Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

tiểu luận cao học môn CNXH KH những nhận thức mới của đảng về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.78 KB, 34 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (năm 1930), trong suốt 45 năm,
Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta
tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ và giành được những thắng
lợi vĩ đại. Cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta đã
đạt những thành tựu to lớn.
Tại Đại hội lần thứ VI (12/1986), Đảng đã tự phê bình và đề ra đường lối đổi
mới. Đại hội VI là cột mốc lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa của nhân dân ta. Qua hơn bốn năm thực hiện Nghị quyết đại hội VI,
công cuộc đổi mới đã đạt những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Tình hình
kinh tế - xã hội có chuyển biến tích cực, tạo thế đi lên và khẳng định con đường
chúng ta đang đi là đúng. Tuy nhiên khó khăn còn nhiều, đất nước chưa ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Mặt khác, cuối thập niên 80 đầu 90 của thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ làm cho các nước xã hội chủ nghĩa hoang
mang lo sợ, nhân dân mất niềm tin vào chế độ vào sự lãnh đạo của Đảng. Dưới sự
lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa dân tộc ta dần dần bước ra
khỏi tình trạng đó, cụ thể đến năm 1991 khi Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ra đời đã đáp ứng được yêu cầu của thời đại,
giúp nhân dân tin tưởng hơn vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước.
Sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (1991) đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử. Đất nước thực hiện thành công công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng
kém phát triển, bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi;
sức mạnh về mọi mặt được tăng cường, độc lập chủ quyền và chế độ xã hội chủ
nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng


cao; tạo tiền đề để đất nước phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới. Hiện nay,
tình hình trên thế giới và trong khu vực khá phức tạp và cũng có nhiều biến động


đòi hỏi ta phải tổng kết thực tiễn để có những thay đổi cho phù hợp trong việc quản
lý, phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Kinh
tế phát triển chưa bền vững, huy động và sử dụng các nguồn lực còn hạn chế, vẫn
đang tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội và đe dọa chủ quyền
quốc gia v.v… Những hạn chế yếu kém trên đây có phần do nguyên nhân khách
quan, nhưng chủ yếu do nguyên nhân chủ quan. Tư duy phát triển kinh tế - xã hội
và phương thức lãnh đạo của Đảng chậm đổi mới, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát
triển của đất nước. Tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều hạn chế.
Tổ chức thực hiện còn nhiều yếu kém. Tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng,
chưa được đẩy lùi v.v…
Năm 2011- năm Đảng Cộng sản Việt Nam bổ sung, phát triển Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, tác
giả mạnh dạn chọn đề tài: “Những nhận thức mới của Đảng về thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” làm đề tài tiểu luận học phần Các chuyên đề
Chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài tiểu luận
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là rất quan trọng, rất rộng lớn nên
đối tượng nghiên cứu của đề tài chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu những nhận thức
mới của Đảng về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Để làm rõ hơn những nhận thức mới của Đảng, tác giả chọn Văn kiện Đại
hội của Đảng làm đối tượng khảo sát, đặc biệt từ Đại hội đổi mới (1986).
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài tiểu luận
Mục tiêu nghiên cứu của tiểu luận nhằm làm rõ những nhận thức mới của
Đảng Cộng sản Việt Nam về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Để


thực hiện được những mục tiêu nói trên, tác giả xác định cần phải thực hiện những mục
tiêu sau:
Thứ nhất, tìm hiểu cơ sở lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời kỳ quá

độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Thứ hai, nội dung nhận thức mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Thứ ba, ý nghĩa nhận thức mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
4. Tình hình nghiên cứu
Những năm gần đây, có nhiều tác giả đề cập nghiên cứu đến các khía cạnh
khác nhau có liên quan tới sự nghiệp đổi mới của Đảng, về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.... Trước hết phải kể đến các công trình như:
- PGS,TS. Nguyễn Quốc Phẩm: Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội qua 20 năm đổi mới, Thông tin chủ nghĩa xã hội
– Lý luận và thực tiễn, số 20, tháng 12 – 2008
- GS,TS. Trịnh Quốc Phẩm: Toàn cầu hóa và triển vọng của chủ nghĩa xã hội,
Thông tin chủ nghĩa xã hội – Lý luận và thực tiễn, số 10, tháng 6 – 2006.
Trong các công trình này đều đề cập đến lý luận, về đổi mới tư duy trên cơ
sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn công
cuộc đổi mới ở nước ta.
Chính vì thế, tác giả sẽ đi sâu vào phân tích và làm rõ về khái niệm, nội
dung của những vấn đề đó.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài tiểu luận
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài dựa vào phương pháp luận duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và sử dụng một số phương pháp như: diễn dịch quy nạp, lôgích - lịch sử, phân tích tổng hợp, thu thập tài liệu, phân loại tài liệu,….
6. Kết cấu


Ngoài phần mở đầu, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo đề tài gồm có 3
chương 8 tiết.
Chương 1 Cơ sở lý luận - thực tiễn của nhận thức mới của Đảng Cộng sản
Việt Nam về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1.1. Khái niệm về thời kỳ quá độ

1.2. Cơ sở lý luận và phương pháp luận
1.3. Cơ sở thực tiễn của những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Chương 2. Nội dung nhận thức mới của Đảng về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam
2.1. Nội dung về kinh tế
2.2. Nội dung về chính trị – xã hội
2.3. Nội dung về văn hóa – tư tưởng
Chương 3. Ý nghĩa nhận thức mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
3.1. Ý nghĩa lý luận
3.2. Ý nghĩa thực tiễn

NỘI DUNG
Chương 1 Cơ sở lý luận - thực tiễn của nhận thức mới của Đảng Cộng sản
Việt Nam về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam


1.1. Khái niệm về thời kỳ quá độ
Định nghĩa kinh điển về thời kỳ quá độ được C. Mác nêu lên trong tác phẩm
Phê phán cương lĩnh Gôtha, rằng: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng
sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia.
Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ
ấy không thể cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”.
Trong tác phẩm này, đáng chú ý những điểm sau đây:
Xã hội của thời kỳ quá độ là xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa,
do đó là một xã hội, về mọi phương diện – kinh tế, đạo đức, tinh thần – còn mang
những dấu vết của xã hội cũ mà nó đa lọt lòng. Đó là xã hội chưa phát triển trên
những cơ sở của chính nó.
Thời kỳ quá độ là thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia.
Công cụ để thực hiện sự cải biến đó là nhà nước. Nhà nước của thời kỳ quá độ

không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản.
Những tư tưởng trong tác phẩm trên đã được V.I. Lênin cụ thể hóa và làm
phong phú thêm nhiều. Ông đã đưa ra một định nghĩa về thời kỳ quá độ như sau:
“... Danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là
trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả
chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội không ? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có”.
Tiếp sau đó, Lênin lại nói rõ thêm: “ Về lý luận, không thể nghi ngờ gì được rằng
giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một thời kỳ quá độ nhất định.
Thời kỳ đó không thể không bao gồm những đặc điểm hoặc đặc trưng của cả hai
kết cấu kinh tê – xã hội ấy. Thời kỳ quá độ ấy không thể nào lại không phải là một
thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang dãy chết và chủ nghĩa cộng sản đang
phát sinh, hay nói một cách khác, giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa
bị tiêu diệt hẳn, và chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng vẫn còn rất non yếu”.


1.2. Cơ sở lý luận và phương pháp luận
Nhận thức mới về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam phải dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội làm cơ sở lý luận và phương
pháp luận để vận dụng sáng tạo, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong những điều kiện mới.
Sau hơn 20 năm đổi mới, bài học quan trọng đầu tiên mà Đảng Cộng sản
Việt Nam rút ra là: “… trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ
nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn. Đổi mới không phải xã rời mà là nhận
thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động
cách mạng” [10, 68].
Những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội và xây

dựng chủ nghĩa xã hội có giá trị bền vững trong việc tạo ra thế giới quan và
phương pháp luận khoa học và cách mạng cho các Đảng Cộng sản nhận thức, xác
định những mô hình, những đặc trưng và cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội phù
hợp với điều kiện cụ thể của nước mình.
Thực tiễn cách mạnh thế giới đã và đang chứng minh sức sống, giá trị bền
vững của những “nguyên lý tổng quát” – những quan điểm thể hiện tính phổ biến
về chủ nghĩa xã hội và về xây dựng chủ nghĩa xã hội của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin.
C.Mác và Ph.Ăngghen, với rất nhiều công trình nghiên cứu đã khái quát nên
những đặc trưng (mang tính dự báo) về xã hội cộng sản chủ nghĩa (giai đoạn cao)
mà chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu (giai đoạn thấp) của hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Khi mà “thay thế cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và


đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do
của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” [1, 628].
Đồng thời với việc phác thảo những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản, C.Mác, Ph.Ăngghen cũng đã chỉ ra tính quy luật phổ biến của công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là: Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa phải do giai
cấp công nhân lãnh đạo thông qua đội tiền phong của họ là Đảng Cộng sản; cuộc
cách mạng phải được tiến hành thường xuyên liên tục, không ngừng qua từng thời
kỳ với các nhiệm vụ cụ thể; sau khi giai cấp công nhân đã giành được chính quyền
thì phải sử dụng chính quyền phát triển lực lượng sản xuất, giải quyết tốt các mối
quan hệ lợi ích giữa giai cấp công nhân với dân tộc, dân tộc và quốc tế v.v…
V.I.Lênin, người kế tục sự nghiệp vĩ đại của C.Mác và Ph.Ăngghen đã vừa
bảo vệ, vừa bổ sung, phát triển những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, cụ
thể hóa quan niệm về chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xô viết và cách thức con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga.
Chính sách kinh tế mới (NEP) của V.I.Lênin đã cho thấy sự vận dụng, phát
triển sáng tạo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về chủ nghĩa xã hội và xây

dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga.
Điều quan trọng nhất trong khi coi những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
về chủ nghĩa xã hội, xây dựng chủ nghĩa xã hội làm cơ sở lý luận và phương pháp luận
để có nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là
phải quán triệt đầy đủ, nhận thức thật đầy đủ, sâu sắc các quan điểm biện chứng, lịch sử
- cụ thể để có nhận thức mới, tránh giáo điều, rập khuôn, máy móc.
C.Mác và Ph.Ăngghen là những nhà duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Các ông luôn luôn có quan điểm biện chứng và lịch sử - cụ thể trong xem xét đánh
giá các sự vật, hiện tượng, các mô hình phát triển, đặc biệt là trong quan niệm về
con đường, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội.


Sau 25 năm viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, trong Lời tựa viết cho bản
tiếng Đức năm 1872, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu lên quan điểm đánh giá: “Mặc
dầu hoàn cảnh đã thay đổi trong hai mươi lăm năm qua, nhưng cho đến nay, xét về
đại thể, những nguyên lý tổng quát trình bày trong “Tuyên ngôn” này vẫn còn hoàn
toàn đúng. Ở đôi chỗ, có một vài chi tiết cần phải xem lại. Chính ngay “Tuyên
ngôn” cũng đã giải thích rõ ràng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng
những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, …” [2, 128].
Sau đó, Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ
không tưởng đến khoa học” cũng đã nêu lên một luận điểm rất nổi tiếng: “Muốn
làm cho chủ nghĩa xã hội trở thành khoa học thì trước hết phải đặt chủ nghĩa xã hội
trên cơ sở hiện thực” [3, 293] đồng thời “phải nghiên cứu thêm, trong mọi chi tiết
và mọi mối liên hệ của nó” [3, 305].
V.I.Lênin khi vận dụng lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học nói chung, các quan
điểm về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội nói riêng đã nêu lên hàng loạt các
quan niệm, các định nghĩa về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản và con đường,
phương thức để thực hiện. Nhưng quan trọng nhất là những quan điểm mang tính
phương pháp luận của Người về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước
khi cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga nổ ra, từ năm 1916, trong tác

phẩm “Về một sự biếm họa chủ nghĩa Mác”, V.I.Lênin từng khẳng định: “Tất cả các dân
tộc đều sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là điều không tránh khỏi, những tất cả các dân tộc
đều tiến lên chủ nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ
đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào
loại này hay loại khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của
việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội” [16, 160].
Sau Cách mạng tháng Mười năm 1917, Người còn khẳng định: “với sự giúp đỡ của giai
cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô viết và qua


những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” [17, 295].
Về sau, bằng thực tế sinh động của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước Nga Xô viết trong tác phẩm: Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng
sản (1920) Người còn chỉ rõ: “ … nhiệm vụ của những người cộng sản là phải biết áp
dụng những nguyên tắc phổ biến và cơ bản của chủ nghĩa cộng sản vào đặc điểm của
những mối quan hệ giữa các giai cấp và các đảng, vào đặc điểm của sự phát triển
khách quan hướng tới chủ nghĩa cộng sản, những đặc điểm riêng của mỗi nước, mà
chúng ta phải biết nghiên cứu, phát hiện và dự đoán”.
Cơ sở lý luận và phương pháp luận để có những nhận thức mới về chủ nghĩa xã
hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội là phải biết kết hợp những nguyên lý phổ biến vào
đặc điểm riêng của từng quốc gia, dân tộc, phải nghiên cứu, phát hiện những nét đặc
thù của chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở từng nước.
Những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
là kết quả vận dụng sáng tạo, phát triển sáng tạo lý luận Mác – Lênin về chủ nghĩa xã
hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội, kết quả của việc giải quyết mối quan hệ giữa “cái
phổ biến” và “cái đặc thù” phù hợp với điều kiện Việt Nam. “Cái phổ biến” cần được
quán triệt, vận dụng vào điều kiện Việt Nam là phải đưa cách mạng Việt Nam theo
con đường cách mạng vô sản, phải xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là công cuộc giải phóng giai cấp gắn với giải

phóng dân tộc: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc;
cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách
mạng thế giới” [12, 416].
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản” [14, 314]. Độc lập dân tộc phải gắn với chủ nghĩa xã hội
và “… chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân
tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ” [15, 128].


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nêu và thực hiện phương châm: học tập
những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin để áp dụng một cách sáng tạo
vào hoàn cảnh thực tế nước ta. Người chỉ rõ: “ Học tập chủ nghĩa Mác – Lênin là
học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình;
là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin để áp dụng một cách
sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế nước ta. Học để mà làm. Lý luận đi đôi với thực
tiễn” [14, 292].
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, có rất nhiều quan điểm nhận thức về
chủ nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Những quan điểm đó vừa biểu hiện việc vận dụng vừa phát triển sáng tạo lý
luận Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng đặt câu hỏi “chủ nghĩa xã hội là gi?”, rồi chính
Người trả lời, chỉ rõ những nét đặc trưng bản chất nhất của chủ nghĩa xã hội, phản
ánh điều kiện Việt Nam, nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân Việt Nam: “ Chủ
nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh…” [13, 224]; “ chủ nghĩa xã hội
là công bằng – hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì
không được hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ,
chăm nom” [14, 175]; “chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao
động thoát khỏi nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn, việc làm, được ấm
no và sống một đời hạnh phúc” [15, 17].
Từ quan niệm cụ thể, thiết thực về chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh

cũng đã nêu lên rất nhiều luận điểm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, con
đường và cách thức xây dựng để quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cụ thể
của Việt Nam. Người đã xác định đặc điểm của thời kỳ quá độ và nhiệm vụ quan
trọng nhất cần thực hiện: “… đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một
nước nông nghiệp lạc hậu, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa… Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta


là xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến
dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và
khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải
tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt
và lâu dài”[15, 13].
Những phân tích trên nhằm khẳng định cơ sở lý luận và phương pháp luận của
những nhận thức mới về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam hiện nay là những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ
nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ( mang tính phổ biến); những quan điểm
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam ( kết hợp tính phổ biến với tính đặc thù).
1.3. Cơ sở thực tiễn của những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
Cơ sở thực tiễn của những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam chính là “mảnh đất hiện thực Việt Nam”, là thực tiễn của
đất nước trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước và sau đổi mới, đặc biệt là
thực tiễn lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới, đặt trong bối cảnh chung của tình hình thế giới và thực
tiễn vận động của các cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước.
Những tác động từ tình hình chính trị - xã hội thế giới từ sự sụp đổ của hệ
thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô: sự tồn tại của chủ nghĩa

tư bản hiện đại và hòa bình, hợp tác, phát triển là xu thế lớn; toàn cầu hóa kinh tế
vừa tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây
khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước phát triển; các mâu
thuẫn lớn của thời đại và cuộc đấu tranh tư tưởng vẫn diễn ra gay gắt; công cuộc
cải cách và xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc đạt nhiều thành


tựu; sự tồn tại kiên cường của nước Cộng hòa Cu ba xã hội chủ nghĩa; thực tiễn
phát triển của các nước Châu Mỹ Latinh và phương châm xây dựng “Chủ nghĩa xã
hội thế kỷ XXI” ở Venezuela, Ecuador, Bolivia, Brazil… đều phải được tính đến
khi xác định cơ sở thực tiễn của những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và xây
dụng chủ nghĩa xã hội nói chung và trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói
riêng ở nước ta hiện nay.
Thực tiễn của Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới phản ánh thực tiễn lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với những thành tựu đạt được trong thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa – đây là cơ sở thực tiễn quan trọng nhất để tiếp tục có những nhận thức mới
về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Có thể cụ thể hóa về cơ sở thực tiễn này ở các phương diện sau:
- Thành tựu đạt được trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đối
nội, đối ngoại của Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới là cơ sở thực tiễn đã “kiểm
chứng”, phản ánh thành quả của đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong việc xác định đăch trưng, bản chất của xã
hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng, những phương hướng, nội
dung, nhiệm vụ cụ thể và cách thức thực hiện chúng trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Những bước phát triển về công tác tư tưởng, lý luận từ năm 1986 đến nay
và quá trình gắn lý luận với thực tiễn, tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận về
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên cơ sở những quan điểm Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

- Đó là nhu cầu mới đòi hỏi lý luận phải giải đáp nhiều vấn đề, định hướng
cho hoạt động thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối, chính
sách của Đảng, Nhà nước, bổ sung hoàn thiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.


- Đó còn là những vấn đề thực tiễn đặt ra cần giải đáp một cách thuyết phục
liên quan đến nhận thức về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam như:
+ Phân tích, dự báo về sự tồn tại, phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại,
các mâu thuẫn lớn của thời đại và cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng.
+ Xu hướng, triển vọng của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa quốc tế của giai cấp
công nhân trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế.
+ Chủ nghĩa xã hội và định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh – quốc phòng, bảo vệ môi trường…
+ Cần phải làm gì và làm như thế nào để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức?
+ Giải quyết như thế nào cho đúng đắn, phù hợp với điều kiện Việt Nam
những mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển bền vững; giữa
tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội, thể hiện tính ưu việt của định
hướng xã hội chủ nghĩa; giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị; giữa độc lập tự
chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; những thời cơ, thuận lợi mới và những
thách thức, nguy cơ mới nảy sinh trên con đường phát triển của đất nước…
Như vậy, với việc xác định đúng đắn cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn thì Đảng
Cộng sản Việt Nam đã đư ra những nhận thức, đổi mới đúng đắn, phù hợp với điều
kiện cụ thể của nước ta. Đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác, đặc biệt luôn luôn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.

Chương 2. Nội dung nhận thức mới của Đảng về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam



Đối với những nước lạc hậu như Việt Nam, sau khi giành được chính quyền
về tay nhân dân lao động còn thiếu những tiền đề kinh tế cho chủ nghĩa xã hội. Việc
tạo lập những cơ sở vật chất – kỹ thuật là vấn đề vô cùng khó khăn. Do đó thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta sẽ kéo dài hơn so với những nước đi lên chủ
nghĩa xã hội từ một nước tư bản chủ nghĩa phát triển.
Trước đây, chúng ta thường khẳng định, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, sau 15 năm đổi mới, trong Văn kiện
Đại hội IX, Đảng ta khẳng định “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá
độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập
vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa,
nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư
bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng
sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại” [9, 84]. Thuật ngữ “bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa” thực chất là bỏ qua việc xác lập sự thống trị của giai cấp tư sản trên hai
lĩnh vực cơ bản là chính trị và kinh tế. Nhờ đó, “nội dung bỏ qua và nội dung kế
thừa” cái gì vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta được xác định rõ
ràng hơn, cụ thể hơn, việc vận dụng vào hoạt động thực tiễn cũng thuận lợi hơn.
2.1. Nội dung về kinh tế
Như đã phân tích ở trên, có thể thấy rằng, đặc trưng cơ bản nhất của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa là phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nhằm xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ thuật
hiện đại để đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Bổ sung, phát triển năm 2011)” nêu rõ: “Nước ta quá độ lên CNXH”, “nhất thiết



phải trải qua một thời kỳ quá độ (TKQĐ) lâu dài” và “đây là một quá trình cách
mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự
biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội” [9, 67 - 70].
2.1.1. Về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Nhận thức của Đảng ta về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
một quá trình tư duy lý luận về kinh tế dựa trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết
thực tiễn đổi mới của đất nước. Ngay từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng
ta đã phê phán những hạn chế, yếu kém của cơ chế tập trung quan lieu bao cấp, đưa ra
những quan niệm mới về cơ chế kinh tế và thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản
xuất hàng hóa, thị trường, đồng thời chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần với các hình thức kinh doanh phù hợp.
Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta nhận định, nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước đã bước đầu được hình thành và khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần là một chủ trương chiến lược lâu dài trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội” [7, 21].
Tại Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VIII, với những thành tựu của 10
năm đổi mới, Đảng ta nhận định: “Cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực
to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn là
một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo
con đường xã hội chủ nghĩa” [8, 26]. Như vậy, Đảng ta đã có bước đột phá tư duy
về kinh tế thị trường, coi đó là yếu tố quan trọng để phát triển đát nước, đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Tiếp tục cùng với quá trình đổi mới tòa diện của đất nước và thông qua tổng
kết thực tiễn, đến Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng chỉ rõ: “…thực hiện nhất quán và
lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế thị trường hàng hóa nhiều thành phần vận


động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” [9, 86].

Và khẳng định rõ ràng: Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nướ ta tiếp
tục được khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X như sau: “Để đi lên chủ
nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sác dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế” [10, 69]. Đồng thời, những vấn đề lý luận liên quan
đến xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được làm
sáng rõ hơn, cụ thể với bốn nội dung cơ bản là: Nắm vững định hướng xã hội chủ
nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay; nâng cao vai trò và hiệu lực
quản lý của Nhà nước; phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của
các loại thị trường cơ bản theo hướng cạnh tranh lành mạnh; phát triển mạnh các
thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức kinh doanh.
2.1.2 Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Từ một nước nông nghiệp tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa cái thiếu nhất là cơ sở vật chất kỹ thuật của một
nền sản xuất hiện đại, vì vậy Công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Năm 1975 sau khi thống nhất đất
nước, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của


thời kỳ quá độ là chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa. Đến Đại hội Đảng lần thứ VIII, Đảng ta nhận định nước ta
đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội và khẳng định cần chuyển sang thời kỳ

mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước … để đến năm 2020 đưa
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đại hội IX xác định rõ thêm: trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
“Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng
lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển
của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội
cao” (Nghị quyết Hội nghị TƯ 7 , khóa VII).
Đảng ta coi khoa học - công nghệ và giáo dục - đào tạo là nền tảng và động
lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chiến lược kinh tế đến năm 2000 được Đại
hội Đảng lần thứ VII thông qua đã nêu: Phát triển mạnh giáo dục và đào tạo, không
ngừng nâng cao năng lực khoa học và công nghệ, để công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Đại hội Đảng lần thứ VIII khẳng định: giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ làm nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chính sách
phát triển đất nước là chính sách phát triển dựa vào giáo dục – đào tạo và khoa học
– công nghệ.
Trong bối cảnh quốc tế mới, nước ta phải hội nhập vào xu thế phát triển nền
kinh tế tri thức toàn cầu hóa. Đại hội Đảng lần thứ IX nhận định: “Thế kỷ XXI sẽ
tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt.
Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực
lượng sản xuất”. Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế phát triển tất yếu khách
quan, ngày nay đang bị chủ nghĩa tư bản thao túng, với những thủ đoạn bóc lột
tinh vi của một kiểu thực dân mới, đang làm gia tăng nhanh khoảng cách giàu


nghèo, bất công xã hội, và đặt ra cho các nước đang phát triển nhiều thách thức
gay gắt, nguy cơ tụt hậu ngày càng xa. Nhưng mặt khác nền kinh tế tri thức toàn
cầu hóa lại là cơ hội lớn cho các nước đi sau nếu biết thông qua thương mại,
chuyển giao công nghệ, đầu tư nước ngoài để thu hút vốn và công nghệ, tri thức
mới cho công cuộc công nghiệp hóa đất nước mình. Vì vậy hội nhập quốc tế

ngày nay là sự lựa chọn duy nhất của nước ta cũng như các nước đang phát triển
khác, coi sự hội nhập là chấp nhận tham gia vào một sân chơi lớn, vừa hợp tác
vừa phải đấu tranh. Hội nhập để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đại hội Đảng lần thứ IX đã
khẳng định: “Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể
rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy
những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên
tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng
ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về
khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức.
Đại hội Đảng lần thứ X khẳng định công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối
cảnh quốc tế mới phải gắn với phát triển kinh tế tri thức. “Tranh thủ cơ hội thuận lợi
do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với
phát triển kinh tế tri thức. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị
gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con
người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại”. Đổi mới không phải từ bỏ mục
tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn
và được xây dựng có hiệu quả hơn.
Vấn đề đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức đã được Đại hội X của Đảng đề cấp. Trong Dự thảo Cương lĩnh Xây dựng đất


nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã
phát triển và cụ thể hoá thêm một bước “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm;
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết
chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ… Phát triển khoa học và công nghệ
nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế

tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới”.
2.1.3 Chiến lược kinh tế mở
Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, đã tiến hành đổi mới, chuyển sang cơ
chế thị trường và song song với nó là thực hiện chuyển hướng chiến lược trong
kinh tế đối ngoại, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Tiếp đó
tại Đại hội VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1991 đã đề ra đường lối chiến
lược “thực hiện đa dạng hoa đa phương hoá quan hệ quốc tế, mở rộng quan hệ kinh
tế đối ngoại”.
Đến Đại hội VIII (1996) Đảng ta tiếp tục chủ trương chính sách đối ngoại độc
lập tự chủ mở rộng các quan hệ đối ngoại với tinh thần “muốn làm bạn với tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới”. Tháng 12/1997 Nghị quyết Trung ương 4 khoá VIII đề
ra nhiệm vụ: Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu
vực, củng cố và nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc quốc tế. Và gần đây nhất là tại
Đại hội Đảng lần IX năm 2001 đã nêu rõ: “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ
mọi thời cơ để phát triển trên nguyên tắc giữa vững độc lập tự chủ và định hướng xã
hội chủ nghĩa”.
Thực hiện chủ trương đường lối trên đây của Đảng, những năm qua nước ta
đã đạt được nhiều thành tịu quan trọng trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại. Nước ta đã đẩy mạnh quan hệ kinh tế song phương và đa phương phát triển
quan hệ đầu tư với gần 70 nước, tham gia quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ
quốc tế như ngân hàng thế giới (UB), quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), ngân hàng phát


triển Châu Á (ADB). Chúng ta rất coi trọng việc liên kết với các nước Đông Nam
á, từ đây chúng ta có thể mở rộng liên kết với các nước người tổ chức ASEAN.
Để nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế cũng như đa dạng hoá
các mối quan hệ kinh tế. Chúng ta đã tham gia sáng lập diễn đàn Á - Âu (ASEAN),
gia nhập diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) trở thành
thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Kế thừa và phát huy những thành tựu trong quan hệ đối ngoại trong thời kỳ

đổi mới, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đòi hỏi “phải thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính
sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt
Nam là bạn, đối tác đáng tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế”.
Việc chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn liền với hàng
loạt giải pháp: đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế sâu
hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương; chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, thực hiện cam kết với các nước về
thương mại, đầu tư và các thương mại khác; chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết
các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương…
2.1.4. Thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội,
phát triển kinh tế gắn liền với xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc, đảm bảo sự phát triển bền vững
Thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội, phát triển
văn hóa, đảm bảo sự phát triển bền vững là một trong những định hướng quan trọng
trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cương lĩnh năm 1991, một mặt chỉ rõ phát triển lực lượng sản xuất bằng quá
trình công nghiệp hóa theo hướng hiện đại hóa, đồng thời nêu rõ những định
hướng lớn, trong đó có định hướng chính sách xã hội, chính sách tất cả vì con
người. Văn kiện Đại hội VIII xác định nước ta chuyển sang chặng đường mới


“Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” nhằm đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế,
đồng thời nhấn mạnh “tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển” [8, 113]. Trong Văn kiện
Đại hội Đảng lần thứ X, Đảng ta đã có nhận thức cụ thể, rõ ràng hơn: “Kết hợp các
mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực,
địa phương, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng
chính sách phát triển, thực hiện tốt chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế,
gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ tạo động lực mạnh mẽ và bền

vững cho sự phát triển kinh tế - xã hội” [10, 101]. Kinh tế phát triển, văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cùng với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội thống
nhất trong mục tiêu: Tạo ra chất lượng mới của cuộc sống; xây dựng và hoàn thiện
giá trị nhân cách con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Để đạt được những mục tiêu đó cần phải thực hiện các giải pháp sau:
- Xây dựng quỹ đến ơn đáp nghĩa.
- Nuôi dưỡng các bà mẹ Việt Nam anh hung.
- Cấp vốn hoặc cho vay vốn với lãi xuất ưu đãi cho các gia đình khó khăn,
nghèo đói để phát triển kinh tế, từng bước xóa đói giảm nghèo.
- Khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, thu hẹp
khoảng cách về mức sống giữa các vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân cư,…
Giải quyết tốt vấn đề công bằng xã hội tạo ra động lực để phát triển kinh tế
như Cương lĩnh của Đảng đã chỉ rõ: chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con
người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2.2. Nội dung về chính trị – xã hội
2.2.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
Một trong những thành tựu của công cuộc đổi mới là bước đầu thực hiện
dân chủ xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các cơ chế và


chính sách mới đã mở rộng quyền tự chủ của các cơ sở kinh tế, phát huy tiềm
năng của các thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho mọi người được tự do kinh
doanh theo pháp luật.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Do nhân dân
lao động làm chủ; Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; Có nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công,
làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết

và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất
cả các nước trên thế giới. Trong dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng XI, cũng chỉ rõ: Dân
chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của
sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…”.
2.2.2. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Đại hội X khẳng định ngoài những đặc trưng được xác định từ năm
1991, mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam còn được bổ sung thêm đặc
trưng “có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”. “Xã hội xã hội chủ nghĩa
mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội: dân giàu, nước
mạnh, công bằng, văn minh; do nhân dân lao động làm chủ. Có nền kinh tế
phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Có nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ; có Nhà nước pháp


quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Có thể xem đây là những mục tiêu cơ bản, tổng quát đồng thời cũng là
mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cần đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ.
Bởi lẽ, mô hình này không còn dừng lại ở chỗ phản ánh cấu trúc tổng thể của
xã hội này với những bộ phận cấu thành, thống nhất giữa cơ sở kinh tế với
kiến trúc thượng tầng và toàn bộ những mối quan hệ xã hội; quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất và trình độ lực lượng sản xuất; sự bao quát các lĩnh vực
cơ bản của đời sống xã hội – chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội; sự thực hiện
các chức năng đối nội, đối ngoại… mô hình còn phản ánh và làm rõ mục tiêu
tối hậu của chủ nghĩa xã hội là “giải phóng con người thoát khỏi áp bức, bất

công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện”, là thoả
mãn nhu cầu, lợi ích của người lao động, phản ánh những đặc trưng về chất
lượng; khẳng định rõ động lực cơ bản để thực hiện mục tiêu tối hậu vì con
người. Vấn đề căn bản nhất mà mô hình đem lại chính là việc khẳng định chủ
nghĩa xã hội phải phát triển kinh tế thị trường để phát triển lực lượng sản
xuất, giải phóng sức sản xuất, có nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại. Đây là vấn đề mới trong tư duy của Đảng ta về chủ nghĩa
xã hội, đặc biệt là động lực, mục tiêu phát triển xã hội.
2.2.3. Vấn đề phát triển con người
Bên cạnh sự tiếp nối cũng có một số nét mới so với Cương lĩnh. Nguyên văn
Cương lĩnh năm 1991 là: “Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất
công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân”. Trong Văn kiện Đại hội Đảng lần
thứ X được diễn đạt là: “Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện”. Như vậy, Đảng ta đã xóa


bỏ hai từ “bóc lột” ở đây có nghĩa là chúng ta chấp nhận hiện tượng bóc lột chứ
không chấp nhận chế độ bóc lột. Hiện tượng bóc lột vẫn còn trong xã hội ta hiện
nay vì vẫn còn sở hữu tư nhân và sở hữu tư bản chủ nghĩa – những hình thức sơ
hữu mang bản chất bóc lột lao động.
Về nguyên tắc phân phối “làm theo năng lực hưởng theo lao động” tuy
không được đề cập tới trong phần này song Văn kiện Đại hội X cũng đã làm rõ
trong mục III “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa” là “Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả
kinh tế…”
Vấn đề bớt đi hai chữ “cá nhân” trong quan niệm về quá trinh phát triển con
người bởi vì trong đó đã bao hàm cả quá trình phát triển xã hội và phát triển của
từng con người.
Trong Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XI của Đảng cũng nhận định:

“Con người là trung tâm của chiến lược phát triển…”. Như vậy, Đảng ta ngày càng
nhận thức rõ hơn vai trò của con người trong sự phát triển của xã hội.
2.2.4. Về việc kết hợp hai nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng
ta luôn xác định xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, một trong bảy phương hướng xây dựng nước ta là “Xây
dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”.
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến đổi,
phức tạp. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X xác định: “Bảo vệ vững
chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế,
an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước,


ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình”
bạo loạn lật đổ của các chế độ thù địch” [10, 108-109].
2.3. Nội dung về văn hóa – tư tưởng
2.3.1. Về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền
tảng tinh thần của xã hội
Văn hóa theo nghĩa rộng được khẳng định là nền tảng tinh thần của xã hội.
Đây cũng là thành quả của quá trình đổi mới nhận thức về vai trò của văn hóa và
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc từ thực tiễn.
Văn kiện Đại hội X nêu rõ: “Chúng ta chủ trương tiếp tục phát triển sâu rộng
và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt
chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra chất lượng mới của cuộc sống, xây dựng
và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa”.

Ba lĩnh vực cần tập trung thực hiện bằng được là: xây dựng môi trường, lối
sống và đời sống của mọi người dân ở cơ sở, phát huy tinh thần tự nguyện, tính tự
quản và năng lực làm chủ của nhân dân; khuyến khích sáng tạo văn học, nghệ
thuật, tạo ra những tác phẩm, công trình có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật;
xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa”…
Để văn hóa làm nền tảng tinh thần của xã hội, giáo dục và đào tạo cùng với
khoa học công nghệ tiếp tục được xác định là quốc sách hàng đầu, phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Cuoc van dong lam theo hcm
2.3.2. Nhận thức của ta về nền tảng tư tưởng của Đảng
Trước đổi mới Đảng ta luôn khẳng định, chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng
tư tưởng của cách mạng nước ta. Cương lĩnh năm 1991 đã có nhận thức mới về


×