Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Doanh nghiệp xã hội tại việt nam theo luật doanh nghiệp 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 58 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG
LKT12-03

DOANH NGHIỆP XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM THEO
LUẬT DOANH NGHIỆP 2014
Ngành Luật kinh tế
Mã số: 52380107

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Hà Nội, 5/2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG
LKT12-03

DOANH NGHIỆP XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM THEO
LUẬT DOANH NGHIỆP 2014
Ngành Luật kinh tế
Mã số: 52380107

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Người hướng dẫn: ThS. GVC. HOÀNG MINH CHIẾN

Hà Nội, 5/2016




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả
nghiên cứu nêu trong khóa luận này là trung thực, đảm bảo độ tin cậy và chưa từng
được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về tính xác thực của khóa luận này.

Xác nhận của

Tác giả khóa luận tốt nghiệp

giảng viên hướng dẫn

(ký và ghi rõ họ tên)


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CSIP

: Trung tâm hỗ trợ sáng kiến phục vụ cộng đồng

CSR

: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

CTCP

: Công ty cổ phần


DNXH

: Doanh nghiệp xã hội

FDI

: Đầu tư trực tiếp nước ngoài

HDI

: Chỉ số phát triển con người

HTX

: Hợp tác xã

NGO

: Tổ chức phi chính phủ

ODA

: Viện trợ phát triển chính thức

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn



MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI .............. 4
1.1. Khái niệm Doanh nghiệp xã hội.................................................................. 4
1.1.1. Định nghĩa về Doanh nghiệp xã hội. ..................................................... 4
1.1.2. Đặc điểm cơ bản của Doanh nghiệp xã hội. .......................................... 6
1.2. Vai trò của Doanh nghiệp xã hội. ............................................................... 7
1.2.1. Đối với xã hội. ........................................................................................ 7
1.2.2. Đối với môi trường. ................................................................................ 8
1.3. Phân biệt mô hình Doanh nghiệp xã hội và các tổ chức, phong trào khác.
............................................................................................................................. 9
1.4. Pháp luật về Doanh nghiệp xã hội ở một số quốc gia trên thế giới. ........ 12
1.4.1. Vương quốc Anh. ................................................................................. 12
1.4.2. Hàn Quốc. ............................................................................................ 13
1.4.3. Singapore. ............................................................................................ 15
1.4.4. Thái Lan. .............................................................................................. 16
1.5. Quá trình phát triển của Doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam. ................... 17
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM
THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014. .............................................................. 19
2.1. Phân loại Doanh nghiệp xã hội và một số Doanh nghiệp xã hội điển hình
tại Việt Nam. ..................................................................................................... 19
2.1.1. Phân loại Doanh nghiệp xã hội. .......................................................... 19
a. Căn cứ vào mục đích hoạt động. .............................................................. 19
b. Căn cứ vào hình thức tổ chức. ................................................................. 20
c. Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động. ................................................................ 22
2.1.2. Một số Doanh nghiệp xã hội điển hình tại Việt Nam. .......................... 23


2.2. Quyền và nghĩa vụ của Doanh nghiệp xã hội, chính sách ưu đãi - hỗ trợ
đối với Doanh nghiệp xã hội. ........................................................................... 26

2.2.1. Quyền và nghĩa vụ của Doanh nghiệp xã hội. ..................................... 26
a. Quyền của Doanh nghiệp xã hội. ............................................................. 26
b. Nghĩa vụ của Doanh nghiệp xã hội. ......................................................... 27
2.2.2. Chính sách ưu đãi - hỗ trợ đối với Doanh nghiệp xã hội..................... 29
2.3. Thành lập, tổ chức lại, chấm dứt hoạt động của Doanh nghiệp xã hội. .. 31
2.3.1. Thành lập Doanh nghiệp xã hội. ......................................................... 31
a. Tên gọi..................................................................................................... 31
b. Hồ sơ đăng ký. ......................................................................................... 31
c. Thủ tục đăng ký Doanh nghiệp xã hội. ..................................................... 32
2.3.2. Tổ chức lại Doanh nghiệp xã hội. ........................................................ 32
2.3.3. Chấm dứt hoạt động của Doanh nghiệp xã hội. .................................. 34
2.4. Giám sát hoạt động của Doanh nghiệp xã hội. ......................................... 35
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG DOANH NGHIỆP XÃ HỘI VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI CÁC
QUY ĐỊNH VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI ..................................................... 37
3.1. Thực trạng Doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam. ......................................... 37
3.1.1. Những khó khăn hiện tại. .................................................................... 37
3.1.2. Cơ hội và thách thức từ các vấn đề xã hội và nguồn lực của Việt Nam.
....................................................................................................................... 41
3.2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về Doanh nghiệp xã hội. .................................................................. 42
3.2.1. Yêu cầu và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về Doanh
nghiệp xã hội.................................................................................................. 42
a. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật. .................................................... 42
b. Một số kiến nghị. ..................................................................................... 44


3.2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về Doanh
nghiệp xã hội.................................................................................................. 45
a. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về Doanh nghiệp xã

hội. .............................................................................................................. 45
b. Tăng cường phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan. ................... 46
c. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát hoạt động thực hiện
pháp luật của Doanh nghiệp xã hội. ............................................................ 47
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 48
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 49


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Trong 30 năm qua, đường lối Đổi mới và chính sách mở cửa của nhà nước đã tạo
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ của khu vực doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế và các tổ chức xã hội ngoài nhà nước. Những thành tựu mà Việt
Nam đạt được rõ ràng có sự đóng góp quan trọng của các doanh nghiệp cũng như
vai trò của các tổ chức xã hội trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội như
xóa đói, giảm nghèo, bảo vệ môi trường, công bằng xã hội….Bên cạnh đó, có một
mô hình tổ chức mới hiện đang nổi lên như một sự lựa chọn thứ ba, đầy tiềm năng.
Nó xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của cuộc sống, có nhiều sáng kiến xã hội được
triển khai trên cơ sở sử dụng hoạt động sản xuất kinh doanh như một công cụ nhằm
đem lại các giải pháp xã hội bền vững hơn cho cộng đồng. Mô hình kết hợp này
chính là các Doanh nghiệp xã hội (DNXH). Trên thế giới, DNXH đã trở thành một
phong trào rộng lớn khắp các châu lục. Nhiều quốc gia đã có những chính sách
khuyến khích, thúc đẩy DNXH trên quan điểm nhà nước cần hợp tác và chia sẻ
trách nhiệm cung cấp phúc lợi xã hội với các DNXH để đạt được những hiệu quả
cao hơn.
Trong bối cảnh kinh tế khó khăn của nước ta hiện nay, với hàng loạt những thách
thức về kinh tế - xã hội, môi trường ngày càng trở nên phức tạp thì việc phát triển
các DNXH là điều hết sức cần thiết cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất

nước. Tuy nhiên, muốn tạo nên một xu hướng phát triển cho DNXH thì cần đến “
bà đỡ” chính sách và sự chung sức của cả cộng đồng. Nhận thức rõ vai trò quan
trọng của mô hình này đối với kinh tế- xã hội, lần đầu tiên Luật Doanh nghiệp 2014
đưa ra những quy định về DNXH. Đây là tiền đề quan trọng cho việc hình thành
môi trường pháp lý và những chính sách phù hợp khuyến khích cho sự phát triển
của DNXH. Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của
pháp luật, những ưu đãi, hỗ trợ và các chính sách đối với các DNXH là điều hết sức
cần thiết. Điều này có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn khi nhận
thức của cộng đồng về mô hình này còn rất hạn chế. Với nhận thức như vậy, tác giả
đã lựa chọn vấn đề “Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam theo Luật Doanh nghiệp
2014” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. Trên cơ sở đó đề xuất những ý kiến
nhằm bổ sung chính sách, pháp luật để phát triển mô hình doanh nghiệp xã hội ở
Việt Nam.


2

2. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản cùng với việc phân tích luật
thực định và đánh giá thực trạng của DNXH tại Việt Nam để đưa ra những đề xuất,
kiến nghị nhằm nâng cao nhận thức của xã hội về mô hình DNXH và hoàn thiện
pháp luật điều chỉnh đối với DNXH ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Việc nghiên cứu về DNXH trong Khóa luận này chỉ tập trung nghiên cứu dưới
góc độ pháp lý. Theo đó, khóa luận sẽ chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp luật
liên quan bao gồm: Khái quát chung về DNXH, Pháp luật về DNXH theo quy định
của Luật Doanh nghiệp 2014.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng và nhà nước trong quá trình xây

dựng và phát triển nền kinh tế. Trong quá trình thực hiện khóa luận, có sự kết hợp
sử dụng các phương pháp nghiên cứu: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; các
phương pháp phân tích, đối chiếu, so sánh, tổng hợp, thống kê, diễn dịch, quy nạp…
nhằm giải quyết nội dung của đề tài.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
Việc nghiên cứu đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sau:
• Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về DNXH được thể hiện trong Luật
Doanh nghiệp 2014.
• Làm rõ tiến trình phát triển của pháp luật về DNXH ở Việt Nam qua đó làm
sáng tỏ tính kề thừa và phát triển các quy định pháp luật về vấn đề này.
• Phác họa một bức tranh toàn cảnh về thực trạng phát triển của DNXH, đồng
thời đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả hoạt động của DNXH.
• Khoá luận có giá trị tham khảo cho các cơ quan hữu quan trong quá trình
hoàn thiện và thực hiện pháp luật về DNXH, đặc biệt sẽ giúp cho các đơn vị, cá
nhân đã và sẽ tiến hành hoạt động theo mô hình DNXH có thể nắm bắt kịp thời
những quy định của pháp luật về DNXH theo quy định của Luật Doanh nghiệp
2014. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu đề tài có thể được dùng làm tài liệu tham khảo
đối với việc học tập, nghiên cứu pháp luật của bất cứ ai quan tâm tới DNXH.


3

6. Kết cấu của khóa luận.
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
khóa luận bao gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về Doanh nghiệp xã hội.
Chương 2: Pháp luật về Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam theo Luật doanh nghiệp
2014.
Chương 3: Thực trạng Doanh nghiệp xã hội và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và

nâng cao hiệu quả thực thi các quy định về Doanh nghiệp xã hội.


4

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI
1.1. Khái niệm Doanh nghiệp xã hội.
1.1.1. Định nghĩa về Doanh nghiệp xã hội.
Doanh nghiệp xã hội được hình thành từ những sáng kiến xã hội, trên nền tảng
nhu cầu giải quyết một vấn đề xã hội cụ thể của cộng đồng, được dẫn dắt bởi tinh
thần doanh nhân của người sáng lập.
Theo nghiên cứu của MacDonald M. & Howarth C. (2008), mô hình DNXH đầu
tiên xuất hiện ở nước Anh từ thế kỷ XVII. Trong các thế kỷ tiếp theo, lần lượt các
mô hình tín dụng vi mô, hợp tác xã, nhà ở xã hội…đã ra đời và được nhân rộng ra
các nước ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Tuy nhiên, DNXH chỉ phát triển mạnh mẽ và trở
thành một phong trào rộng lớn trên thế giới như hiện nay kể từ đầu những năm
19801. Thời kỳ này, khi sự lớn mạnh của xã hội dân sự, những hạn chế của nhà
nước cho thấy vai trò duy nhất của nhà nước không đủ để giải quyết các vấn đề xã
hội đang ngày càng gia tăng về cả số lượng và mức độ phức tạp. Do đó, nhà nước
cần chia sẻ và chuyển một phần chức năng cung cấp phúc lợi xã hội cho khu vực
thứ ba đó là các tổ chức đứng giữa khu vực công và các doanh nghiệp thuộc thành
phần kinh tế.
Có thể thấy rằng, xu hướng toàn cầu hóa đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho
các DNXH có thể kết nối, chia sẻ kiến thức, nguồn nhân lực. Đồng thời, đây là thời
kỳ người ta nói đến xã hội hậu công nghiệp và vai trò của xã hội dân sự khi các giá
trị nhân văn được thức tỉnh mạnh mẽ, hướng đến hàng loạt các cuộc vận động xã
hội diễn ra như: bảo vệ môi trường, chỉ số phát triển con người (HDI), mục tiêu
thiên niên kỷ….là các tác nhân chủ chốt khiến cho DNXH phát triển mạnh ra khỏi
biên giới quốc gia và trở thành cuộc vận động xã hội có quy mô và tầm ảnh hưởng
toàn cầu từ Tây Âu, Bắc Mỹ, Mỹ Latinh đến Châu Phi, Nam Á và Đông Nam Á.

Tại các khu vực này, mô hình khái quát về DNXH tuy đã được công nhận một cách
rộng rãi bằng việc ban hành các văn bản pháp lý riêng nhưng khi đi vào nội dung,
tiêu chí cụ thể để định nghĩa, phân loại DNXH lại có nhiều quan điểm rất khác
nhau, điều này còn phụ thuộc vào trình độ phát triển, đặc điểm kinh tế - xã hội của
từng nước và thậm chí là mục tiêu, chính sách của từng Chính phủ và điều đó cũng
làm cho quan điểm về khái niệm DNXH rất đa dạng.
1

Nguyễn Đình Chung, Lưu Minh Đức, Phạm Kiều Oanh, Trần Thị Hồng Gấm (2012), “ Doanh nghiệp xã
hội tại Việt Nam: Khái niệm, bối cảnh và chính sách”.


5

Trong các cách hiểu về DNXH, khái niệm rộng nhất xem “ DNXH hoạt động như
mọi doanh nghiệp nhưng việc quản lý và sử dụng lợi nhuận đều hướng vào các mục
tiêu xã hội và môi trường”. Theo cách này, DNXH bị đơn giản hóa và gần như
tương đồng với các doanh nghiệp truyền thống khi cũng tiến hành các hoạt động
kinh doanh thông thường mà không nêu bật lên được mục tiêu xã hội là sứ mệnh
thành lập và hoạt động của DNXH. Nó không đề cập cụ thể đến nội dung phân phối
lại lợi nhuận do đó, không có bằng chứng và khả năng thuyết phục để phân loại rõ
là “ vì xã hội” hay “vì lợi nhuận”2.
Theo nghĩa hẹp, “ DNXH là một mô hình kinh doanh được thành lập nhằm mục
tiêu xã hội và sử dụng phần lớn lợi nhận để tái đầu tư cho mục tiêu đó thay vì tối đa
hóa lợi nhuận cho cổ đông hoặc chủ sở hữu”. Đây là định nghĩa rất toàn diện khi nó
thể hiện được hầu hết các yêu cầu đối với DNXH như là một mô hình kinh doanh,
mục tiêu xã hội được đặt lên đầu và việc phân phối lợi nhuận được tiến hành cho
cộng đồng chứ không phải bất cứ cá nhân nào khác.
Ngoài ra, đối với các nước trên thế giới thì định nghĩa về DNXH cũng hết sức đa
dạng. Điển hình quan niệm về DNXH của Liên minh các doanh nghiêp xã hội Bắc

Mỹ cho rằng: “DNXH là những tổ chức kinh doanh tạo ra những giá trị tốt đẹp
chung đối với toàn xã hội. Nó sử dụng các phương pháp và nguyên tắc kinh doanh
và quy luật thị trường để tạo ra những kịch bản vượt trội về xã hội, môi trường và
công bằng con người”. Ở đây, các nguyên tắc và động lực của nền kinh tế thị trường
được khai thác nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ và phát triển các giá trị xã
hội, con người và môi trường3.
Tại Việt Nam, theo quy định tại Điều 10, Luật Doanh nghiệp 2014 thì khái niệm
này được quy định như sau: “ Doanh nghiệp xã hội là doanh nghiệp được đăng ký
thành lập theo quy định của luật này, mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết vấn đề xã
hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng và sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hàng
năm của doanh nghiệp để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường
như đã đăng ký”.
Có thể nhận thấy, cách định nghĩa này khá là toàn diện, đã bám sát vào những
đặc điểm cơ bản của DNXH khi mục tiêu xã hội được đặt ra như một sứ mệnh chủ
chốt và cũng đưa ra những yêu cầu cụ thể cho vấn đề phân phối lợi nhuận.

2

Nguyễn Đình Chung, Lưu Minh Đức, Phạm Kiều Oanh, Trần Thị Hồng Gấm (2012), “Doanh nghiệp xã hội
tại Việt Nam: Khái niệm, bối cảnh và chính sách”.
3
Nguyễn Thường Lạng (2012), “Tiềm năng phát triển Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam”.


6

1.1.2. Đặc điểm cơ bản của Doanh nghiệp xã hội.
Mặc dù khái niệm về DNXH rất đa dạng và nhiều chiều nhưng có thể tổng hợp
một số đặc điểm cơ bản sau:
• Có hoạt động kinh doanh.

DNXH phải có hoạt động kinh doanh trên thị trường, họ phải là người có các
sản phẩm hàng hóa và dich vụ với chất lượng tốt, cạnh tranh bình đẳng và công
bằng với các doanh nghiệp truyền thống, tuy điều này là một thách thức lớn đối với
các DNXH nhưng đây lại là một nét đặc thù cũng như thế mạnh của nó khi có thể
tạo ra tính độc lập, tự chủ trong tổ chức và hoạt động của mình. Đây là điều mà các
tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận hay các quỹ từ thiện không đạt được khi họ chỉ
đơn thuần nhận tài trợ, kêu gọi lòng hảo tâm để thực hiện các chương trình xã hội.
• Đặt mục tiêu xã hội lên đầu.
DNXH luôn phải lấy mục tiêu xã hội làm sứ mệnh tối thượng ngay từ khi thành
lập và điều này phải được công bố một cách công khai, rõ ràng, minh bạch. DNXH
sử dụng hình thức kinh doanh của mình như là một công cụ để đạt được các mục
tiêu xã hội, khác với các doanh nghiệp truyền thống sử dụng việc đáp ứng nhu cầu
của khách hàng hay tìm đến các giải pháp xã hội như là một công cụ nhằm đạt được
lợi nhuận cho các chủ sở hữu doanh nghiệp.
Quy trình tiếp cận mục tiêu xã hội của 2 mô hình như sau4:
- Doanh nghiệp truyền thống: Phát hiện nhu cầu
- DNXH: Phát hiện vấn đề xã hội

Sản phẩm

Mô hình kinh doanh

Lợi nhuận.

Giải quyết vấn đề xã

hội.
Có thể nhận thấy rằng, DNXH có thể kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận, cần lợi
nhuận để phục vụ mục tiêu xã hội, nhưng không vì lợi nhuận mà vì xã hội.
Rất nhiều doanh nghiệp tự xem mình là thực hiện mục tiêu xã hội nhưng sự cam

kết này dựa trên điều kiện rằng buộc, các mục tiêu xã hội đó phải là công cụ (hoặc
một phần công cụ) để tối đa hóa giá trị về mặt tài chính (hay lợi nhuận lâu dài) của
doanh nghiệp và các chủ đầu tư thì đó không phải DNXH. Bên cạnh đó, nhiều
doanh nhân trong khi tiến hành hoạt động kinh doanh vì mục đích lợi nhuận vẫn
tiến hành các hoạt động từ thiện thông qua công ty của họ và chấp nhận một khoản
lỗ cho việc này (hoàn toàn không được bất kỳ lợi ích nào, ví dụ: tặng quà cho trẻ em
mồ côi mà không dựa vào đó để quảng cáo cho doanh nghiệp của mình). Tuy nhiên,
4

Nguyễn Đình Chung, Lưu Minh Đức, Phạm Kiều Oanh, Trần Thị Hồng Gấm (2012), “Doanh nghiệp xã hội
tại Việt Nam: Khái niệm, bối cảnh và chính sách”.


7

những doanh nghiệp như thế cũng không phải là các DNXH trừ khi các mục tiêu xã
hội được xem là mục đích hoạt động duy nhất.
• Tái phân phối lại lợi nhuận vì mục tiêu xã hội, môi trường đã cam kết.
Việc tái phân phối lợi nhuận cho tổ chức hoặc cho đối tượng hưởng lợi chỉ là
một tiêu chí để giúp phân định rõ ràng hơn đặc điểm vì lợi nhuận hay vì xã hội mà
thôi. Theo Luật Doanh nghiệp 2014, thì DNXH phải sử dụng ít nhất 51% tổng lợi
nhuận hàng năm để tái đầu tư cho mục tiêu xã hội. So với các doanh nghiệp thông
thường, việc phân chia lợi nhuận cho các chủ sở hữu, cổ đông….là một điều hết sức
cơ bản khi họ tiến hành kinh doanh nhằm thu lại lợi nhuận và làm giàu cho bản
thân. Còn đối với các doanh nghiệp xã hội, họ tiến hành kinh doanh nhằm đem lại
lợi ích cho cộng đồng, xã hội thì việc tái phân phối lợi nhuận đóng vai trò là minh
chứng rõ ràng nhất để có thể duy trì được mục tiêu đó một cách bền vững.
• Phục vụ nhu cầu của nhóm đối tượng đặc biệt.
Đây là nhóm đối tượng những người yếu thế và những người có hoàn cảnh khó
khăn trong xã hội như: người nghèo, người khuyết tật, người bị nhiễm HIV/AIDS,

trẻ em đường phố, phạm nhân mãn hạn tù…. Trong đó, DNXH có vai trò quan
trọng trong việc lấp những khoảng trống “ thất bại của nhà nước” và “ thất bại của
thị trường” khi khu vực nhà nước không thể gánh nổi gánh nặng phúc lợi xã hội còn
khu vực doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế lại lấy những nhóm đối tượng có
khả năng chi trả cao hơn làm khách hàng mục tiêu của mình. Do vậy, chỉ có sự xuất
hiện của các DNXH mới có thể cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho nhóm đối tượng
này ở mức giá rẻ.
Ngoài những đặc điểm trên, hầu hết các DNXH còn có những đặc điểm nổi bật
khác như: có cấu trúc sở hữu mang tính xã hội, nguồn thu được lấy từ kinh doanh
và tài trợ, hiệu quả của hoạt động cần đánh giá trên cả hai mặt là kinh tế và xã
hội….
1.2. Vai trò của Doanh nghiệp xã hội.
DNXH đóng vai trò là động lực quan trọng cho việc đưa ra các giải pháp sáng
tạo, hiệu quả và bền vững cho xã hội và môi trường.
1.2.1. Đối với xã hội.
Các DNXH là một mô hình kinh doanh do đó có thể theo đuổi những mục tiêu
riêng của mình, thực hiện theo các sáng kiến của mình và luôn tìm cách tối ưu hóa
hiệu quả kinh tế ở mức có thể, như các doanh nghiệp thông thường khác. Tuy nhiên,
cách giải quyết của DNXH luôn hướng đến các giải pháp cơ bản, sinh kế bền vững


8

cho đối tượng hưởng lợi như: đào tạo nghề, có việc làm….do đó, hiệu quả xã hội
đạt được có ý nghĩa sâu sắc hơn so với các loại hình hỗ trợ từ thiện. Ngoài ra, các
DNXH luôn đem lại những tác động lâu dài, những thay đổi mang tính căn bản.
Chẳng hạn như thay đổi thói quen, nếp sống, tập quán, kỹ năng và có thể tạo ra
phạm vị ảnh hưởng rộng lớn đặc biệt là thường có tính cộng hưởng, lan truyền ra
cộng đồng xã hội nhằm phát huy những giá trị tốt đẹp, hạn chế những mặt tiêu cực
của xã hội.

Bên cạnh đó, các vấn đề xã hội và môi trường mà Chính phủ giải quyết luôn đa
dạng và phức tạp. Có thể gọi đó là “lỗ hổng” cần hàn gắn của xã hội. Đó có thể là
xóa đói, giảm nghèo, giúp đỡ những người có thu nhập thấp mà cũng có thể là giúp
đỡ những người khuyết tật đang gặp khó khăn trong cuộc sống. Vai trò của DNXH
ở đây lại là khả năng tiếp cận các nguồn hỗ trợ, khai thác tối đa nguồn lực của các
thành phần kinh tế trong xã hội và cộng đồng, đầu tư để giải quyết một phần các
vấn đề xã hội mà Chính phủ đang giải quyết chưa hiệu quả như cung cấp dịch vụ cơ
bản cho người yếu thế, tạo việc làm và có thu nhập cho cộng đồng bị lề hóa, tiên
phong trong những lĩnh vực mới….Do vậy, sự xuất hiện của DNXH coi như sự lấp
đầy chỗ trống bổ trợ bên cạnh “bàn tay vô hình” của Chính phủ.
1.2.2. Đối với môi trường.
Khắc phục ô nhiễm môi trường, xử lý chất thải, biến chúng thành các sản phẩm
tái chế có ích góp phần giải quyết một số vấn đề mà chưa được nhà nước đầu tư.
Trong bối cảnh các doanh nghiệp thông thường còn e ngại khi đầu tư vào những
lĩnh vực như công nghệ sạch, tái chế rác thải, năng lượng mới do tính rủi do cao,
đầu tư lớn và lợi nhuận không như kỳ vọng thì đã có nhiều DNXH đi tiên phong
trong những lĩnh vực này. Từ những chất thải có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường,
các DNXH đã sản xuất ra các sản phẩm phục vụ cho nhân dân, tạo doanh thu và
việc làm. Hầu hết các DNXH đều quan tâm đặc biệt tới môi trường và không vì lợi
ích trước mắt mà bỏ qua tác động có thể sản sinh trong quá trình sản xuất gây ra
những ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường và con người. Sự xuất hiện “làng ung
thư”, biến đổi khí hậu và sự ô nhiễm môi trường từ việc xả thải…. đang diễn ra
ngày càng nhiều và đe dọa đến sức khỏe của cộng đồng cũng như nền kinh tế.
Ngoài ra, DNXH hiện nay cũng được coi là một trong những hình thái tận dụng
nguồn lực mới bên cạnh crowdfunding (gọi vốn cộng đồng ) hay crowdsourcing (sử
dụng ưu thế đám đông)… trợ giúp doanh nghiệp khai thác ý tưởng, trí tuệ tiềm ẩn từ
cộng đồng, giúp giảm chi phí và gia tăng hiệu suất lao động. Vì thế, khi xã hội có


9


càng nhiều vấn đề cần giải quyết thì DNXH được coi như một công cụ hiệu quả để
sử dụng.
1.3. Phân biệt mô hình Doanh nghiệp xã hội và các tổ chức, phong trào khác.
• Doanh nghiệp xã hội trong mối tương quan với các tổ chức phi chính phủ.
Tổ chức phi chính phủ (NGO) ra đời với nhiều mục đích khác nhau, thông
thường nhằm đẩy mạnh các mục tiêu chính trị và xã hội như bảo vệ môi trường, tôn
trọng quyền con người…bao trùm nhiều khía cạnh chính trị, xã hội, triết lý và nhân
văn (theo Wikipedia.org). Tại Việt Nam, loại hình NGO được sử dụng phổ biến hơn
cả trong các văn bản pháp lý và chính sách của nhà nước, đại diện cho toàn bộ khu
vực xã hội dân sự và phi lợi nhuận, đó là các tổ chức phi lợi nhuận (NPO) và các tổ
chức từ thiện.
Các DNXH thường được đem ra so sánh với các tổ chức NGO. Tuy nhiên, trong
mối tương quan giữa DNXH đối với các tổ chức NGO có thể nhận thấy 1 số đặc
điểm khác biệt sau:
Bảng 1: Sự khác biệt giữa DNXH và NGO
Tiêu chí
Nguồn vốn

Mục đích

Lợi nhuận

Ưu đãi

DNXH

NGO

Huy động như doanh nghiệp

bình thường.

Được tài trợ bởi các tổ chức, cá
nhân và có thể đóng góp trong
quá trình hoạt động.

Hoạt động kinh doanh mang lại
lợi nhuận nhằm duy trì, phát
triển các hoạt động giúp giải
quyết các vấn đề xã hội.

Hoạt động theo sứ mệnh để
hoàn thành mục đích đã định
trước bởi sáng lập viên và có
thời hạn hoạt động.

Có lợi nhuận và dùng ít nhất
51% tổng lợi nhuận hàng năm

Không có lợi nhuận hoặc rất
hạn chế, tùy theo tính chất của

cho việc tái đầu tư.

các NGO.

Tùy theo chính sách của quốc
gia.

Không có ưu đãi.


Có thể thấy rằng, DNXH có những ưu thế nhất định so với các tổ chức NGO. Nó
có tính độc lập, tự chủ và bền vững cao hơn khi có thể theo đuổi mục tiêu riêng của
mình mà không phải phụ thuộc quá nhiều vào nhà tài trợ về sứ mệnh, phương


10

hướng hay địa bàn hoạt động như các tổ chức NGO. DNXH luôn hướng đến những
giải pháp bền vững, các đối tượng hưởng lợi luôn được đào tạo nghề, có được việc
làm, tự lập…chứ không hề “ cho không”, “ một chiều” như hầu hết các NGO.
• Doanh nghiệp xã hội và Doanh nghiệp truyền thống.
Phải khẳng định rằng, cả hai mô hình doanh nghiệp này đều hoạt động theo cơ chế
thị trường, nghĩa là có doanh thu và lợi nhuận. Nhưng nó lại khác nhau ở mục tiêu:
Doanh nghiệp thông thường có mục tiêu là lợi nhuận, còn DNXH vì mục tiêu phụng
sự xã hội. Tuy nhiên, sự khác biệt này là chưa đủ, vì bản chất các doanh nghiệp
thông thường không phải tất cả đều chỉ vì lợi nhuận, họ vẫn có những lý tưởng hay
mục tiêu cao cả vì cộng đồng. Để đi sâu hơn, việc phân định một DNXH và một
Doanh nghiệp thông thường còn ở việc sử dụng lao động trực tiếp là người yếu thế
và những người có hoàn cảnh khó khăn hay gián tiếp tạo cơ hội cho họ tham gia vào
chuỗi giá trị hay dịch vụ của mình. Do đó, việc đánh giá hiệu quả của một DNXH
cần phải dựa trên cả 2 hệ tiêu chí về cả giá trị kinh tế và giá trị xã hội- những thứ
không dễ lượng hóa bằng tiền tệ.
Bảng 2: Một số chỉ tiêu tác động của DNXH và Doanh nghiệp thông thường ( theo
Báo cáo kết quả khảo sát DNXH 2011-BC, CSIP & Spark)
1 DNXH trung bình (dưới hình thức
công ty)

1 Doanh nghiệp điển hình


Vốn đăng ký 1,6 tỷ đồng.

Vốn đăng ký 16,8 tỷ đồng.

Sử dụng 51 lao động (có 18 người
khuyết tật).

Sử dụng 36 lao động.

Lợi nhuận 400 triệu đồng/doanh thu 15
tỷ đồng.

Lợi nhuận 320 triệu đồng/doanh thu 13,4
tỷ đồng.

Tác động đến 2.262 đối tượng hưởng lợi
và các giá trị xã hội và môi trường khác.

• DNXH và Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
DNXH thường được so sánh với phong trào Trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp (CSR). Trên thực tế, đây là hai khái niệm hoàn toàn khác biệt, một là mô
hình hoạt động, một là trào lưu vận động xã hội. CSR là một trào lưu tự vận động,
tự nâng cao nhận thức ở các doanh nghiệp để rằng buộc các hoạt động kinh doanh


11

của mình theo các tiêu chuẩn, đạo đức kinh doanh. Theo mô hình của A. Carroll,
CSR gồm 4 tầng nấc. Xét về trách nhiệm cơ bản nhất của doanh nghiệp đó là: phải
đảm bảo lợi nhuận, thu nhập cho người lao động và lợi tức của cổ đông. Trách

nhiệm thứ 2 là tuân thủ các quy định của pháp luật tại nơi doanh nghiệp đăng ký
hoạt động. Tuy nhiên, đó mới chỉ là các trách nhiệm tối thiểu của mọi doanh
nghiệp. Tiếp theo, họ phải hoàn thành và cũng là tâm điểm của CSR đó là trách
nhiệm về đạo đức trong kinh doanh, điều kiện làm việc của công nhân, chất lượng
của sản phẩm và dịch vụ, bảo vệ môi trường và lợi ích cộng đồng. Cuối cùng, trách
nhiệm từ thiện vốn được coi là không bắt buộc, tuy nhiên có rất nhiều công ty lại
lấy nó làm địa bàn chính để thể hiện CSR như là một công cụ để quảng bá, trong
khi các trách nhiệm cơ bản hơn họ vẫn chưa đáp ứng được5. Đơn cử, khi các doanh
nghiệp tiến hành truyền thông về sản phẩm, hoạt động của mình thì chẳng có phóng
viên nào chịu viết bài nhưng khi công bố về các chương trình xã hội thì báo chí lại
tốn nhiều giấy mực để ca tụng mà doanh nghiệp lại không mất xu nào. Lợi cả đôi
đường.
Ở Việt Nam, trước khi được nhìn nhận một cách rộng rãi thì khái niệm DNXH
tồn tại một cách khá “mơ hồ”. Khi tiến hành hoạt động kinh doanh thì doanh
nghiệp buộc phải tính đến cái gọi là “ trách nhiệm xã hội”. Khi mà nó không chỉ là
chuyện hơn thua về mặt giá cả, chất lượng sản phẩm… mà người tiêu dùng còn đòi
hỏi doanh nghiệp cần có chữ tín, phải có trách nhiệm đối với con người và cộng
đồng xã hội. Dẫu chưa có “dư dả” để tham gia các hoạt động từ thiện thì ít nhất
doanh nghiệp cần thể hiện ở việc cư xử đúng mực với “đối tượng liên quan” trước
nhất là người lao động. Do vậy, doanh nghiệp lo cơm áo, gạo tiền cho bản thân,
công ty, người lao động, nhà đầu tư thỉnh thoảng làm từ thiện đã là tốt lắm rồi, nghĩ
sâu xa tới cộng đồng, tới xã hội thì thật là khó. Và trong xã hội, vì thế cũng tồn tại
cách hiểu chưa rõ ràng về DNXH và CSR.
Nhìn chung, đối với CSR có thể thấy rằng, ngày nay các doanh nghiệp không nên
chỉ theo đuổi lợi nhuận kinh tế mà còn phải đảm bảo cả “lợi nhuận” về con người và
môi trường. Đây cũng là thước đo cụ thể đối với mức độ cam kết CSR của một
doanh nghiệp. Do đó, các doanh nghiệp cam kết CSR vẫn là những doanh nghiệp
truyền thống và CSR chỉ làm cho doanh nghiệp “tốt” lên mà không thay đổi bản
chất và mô hình của doanh nghiệp. Trong khi đó, DNXH là một mô hình hoạt động
khác với các doanh nghiệp truyền thống về bản chất.

5

Nguyễn Đình Chung, Lưu Minh Đức, Phạm Kiều Oanh, Trần Thị Hồng Gấm (2012), “Doanh nghiệp xã hội
tại Việt Nam: Khái niệm, bối cảnh và chính sách”.


12

Có thể nhận thấy rằng, DNXH nằm ở vị trí chính giữa các doanh nghiệp và tổ
chức NGO, cũng là 2 tổ chức gần gũi nhất đối với nó. Nếu ở một cực là các doanh
nghiệp hoạt động vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận tài chính thì ở cực còn lại, đó là
các NGO được thành lập nhằm theo đuổi lợi ích xã hội thuần túy. Đồng thời, có
ngày càng nhiều DNXH nhận thức tốt hơn về Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
và gắn kết các yêu cầu của nó vào hoạt động của mình. Tuy nhiên, khả năng phát
triển của phong trào này rất ít về mặt số lượng và đòi hỏi thời gian, điều kiện thuận
lợi từ môi trường kinh tế- xã hội bên ngoài và đặc biệt là chỉ thực hiện được 1 cách
gián tiếp thông qua các doanh nghiệp để tạo ra sự thay đổi. Như vậy, trong mối
quan hệ giữa DNXH với CSR thì DNXH có tầm vóc lớn hơn nhiều.
1.4. Pháp luật về Doanh nghiệp xã hội ở một số quốc gia trên thế giới.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế, phong trào DNXH đã lan rộng ra khắp các quốc gia
trên toàn thế giới như: Anh, Mỹ, Phần Lan, Canada, Hồng Kông, Thái Lan....Do sự
đa dạng về mô hình hoạt động ở các bối cảnh khác nhau nên đến nay chưa có sự
định nghĩa chung, thống nhất toàn cầu về lĩnh vực này nhưng DNXH được thừa
nhận là một trào lưu mới đầy triển vọng qua sự hưởng ứng tích cực và hỗ trợ từ các
Chính phủ, cộng đồng doanh nghiệp, các nhà đầu tư và cơ quan tài trợ phát triển
quốc tế. Một vài ví dụ sau đây sẽ chứng minh cho nhận định về sự phát triển và
triển vọng của phong trào này ở một số quốc gia trên thế giới.
1.4.1. Vương quốc Anh.
Nước Anh là nơi DNXH ra đời sớm nhất và phát triển mạnh mẽ nhất. Theo
thống kê, tại đây có khoảng 68.000 DNXH, đóng góp 24 tỷ bảng vào nền kinh tế và

sử dụng gần 1 triệu lao động6.
Các DNXH ở Anh đa số có quy mô nhỏ, có mức doanh thu khoảng 175.000
bảng/năm. Đa phần hoạt động trong các cộng đồng nhỏ hoạt động ở 1-2 địa phương
và chỉ có khoảng 10% DNXH hoạt động ở quy mô vùng, quốc gia. Các doanh
nghiệp ở đây hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau, bao gồm: Quỹ tín dụng,
nhánh kinh doanh của các tổ chức từ thiện, Hợp tác xã (HTX), công ty xã hội….Tuy
nhiên, về mặt pháp lý, loại hình DNXH được thừa nhận chính thức tại Luật Công ty
2004 và Luật Công ty 2006, đó là Công ty vì Lợi ích Cộng đồng (Community
Interest Company- CIC) với mong muốn sử dụng tài sản và lợi nhuận của mình cho
các mục tiêu xã hội.
6

Lê Thanh Tú (2015), “Chuyên đề kinh nghiệm quốc tế và áp dụng vào Việt Nam trong thành lập, hoat động
và hỗ trợ Doanh nghiệp xã hội”- ngày 19/10/2015.


13

Cơ quan quản lý: các DNXH ở Anh chịu sự quản lý của Văn phòng xã hội dân
sự thuộc Văn phòng nội các. Cơ quan này chịu trách nhiệm hỗ trợ các DNXH, tổ
chức tình nguyện và tổ chức từ thiện.
Thủ tục thành lập: Tại Anh, cơ quan đăng ký kinh doanh sẽ đồng thời cấp Đăng
ký kinh doanh cho các doanh nghiệp thông thường và các CIC. Tuy nhiên, khi nộp
hồ sơ đăng ký thành lập CIC, theo Điều 36 Luật công ty năm 2004, Cơ quan đăng
ký sẽ chuyển một bộ bản sao hồ sơ cho một bộ phận xét duyệt để tiến hành thẩm
định hồ sơ. Nếu đủ điều kiện, các cán bộ đăng ký kinh doanh mới cấp giấy chứng
nhận cho doanh nghiệp là CIC. Cũng tại Luật công ty 2004 quy định Điều lệ thành
lập CIC phải bao gồm: quy định về chuyển giao và phân phối tài sản, thành viên
công ty, quyền bỏ phiếu,…..
Chính sách ưu đãi, hỗ trợ: Sự phát triển của các DNXH ở Anh luôn nhận được

sự hỗ trợ của nhà nước thông qua các chính sách cụ thể như khuyến khích các
DNXH tham gia vào chuỗi cung ứng dịch vụ công và phần lớn doanh thu của họ
đến từ hoạt động kinh doanh với chính quyền trung ương và địa phương. Nhà nước
vừa đóng vai trò là người thúc đẩy, nuôi dưỡng, hỗ trợ vừa là khách hàng lớn của
các DNXH.
Năm 2010, Thủ tướng Anh David Cameron khởi xướng Tầm nhìn về một xã hội
lớn (Big Society) để giúp người dân hợp tác và cải thiện đời sống của mình. Đây
được coi là một nỗ lực của chính phủ nhằm xác định lại vai trò của nhà nước và
thúc đẩy tinh thần Doanh nhân trong cộng đồng. Văn phòng xã hội dân sự giúp điều
phối hoạt động của các Bộ, ban ngành liên quan và thực hiện chính sách này của
Chính phủ thông qua các chương trình sau: Quỹ xã hội lớn (Big Society Capital
Fund), Chương trình dịch vụ công dân (National Citizen Service- NCS), Chương
trình hỗ trợ các nhà lãnh đạo cộng đồng (Community Organisers Program) và Cộng
đồng trước tiên (Community First)….
Trong những năm qua, với sự hỗ trợ của nhà nước và sự ra đời của hàng trăm tổ
chức trung gian chuyên nghiệp đã hình thành nên một môi trường lý tưởng cho sự
phát triển toàn diện của DNXH ở Anh. Đây là mô hình phát triển mà nhiều nước
trên thế giới đã học hỏi như: Thái Lan, Australia, Việt Nam….
1.4.2. Hàn Quốc.
Tại Hàn Quốc, Luật Phát triển DNXH được ban hành ngày 3/1/2007 và tính đến
năm 2012 đã trải qua 7 lần sửa đổi, bổ sung. Mục đích của Luật này là đóng góp sự
hội nhập xã hội và cải thiện chất lượng cuộc sống người dân thông qua việc phát


14

triển các dịch vụ xã hội khi đời sống xã hội chưa cung ứng đủ, tạo công ăn việc làm
thông qua việc hỗ trợ, tạo lập, điều hành và thúc đẩy DNXH.
Thực hiện các quy định tại Luật Phát triển DNXH, Chính phủ Hàn Quốc đã ban
hành Nghị định hướng dẫn ngày 29/6/2007. Tính đến hết năm 2013, nghị định này

đã được sửa đổi, bổ sung đến 11 lần.
Cơ quan quản lý: Bộ trưởng Lao động và Việc làm thành lập Cục khuyến khích
DNXH (Korea Social Enterprise Promotion Agency- KoSEA) để thực hiện việc
khuyến khích và thúc đẩy DNXH. Hội đồng này có Ban điều hành gồm không quá
15 Giám đốc, có Chủ tịch và 1 kiểm toán viên. Về hình thức, Hội đồng này là 1 tập
đoàn và tiến hành các hoạt động như: đào tạo, phát hiện các mô hình DNXH, giám
sát và đánh giá, cung cấp các dịch vụ tư vấn, hợp tác quốc tế liên quan đến
DNXH….
Thủ tục thành lập: Hiện tại quy trình cấp đăng ký DNXH được tách biệt với cấp
đăng ký doanh nghiệp thông thường. Đối với doanh nghiệp thông thường, việc đăng
ký được thực hiện tại Cơ quan đăng ký doanh nghiệp quốc gia (National Business
Register). Trong khi đó, DNXH phải đăng ký thành lập tại Bộ Lao động và Việc
làm. Việc cấp đăng ký kinh doanh cũng trải qua thẩm định để đánh giá doanh
nghiệp có đảm bảo là DNXH hay không thông qua một số tiêu chí như sau: Nếu
mục tiêu chính là cung cấp dịch vụ xã hội cho nhóm yếu thế thì căn cứ vào tỷ lệ
nhóm người yếu thế trong tổng số những người nhận được các dịch vụ xã hội từ tổ
chức đó sẽ phải chiếm 50/100 hoặc nhiều hơn (đến 31/12/2016 thì tỷ lệ còn
30/100)….quy định tại Điều 9 Nghị định số 2014 hướng dẫn thi hành Luật Phát
triển DNXH. Theo thống kê của KoSEA tính đến 31/12/2013, đã có 950 DNXH
được cơ quan này cấp Giấy chứng nhận là DNXH.
Chính sách ưu đãi, hỗ trợ: Để triển khai hiệu quả các hỗ trợ về tài chính, giáo
dục đào tạo, chi tiêu… tại cấp Trung ương, nhà nước thực thi các chính sách hỗ trợ
cho DNXH nhằm mở rộng các dịch vụ xã hội và tạo việc làm, đồng thời tại các cấp
địa phương chính quyền cũng tự xây dựng và thực hiện các chính sách để đảm bảo
phù hợp với đặc điểm của địa phương. Hiện nay, DNXH tại Hàn Quốc đang nhận
được sự hỗ trợ tích cực từ 2 phía: Tại Trung ương, các doanh nghiệp này được miễn
hoặc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm đầu hoạt động. Tiếp đó, Cơ
quan bảo hộ thị trường hàng hóa, dịch vụ sẽ triển khai việc mua hoặc tiêu dùng sản
phẩm, dịch vụ của DNXH. Ngoài ra, Chính phủ còn cung cấp các khoản trợ cấp tới
các quỹ, lời khuyên tư vấn kinh doanh…. Còn tại cấp địa phương, cuối năm 2011,

200 chính quyền địa phương đã ban hành thông tư hướng dẫn để thúc đẩy và hỗ trợ


15

DNXH. Cuối tháng 8/2012, đã có 1.522 DNXH nhận được hỗ trợ chi phí lao động
và phát triển kinh doanh.
Mặc dù các DNXH tại Hàn Quốc nhận được nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ từ
nhà nước nhưng vẫn thường gặp khó khăn về tài chính. Theo Báo cáo Phát triển
DNXH tại nước này, nếu không có sự hỗ trợ tài chính từ bên ngoài thì chỉ có
khoảng 16,1% DNXH là phát triển bền vững. Ước tính rằng, tổng số tài sản của
DNXH được xác thực đạt 300 tỷ won thì trong số đó có tới 90% đến từ các khoản
trợ cấp của chính phủ hoặc của các tổ chức công. Do vậy, hiện nay các DNXH dựa
chủ yếu vào khoản tài trợ này đang gặp nhiều khó khăn về thu hút đầu tư xã hội7.
1.4.3. Singapore.
Hiện nay, tại Singapore chưa có văn bản pháp lý nào quy định thuật ngữ
“DNXH” nên DNXH thành lập dưới các loại hình khác nhau. Hiện tại, duy nhất chỉ
có loại hình HTX được quy định tại Luật HTX xã hội và các Quy tắc xã hội HTX
năm 2009.
Năm 2006, Bộ Phát triển Cộng đồng, Thanh niên và Thể thao thành lập 1 phòng
DNXH. Bộ phận này được hỗ trợ của Chính phủ, khu vực tư nhân, giới tri thức và
các tổ chức xã hội dân sự để tìm hướng giúp phát triển xã hội. Ngày 1/12/2012, Bộ
này đã được cấu trúc lại, đổi tên thành Bộ Phát triển gia đình và xã hội, thực hiện
hàng loạt các kế hoạch tài trợ ngân sách cho DNXH thông qua các quỹ.
Để thúc đẩy sự phát triển DNXH, Singapore thành lập Hiệp hội DNXH. Ngoài ra,
để phục vụ công tác đào tạo và tư vấn năng lực thể chế cho DNXH, Singapore còn
thành lập Trung tâm Phát triển DNXH.
Thủ tục thành lập: Hiện tại, Singapore không có sự tách biệt về luật và khung
pháp lý điều chỉnh cho riêng DNXH. Quốc gia này coi DNXH như là 1 pháp nhân
thương mại nên được điều chỉnh chung như đối với doanh nghiệp thông thường. Do

vậy, việc đăng ký DNXH hay doanh nghiệp thông thường tại đây đều được thực
hiện tại Cơ quan đăng ký pháp lý doanh nghiệp và kế toán theo quy trình thủ tục
đăng ký doanh nghiệp chuẩn.
DNXH tại Singapore được thành lập và hoạt động theo loại hình sau: Doanh
nghiệp một chủ, công ty hợp danh, công ty tư nhân….
Chính sách ưu đãi, hỗ trợ: Hiện nay, Singapore đang triển khai 1 số quỹ hỗ trợ
cho DNXH như: Quỹ doanh nghiệp ComCare, Quỹ thành lập cộng đồng, Trợ cấp
7

Lê Thanh Tú (2015), “Chuyên đề kinh nghiệm quốc tế và áp dụng vào Việt Nam trong thành lập, hoat động
và hỗ trợ Doanh nghiệp xã hội”- ngày 19/10/2015.


16

sáng kiến mới để tài trợ tiền cho khởi sự DNXH hoặc các tổ chức đã thành lập mà
đi đầu trong việc đưa ra sáng kiến đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Đóng góp lớn nhất của DNXH tại Singapore chủ yếu trong vấn đề việc làm. Cụ
thể, trong số 94 DNXH được khảo sát đã tạo ra 1.212 việc làm ổn định toàn thời
gian và 341 việc làm bán thời gian. Trong việc tạo việc làm hòa nhập cho người
khuyết tật cũng có đến 254 người làm toàn thời gian và 236 bán thời gian8.
1.4.4. Thái Lan.
Thái Lan là một trong những nước đi tiên phong cho sự phát triển của DNXH ở
khu vực Đông Nam Á. Theo số liệu của chính phủ, có tới 116.000 tổ chức có thể
nằm trong phạm vi của DNXH, trong đó đa số là các nhóm, mạng lưới tổ chức tại
cộng đồng và chỉ có khoảng 500 tổ chức và doanh nghiệp đã được nhận diện và
hoạt động theo đầy đủ các tiêu chuẩn của một DNXH.
Ngay từ năm 2009, Chính phủ Thái Lan đã tiến hành nhiều hoạt động để thúc
đẩy sự phát triển của DNXH trong đó phải kể đến việc thành lập Ủy ban khuyến
khích DNXH thuộc Văn phòng Thủ tướng và năm 2010 thành lập thêm Văn phòng

Thái về DNXH (TSEO), hình thành Quỹ hỗ trợ DNXH năm 2012, Quỹ đầu tư xã
hội vào năm 2015 và dự kiến ban hành Đạo luật phát triển DNXH vào năm 2016.
Các DNXH ở Thái Lan hoạt động chủ yếu ở các lĩnh vực như: du lịch bền vững,
chăm sóc sức khỏe, năng lượng thay thế, tái chế và tập trung nhiều nhất trong lĩnh
vực nông nghiệp và lâm nghiệp. Các ví dụ điển hình trong hoạt động của các doanh
nghiệp này là việc áp dụng quạt gió để bơm nước cho nông nghiệp và sử dụng bình
khí đốt từ chất thải sinh học9.
Trong kế hoạch phát triển DNXH Thái Lan (2010-2014), chính phủ nước này coi
DNXH là một mô hình để phát triển nền kinh tế sáng tạo và giảm thiểu tác động
tiêu cực của các doanh nghiệp truyền thống tới xã hội, môi trường và có thể cân
bằng cả lợi ích kinh tế lẫn lợi ích xã hội và cần đưa ra những chính sách hỗ trợ để có
thể phát triển bao gồm: xây dựng sự hiểu biết về DNXH tại Thái Lan, nâng cao
năng lực nhằm phát triển hình thức và phạm vi tác động của DNXH, phát triển cách
thức tiếp cận nguồn vốn đầu tư và nguồn lực khác như phát triển các trung tâm đào
tạo DNXH, tăng cường sự hiểu biết đồng thời kêu gọi sự hợp tác của các tổ chức tín
dụng nhằm tạo nguồn vốn tín dụng….

8

Nguyễn Đình Chung, Lưu Minh Đức, Phạm Kiều Oanh, Trần Thị Hồng Gấm (2012), “Doanh nghiệp xã hội
tại Việt Nam: Khái niệm, bối cảnh và chính sách”.
9
“ Kinh nghiệm của Thái Lan trong việc sáng tạo để giải quyết vấn đề xã hội”-


17

Có thể thấy rằng, mỗi quốc gia đều có những nhìn nhận khác nhau về DNXH, đó
có thể là các vấn đề về thủ tục pháp lý hay những ưu đãi, hỗ trợ… mà chính phủ của
các nước này dành cho mô hình DNXH để phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của

quốc gia đó. Mặc dù có những sự khác biệt nhưng trong giai đoạn khó khăn chung
của nền kinh tế toàn cầu, thì việc hình thành và phát triển DNXH được coi là xu
hướng tất yếu đối với mọi nền kinh tế và là một phong trào chung trên toàn thế giới.
Sự lan rộng của các DNXH đã tạo thành các mạng lưới liên quốc gia, tập hợp, chia
sẻ và hỗ trợ các DNXH trên phạm vi toàn cầu, đặc biệt là đối với các nước đang
phát triển. Trong bất kỳ lĩnh vực nào, chúng ta luôn có cảm giác thích thú khi đi tiên
phong trong một lĩnh vực mới nhưng sự thật là người đi tiên phong thường mắc sai
lầm và vị trí tiên phong chưa chắc là tốt nhất. Do đó, với sự phát triển của mô hình
DNXH ở Việt Nam, chúng ta có thể tận dụng lợi thế của “người đến sau” qua việc
tìm hiểu các mô hình trên thế giới và tìm ra mô hình thích hợp nhất cho bản thân
mình. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức cho Chính phủ và cả các DNXH.
1.5. Quá trình phát triển của Doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam.
Trước khi loại hình DNXH được thừa nhận chính thức tại Điều 10 Luật Doanh
nghiệp 2014, đã có nhiều doanh nhân dấn thân vào con đường kinh doanh đầy
chông gai và thử thách này để phục vụ lợi ích của cộng đồng. Có thể chia quá trình
phát triển của các DNXH ở Việt Nam thành 3 giai đoạn chính sau10:
Giai đoạn thứ 1: Trước thời kỳ đổi mới (1986).
Đây là giai đoạn các loại hình tổ chức xã hội độc lập với nhà nước như các tổ
chức NGO không được phép hoạt động tại Việt Nam. Các tổ chức chính trị- xã hội
khác như Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên…luôn được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng,
đây là những nơi duy nhất qua đó các cá nhân có thể tham gia vào các hoạt động
giành cho cộng đồng. Với cơ chế quan liêu, bao cấp ở thời kỳ này thì chỉ có kinh tế
nhà nước và kinh tế tập thể mới được công nhận. Trong bối cảnh đó, Hợp tác xã (
HTX) là hình thức tổ chức kinh tế- xã hội phù hợp nhất được thành lập để đáp ứng
nhu cầu chia sẻ, hợp tác và cùng hưởng lợi. Do vậy, có thể coi HTX là mô hình
DNXH sớm nhất ở Việt Nam. Các HTX được thành lập trong giai đoạn này chủ yếu
hướng tới những đối tượng là người khuyết tật. Ví dụ, HTX Nhân đạo (1973) - đây
là đơn vị có bề dày truyền thống sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người khuyết

10


Nguyễn Đình Chung, Lưu Minh Đức, Phạm Kiều Oanh, Trần Thị Hồng Gấm (2012), “Doanh nghiệp xã
hội tại Việt Nam: Khái niệm, bối cảnh và chính sách”.


18

tật, phần lớn là người mù. Các hoạt động chính của HTX này đó là xoa bóp, bấm
huyệt, sản xuất tăm….
Giai đoạn thứ 2: Từ năm 1986 đến 2010.
Đây là giai đoạn nước ta có nhiều chính sách mở cửa dẫn đến sự tăng trưởng
vượt bậc của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và trợ giúp phát triển quốc tế
(ODA). Các hoạt động đầu tư này không những đem lại nguồn vốn lớn mà còn
mang đến sự giao lưu, tri thức và chia sẻ kinh nghiệm mà Việt Nam có thể tiếp thu.
Cùng với đó, nhà nước ban hành nhiều chính sách cởi mở và tạo lập khung pháp lý
cho các tổ chức kinh tế- xã hội ngoài nhà nước, kết hợp với sự kêu gọi đầu tư và
tham gia của các thành phần kinh tế đã phần nào chia sẻ gánh nặng của việc cung
cấp các dich vụ công đặc biệt trong các lĩnh vực: xóa đói, giảm nghèo, giáo dục và
y tế. Tuy nhiên, sự tách biệt hai lĩnh vực hoạt động kinh tế và xã hội cả trong tư duy
lẫn thực tế đã làm hạn chế sự ra đời của mô hình hỗn hợp như DNXH. Trong
khoảng thời gian đó, khi nhắc đến doanh nghiệp thì thường được nghĩ ngay đến lợi
nhuận tài chính còn các tổ chức xã hội thường được xếp vào cùng loại với các tổ
chức từ thiện. Điều này không chỉ kìm hãm các sáng kiến xã hội mà còn tạo ra ít sự
chọn lựa hơn khi hầu hết các tổ chức đều chọn theo hình thức tổ chức NGO do
nguồn tài trợ từ bên ngoài là khá dồi dào.
Giai đoạn thứ 3: Từ 2010 đến nay.
Từ năm 2010, khi Việt Nam nằm trong số các quốc gia có thu nhập trung bình
thấp thì nguồn vốn trong nền kinh tế nước ta đã dồi dào và chủ động hơn, tình trạng
nghèo đói đã được giảm đáng kể. Tuy nhiên, điều này cũng dẫn đến việc thay đổi
chính sách hỗ trợ nhân đạo và phát triển của các quốc gia và tổ chức quốc tế tại Việt

Nam. Việc giảm dần nguồn viện trợ ODA từ nước ta sang các nước nghèo hơn sẽ
khiến thiếu hụt nguồn vốn nghiêm trọng cho các hoạt động cộng đồng trong khi
việc huy động nguồn vốn từ cộng đồng ở Việt Nam còn mang tính tự phát và quy
mô nhỏ. Do đó, DNXH được coi như là một hướng giải quyết mới, một mô hình
kinh doanh dựa trên những nguyên tắc và động lực của thị trường để giải quyết
chính những thất bại của thị trường và các vấn đề xã hội.
Theo đó, trong Luật Doanh nghiệp 2014, các DNXH được chính thức công nhận
cho thấy sự nhìn nhận của Chính phủ, các nhà làm luật với vai trò thúc đẩy các tác
động xã hội tích cực dựa trên các mô hình kinh doanh bền vững của DNXH. Việc
định danh, xây dựng hành lang pháp lý, môi trường hoạt động cùng những giải pháp
hỗ trợ là những việc làm cần thiết để mô hình kinh tế này phát triển tương xứng với
tiềm năng và hạn chế được những mặt tiêu cực trong tương lai.


×