với cũng cố quốc phòng xây dưng các khu công
nghiệp khu chế xuất theo hướng “lưỡng dụng”, kết hợp kinh tế với quốc
phòng, bảo đảm phục vụ “dân sinh” khi cần thiết có thể chuyển sang phục vụ
cho quốc phòng.
Ba là : Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý,
điều hành của Nhà nước trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân- an ninh..
Đẩng cộng sản Việt nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp đối về mọi mặt
với lực lượng vũ trang nhân và xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh
nhân dân. tiếp tục nghiên cứu, bổ sung điều chỉnh hệ thống cơ cấu tổ chức
đảng lãnh đạo sự nghiệp quốc phòng cho thống nhất, đồng bộ từ Trung ương

đến các địa phương, nhất là đối với cấp quân khu và cơ sở. Cụ thể hoá các nội
dung cần lãnh đạo về quốc phòng và bổ sung thêm cơ chế hoạt động của từng
cấp, ngành, địa phương đặc biệt chú trọng khi xử trí các tình huống phức tạp.
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, tăng cường biện pháp tuyên truyền vận
21


động các đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng và đấu tranh quốc phòng. Tổ
chức và thực hiện tốt Quy định 71/QĐTW về Tổ chức đảng trong Quân đội
nhân dân Việt Nam.
Nhà nước quản lý điều hành xây dựng nền quốc phòng toàn dân: cần
điều chỉnh cơ cấu tổ chức quản lý nhà nước về quốc phòng của bộ máy các
cấp từ Trung ương đến cơ sở. Xác định cụ thể cơ chế hoạt động, chức năng,
nhiệm vụ của các cơ quan, cán bộ chuyên trách về công tác quốc phòng ở các
bộ, ngành. Xây dựng và ban hành quy chế thực hiện nhiệm vụ quốc phòng
cho cán bộ cơ quan, ban, ngành các cấp để phát huy cao nhất quyền lực trong
quản lý nhà nước về quốc phòng. Các cơ quan chức năng, kịp tời ban hành
hướng dẫn các văn bản pháp luật liên quan đến quản lý nhà nước về quốc
phòng an ninh trên cả nước cũng như như đối với từng ngành, từng cấp bảo
đảm tính thống nhất. Tuyên truyền hướng dẫn chế độ chính sách, quan hệ
phối hợp, hiệp đồng giữa các ban ngành, các cấp Chấp hành nghiêm Quy định
107/TTG của Thủ tướng Chính phủ về phối hợp quân đội với công an.Xây
dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn công tác quốc
phòng lập quy chế, kế hoạch và triển khai thực hiện công tác quốc phòng
Bốn là, phát huy sức mạnh tổng hợp xây dựng tiềm lực quốc phòng
Năm là, đẩy mạnh xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc,
phối hợp các lực lượng, cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cao, chủ động ngăn
ngừa và đối phó hiệu quả mọi tình huống.

22



KẾT LUẬN
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân nhằm bảo vệ Tổ
quốc trong giai đoạn cách mạng mới là tất yếu khách quan, là nguyên tắc
trong quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc ta, đồng thời là
trung hành với lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin Tư tưởng Hồ Chí Minh. Đường
lối, xây dựng nền quốc phòng toàn dân là sản phẩm của quá trình hình thành
phát triển từ thấp đến cao trên cơ sở kế thừa bổ sung và ngày càng phát triển
của đảng ta. Nó là bài học kinh nghiệm quý của sự nghiệp đổi mới xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn quân toàn dân cần tiếp tục nhận thức quán
triệt sâu sắc quan điểm chủ trương của đảng về xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, an ninh nhân dân trong tình hình mới, góp phần đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Là lực lượng nòng cốt của nền quốc phòng
toàn dân, chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc XHCN, quân đội nhân dân
trong giai đoạn mới cần quán triệt và thực hiện xây dựng theo hướng: “cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Nâng cao chất lượng tổng
hợp, sức chiến đấu để lực lượng vũ trang thực sự là lực lượng chính trị trong
sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và
nhân dân, được nhân dân tin cậy, yêu mến” 3. Sức mạnh chiến đấu của Quân
đội cũng là sức mạnh tổng hợp, dựa trên tổ chức khoa học, cơ cấu hợp lý, phù
hợp với tình hình mới. Đổi mới tổ chức, nội dung, phương pháp huấn luyện,
đào tạo đi đôi với cải tiến, đổi mới vũ khí, trang bị phương tiện phù hợp với
yêu cầu tác chiến mới; phát triển khoa học quân sự, nghệ thuật chiến tranh
nhân dân; cải tiến phương thức hoạt động của lực lượng chuyên trách, bán
chuyên trách phối hợp với các tổ chức của nhân dân trong bảo vệ an ninh
quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội, Trong quá trình xây dựng
3


Sđ d, tr 110.

23


Quân đội vững mạnh về mọi mặt, phải thường xuyên coi trọng công tác xây
dựng đảng bộ quân đội trong sạch vững mạnh, giữ vững nguyên tắc, cơ chế
lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân và công an nhân ; giáo dục cán
bộ, đảng viên làm hạt nhân đoàn kết, lãnh đạo đơn vị hoàn thành tốt nhiệm
vụ. Xây dựng, bổ sung cơ chế lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước
đối xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân xây dựng thành
công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ, Nxb CTQG Sự thật, H.1991
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, BCHTW, Ban chỉ đạo Tổng kết lý luận. Báo cáo
tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn 20 năm đổi mới (1986-2006), Nxb
CTQG,H.2005
3. Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân đội nhân
dân,H1975
4. Nghị quyết TW2/NQ-TW của Bộ Chính trị (7-1987)
5. Nghị quyết TW8 (Khóa IX) 7/2003 về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới
6. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ VII, VIII.
7. V.I Lênin, Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ-va,1981


25


×