Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

đề án các chính sách thu hút đầu tư trưc tiếp nước ngoài của Singapore

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.65 KB, 25 trang )

MỤC LỤC

1


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, quốc gia nào biết
nắm bắt cơ hội, biết vận dụng linh hoạt thời cơ trong xu hướng chung để phục vụ cho sự
phát triển kinh tế của mình, quốc gia đó sẽ gặt hái được nhiều thành công. Thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng là một trong những xu thế đó. Thực tiễn chứng minh có
rất nhiều quốc gia đã đạt được những thành tựu rực rỡ trong hội nhập kinh tế quốc tế nói
chung và thu hút FDI nói riêng, và nhờ có nguồn vốn FDI cũng như những chính sách
kinh tế hiệu quả, nền kinh tế của họ đã phát triển mạnh, cơ sở hạ tầng hiện đại, đời sống
của nhân dân ngày càng cao. Song việc thu hút FDI cũng chưa bao giờ diễn ra mạnh mẽ
và gay gắt như hiện nay, bởi quốc gia nào cũng nhận thức được vai trò to lớn của dòng
vốn này, đặc biệt là các nước đang phát triển.
Với thực tế nền kinh tế nước ta còn nghèo và nhận thức được vai trò to
lớn của thu hút FDI trong phát triển kinh tế đất nước, chúng ta cần nghiên cứu những
kinh nghiệm của nước ngoài, đặc biệt là những nước đã thành công trong thu hút FDI để
có thể học tập kinh nghiệm nước bạn một cách linh hoạt và phù hợp với hoàn cảnh cụ thể
của ta. Singapore là một trong những quốc gia gặt hái được nhiều thành công trong hội
nhập kinh tế nói chung và thu hút FDI nói riêng mà chúng ta có thể học tập được.
Theo UNCTAD 2015 World Investment Report , Singapore là đối tác lớn thứ 5 của
nguồn vốn FDI trên thế giới và lớn thứ 3 trong số các nước Đông và Đông Nam Á. Trong
năm 2014, dòng vốn FDI chảy vào Singapore tăng 16,4% so với năm 2013, đạt 1005,4 tỷ
SGD.
Đất nước Singapore tuy nhỏ bé nhưng lại là một điển hình thành công nhất trong
thu hút FDI ở khu vực Châu Á, đồng thời cũng là một trong những đối thủ cạnh tranh gần
gũi với Việt Nam trong việc tranh thủ loại vốn đầu tư này. Việc nghiên cứu kinh nghiệm


thu hút FDI của nước bạn chắc chắn sẽ đem đến cho chúng ta nhiều bài học bổ ích trong
việc tăng cường thu hút FDI để góp phần phát triển kinh tế đất nước. Vì vậy, tác giả lựa
chọn đề tài : “Các chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Singapore” để
nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu các chính sách thu hút FDI của Singapore nhằm rút ra một số
bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc tăng cường thu hút FDI để đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Do đó, đề án tập trung vào các nhiệm vụ sau:
2


 Nghiên cứu các chính sách và thực trạng thu hút FDI của Singapore trong
thời gian qua.
 Rút ra một số bài học kinh nghiệm từ thu hút FDI của Singapore, đồng thời
đề xuất một số giải pháp tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những chính sách của Singapore liên quan đến
thu hút FDI.
Phạm vi nghiên cứu là đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Singapore trong giai đoạn
2005-2014.
4. Kết cấu của đề án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề án
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Thực trạng thu hút đầu tư trực tếp nước ngoài (FDI) của
Singapore.
Chương 2: Ảnh hưởng của chính sách thu hút FDI của Singapore đối với
doanh nghiệp kinh doanh quốc tế.

Chương 3: Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.

3


CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
CỦA SINGAPORE
1.1.

Tình hình chung về thu hút FDI của Singapore

Ngay từ đầu thập kỷ 60, dòng FDI của Singapore đã chiếm tới 37% tổng vốn đầu
tư của nước này (lúc đó, Singapore vẫn còn là một bang của Malaysia). Cụ thể từ năm
1961 - 1964 Singapore đã thu hút 157 triệu SGD - đây là mức cao nhất so với các bang
khác. Tuy nhiên, khi đó nền kinh tế Singapore vẫn nằm trong tình trạng của một nền kinh
tế sản xuất nhỏ, tỷ lệ thất nghiệp còn cao, chiếm 10% lực lượng lao động, đời sống dân
chúng hầu như chưa được cải thiện, mức thu nhập của người dân còn thấp.
Để tiếp tục tồn tại và phát triển, Chính phủ Singapore ngay sau khi tách khỏi liên
bang Malayxia đã điều chỉnh chính sách kinh tế trong đó có chính sách đầu tư. Đó là việc
Singapore ưu tiên sản xuất công nghiệp dành cho xuất khẩu (thay vì chiến lược thay thế
nhập khẩu trước kia) và tham gia chặt chẽ vào phân công lao động quốc tế, Singapore
cũng tiếp tục khuyến khích những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động như ngành
may mặc, chế biến gỗ, chế biến thực phẩm… Bên cạnh đó, Chính phủ Singapore với
những chủ trương tích cực thu hút đầu tư nước ngoài vào những ngành này đã giúp giải
quyết được nạn thất nghiệp, tạo ra nhiều sản phẩm cho xuất khẩu và tăng tích lũy cho đầu
tư.
Từ năm 1979 trở đi Singapore chuyển sang một giai đoạn mới của Chiến lược
công nghiệp hóa hướng xuất khẩu bằng việc sử dụng nhiều công nghệ hiện đại và khả
năng kỹ xảo của bàn tay và khối óc con người mà người ta thường gọi là cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ II tại Singapore. Với sự chuyển hướng này, nền kinh tế Singapore nói

chung cũng như đầu tư nước ngoài nói riêng đã thu được những kết quả đáng khích lệ.
Cụ thể là, đầu tư nước ngoài tăng từ 6,35 tỷ SGD năm 1979 lên tới 11,1 tỷ SGD năm
1984, năm 1985 là 13 tỷ SGD. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp này chủ yếu đi vào những
ngành công nghiệp mũi nhọn, có công nghệ hiện đại như sản xuất máy vi tính, hàng điện
tử bán dẫn, chế tạo máy, lọc dầu và hóa chất…
Tháng 7 năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính khu vực bùng nổ đã tác động đến
hầu hết các nền kinh tế khu vực Châu Á trong đó có Singapore. Mặc dù các cơ sở kinh tế,
tài chính của Singapore hầu như không bị tác động nhưng môi trường kinh doanh quốc tế
suy giảm mạnh khiến Singapore cũng chịu ảnh hưởng. Hậu quả là bên cạnh sự suy giảm
của mức tăng trưởng kinh tế, dòng FDI vào Singapore cũng liên tục giảm sút. Cùng với
đó, sự trỗi dậy mạnh mẽ của các thị trường mới như Trung Quốc, Ấn Độ… cũng như sức
hấp dẫn của môi trường FDI ở các nước này cũng đặt ra cho Singapore thêm nhiều thách
4


thức trong việc thu hút FDI. Cụ thể là sức hấp dẫn hàng đầu của môi trường FDI của
Singapore đã bị thay thế bằng sức hấp dẫn của Trung Quốc, Ấn Độ, Brazin, Mexico, và
nhiều đối thủ cạnh tranh khác. Trước tình hình đó, không chỉ ở Singapore mà còn ở nhiều
quốc gia khác, các nhà đầu tư nước ngoài lo sợ chuyển hướng sang hình thức đầu tư an
toàn hơn. Đặc biệt là khi xảy ra khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á, các nhà đầu tư
nước ngoài đã ồ ạt rút vốn ra khỏi khu vực và Singapore không phải là một ngoại lệ.
Thực trạng thu hút FDI của Singapore chưa bao giờ rơi vào tình trạng bế tắc như lúc này.
Tình hình này đã đặt ra những vấn đề mới về thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Chính phủ Singapore đã có những hoạch định mới cho nền kinh tế và tăng cường hơn
nữa các biện pháp cải thiện môi trường đầu tư để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Sau
khủng hoảng, nhờ nỗ lực đó mà Singapore đã lấy lại được lòng tin từ các nhà đầu tư,
dòng chảy FDI vào Singapore cũng vì thế mà được khôi phục và không ngừng tăng lên.
Trong những năm vừa qua, đặc biệt trong giai đoạn 2005-2014, dòng vốn FDI vào
Singapore tăng lên vượt bậc. Singapore luôn là một trong những quốc gia thu hút FDI lớn
nhất khu vực Châu Á. Bảng dưới đây sẽ cho ta thấy số liệu cụ thể về dòng vốn FDI vào

Singapore từ năm 2005 đến 2014.
Bảng 1.1: Vốn FDI vào Singapore giai đoạn 2005-2014 (Đơn vị: Tỷ SGD)
Năm
Tổng
vốn
FDI

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

323,8

370,5


466,6

510,6

574,7

625,7

678,8

757,4

863,8

1005,4

(Nguồn: Viện thống kê Singapore
www.tablebuilder.singstat.gov.sg/publicfacing/partialDisplay.action)

Nhìn vào những con số thống kê trên, ta dễ dàng nhận thấy là trong khoảng thời
gian 10 năm kể từ năm 2005 đến năm 2014, dòng vốn FDI vào Singapore đã tăng một
cách nhanh chóng từ 323,8 tỷ SGD (năm 2005) lên 1005,4 tỷ SGD (năm 2014). Mặc dù
khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu xảy ra vào năm 2008, nhưng nguồn vốn FDI vào
Singapore vẫn tăng lên ( 510,6 tỷ SGD năm 2008 lên 574,7 tỷ SGD năm 2009). Việc tăng
trưởng mạnh mẽ của dòng vốn FDI vào Singapore chính là nhờ những chính sách thu hút
đầu tư FDI hiệu quả mà chính phủ nước này đã sử dụng trong những năm vừa qua.
Biểu đồ dưới đây sẽ thể hiện rõ hơn sự vận động của dòng vốn FDI vào Singapore
qua các năm.


5


Hình 1.1: Dòng FDI vào Singapore qua các năm (Đơn vị: Tỷ SGD)
1.2.
Cơ cấu vốn FDI vào Singapore
1.2.1. Theo đối tác đầu tư

Bảng 1.2: FDI vào Singapore theo các đối tác đầu tư chính (Đơn vị: Tỷ SGD)
Các nước đầu tư chính
TT Nhật
TT
Mỹ
%
Bản
%
12,
40,6
44,8
13,8
5
10,
38,3
45,0
12,1
3

Năm

Tổng

(Tỷ
SGD)

2005

323,8

49,6

2006

370,5

55,3

2007

466,6

62,5

2008

510,6

47,6

9,3

52,8


2009

574,7

49,5

8,6

59,0

2010

625,7

48,9

7,8

67,1

2011

678,8

55,7

8,2

75,6


2012

757,4

48,9

6,5

105,1

2013

863,8

58,9

6,8

117,0

2014

1005,4

65,9

6,5

149,7


Anh

TT
%
15,
3
14,
9
13,
4

51,6

11,1
10,
3
10,
3
10,
7
11,1
13,
9
13,
5
14,
9



Lan

TT
%

32,1

9,9

48,6

13,1

47,5

10,2

51,4

11,0

50,4

9,9

61,0

11,9

50,5


8,8

61,5

10,7

53,6

8,6

60,5

9,7

53,7

7,9

69,4

10,2

58,7

7,8

75,4

10,0


72,4

8,4

83,9

9,7

108,1

10,8

66,0

6,6

(Nguồn: Viện thống kê Singapore
www.tablebuilder.singstat.gov.sg/publicfacing/changeDecimalPlace.action)

Nhìn chung, đối tác chính của Singapore là các nhà đầu tư từ Mỹ, Hà Lan, Nhật
Bản, Anh (số liệu cụ thể ta có thể quan sát như trong bảng trên). Đây cũng chính là các
nhà đầu tư chiến lược mà Singapore luôn hướng tới trong thu hút FDI, Singapore muốn
không chỉ tranh thủ nguồn vốn đầu tư mà còn tranh thủ cả công nghệ, kỹ thuật và trình độ
quản lý cao của họ.
Trong những năm gần đây, đầu tư từ Hà Lan và Anh có xu hướng giảm dần trong
tổng vốn đầu tư so với các nhà đầu tư khác, nguyên nhân một phần là do sự cạnh tranh
mạnh mẽ của một số nước trong khu vực nhằm thu hút vốn FDI từ Hà Lan và Anh (như
6



Trung Quốc, Ấn Độ…), còn đầu tư của Mỹ và Nhật Bản lại có xu hướng gia tăng. Để tìm
hiểu sâu hơn, có thể cụ thể hóa các đối tác đầu tư chính của Singapore trong từng khu vực
theo bảng số liệu dưới đây:
Bảng 1.3: Nhà đầu tư chính từ Bắc Mỹ (Đơn vị: Tỷ SGD)
Bắc Mỹ
Mỹ
Canada

2013
123,4
117,0
6,5

2014
157,2
149,7
7,5

% tăng giảm
27,4
27,9
15,4

( Nguồn: Viện thống kê Singapore
www.tablebuilder.singstat.gov.sg/publicfacing/partialDisplay.action)

Mỹ là nhà đầu tư lớn nhất ở khu vực Bắc Mỹ đầu tư vào Singapore với số vốn đầu
tư là 117,0 tỷ SGD (2013) và 149,7 tỷ SGD (2014), tăng 27.9%. Trong giai đoạn từ năm
2005 đến năm 2014, tỷ lệ FDI từ Mỹ của Singapore liên tục tăng. Cụ thể, năm 2005 là

12,5% tăng lên 14,9% năm 2014 cho thấy Mỹ vẫn luôn là một trong những nhà đầu tư
lớn tại Singapore.
Bảng 1.4: Các nhà đầu tư chính từ khu vực châu Âu (Đơn vị: Tỷ SGD)
Nước
Châu Âu
Anh
Hà Lan
Thụy Sỹ
Đức
Pháp

2013
297,3
59,0
83,9
40,5
15,4
12,7

2014
311,0
65,9
66,0
43,0
16,9
14,5

% tăng giảm
4,6
11,7

-21,3
6,2
9,7
14.2

( Nguồn: Viện thống kê Singapore
www.tablebuilder.singstat.gov.sg/publicfacing/partialDisplay.action)

Châu Âu là khu vực đầu tư nhiều nhất vào Singapore. Khi nói đến các nhà đầu tư
từ châu Âu không thể không nhắc tới Anh – nhà đầu tư truyền thống của Singapore. Anh
cũng luôn được Singapore coi là đối tác đầu tư lớn và mang tầm chiến lược. Cụ thể, trong
2 năm 2013-2014, FDI từ Anh từ 59,0 tỷ SGD tăng lên 65,9 tỷ SGD, tăng 11,7%. Đứng
thứ hai là Hà Lan, tuy gần đây nguồn vốn FDI vào Singapore có giảm sút nhưng vẫn là
nhà đầu tư lớn. Các vị trí tiếp theo thuộc về Thụy Sĩ, Đức và cuối cùng là Pháp.
Bảng 1.5: Các nhà đầu tư chính từ khu vực châu Á (Đơn vị: Tỷ SGD)
2013

2014
7

% tăng giảm


Châu Á
Nhật Bản
Malaysia
Đài Loan
Hồng Kông
Indonesia
Thái Lan


211,7
72,4
27,4
8,2
34,8
2,5
4,2

265,2
108,1
28,1
12,2
41,4
3,3
4,6

25,3
49,3
2,6
48,8
19,0
32,0
9,5

(Nguồn: Viện thống kê Singapore
www.tablebuilder.singstat.gov.sg/publicfacing/partialDisplay.action)

Nhật Bản là nhà đầu tư lớn nhất ở khu vực châu Á đầu tư vào Singapore. Ngay từ
những năm 1970, Nhật đã là đối tác chiến lược của Singapore trong thu hút FDI. Dựa

trên số liệu có thể thấy, năm 2014, Nhật Bản chiếm gần 50% FDI của khu vực châu Á tại
Singapore với số vốn là 108,1 tỷ SGD. Đứng thứ hai là Hồng Kông, song số vốn đầu tư
khiêm tốn hơn nhiều so với Nhật Bản, chỉ là 41,4 tỷ SGD năm 2014.
Biểu đồ dưới đây sẽ cho thấy rõ hơn dòng vốn FDI (năm 2014) vào Singapore từ
các khu vực trên thế giới.
Hình 1.2: Dòng FDI từ các khu vực vào Singapore năm 2014
(Nguồn: Viện thống kê Singapore)
1.2.2. Theo lĩnh vực đầu tư

Thu hút đầu tư nước ngoài của Singapore luôn gắn liền với chiến lược phát triển
kinh tế của nước này. Hiện nay, FDI vào ngành dịch vụ tài chính đã tăng lên nhanh chóng
và vượt xa ngành sản xuất.
Quan sát bảng 1.6 cho thấy một cái nhìn cụ thể hơn về sự biến đổi của dòng vốn
FDI vào hai ngành chính của nền kinh tế Singapore là sản xuất và dịch vụ trong giai đoạn
2009-2013.
Bảng 1.6: FDI vào Singapore theo ngành sản xuất và dịch vụ (Đơn vị: %)
Năm
2009
2010
2011
2012
2013

Sản xuất
19,5
18,8
18,2
14,6
15,8


Dịch vụ
36,7
37,5
37,8
41,4
41,5
8

Khác
43,8
43,7
44,0
44,0
42,7


( Nguồn: Viện thống kê Singapore
www.tablebuilder.singstat.gov.sg/publicfacing/changeDecimalPlace.action)

Bảng 1.7: FDI theo ngành vào Singapore (Đơn vị: Tỷ SGD)
Năm
Ngành sản xuất
Xây dựng
Thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng
Vận tải
Viễn thông
Dịch vụ tài chính
Bất động sản
Dịch vụ công nghệ, kỹ thuật, quản
trị và hỗ trợ

Ngành khác
Tổng

2009
112,1
3,0
93,9
32,5
5,2
211,1
13,4

2010
117,4
1,7
103,1
32,9
5,2
234,5
15,1

2011
123,6
2,9
111,6
31,8
5,0
256,4
19,9


2012
110,3
2,8
130,0
35,7
8,5
314,0
22,3

2013
136,3
3,6
142,7
34,5
8,5
358,3
24,5

34,3

31,3

35,0

36,7

44,9

69,2
574,7


84,5
625,7

92,6
678,8

97,1
757,4

110,5
863,8

( Nguồn: Viện thống kê Singapore
www.tablebuilder.singstat.gov.sg/publicfacing/changeDecimalPlace.action)

Nhìn vào bảng số liệu trên ta có thể thấy rằng, trong hai ngành sản xuất và dịch vụ,
thu hút FDI vào ngành dịch vụ có xu hướng tăng lên nhanh chóng. Đặc biệt trong ngành
dịch vụ thì dịch vụ tài chính là một thế mạnh của Singapore, năm 2013 nó đã chiếm tới
hơn 40% tổng số vốn FDI vào các ngành kinh tế của Singapore. Điều này cũng dễ hiểu
bởi chủ trương của Chính phủ Singapore là biến đất nước này trở thành một trung tâm
thương mại, tài chính của khu vực và thực trạng thu hút này là một dấu hiệu vô cùng khả
quan, là thành công của Singapore trong thực hiện chiến lược thu hút FDI nhằm mục đích
phát triển kinh tế theo định hướng của nước này.
Bên cạnh dịch vụ tài chính, ngành kinh doanh dịch vụ khách sạn, du lịch và ngành
vận tải cũng thu hút được sự quan tâm của không ít các nhà đầu tư nước ngoài, biểu hiện
là dòng vốn FDI vào các ngành này cũng đứng thứ hai và thứ 3 so với dòng FDI vào
ngành dịch vụ tài chính.

9



CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA CHÍNH SÁCH THU HÚT FDI CỦA
SINGAPORE ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP KINH DOANH QUỐC TẾ
2.1.

Chính sách thu hút FDI của Singapore.

Singapore là một nước tuy có quy mô dân số nhỏ, nghèo tài nguyên thiên nhiên
nhưng lại rất thành công trong việc hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và thu hút FDI nói
riêng. Xuất phát từ một nền kinh tế phát triển ở trình độ thấp, Singapore cần một khối
lượng vốn rất lớn để đổi mới cơ cấu và hiện đại hóa nền kinh tế. Vì vậy, ngay từ đầu họ
đã chú trọng cả nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài, đặc biệt là nguồn vốn bên
ngoài. Điều đó được thể hiện thông qua việc Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách, tạo
ra môi trường hấp dẫn kích thích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Singapore. Chính
sách thu hút FDI của Singapore luôn gắn liền, biến đổi linh động, kết hợp nhuần nhuyễn
với các chính sách kinh tế vĩ mô trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế
Singapore.
Có thể nêu ra một số chính sách, biện pháp thu hút FDI của Singapore như sau:
2.1.1. Khuôn khổ pháp lý về FDI

10


Để khuyến khích các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN)
đến hoạt động sinh lời tại Singapore, Chính phủ Singapore ngay từ những năm 1960 đã
ban hành hàng loạt sắc lệnh ưu tiên cho việc thành lập các ngành công nghiệp non trẻ mà
trước đó chưa có. Từ sau năm 1965, Chính phủ đã thể chế hóa thêm một bước và đưa ra
hàng loạt ưu đãi lớn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Có thể kể đến một số luật
liên quan đến hoạt động thu hút FDI ở Singapore như sau:

Luật mở rộng kinh tế (Economic Expansion Act) năm 1967.
Luật bổ sung năm 1970 (bổ sung cho Luật mở rộng kinh tế).
Luật khuyến khích mở rộng kinh tế (Economic Expansion Incentives
Act) năm 1971.
• Luật công ty (nêu lên những qui định cơ bản về đăng ký và hoạt động
của các công ty ở Singapore, trong đó có công ty có vốn đầu tư nước
ngoài).
• Luật thuế thu nhập năm 1967, qui định các khoản thu nhập của cá nhân
hay tập thể, doanh nghiệp phải nộp thuế (với chủ trương giảm thuế thu
nhập để phát triển kinh tế).




Nhìn chung, luật pháp Singapore đảm bảo không phân biệt đối xử trong thu hút
FDI. Nhà đầu tư nước ngoài giống như các hãng trong nước đều phải đăng ký kinh doanh
theo Luật công ty hoặc Luật đăng ký kinh doanh. Các Luật điều chỉnh các nhà đầu tư
nước ngoài khác là Luật khuyến khích mở rộng kinh tế, và Luật thuế thu nhập. Cơ quan
chịu trách nhiệm thi hành chính sách ưu đãi và khuyến khích đầu tư là Ủy Ban phát triển
kinh tế EDB trực thuộc Bộ Thương mại và Công nghiệp Singapore. Nhìn chung khung
pháp lý thông thoáng, các nhà đầu tư không bị yêu cầu phải liên doanh hoặc nhường lại
quyền quản lý cho các tổ chức địa phương. Hiện nay, ngoài các yêu cầu điều chỉnh trong
một số ngành ra, Chính phủ xét duyệt các dự án đầu tư chỉ để xác định tính hợp lý của
việc được hưởng các chế độ khuyến khích, không hạn chế đối với tái đầu tư và chuyển
thu nhập về nước.
Bên cạnh các văn bản luật quy định về vấn đề ĐTNN của Singapore, nước này còn
tham gia vào các hiệp định song phương và đa phương về đầu tư nhằm tạo điều kiện
thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư trong nước cũng
như tăng cướng thu hút FDI của các nhà ĐTNN.
2.1.2. Chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với nhà đầu tư.

2.1.2.1.
Ưu đãi về thuế
 Đối với ngành công nghiệp mũi nhọn:

11


Để có đủ khả năng lựa chọn biện pháp khuyến khích, công ty phải sản xuất kinh
doanh mặt hàng mà Chính phủ quan tâm đến triển vọng phát triển của nó. Nói chung, các
sản phẩm có công nghệ cao được khuyến khích đầu tư và không có sự hạn chế nào về
quyền sở hữu nước ngoài đối với công ty được ưu tiên hàng đầu.
Cụ thể, doanh nghiệp mũi nhọn là các công ty công nghiệp có vốn đầu tư từ 1 triệu
SGD trở lên và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế lâu dài được hưởng quy chế xí nghiệp
mũi nhọn và được miễn thuế trong 5 năm.
 Đối với các hoạt động dịch vụ mũi nhọn:

Cùng với các ngành công nghiệp mũi nhọn, các hoạt động dịch vụ mũi nhọn cũng
được ưu tiên và khuyến khích. Một số dịch vụ công nghệ và kỹ thuật cao như: dịch vụ y
tế, dịch vụ tài chính, dịch vụ công cộng,… Các công ty dịch vụ mũi nhọn cũng sẽ được
khuyến khích miễn thuế thu nhập trong khoảng thời gian 5-10 năm.
 Đối với việc mở rộng các doanh nghiệp đã thành lập:

Một doanh nghiệp được phép hoạt động tại Singapore mà phải chi phí hơn 10 triệu
SGD cho việc mua thiết bị sản xuất để mở rộng nhà máy và phương tiện sản xuất nhằm
tăng sản lượng, chất lượng sản phẩm thì sẽ được giảm thuế trong 5 năm kể từ ngày các
thiết bị đó bắt đầu hoạt động. Việc giảm thuế này được áp dụng nhằm tăng doanh thu
trong việc mở rộng hoạt động của doanh nghiệp, qua đó khuyến khích các doanh nghiệp
không ngừng mở rộng quy mô sản xuất, chất lượng sản phẩm.
 Đối với ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp và thu nhập các nhân:


Bảng 2.1: Thuế thu nhập doanh nghiệp trong giai đoạn 1997 - nay
Năm
Thuế suất

1997-00
26%

2001
25,5%

2002
24,5%

2003-04
22%

2005-06
20%

2007-09
18%

2010
17%

(Nguồn: www.globallinks.asia)

Từ năm 1997 cho đến nay, Chính phủ Singapore đã liên tục giảm thuế doanh
nghiệp từ 26% (1997) xuống còn 17% (2010) và duy trì cho đến nay.
Để tăng cường thu hút các chủ đầu tư trong và ngoài nước cũng như thu hút và giữ

chân nhân tài, năm 2005, Chính phủ Singapore đã giảm thuế thu nhập cá nhân từ 25%
xuống còn 22%.
Có thể thấy, việc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân là
một động thái tích cực, tác động trực tiếp đến không chỉ những doanh nghiệp, cá nhân
12


trong nước mà còn có tác dụng khuyến khích thu hút các doanh nghiệp nước ngoài đến
đầu tư cũng như thu hút nhân tài làm việc tại Singapore.
2.1.2.2.

Ưu đãi về quyền cư trú

Singapore áp dụng một ưu đãi đặc biệt đối với nhà đầu tư nước ngoài so với các
quốc gia khác. Đó là ưu đãi về quyền cư trú và nhập cảnh hay còn gọi là đặc quyền về
nhập cảnh và nhập quốc tịch. Nhà đầu tư nào có vốn ký thác tại Singapore từ 2,5 triệu
SGD trở lên và có dự án đầu tư được Chính phủ Singapore chấp nhận, sau 5 năm hoạt
động, nhà đầu tư và gia đình họ được hưởng quyền công dân Singapore. Cụ thể, nếu nhà
đầu tư nước ngoài đầu tư vào công nghiệp chế biến sẽ được ngay quyền cư trú tạm thời
và sau 5 năm nếu mức đầu tư nhiều hơn sẽ được hưởng quyền cư trú vĩnh viễn. Điều đó
có tác dụng không chỉ thu hút đầu tư vốn nước ngoài mà còn thu hút chất xám vào
Singapore.
2.1.3. Đa dạng hóa hình thức và đối tác đầu tư.
2.1.3.1.
Hình thức đầu tư

Singapore cho phép các nhà ĐTNN đầu tư thông qua nhiều hình thức khác nhau
như doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh, khu chế xuất, hợp tác
kinh doanh,… Mọi hoạt động thương mại tại Singapore phải được đăng ký tại Cơ quan
đăng ký các công ty và doanh nghiệp RCB.

Ngoài các hình thức FDI trên thì các phương thức đầu tư mới và hoạt động mua lại
và sáp nhập (M&A) ở Singapore cũng không có bất kì sự hạn chế nào. Trong Luật công
ty có các quy định liên quan đến việc mua các công ty cổ phần, ngoài các quy định trong
luật này còn có Bộ luật về mua và sáp nhập công ty, là các văn bản dưới luật.
2.1.3.2.

Đối tác đầu tư

Singapore chủ trương “không phân biệt” để tận dụng khả năng vốn của nhiều quốc
gia khác nhau. Tuy nhiên, các đối tác được Singapore quan tâm nhiều hơn là các công ty
Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu với uy tín lâu đời, kinh nghiệm quản lý, đầu tư hiện đại, nguồn
vốn dồi dào, công nghệ cao để phát triển đất nước. Xác định thu hút đầu tư từ những
nước công nghệ cao đó, Singapore đặc biệt chú ý tới việc thu hút đầu tư từ các công ty đa
quốc gia, hy vọng họ xây dựng nhà máy tại Singapore để không chỉ tạo ra việc làm mà
còn dần đưa công nghệ cao vào trong nước, giúp công ty trong nước có thể theo kịp sự
phát triển của công nghệ trên thế giới từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển.
2.1.4. Chính sách tiền lương và nguồn nhân lực trong thu hút đầu tư.

13


Chính sách tiền lương là một trong những giải pháp quan trọng để thu hút FDI, tạo
môi trường đầu tư thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài và đảm bảo chế độ lao động
tiền lương có lợi cho nước nhận đầu tư. Năm 1968 Chính phủ Singapore đã ban bố Luật
về lao động và Luật bổ sung về quan hệ trong công nghiệp. Theo luật này: Công nhân
không có quyền thương lượng tập thể đòi tăng lương, cấm các hoạt động đình công bãi
công, quyền tự ý di chuyển xếp loại, giảm số lượng nhân công của chủ doanh nghiệp.
Hiện nay, theo qui định của Singapore, lao động có tay nghề thấp có mức lương
dưới 2500 SGD/tháng (việc tuyển lao động loại này chịu một số hạn chế) còn lương trung
bình của công nhân kỹ thuật có tay nghề là: 2300 - 2700 SGD/tháng, lương của lãnh đạo

quản lý là: 5700 - 6000 SGD/tháng, lương đối với kỹ sư là: 3200 - 3500 SGD/tháng. Điều
này chẳng những động viên lực lượng lao động có tay nghề và trình độ cao mà còn góp
phần nâng cao chất lượng lao động nhằm thu hút FDI.
Về vấn đề tuyển dụng và đào tạo lao động để giải quyết lao động cung cấp cho
khu vực có vốn FDI, Chính phủ Singapore đã xây dựng hệ thống trường chuyên nghiệp,
hợp tác với nước ngoài để tổ chức các trung tâm đào tạo, tuyển chọn nhân viên ra nước
ngoài tập huấn chuyên môn, đồng thời các doanh nghiệp trong nước đều chủ động tiến
hành bồi dưỡng đối với công nhân viên chức để đào tạo một lực lượng nhân tài, đảm bảo
đáp ứng nhu cầu về lao động cho việc thu hút FDI.
Đặc biệt vấn đề đào tạo và tái đào tạo lao động được Singapore rất quan tâm,
Chính phủ đã lập Quỹ phát triển kỹ năng (năm 1979) do EDB quản lý (đến năm 1996 thì
được chuyển cho Hội đồng năng suất và Tiêu chuẩn - PSB) nhằm đưa ra các khoản trợ
cấp ưu tiên cho việc đào tạo nhân công và tái đào tạo những nhân công bị cắt giảm thông
qua chương trình trợ cấp đào tạo. Quỹ này do giới chủ đóng góp 4% mức lương hàng
tháng của các ông chủ (người trả lương cho công nhân thấp hơn mức quy định) là một
cách hiệu quả để các công ty tăng cường, nâng cao kỹ năng cho công nhân.
Bên cạnh vấn đề đào tạo nguồn nhân lực trong nước, Singapore còn có chính sách
thu hút nhân tài từ các quốc gia khác sang làm việc tại nước này. Là một quốc gia có quy
mô dân số ít, để đáp ứng nhu cầu lao động cho các dự án FDI, việc Chính phủ Singapore
cho phép nhập cư lao động đặc biệt là lao động có trình độ cao là chính sách phù hợp và
đã góp phần đáp ứng được đòi hỏi về lao động có chất lượng cao của các dự án FDI.
Chính phủ Singapore còn cho phép sinh viên có khả năng theo học tại Đại học
quốc gia Singapore (NUS) có thể vay tiền tiếp tục công việc học tập, với điều kiện sau
khi tốt nghiệp phải có nghĩa vụ làm việc cho một công ty của Singapore trong thời hạn tối

14


thiểu ba năm để trả nợ. Với cách làm này, Singapore luôn có nguồn lao động chất lượng
cao được bổ sung hàng năm để làm việc cho các công ty tại Singapore.

Nói tóm lại, chính sách tiền lương biến đổi phù hợp và linh động cũng như chú
trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực, thu hút nhân tài đã là một ưu điểm nổi bật làm
nên một môi trường đầu tư Singapore vô cùng hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Ảnh hưởng của những chính sách thu hút FDI đối với các doanh nghiệp kinh
doanh quốc tế.
2.2.1. Khái quát một số kết quả đạt được.
2.2.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài rõ ràng là yếu tố quyết định trong việc làm thay đổi
nhanh chóng bộ mặt của nền kinh tế Singapore. Từ một nền kinh tế thương mại chủ yếu
là chuyển khẩu, nghèo nàn, rời rạc, trong vòng hai thập kỷ Singapore đã trở thành một
quốc gia công nghiệp hóa có cơ cấu công nghiệp - dịch vụ hiện đại, đứng đầu trong nhiều
lĩnh vực về kỹ thuật và công nghệ trong khu vực.
Những chính sách thu hút FDI được chính phủ Singapore áp dụng đã có những tác
động vô cùng to lớn đối với các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế đã đầu tư và đang có ý
định đầu tư vào đất nước này. Bằng việc thực hiện các chính sách có lợi cho các nhà đầu
tư, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, minh bạch đã giúp Singapore thu hút được rất nhiều
nguồn vốn từ các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế trên thế giới, đưa Singapore trở thành
đất nước phát triển nhất khu vực Đông Nam Á, một trong bốn con rồng của Châu Á hiện
nay.
 Số doanh nghiệp kinh doanh quốc tế liên tục tăng lên qua các năm:

Bảng 2.2: Tổng số doanh nghiệp kinh doanh quốc tế tại Singapore giai đoạn
2010 – 2015
Năm
Tổng số DN
Số DN nước ngoài
Tỷ trọng (%)

2010

163.600
24.200
14,8

2011
172.700
28.700
16,6

2012
180.800
28.500
15,8

2013
184.400
30.800
16,7

2014
190.500
34.500
18,1

2015
190.100
34.300
18,0

(Nguồn: Viện thống kê Singapore

www.tablebuilder.singstat.gov.sg/publicfacing/partialDisplay.action)

Qua bảng số liệu ta có thể dễ dàng nhận thấy, số doanh nghiệp kinh doanh quốc tế
đầu tư tại Singapore qua mối năm đều tăng lên một cách đáng kể. Năm 2010 là 24.200
doanh nghiệp thì đến năm 2015, con số này đã lên tới 34.300 doanh nghiệp. Tỷ trọng số
doanh nghiệp nước ngoài trên tổng số doanh nghiệp nhìn chung có xu hướng tăng lên, từ
14,8% năm 2010 lên 18,0% năm 2015. Kết quả này có được chính là nhờ những chính
15


sách thu hút FDI hiệu quả mà Singapore đã áp dụng. Nhờ có những chính sách này, môi
trường đầu tư tại Singapore được cải thiện, nhà đầu tư nhận thấy những ưu đãi, hỗ trợ có
lợi cho bản thân cũng như dự án đầu tư, họ cũng mạnh dạn tham gia đầu tư vào
Singapore hơn.
Không chỉ gia tăng về số lượng các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế mà nguồn
vốn FDI vào Singapore cũng tăng lên một cách đáng kể. Cụ thể, năm 2005, nguồn vốn
FDI vào Singapore là 323,8 tỷ SGD thì đến năm 2014, lượng vốn này đã tăng lên đến
1005,4 tỷ SGD.
 Nhà đầu tư đã có những đánh giá vô cùng tích cực về Singapore:

Đây là bảng các chỉ số do các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế trên thế giới tự
đánh giá về các nước và khu vực theo một khảo sát của Doing Business năm 2014. Các
chỉ số này được đánh giá dựa trên các điều kiện về môi trường đầu tư: chính trị, luật
pháp, ưu đãi, hỗ trợ nhà đầu tư, chất lượng nguồn nhân lực,… Qua bảng số liệu ta có thể
thấy Singapore có chỉ số bảo vệ nhà đầu tư cao nhất, cao hơn Mỹ, Đức và khu vực Đông
Á, Thái Bình Dương. Các chỉ số này đã cho thấy, chính nhờ các chính sách thu hút FDI
thực hiện có hiệu quả, các nhà đầu tư đã có những nhìn nhận hết sức tích cực về
Singapore trong các năm vừa qua. Để có được những đánh giá cao từ phía nhà đầu tư,
Chính phủ Singapore đã phải xây dựng những chính sách thu hút đầu tư gắn liền với lợi
ích của nhà đầu tư, mang đến cho họ một môi trường đầu tư hấp dẫn, những chính sách

ưu đãi và hỗ trợ hết sức tuyệt vời. Dưới con mắt của các nhà đầu tư, Singapore chính là
địa điểm lý tưởng để họ tham gia đầu tư kiếm lời.
Bảng 2.3: Chỉ số bảo vệ nhà đầu tư năm 2014
Singapore
Chỉ số giao dịch minh bạch
Chỉ số về trách nhiệm của
cơ quan quản lý
Chỉ số về quyền lực của cổ
đông
Chỉ số bảo vệ nhà đầu tư

Hoa Kỳ

Đức

10,0

Đông Á và Thái
Bình Dương
5,0

7,0

5,0

9,0

5,0

9,0


5,0

9,0

6,0

9,0

5,0

9,3

5,3

8,3

5,0

(Nguồn: Doing Business – 2014)
2.2.2. Hạn chế và thách thức.

16


Thứ nhất, song song với chính sách mở cửa rộng rãi để thu hút FDI, Singapore
vẫn duy trì những hạn chế nhất định trong một số lĩnh vực, từ đó tạo ra rào cản khó khăn
cho các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế muốn đầu tư vào những lĩnh vực này.
Điển hình là lĩnh vực bưu chính viễn thông, truyền thông và báo chí, các dịch vụ
tài chính luật pháp, và quyền tài sản. Thành lập doanh nghiệp có những quy định hạn chế

quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài. Cụ thể là:
- Đối với truyền thông, các lĩnh vực như báo chí, phát thanh truyền hình được
phép hoạt động tự do, thì vẫn hầu như đóng cửa với nhà đầu tư nước ngoài. Mục 44 Luật
phát thanh truyền hình Singapore hạn chế quyền sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước
ngoài trong các hãng nội địa không vượt quá 49%. Ngoài ra luật này cũng quy định rằng
một cá nhân sẽ không được nắm giữ trên 5% cổ phiếu của một công ty nếu không được
tán thành trước. Việc phát hành báo chí và các ấn phẩm cũng giới hạn quyền sở hữu của
mỗi cổ đông (cả trong và ngoài nước) đều không được vượt quá 5%. Đồng thời giám đốc
các công ty phát thanh, phát hành báo chí phải là công dân Singapore, các công ty này
phải phát hành 2 loại cổ phiếu, cổ phiếu thường và cổ phiếu quản lý, trong đó cổ phiếu
quản lý chỉ có công dân Singapore có quyền nắm giữ.
- Trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, mặc dù năm 1999, Chính phủ đã hủy bỏ quy
định về quyền sở hữu tối đa 40% cổ phần ngân hàng của các nhà đầu tư nước ngoài và
giới hạn 20% số cổ phiếu trong các công ty tài chính song chính phủ cũng tuyên bố sẽ
không tán thành bất kỳ ngân hàng nước ngoài nào được phép mua lại các ngân hàng
trong nước.
Tuy đã được tự do hóa hơn song, các ngân hàng nước ngoài vẫn gặp phải những
rào cản nhất định như: giới hạn về vùng dịch vụ, hay như trong việc tiếp cận hệ thống
ATM địa phương.
- Đối với các dịch vụ về luật, các hãng luật của nước ngoài không được phép tư
vấn luật Singapore hay thuê các luật sư Singapore…
Có thể thấy trên đây là những ngành còn hạn chế đối với đầu tư nước ngoài ở
Singapore. Mặc dù là những ngành khá nhạy cảm, song việc hạn chế đầu tư vào các
ngành này cũng làm giảm bớt sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Singapore, trong tương
lai, có lẽ Chính phủ Singapore sẽ nghiên cứu để dần xóa bỏ bớt các rào cản đầu tư trong
các lĩnh vực này, để tăng cường hội nhập quốc tế và thu hút ĐTNN.
Thứ hai, môi trường đầu tư hấp dẫn, các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế tham
gia đầu tư ngày càng nhiều khiến lực lượng lao động chất lượng cao trở nên khan hiếm,
17



các doanh nghiệp phải cạnh tranh gay gắt hơn để có được nguồn lao động đáp ứng đủ
nhu cầu.
Là một quốc gia có quy mô dân số ít, mặc dù đã có những chính sách đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư nhưng với tốc độ tăng
lên nhanh chóng của số lượng các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế, lượng lao động này
là không đủ. Để có được đủ số lượng lao động chất lượng cao phục vụ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình, các nhà đầu tư phải đưa ra các chính sách tiền
lương cũng như phúc lợi hấp dẫn để có thể thu hút được lao động về doanh nghiệp, cạnh
tranh gay gắt với các doanh nghiệp khác. Thách thức đặt ra cho các doanh nghiệp kinh
doanh quốc tế là rất lớn, phải liên tục thay đổi các chính sách phúc lợi và tiền lương để có
thể giữ chân được người lao động có trình độ và tay nghề ở lại với doanh nghiệp. Đây là
bài toàn khó dành cho các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế đầu tư tại Singapore.

CHƯƠNG 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM
3.1.

Một số kinh nghiệm trong chính sách thu hút FDI của Singapore.

Thành công của Singapore trong việc thu hút và sử dụng đầu tư nước ngoài là do
nhiều nguyên nhân, trong đó không thể không kể đến vai trò của Chính phủ nước này.
Với sự nỗ lực và cố gắng vượt bậc, Chính phủ Singapore đã biến đất nước nhỏ bé này trở
thành một địa điểm vô cùng hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Kinh nghiệm tổng thể của Singapore trong chính sách thu hút FDI có thể tóm lược
thành mấy điểm chính đó là: Luật quy định đầu tư rõ ràng, cụ thể và được bổ sung, sửa
đổi khi cần thiết nhằm ngày càng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư nước
ngoài; chính sách ưu đãi và hỗ trợ nhà đầu tư tối đa, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn; chính
sách thu hút FDI hướng tới đa dạng hóa hình thức và đối tác đầu tư, mở rộng không chỉ
về số lượng mà còn về chất lượng nguồn vốn đầu tư; xây dựng chính sách thu hút FDI đi
kèm với chính sách tiền lương và đào tạo nguồn nhân lực rõ ràng, đảm bảo cung cấp

nguồn lao động chất lượng đáp ứng yêu cầu nhà đầu tư. Bằng việc thực hiện tốt các chính
sách này, Singapore luôn giữ được tính hấp dẫn của môi trường đầu tư trước sự biến đổi
của môi trường kinh tế trong và ngoài nước.
18


3.1.1. Khung pháp lý thông thoáng, hệ thống điều chỉnh minh bạch.

Chính phủ Singapore áp dụng các luật như nhau đối với các nhà đầu tư địa phương
và nước ngoài, ngoài các yêu cầu điều chỉnh trong một số ngành (dịch vụ tài chính và
viễn thông) còn các lĩnh vực khác các nhà đầu tư nước ngoài được tự do đầu tư, và kinh
doanh thu lợi. Bên cạnh đó là việc thúc đẩy một môi trường điều chỉnh với các quy định
rõ ràng minh bạch để mở đường cho kinh doanh, chính phủ đã ban hành các điều luật và
qui định về thuế, ngân hàng, tài chính, an toàn lao động, lương và đào tạo… có tính đến
lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, Chính phủ không duy trì một biện pháp nâng đỡ nào đối với công ty nội
địa. Để thực hiện được điều này thì cơ sở sản xuất trong nước phải phát triển khá vững
chắc, các công ty nội địa không những có khả năng phát triển tốt trong nước mà còn phải
có khả năng cạnh tranh được với các công ty nước ngoài. Song vì lý do chính trị, quân
sự… mà trong một số lĩnh vực nhạy cảm, Nhà nước vẫn nắm giữ cổ phần chi phối thông
qua các công ty liên kết với Chính phủ.
Có thể thấy rằng mở cửa, đối xử bình đẳng với các nhà đầu tư nước ngoài là cần
thiết, nhưng chúng ta cũng cần phải tạo môi trường cho các doanh nghiệp trong nước
được “cọ xát” học hỏi, và có cơ sở vững chắc thì mới nên mở cửa để thu hút các nhà đầu
tư nước ngoài, nếu không doanh nghiệp trong nước sẽ không thể cạnh tranh được với các
doanh nghiệp nước ngoài vốn đã rất sành sỏi trong kinh doanh.
3.1.2. Chính sách ưu đãi, hỗ trợ nhà đầu tư tối đa, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn.

Chính phủ Singapore đã xây dựng rất nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ nhà đầu tư,
bao gồm: ưu đãi về thuế, ưu đãi về quyền cư trú,… Ngoài ra còn có các biện pháp hỗ trợ

khác đối với nhà đầu tư như: hỗ trợ góp vốn tài sản, hỗ trợ áp dụng công nghệ mới, hỗ trợ
nghiên cứu và phát triển,…
Các chính sách ưu đãi của Singapore rất cụ thể và rõ ràng, tạo sự thuận tiện cho
nhà đầu tư trong việc nghiên cứu và tìm kiếm cơ hội đầu tư, cung cấp môi trường đầu tư
thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế. Cụ thể như trong chính sách ưu
đãi về thuế, đối với từng ngành khác nhau: ngành công nghiệp mũi nhọn, ngành dịch vụ
mũi nhọn, hoạt động nghiên cứu và phát triển,… Singapore lại có những ưu đãi về thuế
khác nhau. Về thuế thu nhập doanh nghiệp, hiện nay Singapore đang áp dụng mức thuế
suất 17%, thấp hơn nhiều nước trong khu vực và trên thế giới (thuế thu nhập doanh
nghiệp hiện nay của Việt Nam là 20%), khiến Singapore trở thành lựa chọn đầu tư của rất
nhiều doanh nghiệp kinh doanh quốc tế.

19


Trong ưu đãi về quyền cư trú, Singapore cũng áp dụng những ưu đãi đặc biệt đối
với nhà đầu tư nước ngoài so với các quốc gia khác về quyền cư trú và nhập cảnh. Những
ưu đãi này cũng góp phần giúp Singapore trở thành điểm đầu tư lý tưởng của các doanh
nghiệp kinh doanh quốc tế trên thế giới.
3.1.3. Chính sách thu hút FDI hướng tới đa dạng hóa hình thức và đối tác đầu tư.

Singapore luôn dành ưu tiên cho việc tạo dựng môi trường hòa bình ổn định tại
Đông Nam Á và Châu Á Thái Bình Dương, duy trì hệ thống thương mại đa phương, tự
do và mở, sẵn sàng hợp tác với bất kỳ quốc gia nào vì lợi ích chung và duy trì một nền
kinh tế mở.
Tính đến nay, Singapore đã ký thỏa hiệp về bảo hộ đầu tư với các thành viên khác
của tổ chức ASEM, Liên minh kinh tế Bỉ - Luxembourg và 19 đối tác kinh tế sau:
Canada, Trung Quốc, Cộng hòa Séc, Ai cập, Pháp, Đức, Hungary, Latvia, Mông Cổ, Hà
Lan, Pakistan, Ba Lan, Quần đảo Riau, Slovania, Srillanka, Thụy Sỹ, Đài Loan, Anh và
Mỹ. Việc tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực, đặc biệt là những thỏa thuận về

đầu tư quốc tế, cộng với hoạt động ngoại thương phát triển nhanh đã góp phần đẩy mạnh
việc thu hút đầu tư nước ngoài nói chung và FDI nói riêng ở Singapore, cho thấy
Singapore đang ngày càng mở rộng hoạt động thu hút đối với rất nhiều đối tác đầu tư trên
thế giới.
Các hình thức đầu tư tại Singapore cũng ngày càng được đa dạng hóa: doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh, khu chế xuất, hợp tác kinh doanh
trong đó hình thức liên doanh được chú trọng nhiều hơn. Bên cạnh đó, phương thức đầu
tư mua lại và sáp nhập cũng là nét nổi bật của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
Singapore.
Việc tham gia vào rất nhiều các tổ chức và hiệp định kinh tế trên thế giới cho thấy
Singapore đang đẩy mạnh thực hiện chính sách thu hút FDI hướng đến nhiều đối tác đầu
tư trên thế giới, với nhiều hình thức đầu tư khác nhau.
3.1.4. Chú trọng xây dựng chính sách tiền lương và đào tạo nguồn nhân lực rõ ràng,

đảm bảo cung cấp nguồn lao động chất lượng thu hút các nhà đầu tư.
Nguồn lao động chất lượng, trình độ cao là một trong những yếu tố quan trọng
được các nhà đẩu tư nước ngoài xem xét trước khi quyết định đầu tư vào một nước.
Chính vì thế, trong chính sách thu hút FDI của mình, Chính phủ Singapore cũng rất chú
trọng xây dựng một chính sách tiền lương và đào tạo nguồn nhân lực hợp lý, đảm bảo
cung cấp nguồn lao động chất lượng thu hút các nhà đầu tư.
20


Singapore xây dựng các mức lương cụ thể cho các đối tượng: công nhân kỹ thuật
có tay nghề, lãnh đạo quản lý, kỹ sư,… Các mức lương này đều được tính toán và đánh
giá sao cho thỏa mãn cả người lao động và nhà đầu tư. Việc đưa ra các mức lương rõ ràng
như này giúp các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế vừa dễ dàng tìm kiếm được nguồn lao
động chất lượng, có tay nghề cao, vừa tính toán các chi phí đầu tư cũng như sản xuất một
cách chính xác hơn, giúp doanh nghiệp tránh được các rủi ro ngoài ý muốn.
Ngoài các chính sách về tiền lương, Singapore cũng chú trọng đến các chính sách về

thu hút và đào tạo nguồn nhân lực. Chính phủ Singapore đã xây dựng các quỹ phát triển,
các trường đại học lớn trên đất nước nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng phục vụ
kịp thời cho các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế. Đồng thời, Singapore cũng có các chế
độ ưu đãi đặc biệt đối với lao động nước ngoài, nhằm thu hút nhân tài từ các quốc gia
khác.
3.2.

Một số bài học từ chính sách thu hút FDI của Singapore cho Việt Nam.

Một là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách liên quan đến đầu
tư, kinh doanh, tạo môi trường pháp lý thông thoáng và minh bạch hơn. Sửa đổi ngay các
nội dung không còn phù hợp, không đồng bộ, thiếu nhất quán, còn bất cập, chưa rõ, bổ
sung các nội dung còn thiếu. Đặc biệt, chính sách thu hút và ưu đãi đầu tư phải được xây
dựng theo hướng thuận lợi và có tính cạnh tranh hơn so với các nước trong khu vực, nhất
là môi trường đầu tư phải ổn định, có tính tiền lượng và minh bạch.
Hai là, chính sách thu hút FDI cần tăng cường các chính sách hỗ trợ, ưu đãi tài
chính cho các nhà đầu tư, tạo lợi thế về chi phí đầu tư để thu hút các doanh nghiệp kinh
doanh quốc tế. Cụ thể là:
- Thông qua việc áp dụng hệ thống giá cả đối với các nhà đầu tư nước ngoài
và các doanh nghiệp trong nước thống nhất theo cơ chế “một giá”, như: giá điện,
nước, vận tải, bưu điện…
- Đổi mới chế độ quy định cho doanh nghiệp lập báo cáo thuế, báo cáo tài
chính theo hướng minh bạch, đơn giản, tiết kiệm thời gian và chi phí của doanh
nghiệp, như: nộp qua đường bưu điện, hoặc internet có mã tài khoản. Tổ chức
triển khai tốt và nghiêm túc quy chế giải quyết các yêu cầu, thủ tục hành chính cho
người nộp thuế theo “cơ chế một cửa” để thuận lợi cho người nộp thuế.
- Thường xuyên thực hiện việc đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ, bảo đảm
cán bộ thuế có trình độ, kiến thức, kỹ năng quản lý thuế tiên tiến, đồng thời có đạo
đức nghề nghiệp, văn hóa ứng xử tốt. Kiện toàn và tăng cường hệ thống kiểm tra
21



nội bộ trong toàn ngành thuế để kiểm soát, giảm thiểu và từng bước đi đến xóa bỏ
hành vi gây phiền hà, sách nhiễu doanh nghiệp.
Ba là, các chính sách thu hút FDI cần cụ thể hóa các tiêu chí xác định ngành, sản
phẩm được hưởng ưu đãi, nâng mức ưu đãi đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư. Trong đó, đặc
biệt ưu đãi cao hơn cho các doanh nghiệp đầu tư theo chuỗi dự án sản xuất sản phẩm so
với các dự án đơn lẻ.
Bốn là, xây dựng chính sách thu hút FDI cũng cần quan tâm xây dựng chính sách
tiền lương rõ ràng, tăng cường và có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để
đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp. Chính sách tiền lương phù hợp và linh động, công tác
đào tạo nguồn nhân lực, thu hút nhân tài hiệu quả là một ưu điểm nổi bật làm nên một
môi trường đầu tư hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Năm là, cần tăng cường các chế độ chính sách hướng tới đa dạng hóa các nhà đầu
tư và hình thức đầu tư, không chỉ tâp trung thu hút ở một số thị trường quen thuộc mà
phải mở rộng ra nhiều thị trường trên thế giới, hướng đến nhiều đối tượng nhà đầu tư với
nhiều loại hình đầu tư hơn nữa. Chủ động hội nhập kinh tế thế giới, tham gia ký kết các
hiệp định thương mại tự do góp phần tiếp cận dễ dàng hơn với các nhà đầu tư tiềm năng,
các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế trên thế giới.

22


23


KẾT LUẬN
Hội nhập kinh tế thế giới là một xu hướng khách quan, là sự phát triển tất yếu của
nền sản xuất xã hội. Trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, hoạt động đầu tư nước
ngoài có vị trí ngày càng quan trọng, nó đã và đang là nhân tố cơ bản thúc đẩy nhanh quá

trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đặc biệt là của các nước đang phát triển.
Ở khu vực Châu Á, bên cạnh Trung Quốc, đất nước Singapore nhỏ bé đã nổi lên
như là một điển hình thành công nhất trong công cuộc hội nhập này, trong đó có vai trò to
lớn của công cuộc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Mặc dù là một nước nhỏ, tài nguyên
không có gì ngoài nguồn lực con người, nhưng Singapore đã xây dựng được một nền
kinh tế phát triển, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, trở thành một “con rồng
Châu Á”. Một trong những bí quyết thành công của Singapore trong phát triển kinh tế là
nước này đã không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, nắm bắt và tận dụng các xu hướng
đầu tư quốc tế trong công cuộc thu hút dòng vốn FDI vào nước mình. Trong những năm
gần đây tuy việc thu hút FDI đang diễn ra rất gay gắt giữa các nước trên thế giới cũng
như trong khu vực, nhưng Singapore vẫn liên tục nằm trong top các nước dẫn đầu về thu
hút nguồn vốn này tại khu vực Châu Á. Chính chính sách thu hút đầu tư nước ngoài rất
hiệu quả luôn biến đổi linh hoạt và đáp ứng, thỏa mãn được yêu cầu của nhà đầu tư đã
góp phần giúp Singapore luôn là điểm đến vô cùng hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước
ngoài kể cả những nhà đầu tư khó tính như Nhật Bản, Mỹ và Tây Âu.
Bên cạnh đó thực trạng thu hút FDI ở Việt Nam còn tồn tại nhiều hạn chế chưa
tương xứng với tiềm năng của đất nước, thì kinh nghiệm của nước bạn cũng là phần tham
khảo hữu ích cho chúng ta trong quá trình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, góp phần
thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Đề án đã đi vào tìm hiểu những chính sách thu hút FDI của Singapore một cách
tổng quát, phân tích thực trạng, kết quả, hạn chế của những chính sách đó, từ đó rút ra
kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam. Tuy nhiên, đề án vẫn chưa đáp ứng hoàn toàn
những nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra. Một số chính sách và thực trạng vẫn chưa đi sâu
nghiên cứu một cách tỉ mỉ do sự thiếu hụt về các mẫu số liệu và tài liệu tham khảo. Trong
khả năng nghiên cứu cho phép, đề án đã mang đến những cái nhìn tổng quan nhất về tình
hình thực hiện chính sách thu hút FDI của Singapore. Qua đó rút ra các bài học kinh
nghiệm phục vụ cho việc xây dựng chính sách thu hút FDI của Việt Nam, góp phần thúc
đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển, theo kịp các nước phát triển trên thế giới, điển hình
là Singapore.


24


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Huy Nhượng, (2005) Kinh nghiệm của Trung Quốc, Thái Lan và Singapore về
2.
3.
4.
5.
6.
7.

8.

hỗ trợ thực hiện dự án FDI, Tạp chí kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương.
Foreign Direct Investment in Singapore, 1995-2005.
Foreign Direct Investment in Singapore, 2014.
Nguyễn Thị Ngọc Mai (2013), Bí quyết thu hút FDI tại Singapore và kinh nghiệm
cho Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 16/2013.
Phạm Vũ Trà My, Luận văn tốt nghiệp: “Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của
Singapore và một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” (2007).
Phan Việt Châu (2015), Kinh nghiệm thu hút FDI từ một số nước ASEAN, Học
viện Chính trị khu vực IV.
Trần Thị Cẩm Trang (2004), So sánh môi trường đầu tư FDI của Việt Nam với các
nước ASEAN và Trung Quốc. Giải pháp cải thiện môi trường FDI của Việt Nam,
Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới.
World investment report 2014.

Địa chỉ trang web
1.

2.
3.
4.
5.
6.

www.singstat.gov.sg
www.ncseif.gov.vn
www.fia.mpi.gov.vn
www.globallinks.asia
www.unctad.org
www.asean.org

25


×