Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Nguyễn Tuân một ngòi bút tài hoa, uyên bác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.12 KB, 25 trang )

Nguyễn Tuân- một ngòi bút tài hoa uyên bác

A.

MỞ ĐẦU

Nguyễn Tuân - một con người sống vì cái đẹp, suốt đời đi tìm cái đẹp, tìm cái
đẹp trong nghệ thuật, cái đẹp trong thiên nhiên, cái đẹp trong đời sống…. Một
phong cách độc đáo không trộn lẫn với ai.
Ông là một nhà văn không chỉ đặc biệt về tài năng văn chương mà còn là một
người có nhân cách cao quý.Ấy là thiên lương trong sạch, lòng yêu nước thiết tha,
nhân cách cứng cỏi trước uy quyền phi nghĩa và đồng tiền phàm tục.
Với phong cách sáng tác độc đáo của mình ông đã cho ra đời những tác phẩm
văn chương đặc sắc mang dấu ấn riêng. Thể hiện một ngòi bút đầy tài hoa và uyên
bác.

Nhóm 1

Page 1


Nguyễn Tuân- một ngòi bút tài hoa uyên bác

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 TÁC GIẢ
1.1 Cuộc đời
Nguyễn Tuân quê ở xã Nhân Mục (tên nôm là Mọc), thôn Thượng Đình, nay
thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội.Ông sinh ra trong một gia
đình nhà Nho khi Hán học đã tàn.
Nguyễn Tuân học đến cuối bậc Thành chung (tương đương với cấp
Trunghọc cơ sở hiện nay) thì bị đuổi vì tham gia một cuộc bãi khóa phản đốimấy


giáo viên Pháp nói xấu người Việt (1929). Sau đó ít lâu ông lại bị tù vì "xê dịch"
qua biên giới không có giấy phép.Ở tù ra, ông bắt đầu viết báo, viết văn.
Nguyễn Tuân mất tại Hà Nội vào năm 1987, để lại một sự nghiệp vănhọc
phong phú với những trang viết độc đáo và đầy tài hoa.
1.2 Sự nghiệp
Nguyễn Tuân cầm bút từ khoảng đầu những năm 1930, nhưng nổi tiếng từ
năm 1938 với các tác phẩm tùy bút, bút ký có phong cách độc đáo như Vang bóng
một thời, Một chuyến đi… Năm 1941, Nguyễn Tuân lại bị bắt giam một lần nữa vì
giao du với những người hoạt động chính trị.
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân nhiệt tình tham
gia cách mạng và kháng chiến, trở thành một cây bút tiêu biểu của nền văn học
mới.
Từ 1948 đến 1958, ông giữ chức tổng thư kí Hội Văn nghệ Việt Nam.
Các tác phẩm chính sau cách mạng của Nguyễn Tuân là tập bút ký Sông Đà
(1960), một số tập ký chống Mỹ (1965-1975) và nhiều bài tùy bút về cảnh sắc và
hương vị đất nước.
Năm 1996 ông được Nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí
Minh về văn học nghệ thuật (đợt I).
Nhóm 1

Page 2


Nguyễn Tuân- một ngòi bút tài hoa uyên bác

CHƯƠNG 2 SỰ TÀI HOA UYÊN BÁC CỦA NGUYỄN TUÂN
2.1 Đề tài chủ đề
Nguyễn Tuân là một cái tôi tài hoa, uyên bác, điều này được thể hiện đậm nét
qua hệ thống đề tài đa dạng phong phú của nhà văn trước và sau Cách mạng tháng
Tám.

2.1.1 Trước Cách mạng tháng Tám
Trước Cách mạng tháng Tám, cái tôi của Nguyễn Tuân về cơ bản là cái tôi cá
nhân chủ nghĩa đối lập với xã hội.Hồi ấy, sống hay viết, đối với ông nhiều khi chỉ
là để tìm mình để thực hiện cái cá nhân mình cho đến kỳ cùng. Ông chú trọng viết
về bốn mảng đề tài: Đề tài xê dịch, đề tài hưởng lạc, đề tài về vẻ đẹp xưa và đề tài
“yêu ngôn”.
Xê dịch trở thành mô tip tiêu biểu trong tác phẩm Nguyễn Tuân, bộc lộ rõ
phong cách nghệ thuật của ông. Nguyễn Tuân cho rằng, đi để “thay đổi thực đơn
cho giác quan”.Với ham muốn đi nhiều, đi vô mục đích, miễn là “được lăn cái vỏ
mình mãi mãi trên trái đất này” (Thiếu quê hương), tư tưởng ấy đã đem lại cho nhà
văn một kho kiến thức và vốn am hiểu nhiều lĩnh vực, nhiều vùng miền từ đó nhà
văn chuyển tải vào tác phẩm một cách chân thực và đa dạng. Vốn sống của
Nguyễn Tuân cũng từ những chuyến “xê dịch” ấy mà trở nên giàu có.Mỗi tác phẩm
của ông đều mang màu sắc tri thức về một lĩnh vực cụ thể, sự kết hợp đan xen giữa
các lĩnh vực ấy đã làm nên một Nguyễn Tuân uyên bác.
Một chuyến đi mới đích thực là văn Nguyễn Tuân: Một lối tùy bút – du ký hết
sức phóng túng, lấy cái tôi của mình làm nhân vật trung tâm. Một lối văn đã tìm
đúng cái giọng riêng của nó: khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông
phèn, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ, bừa bãi như là ném ra trong một
cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa. Đó là
văn của một con người hoài nghi tất cả, chỉ tin ở cái vốn tình cảm, ý nghĩ, cái kho
Nhóm 1

Page 3


Nguyễn Tuân- một ngòi bút tài hoa uyên bác

cảm giác linh tinh nhưng sắc sảo, tài hoa của mình, tích lũy trên đường giang hồ xê
dịch.

Tác phẩm được viết bằng một ngòi bút thành thực, vì vậy nó vừa có chất thơ
bay bổng của một tâm hồn nghệ sĩ tìm thấy cảm hứng ở cảnh, ở người, ở thanh sắc
mới lạ nơi đất khách, vừa có chất văn xuôi trần trụi, lạnh lùng, nhận ra được một
cách cay đắng ở “những khách tài tình” khi tiền hết, rượu hết, chỉ còn trơ lại cái
bản chất nhỏ nhen, ích kỷ, cái chán chường, thảm hại của những kiếp người không
lý tưởng.
Sau Một chuyến đi chủ nghĩa xê dịch trở thành đề tài quen thuộc của Nguyễn
Tuân. Nhiều bài viết sắc sảo của ông dành cho đề tài này: Thèm đi, Lại đi nữa, Một
người lữ khách giữa thành phố chúng ta, Chiếc va-ly mới,…Đến 1940, chủ nghĩa
xê dịch được Nguyễn Tuân chọn làm đề tài cho cuốn tiểu thuyết mấy trăm trang
với nhan đề Thiếu quê hương.
Ngay từ tác phẩm Một chuyến đi, Nguyễn Tuân là một con người từng lăn lộn
nhiều với đời sống trụy lạc ở những tiệm rượu, tiệm hút, nhà chứa, xóm hát, ăn
chơi phóng túng của một cái tôi nghệ sĩ ngông cuồng. Thực tế ấy, sau này, được
ông dùng làm đề tài cho tác phẩm Ngọn đèn dầu lạc, Tàn đèn dầu lạc và Chiếc lư
đồng mắt cua.
Chất uyên bác của Nguyễn Tuân thể hiện ở việc ông đi sâu tìm hiểu, khám phá
những tệ hại do thuốc phiện mang đến, về những thói hư tật xấu, lọc lừa dối trá của
những kẻ ăn chơi trụy lạc với thuốc phiện bàn đèn.
Chiếc lư đồng mắt cua là tác phẩm thể hiện độ chín của ngòi bút Nguyễn Tuân.
Tác phẩm viết về cuộc sống ăn chơi, hút xách, cô đầu. Trong tác phẩm, người đọc
bắt gặp một nhân vật “tôi” bế tắc, hoang mang trước cuộc đời và tìm cách trốn
chạy trong rượu, thuốc phiện và đàn hát. Điều muốn nói trong tác phẩm không phải
là bản thân của sự trụy lạc mà là tâm trạng khủng hoảng cực độ của một thanh niên
trí thức bất mãn với xã hội, muốn thoát ra khỏi gọng kìm của nó nhưng tự biết
Nhóm 1

Page 4



Nguyễn Tuân- một ngòi bút tài hoa uyên bác

không sao thoát được nên lao vào hành lạc để tiêu sầu, lấy cái ồn ào của truy hoang
để khuấy động một cách giả tạo những ngày tháng trống rỗng của mình.
Tuy nhiên, Chiếc lư đồng mắt cuavẫn có nhiều nét đặc sắc. Đó là khi cây bút tài
hoa bất đắc chí trả thù xã hội, ném giọng khinh bạc đúng vào những đối tượng
đáng khinh.Ngoài ra, còn có những trang viết đột ngột vút lên chất thơ của một tâm
hồn, tuy sống trong trụy lạc vẫn muốn vươn lên một cái gì trong trẻo. Nhân vật
trong tác phẩm là những con người tài hoa, tài tử, lâm vào cảnh bê tha, trụy lạc mà
vẫn ngông nghênh, kiêu ngạo. Bị xã hội trưởng giả khinh bỉ vì hư hỏng, họ đã
khinh bỉ lại bằng tài hoa nghệ thuật của mình. Họ quây quần, gắn bó với nhau, lấy
tiếng đàn, giọng hát mà giải oan, chiêu tuyết cho nhau, mượn đôi cánh của nghệ
thuật mà dìu đỡ nhau bay lên, cất mình lên khỏi những cõi đời bất công, thô lỗ và
phản trắc.
Tác phẩm được viết với nhiều giọng điệu khác nhau: giọng kiêu bạc, ngạo đời
hoặc mỉa mai chua chát ném vào thế thái nhân tình, giọng buồn thảm, thê lương
như chạm vào chỗ sâu kín nhất của tâm hồn cô độc, giọng tự trào ỡm ờ, nửa trịnh
trọng, nửa đùa cợt, giọng trữ tình cổ kính,…Tính đa giọng điệu ấy đã thể hiện một
cái tôi tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân được khẳng định và tồn tại rực rỡ là ở tập truyện Vang bóng một
thời mà Vũ Ngọc Phan cho rằng: “gần đạt tới độ hoàn mỹ”. Bế tắc và vô vọng
trước hiện tại và tương lai, Nguyễn Tuân quay về quá khứ tìm kiếm ca ngợi những
vẻ đẹp “vang bóng một thời”.
Vang bóng một thờivẽ lại cái đẹp xưa của thời phong kiến suy tàn. Thời có
những ông Nghè, ông Cử, ông Tú chơi lan, chơi cúc vui thú điền viên, uống rượu,
ngâm thơ,…Với phẩm chất nghệ thuật của tác phẩm đã đặt Nguyễn Tuân vào một
vị trí chắc chắn trong đời sống văn học. Thành công của tác phẩm, về mặt này,
chẳng những nhờ người viết đã am hiểu, đã sống, yêu mến, nâng niu thật sự những
điều mình thuật tả, mà do ông còn biết dựng lại cái cổ xưa bằng khả năng của bút
Nhóm 1


Page 5


Nguyễn Tuân- một ngòi bút tài hoa uyên bác

pháp, kỹ thuật hiện đại: khả năng phân tích tinh vi từ cảm giác, ý nghĩ của nhân vật
đến đường nét, màu sắc của cảnh vật và khả năng vận dụng cách quan sát của
nhiều ngành nghệ thuật khác nhau từ hội họa đến điêu khắc, âm nhạc, vũ đạo,…Tất
cả đã làm nên một Nguyễn Tuân uyên bác, am hiểu mọi lĩnh vực, mọi ngóc ngách
của đời sống.
Từ những bế tắc, khủng hoảng sâu sắc đã đẩy Nguyễn Tuân quay về thế giới
yêu ma, viết truyện “yêu ngôn” hoang đường.Và dù là chuyện ma thì cũng là ma
tài hoa, tài tử, ma rất Nguyễn Tuân. Người xưa dù viết truyện thần tiên, ma quỷ thì
cũng là để tải đạo răn đời nhưng Nguyễn Tuân viết “yêu ngôn” không nhằm mục
đích ấy. Với ông, “yêu ngôn” trước hết phải là yêu ngôn.Tác giả có ý thức gia công
nhiều vào cái phần thần kì, quái đản của nhân vật, cảnh vật, tình tiết, chi tiết và
nhất là vào cái không khí ma quái của truyện.
Nguyễn Tuân thật sự uyên bác và tài hoa, để viết được những trang như thế, nhà
văn phải thực sự đắm mình trong thế giới nghệ thuật do mình sáng tạo ra. Có nghĩa
là ông phải “sống thật sự” với những hồn qua để quan sát cảm xúc và ngẫm nghĩ.
Nhờ thế mà ông có thể tạo ra được những cảnh tượng khó phân biệt được là âm
hay dương, là sống hay chết, là thế giới tưởng tượng hay là thế giới thực.
Trước 1945, Nguyễn Tuân- một nhà văn lãng mạn đã tìm đến những hệ đề
tài đa dạng thể hiện chân thực cái tôi tài hoa, uyên bác ở mọi lĩnh vực. Trang văn
Nguyễn Tuân còn là sự kết hợp cùng lúc nhiều mảng đề tài để bật lên sự tài hoa,
am hiểu của con người ham “xê dịch” và đam mê cái đẹp, phản kháng thời đại, một
cái tôi ngông đúng nghĩa Nguyễn Tuân.
2.1.2 Sau Cách mạng tháng Tám
Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân đến với cách mạng, kháng chiến

và trở thành cây bút tiêu biểu của nền văn học mới.Nguyễn Tuân viết nhiều và đề
tài chủ yếu là đề tài về cuộc sống mới.Ông không “xê dịch” nay đây mai đó nữa
mà đến với từng địa chỉ cụ thể.Tuy nhiên ông không đi thực tế mà chỉ đi và viết,
Nhóm 1

Page 6


Nguyễn Tuân- một ngòi bút tài hoa uyên bác

tức là đi theo nhu cầu tự thân của người nghệ sĩ. Ông không ca ngợi một chiều
những con người với chủ nghĩa xã hội, xây dựng đất nước mà thường viết về vẻ
đẹp của thiên nhiên và cuộc sống lao động, chiến đấu của con người.
Tùy bút Đường vuiđánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ của ngòi bút Nguyễn
Tuân. Tác phẩm mang chất men say buổi đầu của người nghệ sĩ đang hòa mình vào
cuộc sống mới. Đường vuiviết về chuyến đi dài, chuyến đi hòa nhập với nhân dân,
với cuộc sống, thể hiện sự say sưa của tác giả trong không khí rạo rực, náo nức của
cuộc kháng chiến.
Sau Đường vui, Nguyễn Tuân viết Tình chiến dịchcũng là con đường hòa
nhập với thiên nhiên.
Năm 1960, Nguyễn Tuân cho ra đời tập tùy bút Sông Đà, đánh dấu bước
phát triển ngoạn mục của lời văn Nguyễn Tuân sau cách mạng.Sông Đà gồm 15
mẫu tùy bút và một bài thơ phác thảo, tác phẩm đã tô dậm phong cách nghệ thuật
uyên bác, độc đáo và tài hoa của Nguyễn Tuân.
Ở Sông Đà ta bắt gặp một phong cách đặc trưng của Nguyễn Tuân, đó là sự
gắn bó với cái đẹp, nhìn con người, cuộc sống ở dạng thẩm mĩ của nó. Tác phẩm
ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, đát nước, con người của cuộc sống mới. Sự hòa
hợp vào mọi thứ xung quanh đã giúp ngòi bút Nguyễn Tuân sau Cách mạng có
thêm một sức mạnh dồi dào. Tác phẩm không chỉ viết về thiên nhiên Tây Bắc mà
còn ca ngợi vẻ đẹp lòng người mà Nguyễn Tuân gọi là “chất vàng mười” của tâm

hồn người Tây Bắc. Nguyễn Tuân đã tìm thấy “chất vàng mười” ấy ở những chiến
sĩ cách mạng kiên cường bất khuất ở nhà tù Sơn La.Nguyễn Tuân đã nhìn thấy chất
nghệ sĩ, chất tài hoa ở những con người lao động bình thường nhất.
Tác phẩm Người lái đò sông Đà là bài ca về cái đẹp của cuộc sống con
người.Qua tác phẩm, Nguyễn Tuân đã vẽ nên một bức tranh sống động về thiên
nhiên hùng vĩ và sức mạnh chinh phục của con người. Nhân vật người lái đò với
Nhóm 1

Page 7


Nguyễn Tuân- một ngòi bút tài hoa uyên bác

trận hỗn chiến không cân sức với dòng sông đã trở thành bản hùng ca về con người
mới.
Năm 1964, Nguyễn Tuân viết Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi khai thác đề tài chống
Mĩ. Ngòi bút Nguyễn Tuân thiên về cái đẹp, nét đẹp của người Việt Nam trong
kháng chiến.
Trong Xuân lửa trên sông Gianh và sông Tuyến, Nguyễn Tuân tả cảnh mùa
xuân 1965 thắng Mĩ rực rỡ hoa vàng.Trong Nhà thương Tân Sơn Nhất cắt bỏ bàn
tay một quan ba tàu bay An Nam, Nguyễn Tuân tả cảnh người dân Hà Nội trong
súng đạn vẫn không chịu để “một cánh hoa nào rụng vãi vì vướng vấp, hốt
hoảng”.Theo giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh, dưới ngòi bút Nguyễn Tuân “Người
Việt Nam ta đánh Mĩ vừa anh hùng vừa tài hoa, tư thế ung dung, sang trọng…Một
dân tộc không chỉ có tình nghĩa mà còn có cả văn minh nữa”.
Sau Cách mạng, ngòi bút Nguyễn Tuân đã biết tìm đến những hiện tượng mang
cảm giác mạnh ở những phong cảnh đẹp, hùng vĩ của thiên nhiên, đất nước và
những chiến công của nhân dân trong chiến đấu và xây dựng.Những tác phẩm của
ông lúc này không đối lập qua khứ và hiện tại, đối với ông, cái đẹp có ở cả quá khứ
và hiện tại, tương lai mà tài hoa ở cá nhân đại chúng.

Sau Cách mạng, Nguyễn Tuân vẫn dùng thể văn tùy bút nhưng có pha chút kí
với bút pháp hướng ngoại để phản ánh hiện thực, ghi chép thành tích chiến đấu,
xây dựng của nhân dân.
2.2 Hình tượng nghệ thuật
Cái biểu hiện quan trọng nhất cho phong cách Nguyễn Tuân chính là cái nhìn.
Cái nhìn của ông độc đáo ở chỗ chỉ nhìn sự vật ở phương diện văn hóa thẩm mỹ và
con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Điều này cũng thể hiện sự tài hoa uyên
bác của tác giả.

Nhóm 1

Page 8


Nguyễn Tuân- một ngòi bút tài hoa uyên bác

2.2.1 Hình tượng con người
Đối với Nguyễn Tuân, con người dù ở địa vị xã hội nào hay làm bất cứ công
việc gì, nếu như có hành động đẹp thì đều là nghệ sĩ. Trước Cách mạng tháng Tám,
con người Nguyễn Tuân hướng tới và ca ngợi những “con người đặc tuyển, những
tính cách phi thường”. Sau Cách mạng tháng Tám, nhân vật tài hoa nghệ sĩ của
Nguyễn Tuân có thểtìm thấy ngay trong cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của
nhân dân.
Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân là một người tài tử, thích chơi
“ngông”, mắc cái bệnh ham mê thanh sắc, thích chiêm ngưỡng, chắt chiu cái Đẹp
và nhấm nháp những cảm giác mới lạ. Sau Cách mạng tháng Tám, nhà văn nhạy
cảm với con người mới, cuộc sống mới từgóc độthẩm mĩ của nó. Nhưng không còn
là một Nguyễn Tuân “nghệthuật vị nghệthuật” nữa. Ông đã nhìn cái đẹp của con
người là cái đẹp gắn với nhân dân lao động, với cuộc sống đang nảy nởsinh sôi,
đồng thời lên án, tốcáo chếđộcũ, khẳng định bản chất nhân văn của chếđộmới.

Nguyễn Tuân tiếp cận con người ởphương diện tài hoa, nghệsĩ.Vẫn là ngòi
bút tài hoa, uyên bác, lịch lãm, vận dụng tri thức tổng hợp củanhiều ngành văn hóa
nghệthuật khác nhau trong miêu tảvà biểu hiện.Vẫn sử dụng vốn ngôn từhết sức
tinh lọc, phong phú, độc đáo. Khả năng tổchức câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình, có
nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi nhịp nhàng.Các phép tu từ được nhà văn phối
hợp vô cùng điêu luyện.
Thông qua nhân vật người lái đò sông Đà và nhân vật Huấn Cao ta sẽ thấy
rõ hình tượng con người trong sáng tác được Nguyễn Tuân khắc họa tài hoa,tài tình
như thế nào.
Nhân vật người lái đò sông Đà có ngoại hình và những tốchất khá đặc biệt:
tay “lêu nghêu”, chân “khuỳnh khuỳnh”, “giọng ào ào như tiếng nước trước mặt
ghềnh”, “nhỡn giới vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó”... Đặc
Nhóm 1

Page 9


Nguyễn Tuân- một ngòi bút tài hoa uyên bác

điểm ngoại hình và những tốchất này được tạo nên bởi nét đặc thù của môi trường
lao động trên sông nước. Ông lái đò là người tài trí, luôn có phong thái ung dung
pha chút nghệsĩ: ông hiểu biết tường tận về“tính nết” của dòng sông, “nhớ tỉ mỉ
như đóng đanh vào lòng tất cảnhững luồng nước của tất cảnhững con thác hiểm
trở”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”, “thuộc quy luật phục kích của
lũ đá nơi ải nước hiểm trở”, biết rõ từng cửa tử, cửa sinh trên “thạch trận” sông
Đà. Đặc biệt, ông chỉhuy các cuộc vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan và biết
nhìn những thửthách đã qua bằng cái nhìn giản dịmà không thiếu vẻlãng mạn....
Ông lái đò rất mực dũng cảm trong những chuyến vượt thác đầy nguy hiểm: tả
xung hữu đột trước “trùng vi thạch trận” của sông Đà, kiên cường nén chịu cái đau
thểxác do cuộc vật lộn với sóng thác gây nên, chiến thắng thác dữbằng những động

tác táo bạo mà vô cùng chuẩn xác, mạch lạc (tránh, đè sấn, lái miết một đường
chéo, phóng thẳng....Ông lái đò là một hình tượng đẹp vềngười lao động mới. Qua
hình tượng này, Nguyễn Tuân muốn phát biểu quan niệm: người anh hùng không
phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có cảtrong cuộc sống lao động thường ngày.
Ông lái đò chính là một người anh hùng như thế.
Nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một
con người tài hoa, khí phách hiên ngang bất khuất, “thiên lương” trong sáng. Vẻ
đẹp của hình tượng Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn, có sức chinh phục, cảm hóa
mãnh liệt đối với những con người có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”.Hình tượng
Huấn Cao là hình tượng điển hình cho vẻ đẹp ‘vang bóng một thời” nay đã lùi vào
quá khứ chỉcòn dư âm trong tâm trạng của những tấm lòng tích cổthương kim
(Những người muôn năm cũ/Hồn ởđâu bây giờ - Vũ Đình Liên).
2.2.2 Hình tượng thiên nhiên
Nguyễn Tuân cũng là một con người yêu thiên nhiêntha thiết. Ông có nhiều
phát hiện hết sức tinh tế và độc đáo về núi sông cây cỏ trên đất nước mình. Phong

Nhóm 1

Page 10


Nguyễn Tuân- một ngòi bút tài hoa uyên bác

cách tự do phóng túng và ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân đã khiến Nguyễn Tuân
tìm đến thể tuỳ bút như một điều tất yếu.
Trong văn Nguyễn Tuân, thiên nhiên là những công trình thiên tạo tuyệt vời,
cũng là những nhân vật có tính cách, có thần thái.Một nét đặc sắc nữa trong phong
cách Nguyễn Tuân là ông thường miêu tả những cảnh đẹp tuyệt mỹ, tuyệt đích; cái
đẹp ấy là sự hội tụ của cái đẹp thi vị trữ tình và vẻ đẹp hoành tráng dữ dội đến dữ
dằn.

Hình tượng sông Đà trong tùy bút Người lái đò sông Đà không còn là con
sông của thiên nhiên- địa lý mà là một nhân vật có tính cách vừa hung bạo vừa trữ
tình. Đến với tùy bút này, trước hết, ta cảm thấy "sởn gai ốc" khi Nguyễn Tuân
miêu tả thác đá sông Đà. Hai bên bờ sông dựng đứng vách đá như những hùm beo,
ăn chẹn lòng sông Đà, gợi lên thế hiểm trở của dòng sông: "Những vách đá bờ
sông dựng vách thành (…), có chỗ vách đá thành chẹn lòng sông Đà như một cái
yết hầu". Cái dữ dội của nước, hút nước, thác và thạch bàn trận trên sông Đà đã
khơi nguồn cảm hứng nghệ thuật cho nhà văn.Nước sông Đà như uẩn ức, oán thán
mà thành "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gằn gè suốt
năm như lúc nào cũng đòi nợ suýt".Nhà văn tưởng tượng ra cái hút nước sông Đà
giống như "cái giếng bê tông (…) nước ở đây thờ và kêu như cái cửa cống bị
sặc".Cái đẹp dữ dội, hoành tráng của dòng sông làm người đọc giật mình nhưng
không gây cảm giác sợ hãi, rợn ngợp.Thác sông Đà "như tiếng một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn giữ rừng vầu, rừng tre nổ lửa, phá tuông rừng lửa, rừng lửa
cũng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng". Con sông như đang lồng lộn trong
một cơn cuồng phong, giống như một người trong cơn thịnh lộ ghê gớm. Cái mặt
dữ dằn của sông Đà còn hiện lên trên gương mặt đá: "Mặt hòn đá nào cũng ngỗ
ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm, méo mó (…) tiu nghỉu xanh lè". Con sông Đà
hung bạo như hùm, beo, thuỷ quái đã giúp Nguyễn Tuân tô đậm vẻ đẹp của núi
rừng Tây Bắc hùng vĩ uy nghiêm.
Nhóm 1

Page 11


Nguyễn Tuân- một ngòi bút tài hoa uyên bác

Trong sáng tác của ông, kì quan nào cũng là kì địa. Cà Mau là một kì
địa.Nguyễn Tuân gọi đó là “ngón chân cái Tổ quốc chưa khô bùn vạn dặm” (Vẫn
cái tiếng dội Cà Mau ấy). Cheo leo ở địa đầu phía bắc Tổ quốc, Lũng Cú, Quỳnh

Nhai, Than Uyên, Tây Trang đều là những kì địa. Ta nhận ra đó là kì địa, trước hết
vì chỗ nào cũng được nhà văn mô tả như những “hiểm địa”, có thể gọi là “cực
hiểm”, “chí hiểm”. Than Uyên ở vào vị thế “chí hiểm”, nó là một vùng “u uất quẩn
gió”, gió cũng không có đường, chẳng biết đi lối nào. Chỉ cần nghe tên mấy cái
đèo được Nguyễn Tuân nhắc tới trong Suối quặng, ta biết ngay Hà Giang là một kì
địa: đèo “cổng giời Long Bánh Chè”, hoặc đèo “Con Ngựa Trụy Thai”… Người lái
đò sông Đà được mở ra bằng câu đề từ: “Chúng thủy giai Đông tẩu. Đà giang độc
Bắc lưu”- “Mọi dòng sông đổ về phía Đông.Riêng sông Đà chảy ở phía Bắc”.Câu
đề từ tự nó đã giới thiệu về dòng sông như một kì địa.Hai bên bờ sông Đà vách núi
dựng đứng, lòng sông có những quãng rất hẹp. Trên sông Đà có đến mấy trăm thác
nước, riêng đoạn đầu nguồn, từ chỗ dòng sông đổ vào Việt Nam, thác nào cũng
hung hiểm. Sau thác nước và những cái hút nước khủng khiếp chết người là “thạch
trận” với đủ “cửa sinh”, “cửa tử” và các ngón “võ”, nào “đòn âm”, “đòn gió”,
“đánh vỗ mặt”, “đánh vu hồi”, “túm thắt lưng”, “thúc hạ bộ”… giăng ra khắp nơi,
rình rập sự sống của con người.
Nguyễn Tuân thường “mượn oai” của thần gió và thần nước để mô tả các kì
địa như những hiểm địa. Âm thanh thác nước trong bài kí Người lái đò sông Đà
thực sự là một thứ kì thanh, kì âm: “…Còn xa lắm mới đến cái thác dưới.Nhưng
đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên.Tiếng nước thác nghe như là oán
trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo.
Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng
vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tung rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét với đàn
trâu da cháy bùng bùng…” (Người lái đò sông Đà). Gió bão ngoài Cô Tô (Cô Tô),

Nhóm 1

Page 12


Nguyễn Tuân- một ngòi bút tài hoa uyên bác


gió Lào ở Thanh Hoá (Gió Lào), hay gió ở Than Uyên (Gió Than Uyên) thực sự là
những kì phong.
Đọc văn Nguyễn Tuân, thấy kì quan, một mặt là kì địa, hiểm địa, mặt khác
lại là những công trình mĩ thuật tuyệt đỉnh, tuyệt vời. Có một thời, Chế Lan Viên
nghe thấy Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát, Tố Hữu nhìn thấy Nước non mình đâu
cũng đẹp như tranh. Trong cái nhìn của Nguyễn Tuân, “hoa” và “thơ Đường”, một
công trình nghệ thuật tuyệt đỉnh của tạo hoá và một công trình nghệ thuật tuyệt
đỉnh của con người, trở thành biểu tượng của trạng thái nhân sinh. Đó là những
hình dung từ thường xuyên được ông sử dụng để tạo nghĩa cho hình tượng kì quan
Tổ quốc. Với Nguyễn Tuân, một cánh đồng muối, một người phụ nữ cho con bú
trong nhà hộ sinh, màu vôi trắng của nhà ở hoà quyện với màu xanh phủ khắp đất
nước cũng làm thành một Trang hoa. Ông gọi con đường mới mở ở Tây Bắc là
Một bài thơ Đường. Ông thấy màu nước sông Đà ánh lên “màu nắng tháng ba
Đường thi”. Trên những trang văn của ông, đất nước ta, mỗi con người là một
“bông hoa”, đâu đâu cũng là những “làng hoa”, “tờ hoa”, “trang hoa”, “vườn
hoa”… Tây Bắc là một Tờ hoa và “Việt Nam là cái vườn đẹp trên đó nở rất nhiều
hoa, ra rất nhiều trái”. “Tây Bắc cũng là một cái vườn hoa trong đó mỗi dân tộc
của mấy mươi dân tộc ít người là một giống hoa đượm nhiều màu sắc.Và chế độ
cộng hoà dân chủ chúng ta giống như một người làm vườn khổng lồ vô cùng nhân
ái đang ra công vun xới cho khu vườn Tây Bắc nở thêm nhiều hoa và hoa Tây Bắc
phải kết nhiều trái quả” (Xoè).
Nguyễn Tuân sử dụng điêu luyện các “ngón nghề” của điện ảnh, hội hoạ, tạo
ra những cảnh tượng kì hình, kì sắc để lột tả vẻ đẹp tuyệt đỉnh, tuyệt vời của các
công trình mĩ thuật mà tạo hoá ban tặng cho con người. Qua con mắt hội hoạ của
ông: “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói
núi Mèo đốt nương xuân” (Người lái đò sông Đà). Ông nhìn thấy màu nước sông
Nhóm 1


Page 13


Nguyễn Tuân- một ngòi bút tài hoa uyên bác

Đà thay đổi theo mùa: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không
xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ
chín đỏ như da một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một
người bất mãn bực bội vì mỗi độ thu về…” Trên trang văn của Nguyễn Tuân, sông
Đà không chỉ là vùng kì địa, là thế giới kì sắc, kì thanh, mà còn là dòng chảy của
những bước nhịp kì thú, khi thì gấp gáp, cuồn cuộn, sôi réo, lúc êm ả, chậm rãi,
thong dong: “Thuyền tôi trôi trên dòng sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng
lờ.Hình như từ đời Lý đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng lờ đến thế mà
thôi.Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa.Mà tịnh
không một bóng người.Cỏ tranh đồi núi đang ra những nõn búp.Một đàn hươu cúi
đầu ngốn búp cỏ tranh đẫm sương đêm.Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ
sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa…”
2.3 Nghệ thuật
2.3.1Ngôn từ
Nguyễn Tuân có ý thức nghiêm túc về lao động sáng tạo nghệ thuật nên rất
quan trọng việc sáng tạo ngôn từ và dành rất nhiều tâm huyết cho nó. Ông sợ ngôn
từ của mình bị “cứng đơ, thấp khớp”, và luôn khao khát những con chữ “có gân, có
mác”, con chữ phải thể hiện khát khao tung hoành của một đời người. Ngôn ngữ
nghệ thuật của Nguyễn Tuân tài hoa uyên bác, giàu tính tạo hình, biểu cảm, giàu
nhạc điệu, biến hóa linh hoạt, vốn từ vựng phong phú và rất có ý thức tích lũy ngôn
từ. Mỗi tác phẩm của ông là một công trình điêu khắc, chạm trổ tinh vi về ngôn từ
nghệ thuật. Lại Nguyên Ân khen: "con người ông, phong cách ông cũng đẹp một
cách độc đáo như câu văn ông, loại câu văn có một không hai trong nghệ thuật
ngôn từ tiếng Việt".
Nét độc đáo trước tiên trong ngôn từ nghệ thuật của văn chương Nguyễn

Tuân, là ông biết khai thác tối ưu hiệu ứng âm thanh của tiếng Việt đơn âm tiết,
nhưng lại đa thanh điệu, tạo cho câu văn giàu tính nhạc vang hưởng chất thơ.
Nhóm 1

Page 14


Nguyễn Tuân- một ngòi bút tài hoa uyên bác

Những năm trước và sau thập kỷ sáu mươi, Nguyễn Tuân nhiều lần len lỏi giữa
rừng Việt Bắc đại ngàn. Với một tình yêu rừng da diết, nhà văn như đang nghe giai
điệu rừng dội từ vách đá, vọng xuống lũng sâu, cộng hưởng vào tâm hồn chan chứa
thơ nhạc của người bộ hành - Nghệ sĩ Nguyễn Tuân. Ông đã dùng những nét chữ
để ký âm khúc nhạc rừng độc đáo: "Lòng tôi sao toàn là những cảm xúc của một
người bộ hành thời Trung cổ đặt chân vào giữa một vùng Cổ đại. Đầu toàn nhớ lại
những âm từ thơ Đường. Cảnh nơi dọc đường cũng Tùy Tùy Đường Đường cũng
Lý Lý Trần Trần như thế thôi.Nhịp sống, nét sống cũng phong phong trần trần
mộng mộng đào đào nguyên nguyên vậy".
Đọc đoạn văn sau, chưa cần tìm vào ý nghĩa, chỉ nghe âm hưởng vang lên,
cũng đã gợi trong ta liên tưởng như những tiếng nức nở của Chiêu Quân cống Hồ
đồng vọng trong tâm hồn đời chị Hoài như vại dưa muối đã hỏng: "Nương theo cái
chiều tưởng tượng gây gây mùi hoài cựu, tôi nghĩ xa, tôi nghĩ gần, rồi tôi nhận
thấy cả một đời chị Hoài cũng chỉ là một đời một nàng Hạnh Nguyên bước đi một
bước là thêm một bước cống Hồ. Rặt cống Hồ. Cống Hồ. Toàn là nhịp cống Hồ.
Toàn là cung Nam. Nó chìm hẳn xuống như những tiếng tơ rầu".
Nguyễn Tuân rất có tài khai thác sức gợi về mặt ý nghĩa tạo ra bởi mặt âm
thanh của ngôn từ. Ông từng bình rất hay về các từ láy đôi, láy ba; các cảm quan ý
nghĩa với những từ mang phụ âm đầu KH trong bài "Tán về ngôn ngữ". Trong
"Lửa sinh nhật", ông nhại tiếng súng các loại: "Này thì Bục - Này thì Toác",
"Choét! Choét! ung!" ta nghe mà liên tưởng cái đồn Đại Bục, Đại Phác kiên cố của

quân địch, trước sức công phá dữ dội của chiến sĩ cách mạng, đã nhanh chóng bục,
toác, nhão nhoét, ung thối ra.Vạch mặt một tên thối tha ở phố Cống Thần, nhà văn
đã gọi hắn với một cái tên mang hai phụ âm b, l nghe mà phát tởm.Cách đặt tên
cũng là một thủ pháp nghệ thuật quan trọng. Vũ Trọng Phụng có cái tài trào lộng
loại người tha hóa về mặt đạo đức, băng hoại về lương tâm nhân phẩm, bằng cách
đặt cho chúng những cái tên hoa mỹ như Văn Minh, Phó Đoan, Tuyết, TYPN,...
Nhóm 1

Page 15


Nguyễn Tuân- một ngòi bút tài hoa uyên bác

Trong khi đó, Nguyễn Tuân lại châm biếm bọn "ưng khuyển phệ - loại yên hùng
bay" đắt giá tốn kém trong quá trình huấn luyện kỹ thuật tiến hành "chiến tranh
sạch sẽ" bằng cách phiên âm tên chúng kiểu "Oét-mô-len" thành Vét mồ lên. Tên
tù binh bay được Nguyễn Tuân phiên âm thành đồ "Lạc-xon" phế thải; Đức cha
Tuyên Uáy biểu tượng cho đạo đức bác ái thành tên xúi giục "Xít - pen - men"; cơ
quan ngôn luận lẽ ra phải nói sự thật rành rọt, lại líu ngọng thành "U Pê U Pi". Đây
không hề là sự ngẫu nhiên, vì khi đề cập đến những vĩ nhân của lịch sử Mỹ như
Washington, Lincoln, hay các văn thi sĩ đáng quý như Edgar Poe, Jack London,
Hemingway nhà văn đã viết một thứ chữ tiếng Anh trang trọng. Hiện tượng này có
mối liên hệ ảnh hưởng nào chăng giữa Nguyễn Tuân với Bác Hồ. Như khi Bác viết
hai bài "Dốt như bò" và "Xa lăng xa lù" đăng báo Nhân Dân ngày 14/ 2/1952 và
30/ 3/1952, châm biếm những tên thực dân Pháp là Tat-xi-nhi và Xa-lăng. Về tên
Tat-xi-nhi, Bác viết: "Thế là Tat-xi-nhi đã bị bạn nó tát vào mồm":
Kết luận thói huênh hoang của tên Xa-lăng, Bác viết:
"Xa lăng xa lù
Càng nói càng ngu
Ta đánh mạnh đánh mãi

Giặc thất bại lu bù".
Về mặt từ ngữ, Nguyễn Tuân đã thừa hưởng lớn phần "hương hỏa" "kết tinh
bởi trăm nghìn công sức lao động của tổ tiên truyền lại". Vì vậy, với tấm lòng tri ân
trân trọng, nhà văn có ý thức trách nhiệm làm thể nào để bồi bổ tiếng nói dân tộc
phải "giàu thêm mãi về cả chữ dùng, cả cách nói của ngôn ngữ Việt" .
Về mặt cú pháp, câu văn của Nguyễn Tuân có cấu trúc trùng điệp, để khắc
họa đậm nét tính cách của nhân vật và sự đa diện của hình tượng. Người đọc
thường có những xung động thẩm mỹ thú vị, gợi liên tưởng đến nhiều tầng nghĩa
khác nhau, qua sự mở rộng tối đa những vị ngữ, bổ ngữ...

Nhóm 1

Page 16


Nguyễn Tuân- một ngòi bút tài hoa uyên bác

Nói về thân phận hèn mọn của thầy Lý trong Một vụ bắt rượu lậu, nhà văn
viết: - "Nghĩ đến đấy, thầy Lý không dám giữ đầu mình cho thẳng thắn, chỉ muốn
cúi mặt mình xuống đất, hết nhìn đôi ủng da tây của quan Phủ, đôi guốc kinh của
ông Đề và đôi bàn chân lấm của mình. Thầy Lý lúc này là sự hóa thân của một sự
sợ hãi".
Thủ pháp kết hợp những từ ngữ cùng trường nghĩa vào trong câu, đoạn văn,
có thể xem là sự vận dụng thành công của Nguyễn Tuân.Câu văn của ông "co
duỗi" một cách linh hoạt. Có khi gợi cảm giác vón cục kết tinh lại qua những câu
văn ngắn, khô như: "Một tiếng loa. Một tiếng trống.Ba tiếng chiêng", "Hết cả lã
chã". Nhưng thường thì câu văn Nguyễn Tuân gợi cảm giác không gian đang mở
rộng, thời gian được kéo dài, bởi những từ ngữ chỉ phương hướng, chiều kích gắn
kết vào nhau bằng những từ chỉ thì thời gian. Đoạn văn sau cho ta cảm giác ấy
"Dọc theo con đường ở Phù Yên đang rộng ra, đang dài thêm mãi ra và thẳng

duỗi ra, cuộc sống lao động tập thể đang cất lên cơ man là mái nhà mới, những
ngôi nhà gianh nhà nứa mới. Nhà mới mọc đến đâu thì cây rừng bị thu hẹp đến
đấy".
Câu văn của Nguyễn Tuân đan chéo nhau các phương chiều của không - thời gian
qua liên tưởng miên man của tác giả, như những thước phim điện ảnh, hội tụ nhiều
mảng không gian, đồng hiện nhiều khoảnh khắc thời gian, tạo ra hình ảnh đối lập
sinh động nói lên sự vận động phát triển của con người - đất nước Việt Nam, từ nô
lệ nghèo đói, đau thương khổ nhục sang tự do, no đủ hạnh phúc. Nằm trên mỏ
"Than Quỳnh Nhai" nhà văn nghĩ: "Tôi nằm đây là nằm trên những biến thiên biển
xanh nương dâu, trên những xác rừng cổ đại nay khai ra đốt sáng miền Bắc kiến
thiết tổ quốc trong đó mỏ châu Quỳnh Nhai có cái vinh quang được góp phần than
lửa của mình". Ngôn từ văn chương Nguyễn Tuân là hiện tượng đa phong
cách.Nhà văn như nghệ sĩ xiếc ngôn từ. Ông nhại được giọng nhiều vùng miền
khác nhau, huy động thích hợp thuật ngữ nhiều ngành khoa học, nghệ thuật khác
Nhóm 1

Page 17


Nguyễn Tuân- một ngòi bút tài hoa uyên bác

phục vụ cho việc xây dựng hình tượng nghệ thuật văn chương và chuyển tải tư
tưởng, tình cảm đến với bạn đọc, góp phần làm phong phú thêm ngôn ngữ văn
chương xứng đáng là bậc thầy ngôn ngữ của văn đàn hiện đại Việt Nam.
2.3.2 Không gian
“Nếu hiểu thơ ca là sự cảm nhận thế giới và con người thì thời gian, không
gian chính là hình thức để con người cảm nhận thế giới và con người” (Trần Đình
Sử). Mọi sự vật, hiện tượng đều được gắn với hệ tọa độ không - thời gian xác định,
nên những cảm nhận của con người về thế giới đều bắt đầu từ sự đổi thay của
không gian, thời gian. Và từ sự đổi thay của không gian - thời gian, con người nhận

ra sự đổi thay trong chính mình.
Theo tác giả Nguyễn Xuân Kính trong cuốn Thi pháp ca dao thì: “thời gian và
không gian là những mặt của hiện thực khách quan được phản ánh trong tác phẩm
tạo thành thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Thời gian nghệ thuật, không gian nghệ
thuật một mặt thuộc phương diện đề tài, mặt khác thể hiện nguyên tắc cơ bản của
việc tổ chức tác phẩm của từng tác giả, từng thể loại, từng hệ thống nghệ thuật”.
“Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể
hiện tính chỉnh thể của nó”
Tóm lại, không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của hình tượng nghệ thuật.
Không gian nghệ không những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các
ngôn ngữ tượng trưng, mà còn cho thấy những quan niệm về thế giới, chiều sâu
cảm thụ của tác giả hay một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở khách quan để
khám phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của các hình tượng nghệ
thuật.Vì vậy không thể tách hình tượng ra khỏi không gian mà nó tồn tại.

Nhóm 1

Page 18


Nguyễn Tuân- một ngòi bút tài hoa uyên bác

Văn xuôi nghệ thuật Nguyễn Tuân thường chứa đựng những hình tượng không
gian nghệ thuật đa dạng, những mô hình không gian đặc sắc mang mỹ quan độc
đáo của nhà văn.
Sáng tác của Nguyễn Tuân trước 1945 được khắc họa nổi bật mấy hình tượng
không gian trên sự phân loại đại thể, trong đó một số gần như không còn bóng
dáng về sau.
Không gian kí vãng: là một loại không gian có tính chất bao trùm. Đây là loại
không gian mang bóng hình quá khứ được dựng lên bởi hoài niệm, ký ức, hồi

tưởng và cả tưởng tượng nữa.Tác phẩm tiêu biểu chính là Vang bóng một thời.Tất
cả cảnh tượng, cảnh quan đều nằm trong vùng không gian rộng lớn khái quát mang
những nét đặc trưng lịch sử một đi không trở lại.Bằng một vốn từ cổ phong phú có
chọn lựa, Nguyễn Tuân đã khéo dựng cảnh, dựng việc, tạo không khí, đưa người
vào cái không gian cổ kính ấy.Những cái đó quý giá như một tập tranh cổ.Ông đi
tìm những tài tử, tài hoa trong quá khứ, tìm về những nơi xưa cũ với vẻ đẹp một
thời.
Không gian kinh dị: Bằng hư cấu, tưởng tượng độc đáo, Nguyễn Tuân tạo dựng
nên một không gian kinh dị trong một loạt sáng tác mà ông dự định xuất bản thành
một tập từ lâu, có nhan đề Yêu ngôn. Đó là những đoản thiên gồm những truyện
hoang đường, ma quái, kinh dị như Trên đỉnh non Tản, (Vang bóng một thời),
Rượu bệnh, xác ngọc lam, Đới roi, Lửa nến trong tranh, Loạn âm... và sau này là
Chùa đàn II (Tâm sự của nước độc).Có thể kể vào loại không gian này khung cảnh
những truyện giàu chất hiện thực, loại “vang bóng thời nay” cũng mang nhiều yếu
tố kỳ quái, kinh dị.Bởi truyện tạo ra những ấn tượng, những cảm giác - ít thì rờn
rợn, nhiều hơn là sợ hãi, những ám ảnh ma mị (Chữ người tử tù, Bữa rượu máu,
Khoa thi cuối cùng).
Nhóm 1

Page 19


Nguyễn Tuân- một ngòi bút tài hoa uyên bác

Chùa Đàn thực sự quái dị. Không khí ma quái ở tất cả: từ cái ấp Mê Thảo, hũ
rượu “Vô cố nhân”, “Ức sấu viên”... trong mả rượu đến cái đàn quái đản mà thành
đàn nhễ nhại, mồ hôi đổ ra như tắm và thùng đàn phát những tiếng thở dài quái gở;
có lúc lại vẳng ngân một tiếng cuồng loạn: cây đàn giết người ấy ai sờ vào là mất
mạng; những sợi dây đàn đứt phựt rỏ máu đọng thành giọt lóe tia xanh lạnh...
Tiếp theo là cuộc hạ thổ Bá Nhỡ - người tự nguyện đổi mạng sống để lấy phút

sống thăng hoa của tiếng đàn, câu hát, biến thành con ma tài hoa muôn thuở. Cùng
lúc là sự phát hỏa của gò rượu từ cái lênh láng trong miệng huyệt rượu như sự giải
thoát phóng đãng của những ma men.Nhiều nhà nghiên cứu đã lý giải Chùa Đàn.
Đúng là có sự giải thoát cho sự tìm kiếm những thực đơn mới cho cảm giác ở một
không gian lạ, ngoài thế giới thực tại. Ta nhớ Nguyễn Tuân viết trong trạng thái bất
định về tâm hồn, cũng có thể nói là sự khủng hoảng trong tìm đường một thời gian
khá dài để vùng thoát khỏi o bế, tù túng. Nhưng cần nói kỹ hơn một điều, đó cũng
là sự kiếm tìm của con mắt nhìn mang tính chất mỹ học. Tạo ra một không gian
đặc hiệu như vậy có thể so sánh với sự sáng tạo một khách thể lạ trong Điêu tàn
của Chế Lan Viên. Đó là thế giới ma quái đầy huyệt mộ và bóng ma, thế giới của
tủy xương và máu.Mỗi người đều chứa chất qua đó ngụ ý khác nhau. Cái nhìn của
Chế Lan Viên siêu hình còn con mắt nghệ thuật Nguyễn Tuân lại hiện thực. Ta biết
Nguyễn Tuân là người mê Liêu trai chí dị. Thời nay đi trên Tây Bắc ngày hòa bình
mà ông vẫn có cảm giác “thấy tênh tênh mà tan quạnh cả đi như người và lầu Liêu
Trai”. Đắm mình vào dòng văn học cổ điển dân tộc, Nguyễn Tuân có thể còn tìm
cảm hứng từ những truyện lạ đầy yếu tố hoang đường của
Không gian văn hóa giàu tính chất xã hội và màu sắc dân tộc.Nguyễn Tuân
là người sống có văn hóa, văn minh, tức là sống đẹp. Ông chủ trương “chơi cảnh,
chơi người”(Chiếc lư đồng mắt cua). Đối với con người ông trọng nhân cách đẹp,
con người đẹp, thậm chí là tâm linh đẹp.Ta bắt gặp một không khí hừng hực lửa
Nhóm 1

Page 20


Nguyễn Tuân- một ngòi bút tài hoa uyên bác

cháy và khói trắng trong đêm cho chữ ở nhà tù Tỉnh Sơn (Chữ người tử tù). Đây là
ấn tượng của Nguyễn Tuân về một "cảnh tượng xưa nay chưa từng có".Những
tưởng sẽ chẳng có cảnh gì đẹp giữa không gian nhà tù u tối, "chật hẹp, ẩm ướt,

tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián".Thế nhưng bằng đôi
mắt nghệ sĩ, Nguyễn Tuân đã khám phá ra cái đẹp tinh tế, mới mẻ ở chốn "bùn lầy
nước đọng" ấy. Không gian nhà tù trở thành nơi cho chữ thiêng liêng, gợi không
khí của thời tiền sử với "ánh sáng đỏ rực" của bó đuốc toả sáng đỏ cả không gian,
khói toả bốc lên mờ ảo, huyền bí. Ngỡ như sương mờ của chiều hoàng hôn lạnh
cháy đỏ trời đã thu hẹp và được Nguyễn Tuân đặt trong không gian này. Một cảnh
thơ ảo nhưng cũng rất huyền bí ẩn chứa sức mạnh tiềm tàng.
Không gian tâm trạng: Đó cũng là một phương thức để bộc lộ tâm trạng của cái
tôi mãnh liệt trong những trang văn của Nguyễn Tuân. Được thể hiện rõ trong Một
chuyến đi, Thiếu quê hương…nổi bật vẫn chỉ là cái tôi quanh quẩn, cô độc, u hoài,
buông thả.
Sau 1945, Nguyễn Tuân chú trọng vào các không gian không gian đa chiều:
không gian hiện thực, không gian cuộc sống, không gian con đường…
Nhà văn viết: “Sau Toàn Quốc kháng chiến trong vô số hình ảnh quanh ta thì
hình ảnh con đường, những con đường đập mạnh vào mắt ta, tâm óc ta nhiều nhất.
Con đường đã là một sự”. Có những con đường cụ thể, rất cụ thể: đường đê,
đường máng, đường ruộng, đường núi... Theo chân đi có những quãng đường mà
thường là những bước đường trường. Con người mới không chỉ nhìn bằng mắt mà
còn cảm nhận bằng tim, bằng óc con đường. Từ con đường cụ thể ấy đã thấy một
con đường khái quát, tượng trưng: con đường chiến tranh, con đường xa thẳm của
kháng chiến. Con đường không chỉ quẩn quanh, quấn quýt, quay cuồng trên trang
viết (hơn 40 chữ về đường trên 4 trang sách) mà nó còn nhảy múa trong lòng người
“con đường bây giờ là trọng tâm của suy tưởng chúng ta”.
Nhóm 1

Page 21


Nguyễn Tuân- một ngòi bút tài hoa uyên bác


Không gian sông nước: Sông, hồ và biển cả đã tạo nên không gian sông
nước đặc sắc Nguyễn Tuân Có thể nói sông nước tràn ngập những trang viết về ba
vùng tiêu biểu: Sông Đà, Sông Tuyến và sau này cũng có thể nói là sông nước Cà
Mau cụ thể là “kênh rạch, sông ngòi Cà Mau” bởi vì “Nam Bộ là cả thế giới của
sông nước và kênh ngòi” (tác phẩm tiêu biểu: Vẫn cái tiếng dội Cà Mau ấy).
Này đây là con sông Đà “tuôn dài như một áng tóc trữ tình... Bờ sông hoang
dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”
Nguyễn Tuân khai thác nhiều mảng không gian khác nhau, đa dạng để phù
hợp với sự đa dạng về đề tài, thể hiện sự tài hoa uyên bác của ngoài bút thích xê
dịch của mình.
2.4 Hệ thống thể loại
Nguyễn Tuân không phải là nhà văn thành công ngay từ những tác phẩm đầu
tay. Ông đã thử bút qua nhiều thể loại: thơ, bút kí, truyện ngắn hiện thực trào
phúng.
2.4.1Tùy bút
Tuỳ bút Nguyễn Tuân hấp dẫn người đọc trước hết bởi những trang viết chân
thực với lượng thông tin phong phú, đa dạng, chính xác.
Ông vốn xuất thân là một nhà báo, có vốn sống, vốn hiểu biết khá sâu rộng.
Qua những trang tùy bút của Nguyễn Tuân, có thể thấy ông có mặt ở nhiều nơi,
quan tâm tới nhiều mặt của đời sống, đã quan tâm tới cái gì thì tìm hiểu đến từng
chi tiết nhỏ. Chính vì vậy mà tùy bút của Nguyễn Tuân có lượng thông tin rất cao.
Nhiều bài tùy bút của ông đã cung cấp cho người đọc những kiến thức đa dạng,
nhiều mặt cả về lịch sử, địa lý, địa chất, hội họa, âm nhạc…
Tùy bút Nguyễn Tuân không chỉ giàu chất hiện thực, mang tính thời sự cao,
mà còn đậm đà chất trữ tình, thơ mộng.
Nhóm 1

Page 22



Nguyễn Tuân- một ngòi bút tài hoa uyên bác

Ở tùy bút của Nguyễn Tuân, chất trữ tình đậm đà được kết hợp với chất trí
tuệ sắc sảo, với những liên tưởng phong phú, táo bạo bất ngờ đã làm nên nét độc
đáo riêng biệt của Nguyễn Tuân. Qua các thiên tùy bút, Nguyễn Tuân trò chuyện
với bạn đọc không chỉ bằng trái tim nghệ sĩ giàu cảm xúc mà còn bằng trí tuệ sáng
suốt của một con người từng trải, lịch lãm, có học vấn rộng về nhiều lĩnh vực, có
tác phong nghiên cứu điều tra tường tận, tỉ mỉ. Ông luôn giữ được cảm tình cũng
như sự tin yêu mến mộ của bạn đọc. Có được kết quả đó một phần không nhỏ là
nhờ vào cái “duyên tài tử”, cũng như lối hành văn, cách dẫn truyện hết sức tự
nhiên của Nguyễn Tuân.
Tính chất đa nghĩa của những thiên tùy bút Nguyễn Tuân cũng là một mặt
mạnh trong phong cách nghệ thuật của ông. Đọc tùy bút Nguyễn Tuân, người đọc
phải nghiền ngẫm, suy nghĩ, phải có cùng một tư duy nghệ thuật với nhà văn thì
mới cảm nhận hết được cái hay, cái đẹp của nó.
Một số tùy bút của Nguyễn Tuân:
Tùy bút ( 1941)
Tùy bút 2 ( 1943)
Tùy bút sông Đà ( 1960)…
2.4.2

Truyện ngắn

Nổi bật trong thể loại truyện ngắn của ông là những truyện ngắn hiện thực
trào phúng, ở đó thường vỡ ra những tràng cười châm biếm thoải mái, đậm đà
phong vị dân gian (Ðánh mất ví, Một vụ bắt rượu, Mười năm trời mới gặp lại cố
nhân).
Trong truyện ngắn của Nguyễn Tuân, ta dễ dàng nhận ra sự đa dạng về giọng
điệu và cách thức sử dụng ngôn ngữ trần thuật. Đó là một Nguyễn Tuân với sự giàu
có về ngôn ngữ, tài hoa và nhạy cảm, luôn hướng tới sự mới mẻ, lạ hóa trong sử

dụng ngôn ngữ, là sự kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ kể và ngôn ngữ tả trong lời
văn trần thuật.
Nhóm 1

Page 23


Nguyễn Tuân- một ngòi bút tài hoa uyên bác

Truyện ngắn nổi bật:Vang bóng một thời, Chiếc lư đồng mắt cua, Chữ người
tử tù,…
C. KẾT LUẬN
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Tuân thật xứng đáng ở tầm cỡ nhà
văn lớn. Nói đến ông, người ta nghĩ ngay đến một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, rất
mực tài hoa và độc đáo. Không thể tưởng tượng nổi sẽ lạnh lẽo và tiêu điều tới
mức nào nếu đại ngàn văn chương dân tộc thiếu vắng những nghệ sĩ ngôn từ bậc
thầy như nhà văn Nguyễn Tuân. Ðặc biệt, Nguyễn Tuân "lớn" ở cả hai thời kỳ, từ
cuộc đời cũ đến cuộc đời mới ; vừa là cây bút nổi bật của xu hướng văn học lãng
mạn trước năm 1945 với đủ thứ "tật bệnh điển hình", vừa ở trong hàng ngũ những
nhà văn thành tâm chào đón và chân thành đi theo Cách mạng đến cùng. Trong
hành trình gian khổ hơn nửa thế kỷ ấy có lúc va vấp, có lúc chênh vênh, cũng có
lúc phải tự "lột xác" đớn đau, nhưng nhà văn vẫn luôn giữ trọn vẹn nhân cách, bản
ngã của mình.
Cái “ngông”, suy đến cùng, lại như một giá trị, được đảm bảo bởi sức bền
vững của tài hoa và tầm cao tư tưởng nghệ thuật. Trên đỉnh cao sáng tạo vừa chói
lòa vinh quang vừa cực kỳ cheo leo hiểm trở, nhà văn phải dốc đến kỳ cùng sức
lực để không trở nên nhạt nhẽo, vẫn luôn giữ được nét độc đáo của phong cách
nghệ thuật.
Tinh thần tự nguyện dấn thân, bám trụ ở thành trì cái Ðẹp là biểu hiện sinh
động của một nhân cách văn hóa lớn. Nhà văn Nguyễn Tuân "đặc Việt Nam" (chữ

dùng của Vũ Ngọc Phan) từ quan niệm cho tới thực tế sáng tác. Bên cạnh đó, Giáo
sư Nguyễn Ðăng Mạnh có nhận định: "Hạt nhân của phong cách nghệ thuật
Nguyễn Tuân có thể gói gọn trong một chữ ngông. Cái ngông vừa có màu sắc cổ
điển, kế thừa truyền thống tài hoa bất đắc chí của những Nguyễn Khuyến, Tú
Nhóm 1

Page 24


Nguyễn Tuân- một ngòi bút tài hoa uyên bác

Xương, Tản Ðà,...và trực tiếp hơn là cụ Tú Lan, thân sinh nhà văn ; vừa mang
dáng vẻ hiện đại, ảnh hưởng từ các hệ thống triết lý nổi loạn của xã hội tư sản
phương Tây như triết lý siêu nhân, quan niệm về con người cao đẳng, thuyết hiện
sinh...”.
Ông thể hiện trong tác phẩm một kho kiến thức về mọi lĩnh vực văn hóa,
lịch sử, địa lí,điển ảnh, hội họa, điêu khắc,…Đặc biệt là chất văn hóa như sợi chỉ
đỏ xuyên suốt, là cái phần cơ bản nhất làm nên giá trị vĩnh hằng cho văn nghiệp
của ông.
Do đó, vẻ đẹp của trang viết Nguyễn Tuân là kết quả tất yếu từ một cách viết
mang chiều sâu, bề rộng và tầm cao văn hóa. Lòng yêu nước và tinh thần dân tộc,
đặc biệt biểu hiện ở thái độ thành kính trân trọng tiếng mẹ đẻ và các giá trị truyền
thống chính là động lực bên trong, thôi thúc nhà văn không ngừng tìm tòi, khơi
nguồn vốn cũ và sáng tạo nên giá trị mới. Ông xứng đáng được mệnh danh là
"chuyên viên cao cấp tiếng Việt", là "người thợ kim hoàn của chữ" (Tố Hữu) trong
lâu đài văn chương nghệ thuật dân tộc Việt Nam ở thế kỷ XX.

Nhóm 1

Page 25



×