Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

tiểu luận cao học Tư tưởng hồ chí minh về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn sự vận dụng tư tưởng đó của đảng ta qua các giai đoạn cách mạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.66 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về nông nghiệp là một bộ phận hợp thành hệ
thống tư tưởng kinh tế của Người, bao gồm hệ thống những luận điểm lý luận
toàn diện và sâu sắc được rút ra từ thực tiễn cách mạng, từ sự kế thừa và phát
triển những kinh nghiệm, truyền thống đặc sắc của dân tộc và trí tuệ của thời
đại mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm xây dựng và phát triển nền
nông nghiệp Việt Nam từ sản xuất nhỏ, manh mún, lạc hậu tiến dần lên nền
nông nghiệp hiện đại, khoa học – kỹ thuật tiên tiến, có khả năng cải thiện và
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về nông nghiệp không những có ý nghĩa
thực tiễn to lớn, mà còn là cơ sở lý luận vô cùng quan trọng đã và đang được
Đảng và Nhà nước ta vận dụng để xây dựng phát triển nền kinh tế nông
nghiệp nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
nông nghiệp không chỉ có giá trị về mặt lý luận mà nó còn có giá trị thực tiễn
hết sức sâu sắc. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng ta đã vận dụng và phát triển
tư tưởng nông nghiệp của Hồ Chí Minh để xây dựng thành đường lối phát
triển kinh tế nói chung, đường lối phát triển nông nghiệp nói riêng qua các
giai đoạn lịch sử, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước. Chính vì vậy, tôi lưa chọn tiểu luận: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát
triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Sự vận dụng tư tưởng đó vào phát triển
kinh tế của Việt Nam"

1


NỘI DUNG
Chương I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nông nghiệp phát triển kinh tế
Nông thôn
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của nông nghiệp
Là một nhà lãnh đạo chiến lược giàu kinh nghiệm, Hồ Chí Minh sớm
thấy được rằng: Muốn nâng cao đời sống của nhân dân, trước hết phải không


ngừng ra sức phát triển nền kinh tế quốc gia. Mà vấn đề cơ bản hàng đầu để
phát triển, Hồ Chí Minh xác định đó chính là bắt đầu từ nông nghiệp..
Nông nghiệp với Hồ Chí Minh luôn có một vai trò, vị trí đặc biệt quan
trọng đối với sự phát triển nền kinh tế, xã hội cũng như trong việc nâng cao
đời sống của nhân dân. Với Người: nông nghiệp là gốc, nông nghiệp là
chính, nông nghiệp là mặt trận chính, nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, nông
nghiệp là mặt trận cơ bản, nông nghiệp là việc quan trọng nhất… Người cho
rằng: Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp, nền kinh tế lấy canh nông
làm gốc, do vậy “Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì
nước ta thịnh”(2). Từ đó, Người coi việc tập trung phát triển nông nghiệp là
nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân và yêu cầu các ngành khác phải
lấy việc phục vụ nông nghiệp làm trung tâm.
Hồ Chí Minh coi phát triển nông nghiệp là nhân tố đầu tiên, là cội
nguồn giải quyết mọi vấn đề xã hội. Nông nghiệp giải quyết nhu cầu quan
trọng nhất, cơ bản nhất, cấp thiết nhất của con người là nhu cầu ăn, mặc, ở.
Trong đó, ăn là nhu cầu đầu tiên. Chỉ khi nào thỏa mãn được các nhu cầu ăn
(và mặc, ở) trên một mức độ nhất định thì người ta mới nghĩ đến những nhu
cầu cao hơn. Hồ Chí Minh viết “Sản xuất nông nghiệp trước hết là sản xuất
lương thực, là việc cần thiết nhất cho đời sống nhân dân, là bộ phận cực kỳ
quan trọng trong kế hoạch kinh tế của Nhà nước”.
Trong xây dựng CNXH, thời kỳ đầu ở miền Bắc, nông nghiệp vẫn được
Hồ Chí Minh coi như một mặt trận chủ yếu, là nền tảng của toàn bộ cơ cấu
kinh tế quốc dân. Theo Hồ Chí Minh, trong nền kinh tế quốc dân của mỗi
2


quốc gia có ba bộ phận quan trọng nhất là nông nghiệp, công nghiệp và
thương nghiệp. Ba bộ phận này có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tác động và
chi phối lẫn nhau.
1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển một nền

nông nghiệp toàn diện ở nươc ta
Với Hồ Chí Minh, nền nông nghiệp Việt Nam phát triển phải là một nền
nông nghiệp phát triển toàn diện, nền nông nghiệp phát triển đó càng không
phải trong một nền kinh tế thuần nông mà là trong một nền kinh tế bền vững
hiện đại, với sự phong phú về ngành nghề, đa dạng hóa về sản phẩm...Theo
Người: “Sản xuất phải toàn diện, sản xuất thóc là chính, đồng thời phải coi
trọng hoa màu, cây ăn quả, cây công nghiệp, chăn nuôi, thả cá và nghề
phụ”(14). Người nhắc nhở: “Trung ương thường nói nông nghiệp phải toàn
diện. Mình không những cốt gạo, ngô, khoai, sắn, bông mà còn cốt các thứ
khác nữa. Cho nên phải toàn diện”

(15)

. Nói chuyện với cán bộ miền núi trong

Hội nghị tổng kết cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp, phát triển sản xuất,
kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ ở miền núi, Người cũng nói: “Sản xuất
phải toàn diện, trồng cây lương thực và cây công nghiệp, phát triển chăn nuôi,
phát triển nghề rừng, chú trọng đẩy mạnh chăn nuôi, vì miền núi có nhiều khả
năng chăn nuôi”(16). Hồ Chí Minh đã thẳng thắn phê bình đồng bào Tuyên
Quang vì có “khuyết điểm là không toàn diện, không chú trọng đầy đủ về cây
công nghiệp và hoa màu” (17). Hay nhân dân xã Đại Nghĩa (Hà Đông) vì: “Sản
xuất chưa toàn diện” vì “xem nhẹ hoa màu và cây công nghiệp”…
Vậy cụ thể như thế nào là một nền nông nghiệp toàn diện theo tư tưởng
Hồ Chí Minh? Qua các tác phẩm, bài nói và viết của Hồ Chí Minh cho thấy
quan niệm về một nền nông nghiệp toàn diện theo Người phải là:
Thứ nhất: Nền nông nghiệp toàn diện trước hết phải là một nền nông
nghiệp có ngành trồng trọt phát triển. Trong đó “Trồng trọt cũng phải phát
triển toàn diện”.


3


Hồ Chí Minh cho rằng, trồng trọt, trước hết, phải trồng cây lương thực,
bởi vì “nông nghiệp là nguồn cung cấp lương thực”

(18)

. Người nói nhiều đến

trồng lúa, coi cây lúa là cây chính trong các cây lương thực: “Sản xuất thóc là
chính”. Sau cây lúa, Người rất chú trọng đến các cây hoa màu như ngô, khoai,
sắn là nguồn lương thực bổ sung cho cây lúa và là nguồn thức ăn chủ yếu cho
chăn nuôi. Người nói: “Phải hết sức phát triển hoa màu, chỉ có thóc, không có
hoa màu là không được. Hoa màu không những là cây lương thực quý của
người, mà còn dùng để chăn nuôi. Xã Đại Nghĩa vì thiếu chú ý đến hoa màu
cho nên chăn nuôi kém” (19).
Thứ hai: Theo Hồ Chí Minh, nền nông nghiệp toàn diện phải có ngành
chăn nuôi phát triển. Nói chuyện trong Hội nghị tổng kết phong trào sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp năm 1959, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Về chăn nuôi,
phải chú ý phát triển chăn nuôi càng nhiều càng tốt” (20). Theo Người, “Phải
phát triển mạnh chăn nuôi để đảm bảo có thêm thịt ăn, thêm sức kéo, thêm
phân bón”

(21)

. Người cũng nhấn mạnh lợi ích của chăn nuôi với trồng trọt:

“Vì chăn nuôi kém mà phân bón ít, lại vì phân bón ít mà sản lượng lúa và hoa
màu giảm sút”


(22)

. Hay mối quan hệ giữa trồng trọt và chăn nuôi: “Muốn

ruộng tốt thì phải dùng nhiều phân. Muốn có nhiều phân thì phải đẩy mạnh
chăn nuôi. Muốn phát triển chăn nuôi thì phải tăng diện tích trồng thức ăn cho
trâu, bò, lợn…” (23).
Thứ ba: nông nghiệp toàn diện, theo Người phải phát triển lâm nghiệp:
Trồng cây, gây rừng, khai thác lâm thổ sản có kế hoạch.
Quan điểm của Hồ Chí Minh là: “cây và rừng là nguồn lợi lớn”, do vậy,
Người luôn nhắc nhở bà con nông dân, đặc biệt là bà con các dân tộc phải
trồng rừng và bảo vệ rừng. Nói chuyện với đồng bào nhân dân Tuyên Quang,
Người chỉ rõ: “Đồng bào... phải chú ý bảo vệ rừng và trồng cây gây rừng. Tục
ngữ nói “Rừng vàng, biển bạc”. Chúng ta chớ lãng phí vàng, mà phải bảo vệ
vàng của chúng ta”

(27)

. Người còn nhấn mạnh: “ Phá rừng thì dễ, nhưng gây

lại rừng thì phải mất hàng chục năm” (28).
4


Thứ tư: nông nghiệp toàn diện, theo Hồ Chi Minh còn phải đặt trong
mối quan hệ với phát triển ngành ngư nghiệp và các ngành kinh tế gắn liền
với biển.
Khi ra thăm và nói chuyện với nhân dân đảo Cô Tô, Người dặn dò: “Cần
đẩy mạnh nghề đánh cá, nghề làm muối, nuôi dưỡng và bảo vệ các thứ hải

sâm, trân châu .v.v…”(34) là những nghề gắn với kinh tế biển mà nước ta có
nhiều tiềm năng để phát triển mạnh mẽ trong tương lai.
Khi nói đến nghề cá, cũng phải lưu ý rằng, Hồ Chí Minh không chỉ nhắc
đến phát triển nghề cá ở vùng biển, Người còn nhắc phải phát triển nghề cá ở
các vùng đồng bằng ven biển. Do đó, Người từng nhắc nông dân ta phải trồng
dâu nuôi tằm, lấy tơ làm lưới đánh cá.
Hiểu rõ đặc điểm tự nhiên, khí hậu của nước ta đối với người làm nông
nghiệp, Hồ Chí Minh đã có ý tưởng kết hợp trồng lúa và nuôi cá trong các ao
hồ, trên sông và cả trên ruộng theo phương thức kết hợp để nâng cao thu
nhập, cải thiện đời sống. Do đó, khi đi thăm nhân dân các tỉnh đồng bằng như
Hưng Yên, Hà Đông, Hải Dương, Người đều nhắc cùng với trồng lúa, hoa
màu, chăn nuôi cần phải thả cá. Người chỉ rõ: “Cần đẩy mạnh thả cá để cung
cấp thêm thực phẩm bổ sung cho thịt, cải thiện đời sống nhân dân. Nuôi cá
cũng dễ. Có nước và có công thì cá phát triển”(35).
Thứ năm: Khi nói đến nông nghiệp toàn diện, ngoài nông, lâm, ngư
nghiệp, Hồ Chí Minh cũng nói đến nghề phụ gia đình.
Ở những vùng nông thôn của Việt Nam, thông thường khi năng suất
trồng trọt và chăn nuôi đạt trình độ nhất định, có một số lao động dư thừa.
Mặt khác, đặc thù của sản xuất nông nghiệp là theo thời vụ, trong một mùa có
một số ngày nông nhàn, lao động không được sử dụng. Số lao động dư thừa
đó chuyển sang làm nghề phụ để có thêm thu nhập. Nắm chắc tình hình thực
tế đó, Hồ Chí Minh đã quan tâm, nhắc nhở đồng bào các địa phương khai thác
mảnh vườn, mở mang nghề phụ. Người nói: “Miếng vườn của mỗi gia đình xã

5


viên và các loại nghề phụ là nguồn lợi để tăng thu nhập” (36). Từ đó, Người
nhắc nhở: “Phát triển thích đáng nghề phụ của gia đình xã viên”.
Chương II. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh

tế nông nghiệp, nông thôn vào quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam
2.1. Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn
Trong nhiệm vụ của các ngành kinh tế trong kế hoạch 5 năm thì nhiệm
vụ trọng tâm về sản xuất nông nghiệp là giải quyết tốt vấn đề lương thực,
đồng thời hết sức phát triển cây công nghiệp, chǎn nuôi, ngư nghiệp, lâm
nghiệp. Một mặt, cần phải bảo đảm nhu cầu về lương thực và thực phẩm của
nhân dân; sức kéo và phân bón cho nông nghiệp; cung cấp nguyên liệu cho
công nghiệp thực phẩm, công nghiệp dệt, công nghiệp gỗ và công nghiệp
giấy. Mặt khác, cần phải tǎng thêm nguồn hàng nông sản xuất khẩu, nhất là
các đặc sản vùng nhiệt đới.
Sản xuất nông nghiệp giữ một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân. Cần phải ra sức phát triển nông nghiệp đi đôi với việc phát triển
công nghiệp. chúng ta cần lấy sản xuất lương thực làm trọng tâm, đồng thời
phát triển nông nghiệp một cách toàn diện. Phải ra sức phát huy mọi khả nǎng
thuận lợi của nông nghiệp nhiệt đới, tích cực xây dựng hợp tác xã nông
nghiệp và mở mang nông trường quốc doanh; phải thực hiện từng bước thủy
lợi hóa và cải tạo đất; cải tiến nông cụ và cơ giới hóa từng bước; mở rộng
diện tích bằng cách tǎng vụ và khai hoang, đồng thời ra sức thực hiện thâm
canh, tǎng nǎng suất.
Để có thể ra sức phát triển nông nghiệp chúng ta đã chú ý vận dụng
phương châm phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc, đã
tính đến những cố gắng rất lớn của chúng ta về các mặt phát triển và củng cố
các hợp tác xã, các nông trường quốc doanh, đẩy mạnh công tác thủy lợi, xúc
tiến việc cải tiến nông cụ, cải tiến kỹ thuật..., hết sức phát huy sự giúp đỡ của
công nghiệp đối với nông nghiệp; mặt khác, cũng có chiếu cố những khó khǎn

6


do thiên tai thường xuyên gây ra và khả nǎng khắc phục những khó khǎn ấy

trong những nǎm tới.
Trong đường lối xây dựng và phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa chúng
ta cần tập trung cao độ sức của cả nước, của các ngành, các cấp tạo ra một
bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp; ra sức đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư
nghiệp; phát triển công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm (bao gồm cả
thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp) nhằm giải quyết vững chắc nhu cầu của
cả nước về lương thực, thực phẩm và một phần quan trọng hàng tiêu dùng
thông dụng; cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân,
tạo tích luỹ cho công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
Tập trung lực lượng phát triển nông nghiệp chủ yếu là tập trung lực
lượng các ngành công nghiệp nặng để trang bị cho nông nghiệp, nông nghiệp
cùng lâm nghiệp, ngư nghiệp và các ngành sản xuất hàng tiêu dùng phát triển
nhanh chóng sẽ là cơ sở cho sự phát triển với nhịp độ nhanh của các ngành
công nghiệp nặng.
Tại Đại hội VI, Đại hội của đổi mới, Đảng ta đưa ra những chủ trương
lớn về đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy về kinh tế. Trong nông nghiệp,
thực hiện ba chương trình mục tiêu, nhấn mạnh vai trò của nông nghiệp trong
việc đáp ứng yêu cẩu cấp thiết về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho
công nghiệp chế biến, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Đại hội còn chỉ rõ:
“Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, không được tách rời nông
nghiệp với công nghiệp, không thể chỉ coi trọng nông nghiệp hoặc công
nghiệp nhưng ở mỗi giai đoạn, trong từng chặng đường, vị trí của nông
nghiệp và công nghiệp có khác nhau. Trong chặng đường hiện nay, phải tập
trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa
nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa…”. Yêu cầu cấp
bách về lương thực, thực phẩm, về nguyên liệu sản xuất, hàng tiêu dùng, về
hàng xuất khẩu quyết định vị trí hàng đầu của nông nghiệp. Đại hội còn nhấn
mạnh: “Trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên, trước mắt là
7



trong kế hoạch 5 năm 1986 - 1990, phải thật sự tập trung sức người, sức của
vào việc thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực, thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”.
Trong phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội trong
5 năm 1986-1990, Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương đã đưa ra ba
chương trình lớn: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Ba
chương trình này liên quan chặt chẽ với nhau, là cơ sở và tiền đề cho nhau.
Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng là những điều kiện vật chất quan
trọng nhất để ổn định tình hình kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân… Ba
chương trình lớn là cốt lõi của nhiệm vụ kinh tế, xã hội trong 5 năm 19861990, không những có ý nghĩa sống còn trong tình hình trước mắt, mà còn là
những điều kiện ban đầu không thể thiếu được để triển khai công nghiệp hoá
xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo.
KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nông nghiệp không chỉ có giá trị về mặt lý
luận mà nó còn có giá trị thực tiễn hết sức sâu sắc. Trong quá trình lãnh đạo,
Đảng ta đã vận dụng và phát triển tư tưởng nông nghiệp của Hồ Chí Minh để
xây dựng thành đường lối phát triển kinh tế nói chung, đường lối phát triển
nông nghiệp nói riêng qua các giai đoạn lịch sử, đặc biệt là trong thời kỳ đổi
mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, trên lĩnh vực nông nghiệp,
mặc dù còn những hạn chế, yếu kém, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông
nghiệp nước ta đã đạt được thành tựu “khá toàn diện và to lớn”. Nông
nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo hướng sản xuất hàng hóa,
nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả; đảm bảo vững chắc an ninh
lương thực quốc gia; một số mặt hàng xuất khẩu chiếm vị thế cao trên thị
trường thế giới. Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo
8



hàng đầu thế giới. Ổn định lương thực đã tạo nền tảng vững chắc cho nền
kinh tế vượt qua khủng hoảng, phục hồi và phát triển mạnh mẽ trong suốt hơn
20 năm qua.
Cho đến nay, tư tưởng của Hồ Chí Minh về nông nghiệp vẫn còn nguyên
giá trị trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

9


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Hồ Chí Minh, Toàn tập, CTQG, H, 2009, tập 4, tr. 152, 215.

2.

Hồ Chí Minh, Toàn tập, CTQG, H, 2009, tập 9, tr. 5, 456.

3.

Hồ Chí Minh, Toàn tập, CTQG, H, 2009, tập 7, tr. 572.

4.

Hồ Chí Minh, Toàn tập, CTQG, H, 2009, tập 5, tr. 687- 688.

5.

Hồ Chí Minh, Toàn tập, CTQG, H, 2009, tập 12, tr. 193.


6.

Hồ Chí Minh, Toàn tập, CTQG, H, 2009, tập 8, tr. 91, 512.

10


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................1
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về nông nghiệp là một bộ phận hợp thành hệ thống tư tưởng
kinh tế của Người, bao gồm hệ thống những luận điểm lý luận toàn diện và sâu sắc được
rút ra từ thực tiễn cách mạng, từ sự kế thừa và phát triển những kinh nghiệm, truyền thống
đặc sắc của dân tộc và trí tuệ của thời đại mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm xây
dựng và phát triển nền nông nghiệp Việt Nam từ sản xuất nhỏ, manh mún, lạc hậu tiến dần
lên nền nông nghiệp hiện đại, khoa học – kỹ thuật tiên tiến, có khả năng cải thiện và nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động.........................................................1
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về nông nghiệp không những có ý nghĩa thực tiễn to lớn, mà
còn là cơ sở lý luận vô cùng quan trọng đã và đang được Đảng và Nhà nước ta vận dụng để
xây dựng phát triển nền kinh tế nông nghiệp nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về nông nghiệp không chỉ có giá trị về mặt lý luận mà nó còn có giá trị
thực tiễn hết sức sâu sắc. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng ta đã vận dụng và phát triển tư
tưởng nông nghiệp của Hồ Chí Minh để xây dựng thành đường lối phát triển kinh tế nói
chung, đường lối phát triển nông nghiệp nói riêng qua các giai đoạn lịch sử, đặc biệt là
trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Chính vì vậy, tôi lưa chọn tiểu
luận: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Sự vận dụng tư
tưởng đó vào phát triển kinh tế của Việt Nam"......................................................................1
NỘI DUNG............................................................................................................................2
Chương I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nông nghiệp phát triển kinh tế Nông thôn.................2
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của nông nghiệp.....................................2

Là một nhà lãnh đạo chiến lược giàu kinh nghiệm, Hồ Chí Minh sớm thấy được rằng:
Muốn nâng cao đời sống của nhân dân, trước hết phải không ngừng ra sức phát triển nền
kinh tế quốc gia. Mà vấn đề cơ bản hàng đầu để phát triển, Hồ Chí Minh xác định đó chính
là bắt đầu từ nông nghiệp.......................................................................................................2
Nông nghiệp với Hồ Chí Minh luôn có một vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự
phát triển nền kinh tế, xã hội cũng như trong việc nâng cao đời sống của nhân dân. Với
Người: nông nghiệp là gốc, nông nghiệp là chính, nông nghiệp là mặt trận chính, nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu, nông nghiệp là mặt trận cơ bản, nông nghiệp là việc quan
trọng nhất… Người cho rằng: Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp, nền kinh tế lấy
canh nông làm gốc, do vậy “Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì
nước ta thịnh”(2). Từ đó, Người coi việc tập trung phát triển nông nghiệp là nhiệm vụ
trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân và yêu cầu các ngành khác phải lấy việc phục vụ nông
nghiệp làm trung tâm..............................................................................................................2
Hồ Chí Minh coi phát triển nông nghiệp là nhân tố đầu tiên, là cội nguồn giải quyết mọi
vấn đề xã hội. Nông nghiệp giải quyết nhu cầu quan trọng nhất, cơ bản nhất, cấp thiết nhất
của con người là nhu cầu ăn, mặc, ở. Trong đó, ăn là nhu cầu đầu tiên. Chỉ khi nào thỏa
mãn được các nhu cầu ăn (và mặc, ở) trên một mức độ nhất định thì người ta mới nghĩ đến
những nhu cầu cao hơn. Hồ Chí Minh viết “Sản xuất nông nghiệp trước hết là sản xuất
lương thực, là việc cần thiết nhất cho đời sống nhân dân, là bộ phận cực kỳ quan trọng
trong kế hoạch kinh tế của Nhà nước”...................................................................................2
Trong xây dựng CNXH, thời kỳ đầu ở miền Bắc, nông nghiệp vẫn được Hồ Chí Minh coi
như một mặt trận chủ yếu, là nền tảng của toàn bộ cơ cấu kinh tế quốc dân. Theo Hồ Chí
Minh, trong nền kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia có ba bộ phận quan trọng nhất là nông
nghiệp, công nghiệp và thương nghiệp. Ba bộ phận này có mối quan hệ hữu cơ với nhau,
tác động và chi phối lẫn nhau.................................................................................................2


1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển một nền nông nghiệp toàn diện
ở nươc ta.................................................................................................................................3
Với Hồ Chí Minh, nền nông nghiệp Việt Nam phát triển phải là một nền nông nghiệp phát

triển toàn diện, nền nông nghiệp phát triển đó càng không phải trong một nền kinh tế thuần
nông mà là trong một nền kinh tế bền vững hiện đại, với sự phong phú về ngành nghề, đa
dạng hóa về sản phẩm...Theo Người: “Sản xuất phải toàn diện, sản xuất thóc là chính, đồng
thời phải coi trọng hoa màu, cây ăn quả, cây công nghiệp, chăn nuôi, thả cá và nghề
phụ”(14). Người nhắc nhở: “Trung ương thường nói nông nghiệp phải toàn diện. Mình
không những cốt gạo, ngô, khoai, sắn, bông mà còn cốt các thứ khác nữa. Cho nên phải
toàn diện” (15). Nói chuyện với cán bộ miền núi trong Hội nghị tổng kết cuộc vận động
hợp tác hóa nông nghiệp, phát triển sản xuất, kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ ở miền
núi, Người cũng nói: “Sản xuất phải toàn diện, trồng cây lương thực và cây công nghiệp,
phát triển chăn nuôi, phát triển nghề rừng, chú trọng đẩy mạnh chăn nuôi, vì miền núi có
nhiều khả năng chăn nuôi”(16). Hồ Chí Minh đã thẳng thắn phê bình đồng bào Tuyên
Quang vì có “khuyết điểm là không toàn diện, không chú trọng đầy đủ về cây công nghiệp
và hoa màu” (17). Hay nhân dân xã Đại Nghĩa (Hà Đông) vì: “Sản xuất chưa toàn diện” vì
“xem nhẹ hoa màu và cây công nghiệp”…............................................................................3
Vậy cụ thể như thế nào là một nền nông nghiệp toàn diện theo tư tưởng Hồ Chí Minh? Qua
các tác phẩm, bài nói và viết của Hồ Chí Minh cho thấy quan niệm về một nền nông
nghiệp toàn diện theo Người phải là:.....................................................................................3
Thứ nhất: Nền nông nghiệp toàn diện trước hết phải là một nền nông nghiệp có ngành
trồng trọt phát triển. Trong đó “Trồng trọt cũng phải phát triển toàn diện”..........................3
Hồ Chí Minh cho rằng, trồng trọt, trước hết, phải trồng cây lương thực, bởi vì “nông
nghiệp là nguồn cung cấp lương thực” (18). Người nói nhiều đến trồng lúa, coi cây lúa là
cây chính trong các cây lương thực: “Sản xuất thóc là chính”. Sau cây lúa, Người rất chú
trọng đến các cây hoa màu như ngô, khoai, sắn là nguồn lương thực bổ sung cho cây lúa và
là nguồn thức ăn chủ yếu cho chăn nuôi. Người nói: “Phải hết sức phát triển hoa màu, chỉ
có thóc, không có hoa màu là không được. Hoa màu không những là cây lương thực quý
của người, mà còn dùng để chăn nuôi. Xã Đại Nghĩa vì thiếu chú ý đến hoa màu cho nên
chăn nuôi kém” (19)...............................................................................................................4
Thứ hai: Theo Hồ Chí Minh, nền nông nghiệp toàn diện phải có ngành chăn nuôi phát
triển. Nói chuyện trong Hội nghị tổng kết phong trào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp năm
1959, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Về chăn nuôi, phải chú ý phát triển chăn nuôi càng nhiều

càng tốt”(20). Theo Người, “Phải phát triển mạnh chăn nuôi để đảm bảo có thêm thịt ăn,
thêm sức kéo, thêm phân bón” (21). Người cũng nhấn mạnh lợi ích của chăn nuôi với trồng
trọt: “Vì chăn nuôi kém mà phân bón ít, lại vì phân bón ít mà sản lượng lúa và hoa màu
giảm sút” (22). Hay mối quan hệ giữa trồng trọt và chăn nuôi: “Muốn ruộng tốt thì phải
dùng nhiều phân. Muốn có nhiều phân thì phải đẩy mạnh chăn nuôi. Muốn phát triển chăn
nuôi thì phải tăng diện tích trồng thức ăn cho trâu, bò, lợn…” (23)......................................4
Thứ ba: nông nghiệp toàn diện, theo Người phải phát triển lâm nghiệp: Trồng cây, gây
rừng, khai thác lâm thổ sản có kế hoạch................................................................................4
Quan điểm của Hồ Chí Minh là: “cây và rừng là nguồn lợi lớn”, do vậy, Người luôn nhắc
nhở bà con nông dân, đặc biệt là bà con các dân tộc phải trồng rừng và bảo vệ rừng. Nói
chuyện với đồng bào nhân dân Tuyên Quang, Người chỉ rõ: “Đồng bào... phải chú ý bảo vệ
rừng và trồng cây gây rừng. Tục ngữ nói “Rừng vàng, biển bạc”. Chúng ta chớ lãng phí
vàng, mà phải bảo vệ vàng của chúng ta” (27). Người còn nhấn mạnh: “ Phá rừng thì dễ,
nhưng gây lại rừng thì phải mất hàng chục năm” (28)...........................................................4
Thứ tư: nông nghiệp toàn diện, theo Hồ Chi Minh còn phải đặt trong mối quan hệ với phát
triển ngành ngư nghiệp và các ngành kinh tế gắn liền với biển.............................................5


Khi ra thăm và nói chuyện với nhân dân đảo Cô Tô, Người dặn dò: “Cần đẩy mạnh nghề
đánh cá, nghề làm muối, nuôi dưỡng và bảo vệ các thứ hải sâm, trân châu .v.v…”(34) là
những nghề gắn với kinh tế biển mà nước ta có nhiều tiềm năng để phát triển mạnh mẽ
trong tương lai........................................................................................................................5
Khi nói đến nghề cá, cũng phải lưu ý rằng, Hồ Chí Minh không chỉ nhắc đến phát triển
nghề cá ở vùng biển, Người còn nhắc phải phát triển nghề cá ở các vùng đồng bằng ven
biển. Do đó, Người từng nhắc nông dân ta phải trồng dâu nuôi tằm, lấy tơ làm lưới đánh
cá............................................................................................................................................5
Hiểu rõ đặc điểm tự nhiên, khí hậu của nước ta đối với người làm nông nghiệp, Hồ Chí
Minh đã có ý tưởng kết hợp trồng lúa và nuôi cá trong các ao hồ, trên sông và cả trên
ruộng theo phương thức kết hợp để nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống. Do đó, khi đi
thăm nhân dân các tỉnh đồng bằng như Hưng Yên, Hà Đông, Hải Dương, Người đều nhắc

cùng với trồng lúa, hoa màu, chăn nuôi cần phải thả cá. Người chỉ rõ: “Cần đẩy mạnh thả
cá để cung cấp thêm thực phẩm bổ sung cho thịt, cải thiện đời sống nhân dân. Nuôi cá
cũng dễ. Có nước và có công thì cá phát triển”(35)...............................................................5
Thứ năm: Khi nói đến nông nghiệp toàn diện, ngoài nông, lâm, ngư nghiệp, Hồ Chí Minh
cũng nói đến nghề phụ gia đình..............................................................................................5
Ở những vùng nông thôn của Việt Nam, thông thường khi năng suất trồng trọt và chăn
nuôi đạt trình độ nhất định, có một số lao động dư thừa. Mặt khác, đặc thù của sản xuất
nông nghiệp là theo thời vụ, trong một mùa có một số ngày nông nhàn, lao động không
được sử dụng. Số lao động dư thừa đó chuyển sang làm nghề phụ để có thêm thu nhập.
Nắm chắc tình hình thực tế đó, Hồ Chí Minh đã quan tâm, nhắc nhở đồng bào các địa
phương khai thác mảnh vườn, mở mang nghề phụ. Người nói: “Miếng vườn của mỗi gia
đình xã viên và các loại nghề phụ là nguồn lợi để tăng thu nhập”(36). Từ đó, Người nhắc
nhở: “Phát triển thích đáng nghề phụ của gia đình xã viên”..................................................5
2.1. Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn................................................................6
Trong nhiệm vụ của các ngành kinh tế trong kế hoạch 5 năm thì nhiệm vụ trọng tâm về
sản xuất nông nghiệp là giải quyết tốt vấn đề lương thực, đồng thời hết sức phát triển cây
công nghiệp, chǎn nuôi, ngư nghiệp, lâm nghiệp. Một mặt, cần phải bảo đảm nhu cầu về
lương thực và thực phẩm của nhân dân; sức kéo và phân bón cho nông nghiệp; cung cấp
nguyên liệu cho công nghiệp thực phẩm, công nghiệp dệt, công nghiệp gỗ và công nghiệp
giấy. Mặt khác, cần phải tǎng thêm nguồn hàng nông sản xuất khẩu, nhất là các đặc sản
vùng nhiệt đới.........................................................................................................................6
Sản xuất nông nghiệp giữ một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Cần phải
ra sức phát triển nông nghiệp đi đôi với việc phát triển công nghiệp. chúng ta cần lấy sản
xuất lương thực làm trọng tâm, đồng thời phát triển nông nghiệp một cách toàn diện. Phải
ra sức phát huy mọi khả nǎng thuận lợi của nông nghiệp nhiệt đới, tích cực xây dựng hợp
tác xã nông nghiệp và mở mang nông trường quốc doanh; phải thực hiện từng bước thủy
lợi hóa và cải tạo đất; cải tiến nông cụ và cơ giới hóa từng bước; mở rộng diện tích bằng
cách tǎng vụ và khai hoang, đồng thời ra sức thực hiện thâm canh, tǎng nǎng suất..............6
Để có thể ra sức phát triển nông nghiệp chúng ta đã chú ý vận dụng phương châm phát
triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc, đã tính đến những cố gắng rất lớn của

chúng ta về các mặt phát triển và củng cố các hợp tác xã, các nông trường quốc doanh, đẩy
mạnh công tác thủy lợi, xúc tiến việc cải tiến nông cụ, cải tiến kỹ thuật..., hết sức phát huy
sự giúp đỡ của công nghiệp đối với nông nghiệp; mặt khác, cũng có chiếu cố những khó
khǎn do thiên tai thường xuyên gây ra và khả nǎng khắc phục những khó khǎn ấy trong
những nǎm tới.........................................................................................................................6
Trong đường lối xây dựng và phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa chúng ta cần tập trung
cao độ sức của cả nước, của các ngành, các cấp tạo ra một bước phát triển vượt bậc
về nông nghiệp; ra sức đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp; phát triển công nghiệp nhẹ và


công nghiệp thực phẩm (bao gồm cả thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp) nhằm giải quyết
vững chắc nhu cầu của cả nước về lương thực, thực phẩm và một phần quan trọng hàng
tiêu dùng thông dụng; cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, tạo
tích luỹ cho công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa......................................................................7
Tập trung lực lượng phát triển nông nghiệp chủ yếu là tập trung lực lượng các ngành công
nghiệp nặng để trang bị cho nông nghiệp, nông nghiệp cùng lâm nghiệp, ngư nghiệp và các
ngành sản xuất hàng tiêu dùng phát triển nhanh chóng sẽ là cơ sở cho sự phát triển với nhịp
độ nhanh của các ngành công nghiệp nặng. ..........................................................................7
Tại Đại hội VI, Đại hội của đổi mới, Đảng ta đưa ra những chủ trương lớn về đổi mới,
trước hết là đổi mới tư duy về kinh tế. Trong nông nghiệp, thực hiện ba chương trình mục
tiêu, nhấn mạnh vai trò của nông nghiệp trong việc đáp ứng yêu cẩu cấp thiết về lương
thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu.
Đại hội còn chỉ rõ: “Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, không được tách rời nông
nghiệp với công nghiệp, không thể chỉ coi trọng nông nghiệp hoặc công nghiệp nhưng ở
mỗi giai đoạn, trong từng chặng đường, vị trí của nông nghiệp và công nghiệp có khác
nhau. Trong chặng đường hiện nay, phải tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa…”. Yêu cầu cấp bách về lương thực, thực phẩm, về nguyên liệu sản xuất, hàng tiêu
dùng, về hàng xuất khẩu quyết định vị trí hàng đầu của nông nghiệp. Đại hội còn nhấn
mạnh: “Trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên, trước mắt là trong kế hoạch 5

năm 1986 - 1990, phải thật sự tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện cho được ba
chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”.........7
Trong phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm 1986-1990,
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương đã đưa ra ba chương trình lớn: lương thực - thực
phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Ba chương trình này liên quan chặt chẽ với nhau, là
cơ sở và tiền đề cho nhau. Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng là những điều kiện vật
chất quan trọng nhất để ổn định tình hình kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân… Ba
chương trình lớn là cốt lõi của nhiệm vụ kinh tế, xã hội trong 5 năm 1986-1990, không
những có ý nghĩa sống còn trong tình hình trước mắt, mà còn là những điều kiện ban đầu
không thể thiếu được để triển khai công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường
tiếp theo..................................................................................................................................8
................................................................................................................................................8
KẾT LUẬN............................................................................................................................8
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nông nghiệp không chỉ có giá trị về mặt lý luận mà nó còn có
giá trị thực tiễn hết sức sâu sắc. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng ta đã vận dụng và phát
triển tư tưởng nông nghiệp của Hồ Chí Minh để xây dựng thành đường lối phát triển kinh
tế nói chung, đường lối phát triển nông nghiệp nói riêng qua các giai đoạn lịch sử, đặc biệt
là trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.....................................................8
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, trên lĩnh vực nông nghiệp, mặc dù còn
những hạn chế, yếu kém, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp nước ta đã đạt
được thành tựu “khá toàn diện và to lớn”. Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá
cao theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả; đảm bảo
vững chắc an ninh lương thực quốc gia; một số mặt hàng xuất khẩu chiếm vị thế cao trên
thị trường thế giới. Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế
giới. Ổn định lương thực đã tạo nền tảng vững chắc cho nền kinh tế vượt qua khủng hoảng,
phục hồi và phát triển mạnh mẽ trong suốt hơn 20 năm qua.................................................8
Cho đến nay, tư tưởng của Hồ Chí Minh về nông nghiệp vẫn còn nguyên giá trị trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh.......................................................................................................9
................................................................................................................................................9



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................10
1.Hồ Chí Minh, Toàn tập, CTQG, H, 2009, tập 4, tr. 152, 215...........................................10
2.Hồ Chí Minh, Toàn tập, CTQG, H, 2009, tập 9, tr. 5, 456...............................................10
3.Hồ Chí Minh, Toàn tập, CTQG, H, 2009, tập 7, tr. 572...................................................10
4.Hồ Chí Minh, Toàn tập, CTQG, H, 2009, tập 5, tr. 687- 688...........................................10
5.Hồ Chí Minh, Toàn tập, CTQG, H, 2009, tập 12, tr. 193.................................................10
6.Hồ Chí Minh, Toàn tập, CTQG, H, 2009, tập 8, tr. 91, 512.............................................10
MỤC LỤC............................................................................................................................11



×