Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

tiểu luận cao học tư tưởng của hồ chí minh về một nhà nước của dân, do dân, vì dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.75 KB, 26 trang )

Mục lục
Mục lục................................................................................................................................1
Nội dung...............................................................................................................................2
B. Nội dung t tởng của Hồ Chí Minh về một nhà nớc của dân, do dân, vì dân.........3

Lời nói đầu
Trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng, Nhà nớc ta, đứng đầu
là chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định trong t duy chính trị cách mạng là
sự nghiệp của quần chúng. Cách mạng chỉ có thể giành thắng lợi nếu đợc
quần chúng nhân dân tham gia. Khi đất nớc độc lập và trở thành nớc dân chủ
thì lợi ích thuộc về nhân dân. Quyền hạn đều của dân... quyền hành và lực lợng đều ở nơi dân.
Sức mạnh của chính quyền là sức mạnh của nhân dân. Khi nhân dân yêu
mến chính quyền mình, hy sinh chiến đấu bảo vệ chính quyền thì chính
quyền ấy mới mạnh. Nhận thức đợc vị trí, vai trò của sức mạnh quần chúng
nhân dân, Hồ Chí Minh khẳng định: Nớc ta là nớc dân chủ. Bao nhiêu lợi ích
đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng
là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của
dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ơng do dân cử ra. Đoàn thể từ
Trung ơng đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lợng
đều ở nơi dân.
Đó là t tởng về sức mạnh của của nhân dân, về quyền làm chủ của nhân
dân, xây dựng Nhà nớc thật sự của dân, do dân, vì dân dựa trên nền tảng là t
tởng Hồ Chí Minh trên con đờng xây dựng Nhà nớc ngang tầm nhiệm vụ của
giai đoạn cách mạng hiện nay.

1


Nội dung
A. Cơ sở hình thành quan điểm
1.



Cơ sở lí luận

Lí luận của chủ nghĩa Mác Lênin về xây dựng nhà nớc mang bản chất
giai cấp công nhân vào tình hình thực tiễn của Việt Nam
2.

Cơ sở thực tiễn

Kế thừa những tiến bộ của dân tộc về xây dựng nhà nớc.
Sinh ra trong cảnh nớc mất nhà tan Hồ Chí Minh nhận thức rằng trong
xã hội cũ ngời dân luôn là ngời chịu khổ cực nhiều nhất một cổ hai tròng:
một của chế độ phong kiến, một của chế độ thực dân. Trớc thực trạng đó ngời quyết định ra đi tìm đờng cứu nớc. Trong quá trình đi tìm đờng cứu nớc
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu các kiểu nhà nớc trong lịch sử để lựa chọn ra
một kiểu nhà nớc mới cho Viêt Nam để xây dung sau khi cách mạng giải
phóng dân tộc theo con đờng cách mạng vô sản thành công:
- Nhà nớc thực dân phong kiến (Việt Nam những năm thế kỉ 18, 19) là
một xã hội với bản chất dã man vô nhân đạo. ở đó quyền sống của con ngời
bị vi phạm.
- Nhà nớc t sản: Đây là một hình thái nhà nớc tiến bộ. Quyền tự do
dân chủ dã dợc chú trọng nhng đó chỉ là tự do dân chủ đối với giai cấp t sản
giai cấp thiểu số trong xã hội. Hơn nữa hình thái xã hội này còn điểm hạn

2


chế đó là đề cao quyền sở hữu t nhân về t liệu sản xuất. Do đó đây không
phải là nhà nớc lí tởng mà chúng ta cần đạt đến.
- Nhà nớc Xô Viết: Đây là nhà nớc đầu tiên trên thế giới mà quyền lực
tập trung vào tay nhân dân. Có quan hệ sở hữu t kiệu sản xuất là công hữu.

Từ những gì đã đúc kết đợc ngời chỉ ra nhà nớc mà chúng ta xây dựng
phải là nhà nớc đại biểu cho quyền lợi của số đông ngời ngời. Và Ngời cũng
chủ trơng xây dựng một nhà nớc công nông binh thể hiện trong chính cơng
vắn tắt của Đảng khi thành lập Đảng đầu năm 1930. Trải qua thực tế cách
mạng ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã chủ trơng xây dựng nhà nớc dân chủ
cộng hoà với những nội dung chính sau:
Nớc ta là nớc dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Chính quyền từ xã đến chính phủ Trung Ương đều do dân bầu
Nói tóm lại quyền hành và quyền lực đều ở nơi dân.
B. Nội dung t tởng của Hồ Chí Minh về một nhà nớc của dân, do

dân, vì dân
1. Nhà nớc của dân
- Ngay từ năm 1927, trong tác phẩm Đờng cách mệnh, Hồ Chí Minh đã
chỉ ra rằng: Chúng ta đã hi sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi,
nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ
để trong tay một bọn ít ngời. Thế mới khỏi hi sinh nhiều lần, thế dân chúng
mới đợc hạnh phúc. Sau khi nớc ta giành đợc độc lập, Ngời khẳng định: Nớc ta là nớc dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều về dân; Bao nhiêu quyền hạn đều
của dân Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ơng do dân cử ra Nói
tóm lại, quyền hành và lực lợng đều ở nơi dân.

3


Trong nhà nớc của dân thì dân là chủ, ngời dân đợc hởng mọi quyền dân
chủ, nghĩa là có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có
nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nớc của dân phải bằng mọi nỗ lực, hình
thành đợc các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của ngời dân.

Cũng trên ý nghĩa đó, các vị đại diện của án, do dân cử ra, chỉ là thừa uỷ
quyền của dân, chỉ là công bộc của dân theo ý nghĩa đúng đắn của từ này.
Nhà nớc của dân là nhà nớc mà quyền lực tập trung vào tay nhân dân.
Quan điểm nhất quán của HCM là xác lập tất cả mọi quyền lực trong
nhà nớc và trong xã hội thuộc về nhà nớc. Trong 24 năm làm chủ tịch nớc,
HCM đã chỉ đạo soạn 2 bản Hiến pháp, đó là Hiến pháp 1946 và Hiến pháp
1959 nêu rõ nớc Việt nam là nhà nớc của dân.
Điều 1 Hến pháp 1946: Tất cả quyền bình trong nhà nớc đều là của
toàn thể nhân Việt Nam không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, tôn
giáo, giai cấp.
Điều 2 Hiến pháp1946: Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ
đa ra toàn dân phúc quyết.
Thực chất đó là một hình thức dân chủ trực tiếp đợc đề ra khá sớm ở nớc
ta.
- Nhân dân Việt Nam có quyền kiểm soát nhà nớc, kiểm tra, giám sát và
bãi miễn đại biểu hội đồng nhân dân các cấp khi họ không xứng đáng với sự
tín nhiệm của nhân dân.
- Nhân dân cũng là ngời xây dựng nên chế độ nhà nớc đó bằng cách
tham gia bầu cử và ứng cử vào bộ máy nhà nớc. Có quyền bãi nhiễm đại biểu
quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nếu nh có những hành động
làm phơng hại đến lợi ích của nhân dân và lợi ích toàn dân tộc. Ngời dân đợc
hởng mọi quyền dân chủ, đợc tự do sống và làm việc theo khả năng của mình
trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật cho phép. Nh Hồ Chí Minh từng nói:
Nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỉ luật. Mỗi ngời có tự do của
4


mình, nhng phải tôn trọng tự do của ngời khác. Ngời nào sử dụng quyền tự
do của mình quá mức là phạm đến tự do của ngời khác, là phạm pháp.
- Trong nhà nớc dân chủ, dân là chủ còn cán bộ nhà nớc là công bộc

của dân. Là ngời đầy tớ phục vụ nhân dân, cán bộ nhà nớc phảI đồng thời là
ngời lãnh đạo, ngời hớng dẫn nhân dân.
Địa vị làm chủ của ngời dân, tức là quan hệ của ngời dân với quyền lực
nhà nớc, đợc Hồ Chí Minh làm rõ trong quan hệ với đội ngũ cán bộ nhà nớc
những ngời trực tiếp thi hành quyền lực nhà nớc. Ngời viết: Nớc ta là nớc
dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng từ
ngời quét nhà, nấu ăn cho đến chủ tịch nớc đều là phân công làm đầy tớ cho
dân. Ngời căn dặn cán bộ nhà nớc: Phải nhớ rằng dân là chủ. Dân nhu nớc,
mình nh cỏ. Lực lợng bao nhiêu là nhờ ở dân hết. Khi nói đến t cách công
bộc của cán bộ nhà nớc đối với nhân dân, Hồ Chí Minh khẳng định, mục
đích hoạt động của họ là vì lợi ích chung. Ngời nói: Những ngời trúng cử
(vào bộ máy nhà nớc), sẽ phải ra sức giữ vững nền độc lập của Tổ quốc, ra
sức mu sự hạnh phúc cho đồng bào. Phải luôn luôn nhớ và thực hành câu: Vì
lợi nớc, quên lợi nhà; vì lợi chung, quên lợi riêng. Ngời khẳng định: Làm
việc nớc bây giờ là hi sinh, là phấn đấu quyền lợi riêng mà nghĩ lợi chung.
Những ai muốn làm quan cách mạng thì nhất định không nên bầu. Nếu dân
là chủ thì nhà nớc, cán bộ nhà nớc là công bộc của dân. Đây là một sáng tạo
độc đáo của Hồ Chí Minh. Chính t tởng này đã chỉ ra sự đối lập về chất của
Nhà nớc nhân dân với nhà nớc phong kiến, nhà nớc thực dân. Ngời căn dặn
các cán bộ nhà nớc phải luôn ghi nhớ rằng các cơ quan của Chính phủ từ
toàn quốc đến các làng đều là công bộ của dân, nghĩa là để gánh vác việc
chung cho dân, chứ không phải để đối đầu dân nh trong thời kì dới quyền
thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật. ở đây, ta thấy Hồ Chí Minh đã
chỉ ra nội hàm của khái niệm công bộc của dân, và có thể hiểu đây là một
định nghĩa của Hồ Chí Minh về chức năng của Nhà nớc mà ý nghĩa sâu sắc
5


của nó vẫn còn giữ nguyên tính thời sự và cần đợc quán triệt trong công cuộc
xây dựng Nhà nớc ta hiện nay.

Hồ Chí Minh đòi hỏi rất cao đối với cán bộ nhà nớc. Họ cần phải có rất
nhiều phẩm chất, song tựu trung họ phải thực sự vì dân mà làm việc. Ngời
nêu rõ bốn đức tính là: cần, kiệm, liêm chính; phải ghi sâu những chữ công
bình chính trực vào lòng; phải có một tinh thần chí công vô t; nếu muốn
danh, lợi thì danh làm sao cho dân tộc mình có danh với thế giới, và lợi làm
thế nào cho tranh đợc lợi với thế giới - đó là danh chính và lợi chính Cán
bộ nhà nớc phải làm sao để nhân dân yêu quý, khi sắp tới dân mong, khi đi
dân nhớ. Muốn thế trớc hết cán bộ phải yêu quý nhân dân, phải đặt lợi ích
của nhân dân lên trên hết, phải kính trọng nhân dân, tông trọng nhân cách
của họ. Ngời chỉ rõ: muốn đợc dân yêu, muốn đợc lòng dân, việc gì có lợi
cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh. Phải chú
ý giải quyết các vấn đề, đặc biệt là những vấn đề quan hệ đến đời sống nhân
dân, dù khó khăn đến đâu cũng mặc lòng. Nói tóm lại, hết thảy những việc
có thể nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân phải đợc đặc biệt chú
ý.
T tởng quyền lực Nhà nớc thuộc về nhân dân của Hồ Chí Minh còn thể
hiện trên mấy phơng diện sau:
Thứ nhất, về pháp luật, Ngời viết: Pháp luật của chúng ta hiện nay bảo
vệ quyền lợi cho hàng triệu ngời lao động. Pháp luật của ta lúc này, cha tớc
bỏ quyền t hữu, nhng không ai đợc lợi dụng quyền t hữu để bóc lột thậm tệ
nhân dân lao động. Pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ
quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Ngời khẳng định:
Pháp luật là pháp luật của nhân dân, dựng để ngăn cản những hành động có
hại cho nhân dân, để bảo vệ lợi ích chung của đại đa số nhân dân. Vì vậy,
để có một chính quyền trong sạch, phải kiên quyết trừng trị nhừng kẻ lợi
dụng việc đợc nhân dân giao quyền, rồi cậy quyền cậy thế đi ngợc lại lợi ích
6


của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cơng quyết xử lý một số cán bộ cao

cấp của Nhà nớc vi phạm pháp luật và Ngời luôn nhắc nhở: Chúng ta không
sợ sai lầm, nhng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên ai
không phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi và gắng sức cho
thêm tiến bộ. Ai đã phạm những sai lầm trên này, thì phải hết sức sửa chữa;
nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung.
Thứ hai, về tổ chức bộ máy nhà nớc, Hồ Chí Minh nhiều lần nêu ra quan
điểm về ba bộ phận cấu thành quan trọng của Nhà nớc, đó là cơ quan lập
pháp Quốc hội; cơ quan hành pháp Chính phủ và cơ quan t pháp
Tòa án. Trong đó, Ngời nói đến Chính phủ nhiều nhất và cũng chính ở đây
chứa đựng nhiều nhiều quan điểm có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận và thực
tiễn. Ngời viết: Chính phủ ta là chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục
đích là ra sức phụng sự lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào
giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình là
ngời đầy tớ trung thành tận tụy của nhân dân. Ngời khẳng định: Chế độ
của ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đầy tớ của nhân dân.
Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to
việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân. Vì vậy, nhân dân
lại có nhiệm vụ giúp đỡ Chính phủ, theo đúng kỉ luật của Chính phủ và làm
đúng chính sách của Chính phủ, để Chính phủ làm tròn phận sự mà nhân dân
đã giao phó cho.
3.

Nhà nớc do dân

- Nhà nớc đó là do dân lựa chọn và bầu ra theo giai đoạn của hiến pháp.
Dân bầu lên những ngời đứng đàu nhà nớc và cũng là ngời bãi nhiễm họ khi
cán bộ nhà nớc đó làm những việc làm phơng hại đến quyền lợi của nhân dân
và của toàn dân tộc.
- Nhà nớc đó là nhà nớc do dân đóng góp tiền của để nhà nớc chi tiêu
mọi hoạt động. Nhà nớc không trực tiếp tạo ra tiền bạc và của cải mà nhân

7


dân mới trực tiếp tạo ra tiền bạc và của cải cho xã hội. Nguồn tiền mà nhân
dân đóng góp dới nhiều hình thức nh thế, lệ phí công trái là nguồn gốc nhà
nớc chi tiêu hoạt động nhằm thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình.
- Nhà nớc do dân là nhà nớc do dân ủng hộ và giúp đỡ. Nhân dân chính
là ngời thực hiện các chủ trơng, đờng lối kế hoạch của nhà nớc. Dân không
chỉ đóng góp tiền của mà đóng góp cả công sức để xây dựng nhà nớc đó.
- Nhà nớc đó cũng là nhà nớc do dân phê bình, xây dựng. Nhân dân là
ngời đóng góp cả trí tuệ để xây dựng, củng cố nhà nớc.
Chính vì vậy, Hồ Chí Minh thờng nhấn mạnh nhiệm vụ của những ngời
làm cách mạng là phải cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao đợc
trách nhiệm làm chủ, nâng cao đợc ý thức trách nhiệm chăm lo xây dựng nhà
nớc của mình Hồ Chí Minh khẳng định: Việc nớc là việc của chung, mỗi ngời phải có trách nhiệm: Ghé vai gánh vác một phần quyền lợi, quyền hạn
bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ.
4. Nhà nớc vì dân
Theo Ngời, nhà nớc vì dân là nhà nớc phục vụ lợi ích và nguyện
vọng của nhân dân. Quyền lực nhà nớc thuộc về nhân dân gắn liên với việc
nhà nớc phải làm tất cả để đem lại một cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân.
Xuất phát từ t tởng nhân dân là chủ thể quyền lực chính trị, t tởng dân
chủ của Hồ Chí Minh đợc phát triển thành nhân dân là chủ thể của nhà nớc.
Vì thế, việc nhận thức t tởng Hồ Chí Minh về Nhà nớc phải đợc đặt trên cơ
sở coi vấn đề Nhà nớc là một khía cạnh trong t tởng Hồ Chí Minh về dân
chủ. Nhà nớc, theo Ngời, là của nhân dân Nhà nớc ta phát huy dân chủ đến
cao độ, đó là do tính chất Nhà nớc ta là Nhà nớc của nhân dân. Có phát huy
dân chủ đến cao độ thì mới động viên đợc tất cả lực lợng của nhân dân đa
cách mạng tiến lên. Đồng thời phải tập trung đến cao độ để thống nhất lãnh
đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhân dân sử dụng Nhà nớc nh
một công cụ để thực hiện lợi ích của mình: đối với nhân dân, thì công cụ của

8


nhà nớc dân chủ mới (Chính phủ, pháp luật, công an, quân đội,) là để giữ
gìn quyền lợi của nhân dân.
Khi bàn về vai trò của Nhà nớc, Hồ Chí Minh đã đa ra quan điểm về
nhân dân quản lý nhà nớc. Điều đáng lu ý là việc nhà nớc tiến hành các hoạt
động nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân, thì đồng thời, đó cũng
chính là nhằm tạo điều kiện để nhân dân có thể tham gia quản lý nhà nớc.
Ngời viết: chỉ có chế độ của chúng ta mới thật sự phục vụ lợi ích của
nhân dân, trớc hết là nhân dân lao động, bảo đẩm mọi quyền lợi của nhân
dân, mở rộng dân chủ để nhân dân thật sự tham gia quản lý Nhà nớc. Vì vậy,
cho nên nhân dân ta đa hết khả năng làm tròn nhiệm vụ ngời chủ nớc nhà để
xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho nớc ta mạnh, dân ta giàu.
Ngoài mục đích phục vụ nhân dân nhà nớc ta không còn mục đích nào
khác.
Phải làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, đợc học hành nh lời Ngời
đã nói trong một chuyến đi Pari: Cả đời tôi chỉ có một ham muốn, một ham
muốn tột bậc là làm sao cho dân ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng đợc học
hành. Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc,
hạnh phúc của nhân dân.
Hồ Chí Minh còn đa ra quan điểm để xây dựng nhà nớc vì dân
- Yêu cầu thiết chế tổ chức:
+ Nhà nớc vì dân là nhà nớc lấy việc lo cho dân cụ thể là lo cho
những lợi ích thiết thực cho ngời dân: Ăn, ở, mặc, đi lại Làm mục tiêu
hoạt động cho mình, ngoài ra không có đặc quyền đặc lợi gì.
+ Nhà nớc này xuất phát từ việc lo cho những lợi ích của dân tộc
dựa trên đó hoàn thành thuyết chế bộ máy nhà nớc.
- Về đội ngũ cán bộ công chức làm việc trong bộ máy nhà nớc phải
xác định mình là công bộc của dân Lấy việc phục vụ nhân dân làm mục


9


tiêu hàng đầu. Hồ Chí Minh căn dặn: Tất cả những thứ chúng ta dùng hàng
ngày đều do dân cung cấp nên phải hết lòng, hết sức phục vụ cho dân, việc gì
có lợi ích cho dân thì phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức
tránh.

D. Xây dựng nhà nớc của dân do dân vì dân
I. Những thành tựu đã đạt đợc trong những năm qua
1. Về chính trị
a. Xây dựng hệ thống chính trị
- Cuộc đấu tranh kéo dài 2 thế kỉ với mục đích cuối cùng là giành độc
lập dân tộc và chính quyền vào tay nhân dân là thể hiện cao nhất của quan
điểm của Hồ Chí Minh về xây dung một nhà nớc của dân, do dân, vì dân. Bởi
vì trong xã hội cũ ngời dân phải chịu bao khổ đau, mồ hôi và cả nớc mắt.
Nên chỉ có xoá bỏ chế độ cũ xây dựng chế độ mới mới có thể giải phóng đợc
cho họ để họ có thể sống cuộc sống tốt hơn, cho dù có phải hi sinh trong
cuộc đấu tranh giành chính quyền ấy.
- Sau khi giành độc lập nhà nớc đã ban hành hiến pháp để xác lập chế
độ của nhà nớc mới. Sau nhiều lần bổ sung sửa đổi, quan điểm của Hồ Chí
Minh đã đợc xác định cụ thể và đợc cụ thể hoá bằng hiến pháp. Điều 2 hiến
pháp 1992 đã quy định rõ: Nớc Việt Nam là nhà nớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân do dân vì dân. Tiếp đó là đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa - xã
hội phát triển cao nhất của loài ngời với những đặc điểm cụ thể là: là một nớc
có trình độ phát triển cao, khoa học kỹ thuật tiên tiến dựa trên chế độ công
hữu về t liệu sản xuất là chủ yếu. Con ngời có cơ hội phát triển toàn diện,
làm theo năng lực hởng theo lao động.
b. Ban hành các pháp chế quy định quyền và nghĩa vụ của công dân

- Từ khi thành lập nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đến nay, Nhà nớc ta
đã ban hành 4 bản hiến pháp: Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp

10


1980 và Hiến pháp 1992 (đợc sửa đổi, bổ sung ngày 25/12/2001). Trong hệ
thống pháp luật thì Hiến pháp là văn bản có giá trị cao nhất, quy định những
vấn đề cơ bản nhất, quan trọng nhất của đất nớc; trong đó có chế định quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Trong khi một số nớc trên thế giới không đa quy định quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân vào Hiến pháp thì tại Việt Nam, chế định này đợc đa
vào tất cả các bản Hiến Pháp. Cụ thể là: Chơng II Hiến pháp 1946 với tên gọi
Nghĩa vụ và quyền lợi công dân, chơng III Hiến pháp 1959 với tên gọi
Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân và tại chơng V của Hiến pháp
1980, Hiến pháp 1992 với tên gọi Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,
Nhà nớc Việt Nam đã thể hiện sự tôn trọng con ngời, củng cố địa vị pháp lý
của ngời làm chủ đất nớc.
- Hiến pháp 1992 quy định công dân có quyền bình đẳng, sống và học
tập, lao động theo Hiến pháp. Có quyền tham gia quản lí và thảo luân các
vấn đề của nhà nớc. Cụ thể là ngay sau khi giành độc lập ngày 6/1/1946 toàn
dân đã tham gia bầu cử thể hiện quyền và nghĩa vụ của mình với lời kêu gọi
Tt c hãy n thùng phiu". Báo Quc hi in hình H Ch tch vi li
khuyên ca Ngi: "Khuyên ng bo nam n 18 tui tr lên, hôm nay tt
c u i b phiu bu nhng i biu xng áng vo Quốc hi u tiên
ca nc ta. Tiếp tục truyền thống đó trong thời gian tiếp theo, mặc dù
trong hoàn cảnh chiến tranh nhng ngời dân vẫn tiếp tục thể hiện quyền làm
chủ của mình. Và sau khi nớc nhà thống nhất, tháng 4/1976 số lợng cử tri đi
bỏ phiếu đông nhất từ trớc đến nay là 98.77% dân số đã đi bầu cử, bầu ra nhà
nớc Việt Nam hoàn toàn độc lập.

Ngoài ra, ngời dân còn đợc tham gia bàn bạc góp ý các chính sách của
nhà nớc, đợc nêu lên nguyện vọng của mình thể hiện qua các cuộc tiếp xúc
dân của các đại biểu quốc hội và các dại diện nhà nớc. Sau đây là một vài ví
dụ cụ thể:
11


Bình Dơng: Những năm qua, hoạt động của Đoài đại biểu Quốc hội
tỉnh đã góp phần vào việc xây dựng Nhà nớc pháp quyền XHCN, tham gia
đầy đủ các kỳ họp do Quốc hội tổ chức; đi sâu, đi sát quần chúng nhân dân
để nắm bắt tâm t, nguyện vọng, những ý kiến bức xúc của cử tri trong tỉnh,
kịp thời chuyển lên Quốc hội, nhất là tổ chức lấy ý kiến xây dựng các dự án
luật quan trọng để Quốc hội thông qua
Thời gian tới, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh tiếp tục làm tốt công tác
giám sát việc thực hiện các nghị quyết, các đạo luật đợc Quốc hội thông qua,
nhất là về việc xóa đói giảm nghèo, chống tham nhũng, buôn lậu, thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí; tiếp tục thực hiện công tác cải cách hành chính,
nâng cao chất lợng hoạt động của cơ quan t pháp, giải quyết tốt khiếu nại, tố
cáo của công dân... góp phần phát triển kinh tế, giữ vững an ninh quốc
phòng.
Hải Dơng: Tỉnh Hải Dơng có 69 ngời đợc bầu là đại biểu Quốc hội từ
Khóa 1 đến nay (Khóa XI), Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Hải Dơng đã làm
tốt công tác tiếp xúc cử tri, phản ánh nguyện vọng của cử tri với Quốc hội và
lãnh đạo tỉnh trên các lĩnh vực: Đầu t phát triển nông nghiệp, nông thôn, tiêu
thụ nông sản cho nông dân; lơng, phụ cấp cho các giáo viên ngoài biên chế;
bảo hiểm y tế cho ngời nghèo, nhà ở cho gia đình chính sách có đời sống khó
khăn; giải quyết định suất cho cán bộ cơ sở...
- Nghiên cứu về chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân qua
các bản Hiến pháp, chúng ta thấy đợc sự phát triển của chế định này. Sự phát
triển biểu hiện ở những nội dung sau:

+ Các quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ngày càng
tăng về số lợng và phong phú nội dung:
Về số lợng: các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ngày càng đợc
quy định nhiều hơn trong các Hiến pháp: Hiến pháp 1946 (18 điều), Hiến

12


pháp 1959 (21 điều), Hiến pháp 1980 (29 điều) và tại Hiến pháp 1992 (34
điều).
Về nội dung: các Hiến pháp sau luôn có những quy định mới mà các
Hiến pháp trớc không quy định. Ví dụ:
Hiến pháp 1959 có những quy định mới so với Hiến pháp 1946 nh:
Quyền làm việc; quyền nghỉ ngơi; quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng
tác văn học, nghệ thuật; quyên khiếu nại, tố cáo
Hiến pháp 1980 có thêm các quy định: Quyền tham gia quản lý công
việc Nhà nớc và xã hội; quyền đợc bảo hiểm xã hội; quyền đợc bảo vệ sức
khoẻ
Hiến pháp 1992 có những quy định mới: Quyền con ngời và quyền
công dân; quyền tự do kinh doanh; quyền bồi thờng thiệt hại về vật chất và
phục hồi danh dự; ngời nớc ngoài c trú tại Việt Nam đợc Nhà nớc bảo hộ
tính mạnh, tài sản và các quyền lợi chính đáng theo quy định của pháp luật
Điều đáng nói ở đây là: Sự phát triển về số lợng và nội dung của chế
đinh quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân qua các bản Hiến pháp không
phải là sự ngẫu nhiên hay do kỹ thuật lập pháp mà điều đó cho thấy địa vị
pháp lý, địa vị xã hội của công dân ngày càng đợc tăng lên một cách rõ rệt.
+Các quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ngày càng
phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nớc.
Các quy định của pháp luật phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội
của đất nớc là để đảm bảo cho các quy định đó có tính khả thi. Tính khả thi

giúp cho các quy định của pháp luật không chỉ tồn tại trên lý thuyết mà
chúng phải đợc thực hiện trong thực tế cuộc sống, đợc ngời dân chấp nhận
nh một nhu cầu thiết yếu của cuộc sống.
Chính vì vậy, Hiến pháp 1992 đó có những sửa đổi quan trọng nhiều
quy định tại Hiến pháp 1980 cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội.

13


Ví dụ: Hiến pháp 1980 quy định: Công dân có quyền có việc làm,
Hiến pháp 1992 sửa thành: Nhà nớc và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng
nhiều việc làm cho ngời lao động.
Hiến pháp 1980 quy định: Thực hiện chế độ học không phải
trả tiền, Hiến pháp 1992 sửa thành: Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải
trả học phí, học bổng.
Hiến pháp 1980 quy định: Công dân có quyền có nhà ở,
Hiến pháp 1992 sửa thành: Công dân có quyền xây dựng nhà ở theo quy
hoạch và pháp luật.
Hiến pháp 1980 quy định: Nhà nớc thực hiện chế độ khám
bệnh không phải trả tiền, Hiến pháp 1992 sửa thành: Nhà nớc quy định chế
độ viện phí, chế độ miễn giảm viện phí
Những thay đổi kể trên là để cho các quy định của pháp luật phù hợp
hơn với từng giai đoạn lịch sử, phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội
của đất nớc và của nhân dân. Có vậy, những quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân mới ngày càng đợc đảm bảo hơn.
+Các quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân tại Hiến
pháp Việt Nam thể hiện mối quan hệ bình đẳng, hài hoà giữa công dân với
công dân và giữa Nhà nớc với công dân.
Trong tất cả các bản Hiến pháp Việt Nam đều tuân thủ nguyên tắc:
Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. Nguyên tắc

này thể hiện ý thức và trách nhiệm của công dân. Công dân hởng các quyền
đồng thời phải thực hiện những bổn phận nhất định. Điều này giúp ích cho sự
phát triển của cá nhân mỗi công dân đồng thời tạo điều kiện cho sự phát triển
của ngời khác, của cộng đồng và của xã hội. Bởi trong xã hội không thể có
hai loại công dân: Một loại công dân chuyên hởng quyền, một loại công fân
chuyên thực hiện nghĩa vụ. Vì thế, tất cả các Hiến pháp Việt Nam đều quy
định sự bình đẳng của công dân trớc pháp luật:
14


Hiến pháp 1946: Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trớc
pháp luật.
Hiến pháp 1959: Công dân nớc Việt Nam dân chủ cộng hòa đều
bình đẳng trớc pháp luật.
Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992: Mọi công dân đều có quyền
bình đẳng.
Bình đẳng trớc pháp luật là bình đẳng trong việc công dân đợc hởng
các quyền và thực hiện các nghĩa vụ do pháp luật quy định. Sự bình đẳng này
thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và không phân biệt dân tộc,
tôn giáo, thành phần xã hội
Sự bình đẳng còn đợc thể hiện trong quan hệ giữa Nhà nớc với công
dân. Trong các Hiến pháp đều ghi nhận quyền của công dân và nghĩa vụ của
Nhà nớc và ngợc lại. Vì thế, trong các bản Hiến pháp, bên cạnh việc xác lập
ngày càng đầy đủ các quyền của công dân thì Nhà nớc cũng xác lập một
cách cụ thể, chi tiết và còn đổi các nghĩa vụ của công dân. Ngoài ra, các
Hiến pháp cũng ghi nhận rõ ràng trách nhiệm của Nhà nớc trong việc đảm
bảo các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Điều 8 Hiến pháp 1992 quy
định: Các cơ quan nhà nớc, cán bộ, viên chức Nhà nớc phải tôn trọng nhân
dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý
kiến và chịu sự giám sát của nhân dân và điều 513 Hiến pháp 1992 quy

định: Nhà nớc bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn
nghĩa vụ của mình đối với Nhà nớc và xã hội. Quy định này giúp cho mối
quan hệ giữa Nhà nớc và công dân thật sự hài hòa. Lợi ích của công dân phải
gắn với lợi ích của Nhà nớc và ngợc lại. Trong các quy định tại Hiến pháp
cũng nh trên thực tế mối quan hệ hài hòa và bình đẳng này ngày càng đợc
củng cố và tăng cờng.
+Qua các bản Hiến pháp, các quyền tự do dân chủ của công dân ngày
càng đợc mở rộng.
15


Điều này thể hiện từ trong chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân. Các Hiến pháp sau luôn có những quy định mở rộng quyền tự do
dân chủ. Chẳng hạn nh:
Hiến pháp 1980 quy định về quyền sở hữu của công dân chỉ với
những công cụ sản xuất dựng trong trờng hợp đợc phép lao động riêng lẻ
thì tại Hiến pháp 1992 mở rộng quyền sở hữu đối với t liệu sản xuất, vốn và
tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác.
Hiến pháp 1980 quy định: Quyền tự do đi lại và c trú đợc tôn
trọng, theo quy định của pháp luật thì tại Hiến pháp 1992 mở rộng quyền
này và quy định cụ thể hơn: Công dân có quyền tự do đi lại và c trú ở trong
nớc, có quyền ra nớc ngoài và từ nớc ngoài về nớc theo quy định của pháp
luật.
Hiến pháp 1980 không quy định về quyền tự do kinh doanh của
công dân thì Hiến pháp 1992 đã quy định: Công dân có quyền tự do kinh
doanh theo quy định của pháp luật
Tóm lại, chế định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là một chế
định cực kỳ quan trọng của Hiến pháp Việt Nam. Bởi qua đó nó thể hiện vị
trí pháp lý của ngời công dân trong xã hội dân chủ, thể hiện mối quan hệ
bình đẳng giữa công dân với công dân và sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích của

Nhà nớc và lợi ích của công dân. Các quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân ngày càng đợc hoàn thiện và mở rộng, góp phần giữ vững bản
chất Nhà nớc pháp quyền XHCN Việt Nam: của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân
2.

Về kinh tế

- Thực hiện các mục tiêu xóa đói giảm nghèo cho ngời dân với các biện
pháp:
+Xây dựng nhà đoàn kết cho những ngời gặp hoàn cảnh khó khăn.

16


+Cho vay với lãi suất u đãi để ngời dân có thể có vốn để lao động sản
xuất thông qua ngân hàng chính sách hoặc các tổ chức xã hội nh hội phụ nữ,
đoàn thanh niên. Theo quyết định của thủ tớng chính phủ, sẽ hỗ trợ lãi suất
đối với các khoản vay của ngời nghèo và các đối tợng chính sách khác tại
ngân hành chính sách xã hội. Mức hỗ trợ lãi suất là 4%/năm, thậm chí là 0%.
Đây là nội dung đợc thủ tớng chính phủ quyết định (ngày 6/5) về việc
hỗ trợ lãi suất đối với các khoản vay của ngời nghèo và dối tợng chính sách
tại ngân hàng chính sách xã hội (NH CSXH).
Theo đó, tại quyết định số 579 vừa ban hành, sẽ hỗ trợ lãi suất đối với
các khoản vay của ngời nghèo và các đối tợng chính sách tại NH CSXH.
Mức hỗ trợ lãi suất là 4% / năm , tính trên số tiền vay và thời hạn cho
vay thực tế đối với các khoản vay tại NH CSXH thuộc các chơng trình có lãi
suất đang thực hiện lớn hơn 4%/ năm.
Cũng theo quyết định, còn hỗ trợ toàn bộ với lãi suất 0% /năm đối với
các khoản vay tại NHCS thuộc các chơng trình có lãi suất đang thực hiện nhỏ

hơn hoặc bằng 4%/năm.
Nhờ chính sách nhày mà 1.6 triệu ngời dân đợc tiếp xúc với khoản vay u
đãi làm cho số hộ nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống 11.8% năm 2007.
Sinh viên đợc vay với lãi suất thấp để có điều kiện tốt nhất tập trung cho
việc học.
- Thông qua NSNN phân phối lại thu nhập góp phần san lấp khoảng
cách giàu nghèo.
3. Về văn hóa xã hội
- Tôn trọng tự do tín ngỡng của mỗi công dân nhng không để việc tự do
tín ngỡng làm xâm hại đến lợi ích quốc gia và lợi ích toàn dân tộc.
- Thực hiện xóa mù chữ cho mọi tầng lớp nhân dân. Sau Cách mạng
tháng 8 cả nớc ta trên 95% dân số mù chữ. Hồ chủ tịch ra lời kêu gọi diệt
giặc dốt. Theo lời Ngời, các lớp bình dân hoc vụ mở ra khắp nơi. Đến nay
17


trên 90% trẻ em khắp cả nớc đợc theo học tiểu học.Và mục tiêu tiến tới phổ
cập THCS và phổ thông trung học.
- Các dịch vụ y tế chăm sóc sức khỏe cho con ngời ngày càng đợc mở
rộng. Hầu hết các xã phờng trong cả nớc đều có trạm y tế, trong đó 15% đạt
chuẩn quốc gia về y tế xã phờng. Các hoạt động y tế dự phòng đợc đẩy
mạnh. Trẻ em dới 6 tuổi đợc khám chữa bệnh miễn phí tại các trung tâm y tế.
Nhờ có dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt, đời sống nhân dân đợc nâng cao mà
tuổi thọ trung bình của ngời Việt Nam tăng từ 67.8 (năm 2000) lên 71.5
(năm 2005).
- Hoạt động thông tin truyền thông đợc mở rộng, ngời dân có cơ hội tiếp
xúc nhiều hơn với công nghệ mới và đợc mở cửa nhìn ra thế giới.
II. Những vấn đề còn tồn tại
Việc tham gia của dân vào việc xây dựng các chính sách đôi khi còn
mang tính hình thức. Các viên chức nhà nớc ở nhiều địa phơng vẫn còn sách

nhiễu dân, lợi dụng sự thiếu hiểu biết của ngời dân ửê làm lợi cho bản thân.
Những ngời dân ở vùng sâu, vùng xa, dân tộc ít ngời cuộc sống còn rất
khó khăn, thiếu then, cha có sự quan tâm đúng mức của Đảng và Nhà nớc.
Và còn nhiều điều khác còn tồn tại.
Tóm lại:Tuy rằng những vấn đề tồn tại còn nhiều nhng những gì mà
Đảng và Nhà nớc đã chăm lo cho cuộc sống của nhân dân là không thể phủ
nhận. Nó lớn lao và có ý nghĩa to lớn hơn nhiều so với khuyết điểm. Những
việc đã và cha làm đợc đều để đạt đến mục đích xây dựng Nhà nớc của dân,
do dân và vì dân.

E. Phơng hớng xây dựng nhà nớc của dân, do dân, vì dân trong thời
đại mới

18


Trong thời đại mới, thế giới có nhiều biến động nên việc đề ra phơng hớng xây dựng Nhà nớc Việt Nam của dân, do dân, vì dân một cách đúng đắn
và hợp lí là điều vô cùng cần thiết.
I. Nguyên tắc xây dựng nhà nớc của dân, do dân, vì dân trong thời đại
mới
Phải xác định rõ mục tiêu xây dựng đất nớc ta trong giai đoạn mới là gì,
từ đó đa ra đặc điểm xây dựng đất nớc, đó là:
- Xây dựng Nhà nớc xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; lấy liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền
tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân
dân, giữ nghiêm kỉ cơng xã hội, chuyên chính với mọi hoạt động xâm phạm
lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
- Quyền lực nhà nớc là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa
các cơ quan nhà nớc từ trung ơng đến địa phơng tạo điều kiện tốt nhất cho
ngời dân thực hiện quyền làm chủ của mình.

- Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động
của Nhà nớc.
- Tăng cờng pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nớc pháp quyền
Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng
cao đạo đức trong nhân dân, hớng dẫn ngời dân sống và làm việc theo pháp
luật.
- Tăng cờng vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nớc. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4/2001) tiếp tục khẳng định nhiệm vụ
xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa dới sự lãnh đạo của Đảng
và chỉ rõ Nhà nớc ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân, là Nhà nớc pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
- Kết hợp xây dựng với bảo vệ đất nớc.

19


II. Nội dung của phơng hớng
1. Bảo vệ nhà nớc trớc sự chống phá của kẻ thù
Hiện nay tình hình liên quan đến an ninh trật tự đang biến đổi nhanh
chóng, khó lờng, đòi hỏi phải nắm chắc tình hình, tiếp tục đổi mới chủ trơng
và giải pháp nhằm bảo vệ vững chắc an ninh chính trị nội bộ, vô hiệu hóa các
hoạt động thâm nhập tác động chuyển hoá nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh chống
địch phá hoại t tởng, nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ an ninh kinh tế, an
ninh thông tin.
Bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế;
đấu tranh ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mu, hoạt động diễn biến hòa
bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; đảm bảo an ninh trật tự ở các
địa bàn trọng điểm, ngăn chặn các loại tội phạm, hạn chế và từng bớc loại trừ
những nhân tố gây mất ổn định, để trong bất cứ tình huống nào cũng phải giữ
vững đợc an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ

Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng về nhiệm vụ bảo đảm an ninh quốc gia,
giữ gìn trật tự an toàn xã hội;
Một là, các cấp uỷ Đảng cần tập trung chỉ đạo việc tuyên truyền giáo
dục làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức rõ về tầm quan trọng
của công tác bảo vệ an ninh, trật tự trong tình hình hiện nay, nâng cao cảnh
giác cách mạng, xác định trách nhiệm tham gia thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an
ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
Tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trơng của
Đảng và Nhà nớc trên lĩnh vực này; đẩy mạnh giáo dục nhiệm vụ giữ gìn an
ninh, trật tự trong các trờng đại học, cao đẳng, dạy nghề và phổ thông trung
học; bồi dỡng kiến thức về công tác bảo vệ an ninh, trật tự cho cán bộ chủ
chốt của Đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể ở cơ sở.

20


Hai là, tăng cờng công tác xây dựng Đảng, kết hợp chặt chẽ giữa xây
dựng Đảng với bảo vệ Đảng, bảo vệ an ninh chính trị nội bộ. Tổ chức tốt
công tác nắm tình hình, phát hiện và đấu tranh phòng, chống địch thâm nhập,
tác động phá hoại nội bộ.
Thực hiện nghiêm những quy định về kỷ luật Đảng, nội quy bảo vệ cơ
quan, bảo vệ bí mật nhà nớc. Tăng cờng sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của
Nhà nớc với công tác xuất bản, thông tin báo chí. Kiên quyết đấu tranh với
các t tởng đa nguyên chính trị, không để hình thành tổ chức chính trị đối
lập.
Ba là, tiếp tục phát huy có hiệu quả hơn nữa sức mạnh tổng hợp của hệ
thống chính trị. Xác định rõ vai trò, phạm vi trách nhiệm của các cấp ủy
đảng, cơ quan nhà nớc, các đoàn thể quần chúng, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội trong công tác phòng chống tội phạm, phòng chống tham nhũng, tiêu

cực.
Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện có kết quả các quy chế phối hợp giữa
cơ quan chuyên trách với các ngành, các đoàn thể trong việc thực hiện nhiệm
vụ bảo vệ an ninh, trật tự, nhất là trong định giá, dự báo tình hình, xây dựng
và tổ chức diễn tập phơng án đối phó với các tình huống khủng bố, phá hoại.
gây rối, gây bạo loạn...
Bốn là, tăng cờng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh
của toàn dân trong công tác bảo đảm an ninh, trật tự. Tập trung phát hiện,
khắc phục kịp thời những sơ hở, thiếu sót trong việc thực hiện các chính sách
quản lý kinh tế - xã hội, chính sách về đất đai, tôn giáo, dân tộc, chính sách
đối với ngời có công, chính sách đối với đồng bào dân tộc ở vùng sâu, vùng
xa...
Giải quyết triệt để, kịp thời những mâu thuẫn, tranh chấp, khiếu kiện
trong nhân dân nhằm tăng cờng sự đồng thuận trong xã hội. Hoàn thiện và
thực hiện nghiêm quy định của pháp luật về các quyền tự do dân chủ; đồng
21


thời kiên quyết đấu tranh ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng tự do dân chủ để
phá hoại an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Năm là,chủ động tăng cờng quan hệ hợp tác với các nớc về công tác
đảm bảo an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội theo đờng lối đối
ngoại của Đảng.
Phối hợp chặt chẽ, thờng xuyên với các cơ quan đối ngoại, tổ chức tốt
công tác thông tin tuyên truyền, chủ động đấu tranh với những luận điệu vu
khống, xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch.
Đẩy mạnh hợp tác với các nớc trên lĩnh vực đấu tranh phòng chống
khủng bố và các loại tội phạm.
Sáu là, tiếp tục xây dựng kiện toàn các cơ quan chuyên trách làm nhiệm
vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội vững mạnh về mọi

mặt.
2. Tăng cờng và đổi mới phơng thức lãnh đạo của Đảng
Vấn đề tăng cờng và đổi mới phơng thức lãnh đạo của Đảng từ lâu đã
đợc Đảng ta quan tâm. Tuy nhiên, cho đến lúc này, khi hàng loạt vụ tiêu
cực xảy ra trong nhiều địa phơng, nhiều lĩnh vực khác nhau và quy mô
mỗi ngày một lớn thì nó trở thành một nhiệm vụ cấp thiết. Chính vì vậy,
tăng cờng và đổi mới phơng thức lãnh đạo của Đảng cần phải coi là
nhiệm vụ trọng tâm của tiến trình xây dựng nhà nớc theo quan điểm của
Hồ Chí Minh.
Mặc dù Đảng ta đã có nghị quyết Trung ơng 6 (lần 2) về xây dựng và
chỉnh đốn Đảng nhng vai trò của tổ chức cơ sở Đảng ở nhiều nơi ngày càng
mờ nhạt. Nhiều tổ chức cơ sở Đảng bị tê liệt hoàn toàn, cá biệt có nơi cán bộ,
Đảng viên cấu kết với nhau làm trái pháp luật. Nhân dân đặt dấu hỏi về vai
trò lãnh đạo của Đảng ở những cơ sở ấy.
Công tác cán bộ trong những năm qua cũng bộc lộ nhiều bất cập và còn
nhiều thiếu sót.
22


Thứ nhất, việc tuyển dụng cán bộ, công chức không đảm bảo yếu tố
khách quan mà theo kiểu con ông, cháu cha, nhất thân, nhì quen... làm
mất lòng tin của nhân dân, đặc biệt là lớp trẻ. Đây cũng là nguồn gốc dẫn
đến hiện tợng ba phải và hình thành các câu lạc bộ hoặc gia đình trong các
cơ quan Nhà nớc.
Thứ hai, công tác quản lý và đề bạt cán bộ cũng cha hợp lý. Tại sao
chúng ta cứ đặt vấn đề lãnh đạo cần đi liền từ cơ sở? Cách đây vài năm, đến
Ban Tuyên giáo Thành uỷ Hà Nội xin tài liệu để tuyên truyền về bầu cử
Quốc hội, khi hỏi về số ngời tự ứng cử, đợc trả lời hoạ có ngời hâm mới tự
đi ứng cử. Với t duy nh thế, chúng ta sẽ không tim đợc những ngời tài, dám
nghĩ dám làm để phục vụ đất nớc.

Nhìn xa ra thế giới, không ít quốc gia có ngời lãnh đạo cấp cao, thậm
chí nguyên thủ quốc gia (bầu cử) khi tuổi đời còn rất trẻ. Phải chăng Đảng
viên trẻ của chúng ta cha đủ năng lực, cha đủ kinh nghiệm và cha đủ bản lĩnh
để làm lãnh đạo?
Thứ ba, hiện tợng chạy chức, chạy quyền ngày càng trở nên phổ biến.
Trong nhân dân xuất hiện những tin đồn về việc mua chức nọ, quyền kia giá
bao nhiêu. Chúng ta không thể mũ ni che tai và nói rằng đó là luận điệu
tuyên truyền để chống phá Đảng ta. Đi cùng với hiện tợng chạy chức, chạy
quyền là một lớp cán bộ, đảng viên không có năng lực đợc giữ vai trò lãnh
đạo ở nhiều cấp, nhiều ngành. Những đối tợng này cũng dễ thoái hoá, biến
chất và thậm chí còn làm hỏng những nhân viên dới quyền, những ngời đồng
nghiệp.
Từ đó để tăng cờng vai trò lãnh đạo của Đảng, trớc hết chúng ta cần
phải đẩy mạnh hơn nữa xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Không dừng lại ở nghị
quyết của Trung ơng, Nghị quyết Đại hội 10 phải đặt vấn đề xây dựng và
chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn hiên nay. Đảng cũng

23


cần xem xét lại quy trình kết nạp Đảng viên mới, thẩm tra lý lịch kỹ càng
hơn, không kết nạp theo thành tích.
Đi đôi với việc tăng cờng, cần phải đổi mới phơng thức lãnh đạo của
Đảng. Nghị quyết Đảng chỉ ra, Đảng không làm thay chính quyền. Đảng
lãnh đạo bằng đờng lối, chủ trơng và thông qua công tác cán bộ.
Về lâu về dài, Đảng cần nghiên cứu việc thay đổi nguyên tắc tổ chức
của Đảng về mặt lý luận và thực tiễn. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong
thời kì mới cần hiểu nh thế nào? Vấn đề tranh luận công khai trong Đảng về
đờng lối phát triển kinh tế ra sao? Đặc bịêt, cần xem xét việc Đảng viên trực
tiếp bầu Ban lãnh đạo Trung ơng của Đảng. Đây là một trong những đặc

điểm mang tính phổ biến của đảng phái chính trị hiện đại.
Có thể nói, tăng cờng và đổi mới phơng thức lãnh đạo của Đảng là vân
đề mấu chốt trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Đây là thời điểm quan trọng
đối với toàn Đảng, toàn dân. Nếu Đảng không nhìn lại chính mình, tự làm
mới mình để nâng cao sức chiến đấu thì Đảng sẽ không đáp ứng đợc kì vọng
của nhân dân.
3. Kiện toàn bộ máy nhà nớc tạo ra cơ chế thông thoáng tạo điều
kiện cho ngời dân sống và làm việc theo pháp luật.
- Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đợc tổ chức và phân
công quyền lực nhà nớc thực sự khoa học, phát huy mạnh mẽ hiệu lực, hiệu
quả quản lý nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa. Nhà nớc thực
hiện ba quyền thống nhất có sự phân công rành mạch, trong đó, đề cao trách
nhiệm, tính chủ động và sự phối hợp hoạt động của các cơ quan trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, t pháp, thực hiện sự phân cấp hợp
lý quyên lực nhà nớc giữa chính quyền trung ơng và chính quyền địa phơng;
xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, bảo đảm thực hiện có hiệu
quả chủ trơng, đờng lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nớc. Để xây dựng Nhà nớc vững mạnh, cần tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt
24


động của Quốc hội, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách t pháp, xác định
rõ tính chất, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức của Hội đồng
nhân dân và uỷ ban nhân dân các cấp; tiếp tục nghiên cứu làm rõ mô hình tổ
chức các cơ quan t pháp (toà án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra) cho phù hợp
với yêu cầu mới; tăng cờng vai trò quản lý vĩ mô cua Nhà nớc trong điều
kiện kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Các cơ quan nhà nớc thực hiện quản lý nhà nớc đối với các hoạt động kinh
tế, bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Theo đó:
- Quốc hộị phải thật sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ

quan quyền lực nhà nớc cao nhất; thực hiện chức năng lập hiến, lập pháp,
quyết định những vấn đề quan trọng của đất nớc và thực hiện quyền giám sát
tối tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nớc. Tổ chức và hoạt động của
Quốc hội cần đợc đổi mới mạnh mẽ hơn nữa theo hớng tăng cờng chất lợng
và vị thế của đại biểu Quốc hội, nâng cao chất lợng hoạt động của Hội đồng
dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội; tăng cờng số đại biểu Quốc hội chuyên
trách đến tỷ lệ hợp lý (khoảng 40% hoặc 50% tổng số đại biểu Quốc hội);
tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa quy trình xây dựng luật, pháp lệnh, đổi
mới phơng thức giám sát và cách thức quyết định ngân sách nhà nớc.
- Chính phủ phải nâng cao hiệu lực hoạt động của mình, thực sự là cơ
quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của Nớc cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nớc; phát huy quyền làm chủ của nhân đân trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, thực hiện mọi chính sách, biện pháp hữu hiệu nhằm không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và đời sống văn hoá, tinh thần của nhân
dân; xác định rõ hơn trách nhiệm của Chính phủ và từng Bộ trởng, Thủ trởng
cơ quan ngang bộ trong việc quản lý ngành, lĩnh vực phụ trách; cải tiến việc
phân định, phân cấp trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cấp chính quyền theo
25


×