Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Quyền của phụ nữ theo công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ và pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (586.44 KB, 54 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

ĐẶNG THỊ LIỄU
LQT 12-01

QUYỀN CỦA PHỤ NỮ THEO CÔNG ƢỚC VỀ
XÓA BỎ MỌI HÌNH THỨC PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ
CHỐNG LẠI PHỤ NỮ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Ngành Luật Quốc tế
Mã số: 52380108

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Hà Nội, 5/2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

ĐẶNG THỊ LIỄU
LQT 12-01

QUYỀN CỦA PHỤ NỮ THEO CÔNG ƢỚC VỀ XÓA
BỎ MỌI HÌNH THỨC PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ CHỐNG
LẠI PHỤ NỮ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Ngành Luật Quốc tế


Mã số: 52380108

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS NGUYỄN THỊ THUẬN

Hà Nội, 5/2016


LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan Khóa luận là công trình nghiên cứu của riêng em.
Các kết quả nêu trong Khóa luận vẫn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Khóa luận vẫn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Vậy em viết Lời cam đoan này đề nghị
Khoa Luật xem xét để em có thể bảo vệ Khóa luận.

Em xin chân thành cảm ơn!

GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN

NGƢỜI CAM ĐOAN

PGS.TS NGUYỄN THỊ THUẬN

ĐẶNG THỊ LIỄU


LỜI CẢM ƠN
Qua đây, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Ban chủ nhiệm khoa Luật, gia

đình, các thầy cô giáo và bạn bè đã luôn tạo điều kiện tốt nhất cho em được tham
gia và hoàn thành khóa luận này. Đặc biệt, em cũng xin gửi lời cảm ơn chân
thành nhất tới cô PGS.TS Nguyễn Thị Thuận, cô đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn,
giúp đỡ và động viên em trong suốt thời gian vừa qua để em có đề tài hoàn thiện
như ngày hôm nay.
Hà Nội, ngày 25 tháng 05 năm 2016
Sinh viên
Đặng Thị Liễu


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BCH

Ban chấp hành

CEDAW

Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối
xử với phụ nữ

HĐND

Hội đồng nhân dân

HIV/AIDS

Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải

IPU


Liên minh nghị viện thế giới

LHPNVN

Liên hiệp phụ nữ Việt Nam

QH

Quốc hội

UBTVQH

Ủy ban thường vụ Quốc hội


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1.

Tính cấp thiết của đề tài ..................................................................................1

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................2

3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài ........................................................3


4.

Phạm vi nghiên cứu đề tài ...............................................................................3

5.

Phương pháp nghiên cứu đề tài .......................................................................3

6.

Những kết quả nghiên cứu của đề tài ..............................................................3

7.

Kết cấu của đề tài ............................................................................................4

PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................................5
CHƢƠNG 1. QUYỀN CỦA PHỤ NỮ TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ ..........5
1.1.

Pháp luật quốc tế về quyền của phụ nữ trước khi có Công ước CEDAW ......5

1.2.

Quyền của phụ nữ theo Công ước CEDAW ...................................................8

CHƢƠNG 2. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ ...............15
2.1.

Quyền của phụ nữ trong các bản Hiến pháp .................................................16


2.2.

Quyền của phụ nữ trong một số văn bản quy phạm pháp luật ......................20

CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC THI HIỆU
QUẢ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM .......................................................29
3.1.

Thực trạng thực hiện Công ước CEDAW và pháp luật Việt Nam về quyền

của phụ nữ .................................................................................................................29
3.1.1. Những kết quả đạt được ............................................................................29
3.1.2. Một số khó khăn vướng mắc .....................................................................33
3.2.

Một số giải pháp thúc đẩy việc thực thi hiệu quả quyền của phụ nữ ............37

3.2.1. Các giải pháp pháp lý ................................................................................38
3.2.2. Một số giải pháp khác ...............................................................................42
KẾT LUẬN ..............................................................................................................45
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Trong xu thế phát triển của thời đại, quyền của người phụ nữ cũng vì thế mà

ngày càng được xã hội quan tâm. Một loạt các Tuyên ngôn, Công ước về quyền của
phụ nữ thể hiện nhận thức của xã hội về vai trò của nữ giới trong đời sống hiện nay.
Bình đẳng giới bảo đảm cho nam, nữ đều có cơ hội đóng góp công sức vào sự
nghiệp phát triển địa phương, đất nước; xây dựng một xã hội giàu mạnh, công bằng,
dân chủ, văn minh; làm tròn trách nghiệm đối với gia đình và được thụ hưởng như
nhau về thành quả của sự phát triển một cách thực chất. Trên bình diện quốc tế,
bình đẳng giới đã trở thành một trong tám mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của
toàn cầu và là một đòi hỏi tất yếu trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập của mỗi
quốc gia.
Trong xu thế phát triển đó, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử chống lại phụ nữ (CEDAW) được đánh giá là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên
khẳng định nguyên tắc không chấp nhận sự phân biệt đối xử dựa trên cơ sở giới tính
tương đối triệt để. Công ước CEDAW có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc và là cơ sở pháp
lý quan trọng trong quá trình đấu tranh giải phóng phụ nữ và thực hiện quyền bình
đẳng của phụ nữ ở các quốc gia trên thế giới. Việt Nam đã chính thức phê chuẩn
Công ước CEDAW và trở thành thành viên thứ 35 của Công ước này. Việc phê
chuẩn và trở thành thành viên chính thức của Công ước CEDAW có ý nghĩa rất
quan trọng đối với việc phát triển pháp luật về quyền con người, đối với việc tạo
dựng hành lang pháp lý quan trọng cho việc đảm bảo các quyền bình đẳng của phụ
nữ, đồng thời là yếu tố quốc tế thúc đẩy xây dựng cơ chế quốc gia về bảo vệ, phát
triển các quyền của phụ nữ, góp phần xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về
phát triển phụ nữ tại Việt Nam.
Đất nước Việt Nam sau hơn 30 năm đổi mới cùng với những thành tựu to lớn
về chính trị, kinh tế - xã hội thì những thành tựu về bình đẳng giới và tiến bộ của
phụ nữ cũng rất đáng được trân trọng. Những thành tựu đó là kết quả trực tiếp, tất
yếu từ sự tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động phụ nữ, từ hệ
thống pháp luật, chính sách của Đảng, Nhà nước về bình đẳng giới ngày càng được
hoàn thiện, từ tinh thần vượt khó, phát huy nội lực phấn đấu vươn lên của các tầng
lớp phụ nữ.
Trải qua hơn 30 năm thực hiện Công ước CEDAW và 10 năm áp dụng Luật

Bình đẳng giới ở Việt Nam, quyền bình đẳng thực chất của phụ nữ ngày càng được

1


đảm bảo hơn, nhận thức xã hội về bình đẳng giới đã có sự cải thiện. Chúng ta đã
từng bước khắc phục tệ phân biệt đối xử với phụ nữ từ trong gia đình ra đến ngoài
xã hội. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải thẳng thắn thừa nhận rằng việc thực hiện
Công ước CEDAW cũng như pháp luật về quyền của phụ nữ ở nước ta còn gặp
nhiều khó khăn, thách thức. Cùng với việc tăng trưởng kinh tế, luôn có nguy cơ
tăng khoảng cách giới. Kết quả chúng ta đạt được còn chưa bền vững, còn có những
mặt ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của phụ nữ và trẻ em.
Xuất phát từ thực tế trên, em xin chọn đề tài: “Quyền của phụ nữ theo Công
ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ và pháp luật Việt
Nam” cho khóa luận tốt nghiệp.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến thời điểm hiện nay, vấn đề nghiên cứu pháp luật về quyền của phụ

nữ đã được các nhà nghiên cứu, các chuyên gia đề cập đến ở nhiều góc độ khác
nhau. Có rất nhiều chương trình, dự án cũng như các đề tài khoa học viết về phụ nữ
hoặc bình đẳng giới tiêu biểu là: Lê Ngọc Hùng: “xã hội học về giới và phát triển”,
Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2000; Tiến sĩ Ngô Bá Thành: “Sự bình
đẳng về cơ hội kinh tế của phụ nữ trong pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật ở
Việt Nam”, xuất bản năm 2001; Tiến sĩ Đỗ Thị Thạch: “phát huy nguồn lực trí thức
nữ Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia, năm 2005...và nhiều bài viết đăng trên các tạp chí có liên quan như
“Phụ nữ: những ưu ái và thiệt thòi - nhìn từ góc độ xã hội, pháp lý” của TS. Hoàng
Thị Kim Quế (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 9, 2003); “Về một số vấn đề công

tác cán bộ nữ trong tình hình mới (Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 37CT/TƯ của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII)” của Hà Thị Khiết, Tạp chí
Khoa học về phụ nữ, số 3, 2004.... Tuy nhiên, từ sau khi Luật Bình đẳng giới có
hiệu lực thì vấn đề thực thi luật như thế nào vẫn là vấn đề cần được nghiên cứu.
Trên thực tế thì nhiều quy định của luật chưa thực sự đi vào đời sống, một số chính
sách mới chỉ là khuyến nghị mà chưa có cơ chế để thực thi. Do đó cần có những
giải pháp cụ thể để luật thực sự đi vào đời sống, đảm bảo các cam kết của Việt Nam
khi gia nhập CEDAW. Với giới hạn của khóa luận này, em xin tập trung nghiên cứu
về quyền của phụ nữ trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam nhằm làm nổi
bật thực trạng thực thi pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ ở Việt Nam, đồng thời
qua đó kiến nghị những giải pháp thúc đẩy thực thi hiệu quả quyền của phụ nữ
trong thời gian tới.

2


3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Khóa luận nghiên cứu những lý luận cơ bản về quyền bình đẳng của phụ nữ

theo pháp luật quốc tế mà tiêu biểu là Công ước CEDAW, lý luận và thực tiễn
quyền bình đẳng của phụ nữ Việt Nam hiện nay; tập trung phân tích và làm rõ
những vấn đề pháp lý cơ bản về quyền của phụ nữ, so sánh những quy định của
pháp luật Việt Nam với Công ước CEDAW, đồng thời cũng phân tích và đánh giá
thực trạng về quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay, những kết quả đạt được và
những vướng mắc cần giải quyết. Từ đó đưa ra các giải pháp nhằm thúc đẩy việc
thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
4.

Phạm vi nghiên cứu đề tài


Phạm vi nghiên cứu của khóa luận là các quy định của Công ước CEDAW
và pháp luật Việt Nam về quyền của phụ nữ trong các lĩnh vực: chính trị, kinh tế xã hội, lao động, giáo dục, y tế......Vấn đề bình đẳng giới được quy định trong Công
ước CEDAW và pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam tương đối rộng. Khóa
luận tập trung nghiên cứu, phân tích và làm rõ những vấn đề pháp lý về quyền bình
đẳng của phụ nữ theo pháp luật Việt Nam để thấy được kết quả nội luật hóa Công
ước CEDAW vào hệ thống pháp luật Việt Nam. Khóa luận cũng tập trung nghiên
cứu việc thực hiện pháp luật về quyền của phụ nữ trên thực tiễn, những thành tựu đã
đạt được và những khó khăn vướng mắc từ đó đưa ra các giải pháp nhằm thúc đẩy
quyền bình đẳng của phụ nữ trong thời ký hội nhập kinh tế quốc tế.
5.

Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài

Khóa luận sử dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử của triết học Mác - Lê Nin về nhà nước và pháp quyền; tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước và pháp luật; Khóa luận cũng sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khác như: phân tích tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp kết hợp lý
luận với thực tiễn, đối chiếu so sánh. Trong đó, bám sát quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về vấn đề cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền.
6.

Những kết quả nghiên cứu của đề tài

Khóa luận phân tích đánh giá và nêu bật quan điểm đúng đắn về quyền của
phụ nữ, vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ phụ nữ, thực trạng pháp luật bảo vệ
quyền của phụ nữ ở nước ta hiện nay, để từ đó kiến nghị những giải pháp nhằm góp
phần thực thi hiệu quả hơn pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ trong điều kiện hiện
nay.


3


7.

Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Quyền của phụ nữ trong pháp luật quốc tế.
Chương 2: Pháp luật Việt Nam về quyền của phụ nữ.
Chương 3: Thực trạng và giải pháp đảm bảo thực thi hiệu quả quyền của phụ
nữ ở Việt Nam.

4


PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
QUYỀN CỦA PHỤ NỮ TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
1.1.

Pháp luật quốc tế về quyền của phụ nữ trƣớc khi có Công ƣớc CEDAW

Ghi nhận và bảo vệ quyền của phụ nữ không chỉ là vấn đề riêng của mỗi
quốc gia mà nó là vấn đề chung của toàn nhân loại. Phụ nữ chiếm hơn một nửa nhân
loại, là lực lượng lao động quan trọng của xã hội nhưng thực tế chưa được đối xử
một cách xứng đáng. Quyền của phụ nữ bị vi phạm do sự phân biệt đối xử với phụ
nữ diễn ra ở khắp nơi trên thế giới cho nên vấn đề cốt lõi trong việc đảm bảo các
quyền của phụ nữ là đảm bảo quyền bình đẳng nam, nữ. Để đấu tranh cho mục tiêu

bình đẳng nam, nữ từ đầu thế kỷ XX cho đến nay đã có rất nhiều văn bản pháp luật
quốc tế ghi nhận và bảo vệ quyền của phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống.
Ngay trong Hiến chương Liên Hợp Quốc tại Điều 1 đã ghi nhận: “...Khuyến
khích phát triển sự tôn trọng các quyền con người và các quyền tự do cơ bản của
tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ và tôn giáo”. Từ
khi tổ chức Liên Hợp Quốc ra đời đến nay đã có rất nhiều điều ước quốc tế liên
quan đến quyền con người nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng được ban hành.
Cho đến 6.3. 2003, theo thống kê của Liên minh nghị viện thế giới (IPU 1), đã có
trên 60 Công ước quốc tế về các quyền con người, quy định cụ thể về các quyền và
nguyên tắc thực hiện và bảo đảm các quyền này. Các văn kiện này xác lập các
chuẩn mực quốc tế về quyền con người. Một trong những văn kiện pháp lý cơ bản
đầu tiên phải kể đến đó là tuyên ngôn thế giới về quyền con người được Đại hội
đồng Liên Hợp Quốc thông qua năm 1948. Đây là văn kiện đầu tiên, văn bản “gốc”
cho tất cả các bộ luật quốc tế về quyền con người sau này và được coi như một
thành tựu chung của tất cả các quốc gia, dân tộc. Bản Tuyên ngôn đề cập đến quyền
tự do cơ bản của tất cả mọi người, bất kể nam giới hay phụ nữ, ở bất cứ nơi nào trên
thế giới, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào. Tư tưởng cơ bản của Tuyên ngôn
là khẳng định quyền tự do và bình đẳng là quyền cố hữu và không thể chuyển
nhượng của con người2. Điều 2 đề cập đến nguyên tắc cơ bản về bình đẳng và
không phân biệt đối xử trong việc thụ hưởng các quyền tự do và bình đẳng của con
1

IPU thành lập 1889 ban đầu là tổ chức liên nghị viện của các nghị sĩ, nay phát triển thành Tổ chức quốc tế
của các Nghị viện của các quốc gia có chủ quyền, có tư cách quan sát viên bên cạnh LHQ. IPU có 144 thành
viên (6.3.2003)
2

Điều 1 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948

5



người đồng thời nghiêm cấm bất kỳ sự phân biệt đối xử nào, kể cả phương diện giới
tính.
Tiếp nối tư tưởng trên một loạt các văn kiện quốc tế khác đã bước đầu ghi
nhận các quyền của phụ nữ thông qua các quyền cơ bản của con người tiêu biểu là:
Công ước về trấn áp việc buôn người và bóc lột mại dâm người khác được
Liên Hợp Quốc ban hành năm 1949. Công ước có nội dung nhằm hạn chế và xóa bỏ
một trong những hình thức xâm hại phụ nữ tồi tệ nhất là buôn bán và bóc lột tình
dục phụ nữ.
Các quyền về chính trị của phụ nữ như quyền được bầu cử, ứng cử, quyền
được nhận vào làm trong các cơ quan nhà nước được thể hiện trong Công ước về
các quyền chính trị được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua năm 1952.
Công ước về quốc tịch và phụ nữ khi kết hôn được thông qua năm 1957.
Công ước ra đời nhằm mục đích bảo vệ quyền có quốc tịch hoặc quyền thay đổi
quốc tịch của người phụ nữ khi kết hôn hay ly hôn với chồng là người nước ngoài.
Công ước về các quyền dân sự - chính trị năm 1966 và Công ước về các
quyền kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966. Hai công ước này kèm theo hai nghị
định thư bổ sung là Nghị định thư không bắt buộc thứ nhất của Công ước quốc tế về
quyền dân sự và chính trị năm 1966 và Nghị định thư không bắt buộc thứ hai của
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị nhằm xóa bỏ án tử hình năm
1989 cùng Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền đã tạo thành một bộ luật quốc tế cơ
bản về quyền con người trong đó có quyền của phụ nữ.
Nội dung chính của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm
1966 tập trung vào việc quy định các quyền con người cơ bản, gắn liền với nhân
thân ở một số lĩnh vực chính trị và dân sự. Gồm 6 phần với 53 điều trong đó phần
III là phần nội dung chính của Công ước quy định cụ thể các quyền dân sự chính trị
mà theo đó, các quốc gia thành viên phải có nghĩa vụ thực hiện nhằm đảm bảo cho
mọi người trong đó có phụ nữ thực hiện các quyền cơ bản của mình như quyền bầu
cử, ứng cử, quốc tịch....Các quyền được liệt kê trong Công ước là các quyền mang

tính phổ biến tới toàn thể nhân loại, không phân biệt người đó thuộc dân tộc, tầng
lớp, màu da hay giới tính.
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966 gồm 5
phần với 31 điều khoản có nhiều quy định, quan điểm tiến bộ tập trung vào quy
định các quyền về việc làm có việc làm, hưởng điều kiện làm việc công bằng, thuận
lợi, quyền được hưởng an toàn và phúc lợi xã hội bao gồm cả quyền được giáo dục,
đào tạo và hưởng lợi ích do áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mà thực tiễn đem lại,
6


ngoài ra còn quy định một số quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong các quan hệ gia
đình.
Hai Công ước trên được xem như là những thỏa thuận về quyền của con
người đầu tiên của Liên Hợp Quốc có tính chất pháp lý ràng buộc chặt chẽ dưới
hình thức Công ước – là những trụ cột đầu tiên của pháp luật quốc tế về quyền con
người trong đó phụ nữ là một nhân tố quan trọng. Cả hai Công ước đều thể hiện
được ba điểm chung là khẳng định quyền tự quyết của dân tộc dẫn tới việc phi thực
dân hóa và nhiều quốc gia được độc lập rồi trở thành thành viên của Liên Hợp
Quốc; khẳng định nguyên tắc bình đẳng giới và không phân biệt đối xử dựa trên
chủng tộc, màu da, giới tính, tôn giáo; điểm quan trọng đó là tạo được sự liên kết
giữa các nhóm quyền với nhau.
Mặc dù đã có nhiều văn kiện quốc tế ghi nhận và bảo vệ quyền của phụ nữ
song thực tế trên thế giới vẫn tồn tại sự phân biệt đối xử với phụ nữ và diễn ra khá
phổ biến. Theo thống kê của nhiều quốc gia, phụ nữ thường chiếm đa số trong diện
những người nghèo khổ, mù chữ, thất học, có thu nhập thấp của thế giới. Nói cách
khác, phụ nữ luôn bị hạn chế trong việc tham gia vào các hoạt động gia đình và xã
hội. Hơn nữa, những công ước quốc tế trên chỉ mới dừng lại ở việc ghi nhận quyền
của phụ nữ ở những khía cạnh đơn lẻ trong tổng thể các quyền của phụ nữ vốn tồn
tại là một thể thống nhất, do đó cần phải có một văn bản đề cập đến quyền con
người của phụ nữ một cách toàn diện và đề ra được các biện pháp cụ thể nhằm khắc

phục những cản trở trong việc thực hiện các quyền của phụ nữ. Mục tiêu xây dựng
Công ước này một mặt sẽ đặt ra các hình thức ràng buộc về quyền của phụ nữ tại
các văn kiện pháp lý quốc tế liên quan, mặt khác góp phần phát triển và hoàn thiện
khung pháp luật quốc tế để từ đó có cơ sở cho việc đảm bảo và thực hiện các quyền
của phụ nữ trên thực tế ở từng quốc gia.
Từ những lý do trên, Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt
đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW – International Convention on the Elimination of
All Forms of Discrimination against Women) đã được Liên Hợp Quốc thông qua
ngày 18/12/1979 và có hiệu lực ngày 3/9/1981. Tính đến tháng 9 năm 2008
CEDAW đã có 185 quốc gia thành viên (chiếm hơn 90% thành viên của Liên Hợp
Quốc)3. Như vậy, đây là một trong những điều ước quốc tế về quyền con người
được phê chuẩn nhiều nhất. Việt Nam phê chuẩn CEDAW vào ngày 17/02/1982 và
Công ước chính thức có hiệc lực đối với Việt Nam ngày 19/03/1982. Sự ra đời của
3

Quỹ phát triển phụ nữ Liên Hợp Quốc (UNIFEM), Nghiên cứu rà soát văn bản pháp luật Việt Nam trên cơ
sở quyền và giới qua lăng kính CEDAW 2009

7


Công ước CEDAW xuất phát từ nhận thức quan trọng của cộng đống quốc tế về
quyền con người, là kết quả đấu tranh lâu dài của nhân loại tiến bộ vì một xã hội
công bằng, dân chủ, nhân đạo và văn minh. Đây là văn bản pháp lý quốc tế toàn
diện nhất từ trước đến nay nhằm xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ
nữ, bảo đảm quyền bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội: dân sự, chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Công ước CEDAW là cơ sở pháp lý quan
trọng cho các chương trình hoạt động của các nhà nước, các tổ chức phi chính phủ,
của bản thân phụ nữ nhằm đảm bảo nhân cách, phẩm giá, các quyền con người cơ
bản, quyền bình đẳng và tiến bộ của phụ nữ, cải thiện và nâng cao địa vị của người

phụ nữ trong xã hội hiện đại.
1.2.

Quyền của phụ nữ theo Công ƣớc CEDAW
Là điều ước quốc tế thuộc lĩnh vực quyền con người, ngoài Lời nói đầu,

Công ước CEDAW chia thành 6 phần với 30 điều. Lời nói đầu đề cập đến cơ sở
pháp lý, sự cần thiết của việc soạn thảo, ban hành Công ước CEDAW, ý nghĩa của
Công ước CEDAW đối với bảo đảm các quyền của phụ nữ. Phần I đề cập đến khái
niệm “phân biệt đối xử” và cam kết của các nước thành viên trong đảm bảo các
quyền bình đẳng và các cơ hội phát triển cho phụ nữ. Phần II đề cập đến các quyền
của phụ nữ trên lĩnh vực chính trị. Phần III đề cập đến các quyền của phụ nữ trên
lĩnh vực kinh tế - xã hội - văn hóa. Phần IV đề cập đến quyền của phụ nữ trong lĩnh
vực dân sự. Phần V và phần VI đề cập đến vấn đề thi hành và hiệu lực của Công
ước CEDAW.
Ngoài ra, theo Nghị quyết A/54/4 ngày 6 tháng 10 năm 1999, Đại hội đồng
Liên Hợp Quốc đã thông qua Nghị định thư không bắt buộc của Công ước CEDAW
về Ủy ban xóa bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ để xem xét các kháng thư của cá
nhân và nhóm cá nhân khiếu nại về việc quyền lợi của họ hoặc của những người do
họ đại diện bị quốc gia thành viên vi phạm.
Có thể khẳng định rằng trong số các văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con
người, CEDAW là văn bản quan trọng nhất do Liên Hợp Quốc thông qua đã đề cập
một cách toàn diện, cụ thể đến các quyền cơ bản của đối tượng dân cư chiếm hơn ½
tổng số nhân loại. Điều này đem lại sức mạnh pháp lý cũng như sự phổ cập rộng rãi
của Công ước trong đời sống quốc tế. Công ước tập trung vào những cách thức,
biện pháp nhằm loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ trong việc thụ
hưởng các quyền con người cơ bản đã được xác định bởi những điều ước quốc tế về
nhân quyền khác.Tuy nhiên, so với các điều ước quốc tế về nhân quyền khác nơi mà
vấn đề quyền của phụ nữ chỉ được quy định một cách chung chung thì ở Công ước


8


CEDAW đã chỉ ra cụ thể những lĩnh vực hiện đang tồn tại sự phân biệt đối xử một
cách nặng nề để từ đó xác định những biện pháp thích hợp nhằm loại bỏ hoàn toàn
tình trạng bất bình đằng của phụ nữ trong gia đình cũng như ngoài xã hội.
Nội dung quan trọng đầu tiên của Công ước CEDAW là khái niệm “phân
biệt đối xử với phụ nữ”. Điều 1 Công ước CEDAW định nghĩa sự phân biệt đối xử
với phụ nữ là: “...bất kỳ sự phân biệt, loại trừ hay hạn chế nào dựa trên cơ sở giới
tính, có tác động hoặc nhằm mục đích làm tổn hại hay vô hiệu hóa việc phụ nữ
được công nhận, hưởng thụ hay thực hiện các quyền và tự do cơ bản của con người
trên tất cả các lĩnh vực”. Không phân biệt đối xử là nguyên tắc cốt lõi của
CEDAW. Thuật ngữ “phân biệt đối xử chống lại phụ nữ” có nghĩa là bất kỳ sự
phân biệt, loại trừ hay hạn chế nào dựa trên cơ sở giới tính làm ảnh hưởng hoặc
nhằm mục đích làm tổn hại hoặc vô hiệu hóa việc phụ nữ được công nhận, thụ
hưởng hay thực hiện các quyền con người và những tự do cơ bản trong những lĩnh
vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, dân sự và các lĩnh vực khác trên cơ sở bình
đẳng nam nữ, bất kể tình trạng hôn nhân của họ như thế nào. Cụm từ chủ đạo trong
định nghĩa về phân biệt đối xử này là “tác động hoặc nhằm mục đích” nêu rõ rằng
CEDAW nghiêm cấm cả hai hình thức phân biệt đối xử trực tiếp và gián tiếp. Phân
biệt đối xử trực tiếp chỉ một hành động hoặc không hành động có “mục đích” gây
phân biệt đối xử chống lại phụ nữ, chẳng hạn như chấm dứt lao động vì lý do kết
hôn hoặc mang thai, tuổi nghỉ hưu không bình đẳng, quyền thừa kế không bình
đẳng và khác biệt về tuổi kết hôn. Trước đây, phân biệt đối xử biểu hiện rõ ràng hơn
và ý đồ phân biệt đối xử cũng thể hiện rõ hơn. Hiện có nhiều hình thức phân biệt
đối xử tinh vi và tiềm ẩn hơn ngày càng khó bị nhận ra mà CEDAW nghiêm cấm vì
đó là phân biệt đối xử gián tiếp. Phụ nữ có thể phải gặp nhiều trở ngại do tập tục
văn hóa và tôn giáo gây nên, hay do nam giới còn bám chặt những quyền lợi của họ
trong những lĩnh vực then chốt như đảng phái chính trị, công đoàn, thiết chế tôn
giáo và tòa án. Phân biệt đối xử gián tiếp nhằm vào tác dộng của việc hành động

hay bỏ qua không hành động. Việc hành động hay bỏ qua không hành động nhìn bề
ngoài có vẻ trung tính hay thậm chí có lợi nhưng tác động của nó thì có thể gây nên
phân biệt đối xử. Do đó theo Điều 1, nếu như việc hàng động hay không hành động
gây nên “tác động” phân biệt đối xử thì đó chính là phân biệt đối xử. Đây có thể
coi là đóng góp có ý nghĩa đầu tiên của Công ước CEDAW với sự nghiệp đấu tranh
vì quyền của phụ nữ trên thế giới bởi lẽ thực chất của việc bảm đảm các quyền con
người cho phụ nữ chính là việc xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử với phụ nữ.

9


Các quyền bình đẳng của phụ nữ là nội dung trọng tâm của Công ước
CEDAW và được đề cập trong 14 điều khoản (từ Điều 2 đến Điều 16). Nếu như các
văn kiện quốc tế về nhân quyền trước kia chỉ mới khái quát hoặc đề cập đến một vài
khía cạnh riêng biệt thì trong Công ước này, lần đầu tiên các quyền của phụ nữ đã
được đề cập một cách cụ thể và toàn diện nhất. Công ước CEDAW đã nêu ra một
loạt những quyền của phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực.
Trong lĩnh vực chính trị
Ở cấp độ quốc gia, quy định của Công ước về yêu cầu đối với nghĩa vụ của
các quốc gia thành viên là phải hành động nhằm tạo lập cho phụ nữ vị thế bình đẳng
thể thực hiện các quyền trong đời sống chính trị và công cộng như quyền bầu cử,
ứng cử ở các cuộc tuyển cử công khai, dân chủ.
Bằng các quy định tại Điều 7, Điều 8 CEDAW song song với việc xác định
hành động thực tế của các quốc gia phải loại bỏ những hạn chế về giới trong các
cương vị nhất định, thúc đẩy tốc độ phát triển của phụ nữ và thiết lập các chương
trình quốc gia nhằm thu hút số lượng đáng kể phụ nữ vào các cương vị lãnh đạo
chính trị tại quốc gia mình, còn đặt ra cho mỗi quốc gia thành viên các nghĩa vụ
phải tạo ra các điều kiện và cơ hội để phụ nữ có được sự đại diện một cách xứng
đáng trong các cuộc tiếp xúc hoặc tại các tổ chức và diễn đàn quốc tế.
Trong lĩnh vực dân sự

Đối với nhiều quốc gia, đây là lĩnh vực mà phụ nữ thường bị phân biệt đối
xử. Chẳng hạn, ở một số nước, phụ nữ không có quyền sở hữu về tài sản, không có
quyền ký kết hợp đồng nhân danh cá nhân. Trong lĩnh vực quan hệ pháp luật gia
đình, tại nhiều quốc gia, phụ nữ vẫn bị cưỡng bức kết hôn, không có quyền bình
đẳng với nam giới trong việc ly hôn, thậm chí phải chịu đựng tệ nạn bạo lực gia
đình và các tục lệ, tập quán truyền thống có hại cho sức khỏe như tục cắt bỏ bộ phận
sinh dục nữ, tục tảo hôn, mang thai sớm....
Phù hợp với sự ghi nhận đó, Công ước quy định các quốc gia thành viên phải
có nghĩa vụ áp dụng tích cực những biện pháp để phụ nữ được bình đẳng với nam
giới trong các mối quan hệ có tính chất dân sự, như tự do lựa chọn nơi cư trú, quyền
tự quyết trong các quan hệ về sở hữu tài sản, quan hệ hôn nhân – gia đình, nhất là
trong việc quyết định những vấn đề liên quan đến hạnh phúc cá nhân của họ như
việc sinh con, nuôi dạy con....
Liên quan đến vị thế của người phụ nữ trong việc xác định quốc tịch của
mình và các con của họ Điều 9 của Công ước xác nhận:

10


“1. Các nước thành viên công ước phải đảm bảo cho phụ nữ được quyền
bình đẳng với nam giới trong việc nhập, thay đổi quốc tịch hay giữ nguyên quốc
tịch của mình. Các nước phải đặc biệt bảo đảm là việc kết hôn với người nước
ngoài, hay sự thay đổi quốc tịch của người chồng trong thời gian hôn nhân sẽ
không mặc nhiên làm thay đổi quốc tịch của người vợ, biến người vợ thành người
không quốc tịch hay ép buộc người vợ phải theo quốc tịch của người chồng.
2. Các nước thành viên công ước phải đảm bảo cho phụ nữ có quyền bình
đẳng với nam giới trong vấn đề quốc tịch của con họ”
Trong mối quan hệ pháp luật về quốc tịch liên quan đến phụ nữ, sự bình
đẳng của họ chỉ có thể đạt được như quy định của Công ước khi quốc gia thành viên
thực hiện đúng hai nghĩa vụ mang tính hiến định là đảm bảo cho phụ nữ các quyền

giống như nam giới trong việc nhận, thay đổi hoặc giữ quốc tịch của cá nhân họ và
trong khi quyết định quốc tịch của con mà họ sinh ra.
Trên thực tế, quyền bình đẳng về quốc tịch của phụ nữ chưa hoàn toàn có
được sự đảm bảo hữu hiệu ở một số quốc gia, vì vẫn có quốc gia trong pháp luật của
mình, duy trì sự phân biệt đối xử với phụ nữ bằng quy định cho phép phụ nữ nước
ngoài có thể nhập quốc tịch của quốc gia mà người chồng là công dân khi kết hôn
với người này nhưng không cho phép nam giới nhập quốc tịch của quốc gia mà
người vợ là công dân khi kết hôn với người phụ nữ đó. Kết quả là trong rất nhiều
trường hợp, người vợ lại buộc phải dời đến sinh sống tại quốc gia của người chồng
mà họ kết hôn, còn nam giới dù có lấy vợ là công dân nước ngoài nhưng vẫn không
phải dời khỏi tổ quốc của mình. Tương tự tình trạng nêu trên, tại một số quốc gia,
trẻ em vẫn đương nhiên được có quốc tịch của người cha mà không cần biết đến
quốc tịch của người mẹ.
Nhằm hướng đến thực thi nghiêm chỉnh Điều 9 của Công ước, vấn đề cần
phải thực hiện với những quốc gia hiện vẫn còn sự bất bình đẳng như vậy trong
pháp luật là phải thiết lập về pháp lý sự bình đẳng chính thức giữa nam và nữ đối
với việc nhận, giữ, thay đổi quốc tịch trong các quan hệ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và
các con của họ.
Bên cạnh việc ghi nhận quyền bình đẳng chung của phụ nữ về dân sự, Công
ước dành sự quan tâm đáng kể đối với đối tượng là phụ nữ sống ở các vùng nông
thôn. Điều 14 của Công ước xác nhận, phụ nữ nông thôn thuộc nhóm phụ nữ có
những vấn đề cần được sự quan tâm đặc biệt của chính phủ các nước, bởi họ chính
là những người phải chịu đựng nhiều nhất gánh nặng của sự bất bình đằng về nhiều
lĩnh vực, nhất là việc chỉ được hưởng quá ít, thậm chí là không được hưởng thành
11


quả lao động của bản thân hay lợi ích từ sự phát triển. Vì vậy, Công ước yêu cầu
các quốc gia thành viên phải xây dựng các kế hoạch hành động để bảo đảm cho phụ
nữ nông thôn có được những điều kiện để họ được tham gia vào các chương trình

phát triển, giáo dục - đào tạo cũng như được hưởng thu lợi ích từ sự phát triển nông
thôn.
Trong lĩnh vực lao động – việc làm
Trong CEDAW, quyền bình đẳng trong lao động và việc làm của phụ nữ
được xem xét và ghi nhận ở rất nhiều nội dung như quyền bình đẳng về cơ hội có
việc làm, quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, quyền hưởng các cơ hội có việc làm
như nhau kể cả việc áp dụng những tiêu chuẩn như nhau khi tuyển dụng, quyền
bình đẳng về tiền lương và hưởng các trợ cấp nghề nghiệp, quyền được bảo vệ để
tránh khỏi bị xâm hại, nhất là chống lại nạn quấy rối tình dục tại nơi làm việc do các
đồng nghiệp nam giới thực hiện.
Trong lĩnh vực giáo dục - y tế
Đối với người phụ nữ thì đây là cơ sở quan trọng để pháp luật cũng như xã
hội trao cho họ các quyền thực sự, trên tất cả các lĩnh vực, tại nơi làm việc, trong
gia đình và ngoài xã hội. Bởi vì, thông qua giáo dục, những truyền thống hay tín
ngưỡng có tính chất duy trì sự bất bình đẳng về giới mới có thể được thay thế bằng
các nhận thức tiên tiến, giúp cho việc đẩy lùi và phá vỡ những tàn dư của nạn phân
biệt đối xử với phụ nữ, vốn tồn tại từ thế hệ này sang thế hệ khác trong cộng đồng
dân cư của từng quốc gia.
Đối với nghĩa vụ của các quốc gia là thành viên Công ước, sự bảo đảm thực
thi quy định của Công ước, sự bảo đảm thực thi quy định của Công ước về lĩnh vực
này bao hàm ba vấn đề cơ bản. Thứ nhất là nghĩa vụ của quốc gia đảm bảo sự bình
đẳng về quyền được tham gia học tập và quyền được giáo dục, đào tạo của các học
sinh nữ. Thứ hai là nghĩa vụ của quốc gia trong việc loại bỏ sự bất bình đẳng về giới
thông qua hệ thống giáo dục quốc dân. Thứ ba là nghĩa vụ của quốc gia trong việc
xóa bỏ các khoản trống, tồn tại trong các cấp giáo dục giữa nam và nữ, ví dụ, đảm
bảo cho các học sinh nữ được quyền tham dự các khóa học đặc biệt theo những
chương trình của chính phủ.
Trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, khoa học, công nghệ
Trên cơ sở bình đẳng, nam nữ có quyền được tham gia các hoạt động giải trí,
thể thao và mọi mặt của đời sống văn hóa; tham gia mọi hoạt động của cộng đồng;

nam nữ được tạo cơ hội như nhau để tham gia vào các hoạt động thể dục thể thao
(Điều 10, 13, 14 Công ước).
12


Liên quan trực tiếp đến các quyền bình đẳng của phụ nữ, Công ước CEDAW
còn đưa ra một sự nhìn nhận hết sức toàn diện về mối quan hệ tương hỗ giữa các
yếu tố truyền thống, văn hóa đối với việc tạo lập vị thế bình đẳng cho phụ nữ. Điều
này có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi lẽ việc tạo lập vị thế bình đẳng về các quyền
và địa vị cho phụ nữ chịu ảnh hưởng và phụ thuộc rất lớn vào việc xóa bỏ những tập
tục truyền thống, các chuẩn mực xã hội và văn hóa có tính chất phân biệt đối xử đối
với phụ nữ. Thông qua vấn đề này, Công ước CEDAW không chỉ cung cấp những
nhận thức đúng đắn về ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa, truyền thống đến các
quyền con người của phụ nữ mà còn đưa ra một định hướng rõ ràng với những hành
động cụ thể nhằm đối phó với vấn đề này mà biện pháp cơ bản là rà soát, sửa đổi và
xóa bỏ những khuôn mẫu, chuẩn mực và tập quán có tính chất phân biệt đối xử về
giới, trước hết là trong hệ thống pháp luật.
Ngoài các nội dung đã nêu trên, Công ước CEDAW còn đề cập đến những
vấn đề riêng biệt của phụ nữ, liên quan đến những đặc thù về giới tính, đó là các
quyền của phụ nữ trong việc mang thai, sinh đẻ và nuôi con, vấn đề buôn bán và
bóc lột tình dục... Đây là một vấn đề hết sức quan trọng không chỉ với phụ nữ mà
còn với toàn thể loài người và đặc biệt nó có quan hệ rất mật thiết đến các quyền
của trẻ em. Thêm vào đó, Công ước CEDAW còn đề cập đến các vấn đề kế hoạch
hóa gia đình. Sự đề cập này là rất xác đáng bởi lẽ xuất phát từ đặc trưng về giới tính
nên vấn đề kế hoạch hóa gia đình có liên quan hết sức mật thiết đến việc thụ hưởng
các quyền con người, đặc biệt là quyền kinh tế, văn hóa, xã hội của phụ nữ.
Tuy nhiên có một khía cạnh rất quan trọng liên quan đến bình đẳng của phụ
nữ nhưng không được đề cập trong Công ước CEDAW, đó là vấn đề bạo lực trên cơ
sở giới tính. Đây có thể coi là một hạn chế lớn nhất của Công ước CEDAW bởi lẽ
bạo lực trên cơ sở giới tính là một vấn đề nổi cộm, diễn ra rất phổ biến và có tác

động rất xấu đến việc thụ hưởng các quyền con người của phụ nữ. Song, sự khiếm
khuyết này phần nào được bổ sung trong Khuyến nghị số 19 của Ủy ban về loại bỏ
mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, thông qua tại kỳ họp lần thứ 11 năm
1992. Trong đoạn 6 của Khuyến nghị này nêu rõ: “Bạo lực giới tính là hành vi
nhằm gây áp lực hoặc nhằm điều khiển một người phụ nữ một cách không chính
đáng. Nó bao gồm những hành hạ về thể chất, tinh thần hoặc gây tổn thương hay
đau đớn về tình dục, việc đe dọa gây ra những hành động như vậy, sự cưỡng chế và
tước đoạt các tự do khác...”.
Đồng thời, Ủy ban về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
khẳng định rằng hành động bạo lực trên cơ sở giới tính chính là những hành động

13


bạo lực chống lại các quyền con người cơ bản của phụ nữ mà đã được ghi nhận
trong các văn kiện pháp lý quốc tế về nhân quyền, bất kể thủ phạm gây ra hành
động đó là cá nhân hay quan chức chính phủ. Trong đoạn 24(t) của Khuyến nghị
này, Ủy ban đã kêu gọi các quốc gia thành viên của Công ước tiến hành những biện
pháp cần thiết để loại bỏ các hành động bạo lực trên cơ sở giới tính. Đặc biệt, vào
năm 1993, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua Tuyên ngôn về xóa bỏ những
hành động bạo lực đối với phụ nữ. Tuyên ngôn này đặt ra những bước hành động và
kêu gọi các quốc gia và cộng đồng quốc tế cần thiết tiến hành những hành động để
xóa bỏ tất cả các hình thức bạo lực với phụ nữ, bất kể những hành động đó diễn ra
trong đời sống công cộng hay đời sống gia đình.
Mặc dù còn những hạn chế nhất định, nhưng có thể khẳng định Công ước
CEDAW đã đưa ra một tập hợp các quyền của phụ nữ một cách toàn diện và đầy đủ
hơn bất kỳ một văn kiện pháp lý quốc tế nào trước đó. Chính điều này đã tạo ra sức
mạnh cũng như tính thuyết phục cao của Công ước, làm cho Công ước CEDAW trở
thành một trong những văn kiện về nhân quyền quốc tế quan trọng bậc nhất không
chỉ trong lĩnh vực quyền phụ nữ mà còn trong lĩnh vực nhân quyền nói chung.

Tiểu kết chƣơng 1
Trong Chương 1, Khóa luận đã nêu khái quát sơ lược về quyền của phụ nữ
trong một số văn bản pháp luật quốc tế như Hiến chương Liên Hợp Quốc, Tuyên
ngôn thế giới về nhân quyền, Công ước về trấn áp việc buôn người và bóc lột mại
dâm người khác, Công ước về quốc tịch của phụ nữ khi kết hôn, Công ước về các
quyền dân sự chính trị và Công ước về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội. Đặc biệt
Khóa luận tập trung phân tích quyền của phụ nữ theo Công ước CEDAW về xóa bỏ
tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực chính
trị; dân sư; lao động - việc làm; giáo dục - y tế; văn hóa, thể thao, khoa học, công
nghệ.

14


CHƢƠNG 2
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ
Nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền con người nói chung
và quyền của phụ nữ nói riêng, ngay sau khi giành được chính quyền, Nhà nước
Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về quyền công dân và quyền của
phụ nữ. Tuy nhiên, do điều kiện hoàn cảnh của đất nước có nhiều thay đổi đặc biệt
là sau khi trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ do đó các quyền
công dân nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng được hình thành và phát triển
vừa có tính kế thừa vừa có sự đổi mới.
Ngay trong Tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định: Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền bình đẳng không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền
được sống, quyền tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc4.
Thấm nhuần tư tưởng ấy, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa năm 1946 tại Điều 9 đã khẳng định: “Đàn bà ngang quyền với đàn
ông về mọi phương diện”. Đây là quy định đầu tiên có ý nghĩa rất lớn trong bối

cảnh nước Việt Nam dân chủ công hòa vừa mới được thành lập. Quy định này đã
xóa bỏ tư tưởng trọng nam khinh nữ của chế độ phong kiến thực dân, góp phần vào
sự nghiệp giải phóng phụ nữ trong lịch sử lập hiến của Việt Nam. Các bản Hiến
pháp tiếp theo năm 1959, năm 1980, năm 1992 và năm 2013 của Việt Nam tiếp tục
kế thừa và phát triển tư tưởng trên theo hướng mở rộng và cụ thể hơn các quyền của
phụ nữ trong các quyền của công dân phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất
nước.
Trên cơ sở những quy định của Hiến pháp, các bộ luật, luật và những văn
bản hướng dẫn thi hành của Việt Nam đã và đang xác định nhiệm vụ trọng tâm là
ghi nhận và bảo vệ quyền của phụ nữ. Tùy vào từng lĩnh vực cụ thể mà quyền của
phụ nữ được ghi nhận ở những văn bản pháp khác nhau. Chẳng hạn Bộ luật lao
động thì bảo vệ người phụ nữ trong lĩnh vực lao động và việc làm, Luật hôn nhân và
gia đình lại ghi nhận và bảo vệ nguyên tắc nam nữ bình đẳng trong hôn nhân gia
đình, Luật Giáo dục lại tạo điều kiện để phụ nữ được học tập và phát huy tư duy
sáng tạo....hoặc cùng một vấn đề nhưng ở những khía cạnh khác nhau, quyền của
phụ nữ được pháp luật ghi nhận trong các văn bản pháp lý khác nhau.

4

Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn độc lập 1945

15


Đặc biệt từ sau ngày 1/7/2007, Luật Bình đẳng giới có hiệu lực thì đây là
công cụ pháp lý quan trọng trong cuộc đấu tranh cho quyền của phụ nữ và mục tiêu
bình đẳng giới. Luật Bình đẳng giới đã thể chế hóa quan điểm của Đảng nhất là
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X và tư tưởng Hồ Chí Minh về giải
phóng phụ nữ và phát huy nguồn lực con người, tạo cơ hội và điều kiện cho cả nam
và nữ cùng tham gia góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước và

hưởng lợi từ các thành quả của sự phát triển. Đạo luật này đã đưa ra một số quy
định mới mà các văn bản pháp luật hiện hành chưa điều chỉnh, đòi hỏi phải bổ sung,
hoàn thiện để đảm bảo thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật và đảm bảo cho
Luật bình đẳng giới được thực thi trong thực tiễn.
2.1.

Quyền của phụ nữ trong các bản Hiến pháp
Ở Việt Nam, quyền của phụ nữ thực sự được đề cập đến từ khi nhân dân ta

giành được độc lập từ tay thực dân phong kiến. Sau khi giành được chính quyền và
"Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập đã đánh dấu một bước chuyển
biến cơ bản trong đời sống của người phụ nữ. Từ nay chị em thực sự trở thành
người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh mình cùng nam giới chung lo bảo vệ và
xây dựng Tổ quốc"5. Theo đó, những văn bản pháp luật đầu tiên về quyền công dân,
trong đó có quyền của phụ nữ được ban hành. Tuy nhiên, trong từng điều kiện, hoàn
cảnh của đất nước, nên ở mỗi thời kỳ, các quyền công dân nói chung và quyền của
phụ nữ nói riêng được thể hiện và phát triển vừa có tính kế thừa vừa có sự đổi mới.
Hiến pháp 1946
Ngày 02/9/1945, Bác Hồ đọc Bản Tuyên ngôn khai sinh ra Nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, từ đó đến nay, Nhà nước ta đã ban hành 05 bản Hiến pháp (năm
1946, 1959, 1980, 1992 - sửa đổi bổ sung năm 2001 và gần đây nhất là bản Hiến
pháp năm 2013). Các bản Hiến pháp trong đó điều quy định chế độ chính trị, bộ
máy nhà nước, các quyền cơ bản của công dân…, ngoài ra còn quán triệt và cụ thể
hóa quan điểm “Nam, nữ bình quyền” bằng những quy định cụ thể. Tại Điều thứ 1,
Điều thứ 9, Điều thứ 18, Hiến pháp 1946 quy định “Nước Việt Nam là một nước
dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt
Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”; “Đàn bà
ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”; “Tất cả công dân Việt Nam, từ 18

5


Trích “Bác Hồ với phong trào phụ nữ Việt Nam”, Nxb. Phụ nữ. Xem thêm tại website
/>u.

16


tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, đều có quyền bầu cử, trừ những người mất trí
và những người mất công quyền”.
Hiến pháp 1959
Ngày 7/5/1954, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ tạo tiền đề cho Hiệp định
Giơ-ne-vơ (ký kết ngày 20/7/1954), văn kiện quốc tế đầu tiên, tuyên bố tôn trọng
độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Tuy nhiên, ngay
sau đó được sự ủng hộ trực tiếp của Mỹ, chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam
Việt Nam đã cự tuyệt thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, âm mưu chia cắt lâu dài đất
nước Việt Nam. Sự thay đổi của tình hình chính trị - xã hội nói trên đã làm cho
Hiến pháp 1946 không có điều kiện áp dụng trên phạm vi cả nước. Mặt khác, nhiều
quy định của Hiến pháp 1946 cũng không còn phù hợp với điều kiện cách mạng ở
miền Bắc lúc bấy giờ. Trong bối cảnh đó Hiến pháp năm 1959 đã ra đời để đáp ứng
nhu cầu mới của đất nước trên cơ sở kế thừa và phát huy quan điểm nam nữ bình
đẳng của Hiến pháp năm 1946.
Tại Điều 24, Hiến pháp năm 1959 quy định: “Phụ nữ nước Việt Nam dân
chủ Cộng hòa có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội và gia đình’’.
Như vậy so với Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 đã cụ thể hóa hơn
các lĩnh vực mà người phụ nữ được quyền bình đẳng với nam giới. Quyền bình
đẳng nam nữ được thể hiện trên 5 lĩnh vực từ xã hội đến gia đình bao hàm tất cả các
mặt của đời sống xã hội. Đó là sự ghi nhận, trân trọng và đảm bảo của toàn xã hội
đối với vai trò của phụ nữ. Còn đối với chị em phụ nữ, "phải nhận rõ địa vị làm
người chủ và nhiệm vụ người làm chủ nước nhà; phải có quyết tâm mới, đạo đức

mới, tác phong mới để làm trọn nghĩa vụ mới của mình là góp phần xứng đáng vào
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội…"6
Hiến pháp 1980
Khác với hai bản Hiến pháp năm 1946 và năm 1959, trong Hiến pháp năm
1980, quyền của phụ nữ vừa được lồng vào các quyền cơ bản của công dân, vừa
được quy định riêng nhằm tạo ra những điểm nhấn quan trọng, khẳng định quyền
của phụ nữ.
Theo Điều 55, thì “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”, có thể nói
đây là quy định tiến bộ của Hiến pháp năm 1980, vì nó bao hàm tất cả các giới tính,
khẳng định quyền bình đẳng giới trong xã hội.
6

Bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ III, ngày 9/3/1961.

17


Lần đầu tiên, văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất của Nhà nước ta xác định:
“Công dân không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn
giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền
bầu cử và từ 21 tuổi trở lên đều có thể được bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân
các cấp" (Điều 57).
Bên cạnh đó, bản Hiến pháp này cũng quy định đảm bảo sự bình đẳng giữa
nam và nữ trong lĩnh vực lao động, hôn nhân và gia đình, cụ thể: “Công dân nữ và
nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội và gia đình. Nghiêm
cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ. Lao
động nữ và nam việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau. Lao động nữ có
quyền hưởng chế độ thai sản. Phụ nữ là viên chức nhà nước và người làm công ăn
lương có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp theo
quy định của pháp luật. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình

độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội. Chăm lo phát
triển các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và các cơ sở phúc lợi xã hội khác để giảm
nhẹ gánh nặng gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập, chữa
bệnh, nghỉ ngơi và làm tròn bổn phận của người mẹ” (Điều 63) và “hôn nhân theo
nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng…. Nhà nước
và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các con” (Điều 64).
Có thể khẳng định, Hiến pháp năm 1980 là bản Hiến pháp tiến bộ, ở đó
quyền của công dân Việt Nam nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng đã được
khẳng định ở tầm cao hơn, cụ thể hơn.
Hiến pháp 1992
Trong những năm cuối của thập kỷ 80, Thế kỷ XX, do ảnh hưởng của phòng
trào Cộng sản và công nhân quốc tế lâm vào thoái trào, các nước xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng.
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới với
nhiều chủ trương, giải pháp quan trọng để giữ vững ổn định về chính trị và tiếp tục
phát triển kinh tế - xã hội. Trong bối cảnh đó, Hiến pháp 1992 ra đời để đáp ứng
yêu cầu đổi mới của đất nước trên cơ sở kế thừa và phát triển hơn những quy định
của Hiến pháp năm 1980 về quyền của công dân trong đó có quyền của phụ nữ.
Từ Điều 53 đến Điều 74 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001
quy định rõ các quyền bình đẳng nam, nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và
gia đình. Về cơ bản, quyền của phụ nữ trong Hiến pháp năm 1992 kế thừa những
quy định tiến bộ của Hiến pháp năm 1980 trong đó nhấn mạnh “Công dân nữ và
18


nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia
đình” (Điều 63).
Hiến pháp 2013
Qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung đến nay, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định
sâu sắc hơn quyền của phụ nữ trên cơ sở kế thừa và phát triển các quy định của

Hiến pháp năm 1992. Từ Điều 14 đến Điều 49, Chương II, Hiến pháp năm 2013 đã
quy định các quyền con người nói chung và quyền công dân nói riêng, trong đó có
quyền của phụ nữ được quy định tại Điều 26 “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi
mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. Nhà nước,
xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của
mình trong xã hội. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”. Tại Điều này trách nhiệm
tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã
hội, không chỉ của nhà nước, xã hội mà còn có trách nhiệm của cả gia đình. Tại
Khoản 2, Điều 36 “Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của
người mẹ và trẻ em”; tại Khoản 2, Điều 58 “Nhà nước, xã hội và gia đình có trách
nhiệm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người mẹ, trẻ em, thực hiện kế hoạch hóa gia
đình”...
Như vậy, quyền của phụ nữ Việt Nam ngày càng được phát triển qua các bản
Hiến pháp, các quyền cơ bản đó bao gồm: (1) Quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; (2) Quyền bất khả xâm
phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; (3) Có quyền bảo vệ
danh dự, uy tín của mình; (4) Quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình
thức trao đổi thông tin riêng tư khác; (5) Quyền có nơi ở hợp pháp; quyền bất khả
xâm phạm về chỗ ở; (6) Quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước
ngoài và từ nước ngoài về nước; (7) Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; (8) Quyền tự
do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu
tình; (9) Quyền bầu cử và ứng cử; (10) Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội,
tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa
phương và cả nước; (11) Quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân
(khi đủ mười tám tuổi trở lên); (12) Quyền khiếu nại, tố cáo; (13) Quyền sở hữu về
thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần
vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; (14) Quyền sở hữu
tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ; quyền tự do kinh
doanh; (15) Quyền được bảo đảm an sinh xã hội; (16) Quyền làm việc, lựa chọn
nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc; (17) Quyền kết hôn, ly hôn; (18) Quyền


19


×