Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (971.75 KB, 47 trang )

-1-

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................3
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ........... 6
1.1 Khái quát về cạnh tranh không lành mạnh .................................................... 6
1.1.1 Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh ..................................... 6
1.1.2 Đặc điểm hành vi cạnh tranh không lành mạnh ...................................... 7
1.2 Khái quát về quyền sở hữu công nghiệp .......................................................... 9
1.2.1 Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp ...................................................... 9
1.2.2 Đặc trưng của quyền sở hữu công nghiệp ............................................. 10
1.3 Khái quát chung về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở
hữu công nghiệp ..................................................................................................... 11
1.3.1 Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu
công nghiệp ........................................................................................................... 11
1.3.2 Đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu
công nghiệp ............................................................................................................ 12
1.3.3 Khái quát chung về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở
hữu công nghiệp .................................................................................................... 13
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ CHỐNG
CẠNHTRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC SỞ HỮU CÔNG
NGHIỆP Ở VIỆT NAM ............................................................................................. 14
2.1 Nguồn luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
sở hữu công nghiệp ................................................................................................ 15
2.1.1 Pháp luật quốc tế ................................................................................... 15
2.1.2 Pháp luật quốc gia ................................................................................. 15
2.2 Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công
nghiệp ...................................................................................................................... 15
2.2.1 Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công
nghiệp theo quy định của pháp luật về cạnh tranh ............................................... 15


2.2.2 Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công
nghiệp theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ ........................................... 19
2.3 Các biện pháp chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu
công nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam .......................................... 26
2.4 Một số nhận xét về thực trạng pháp luật chống cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp ............................................................ 31

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Nguyễn Thị Hồng Ngọc - Viện ĐH Mở Hà Nội


-2-

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
PHÁPLUẬT VỀ CHỐNG HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
TRONG LĨNH VỰC SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ................................................... 33
3.1 Thực trạng áp dụng pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở Việt Nam ............................................................. 33
3.1.1 Một số biểu hiện cụ thể của hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở Việt Nam .............................................................. 33
3.1.2 Thực thi pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến
quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam .................................................................. 38
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chống cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp ............................................................ 40
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 44
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................45

Khóa luận tốt nghiệp Đại học


Nguyễn Thị Hồng Ngọc - Viện ĐH Mở Hà Nội


-3-

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại công nghiệp hóa - hiện đại hóa ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế đang
trở thành xu hướng chung của toàn cầu. Sau khi chính thức gia nhập vào Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), Việt Nam đã tham gia nhiều điều ước quốc tế trên các
lĩnh vực, hệ thống pháp luật quốc gia cũng được bổ sung và hoàn thiện theo hướng phù
hợp với pháp luật quốc tế và khu vực1. Đặc biệt là khi mà Việt Nam đã cam kết tuân
thủ các quy định của Hiệp định TRIPS năm 1994 về các khía cạnh của quyền SHTT
liên quan đến thương mại của WTO. Trong đó, có các quy định về chống cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.
Quyền sở hữu công nghiệp là tài sản vô hình vô cùng giá trị, chiếm tỷ trọng ngày
càng lớn trong tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp, tạo nên giá trị thương hiệu và tính
cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Do đó, nhiều doanh nghiệp đã và đang
tích cực thực hiện các hoạt động bảo vệ các đối tượng sở hữu công nghiệp của mình.
Tuy nhiên, không phải tất cả doanh nghiệp đều có đủ khả năng tạo lập quyền sở hữu
công nghiệp cho riêng doanh nghiệp mình hoặc là không thực sự muốn tạo lập nên nó
bằng khả năng lao động chân chính mà chỉ muốn có được quyền tài sản vô hình này
thông qua những hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Cạnh tranh là quy luật tất yếu
của bất cứ một nền kinh tế thị trường nào và Việt Nam cũng không phải là một ngoại
lệ. Quy luật đào thải của cạnh tranh luôn song hành cùng với mưu cầu lợi nhuận của
các doanh nghiệp đã tạo cho thị trường một áp lực không hề nhỏ. Do đó, Nhà nước đã
ban hành một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể kinh doanh khi họ tham gia vào hoạt động cạnh tranh. Quyền
chống cạnh tranh không lành mạnh là một trong số những quyền năng quan trọng nhất
để bảo hộ thành quả lao động của chủ thể quyền sở hữu công nghiệp và chống lại các

hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là góp phần
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư, phát triển các đối tượng quyền sở hữu công
nghiệp, đồng thời thúc đẩy nền khoa học - công nghệ trong nước phát triển.
Ở Việt Nam, việc xem xét mối quan hệ giữa CTKLM và quyền sở hữu công nghiệp
là không hề đơn giản. Hiện nay, đang tồn tại hai nguồn pháp luật song song điều chỉnh
là pháp luật cạnh tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ. Luật Cạnh tranh và Luật Sở hữu trí
tuệ là hai nguồn luật đặc thù nhưng đều hướng đến mục tiêu chung là thúc đẩy sự phát
triển kinh tế và bảo vệ quyền lợi chính đáng của chủ thể kinh doanh, của người tiêu
dùng. Tuy nhiên, so với thế giới thì vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp trước các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh của nước ta còn khá mới mẻ, các quy định của hai
nguồn luật còn có những điểm mâu thuẫn, chồng chéo nhau, nhiều quy định còn khá
chung chung, đồng thời thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan thực thi pháp luật dẫn đến
nhiều vụ việc phát sinh chưa được giải quyết kịp thời.
1

TS. Đặng Vũ Huân và Đặng Vũ Thùy Linh, Tọa đàm “Luật Cạnh tranh 2004 - Những bất cập và nhu
cầu sửa đổi”, Khoa Luật - Viện Đại học Mở Hà Nội, tháng 3/2016.

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Nguyễn Thị Hồng Ngọc - Viện ĐH Mở Hà Nội


-4-

Bởi vậy, xem xét một số vấn đề lý luận và thực tiễn về “Hành vi cạnh tranh không
lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp” là thực sự cần thiết và có ý nghĩa quan
trọng trong việc giải quyết các vụ việc cạnh tranh liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp tại Việt Nam.
Xuất phát từ những lý do trên, em lựa chọn đề tài: “Một số vấn đề lý luận và thực

tiễn về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở
Việt Nam hiện nay” để làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Pháp luật cạnh tranh và pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, chống cạnh
tranh không lành mạnh là một đề tài đang được quan tâm và nghiên cứu hiện nay.
Trước khóa luận này, đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu đề cập ở nhiều giác
độ, mức độ khác nhau về vấn đề cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp
có thể kể đến là: Ths. Nguyễn Vũ Quỳnh Lâm (2006), Pháp luật chống cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở Việt Nam - Lý luận và thực tiễn,
Luận văn Cao học Luật, Trường Đại học Luật Hà Nội; Ths. Nguyễn Như Quỳnh
(2009), Về xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh
tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam,
Tạp chí Luật học số 05; Bùi Minh Nguyệt (2007), Tìm hiểu pháp luật chống cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở Việt Nam, Luận văn tốt nghiệp,
Đại học Luật Hà Nội.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là:
Nghiên cứu và làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về chống cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp;
Phân tích thực trạng hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công
nghiệp ở Việt Nam hiện nay;
Đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện các quy định của pháp luật về chống cạnh
tranh không lành mạnh đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh
vực sở hữu công nghiệp ở Việt Nam quy định tại: Luật Cạnh tranh 2004; Luật sở hữu
trí tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009; Nghị định 54/2000/NĐ-CP quy định về
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương
mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công

nghiệp và các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu các quy định của pháp luật về chống cạnh tranh không
lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, khóa luận đã dựa trên cơ sở phương
pháp luận duy vật biện chứng và phương pháp luận duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng
các phương pháp nghiên cứu truyền thống như: phân tích, thống kê, luận giải, tổng

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Nguyễn Thị Hồng Ngọc - Viện ĐH Mở Hà Nội


-5-

hợp, so sánh… Kết hợp với tham khảo các tài liệu, luận văn, đề tài nghiên cứu khoa
học, bài viết chuyên đề trên các Tạp chí chuyên ngành Luật.
6. Kết cấu khóa luận
Ngoài lời mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, bố cục khóa luận tốt
nghiệp gồm 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh
vực sở hữu công nghiệp. Trình bày khái quát về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
theo quy định của pháp luật Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới; nêu và phân
tích những đặc điểm của nó. Trình bày khái quát chung về chống cạnh tranh không
lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp và pháp luật điều chỉnh.
Chương 2: Quy định pháp luật hiện hành về chống cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Nêu nguồn luật điều chỉnh, phân
tích và làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành về chống cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.
Chương 3: Thực trạng và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chống cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở Việt Nam. Thông qua nghiên

cứu các vấn đề tại chương 1 và chương 2, trình bày một số đánh giá khái quát về các
quy định của pháp luật thông qua việc đưa ra những nhận xét chung về những mặt tích
cực và những mặt hạn chế còn tồn tại trong các quy định của pháp luật. Từ đó đề xuất
một số kiến nghị để góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành đồng
thời để nâng cao hiệu quả hoạt động chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay.

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Nguyễn Thị Hồng Ngọc - Viện ĐH Mở Hà Nội


-6-

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH
MẠNH TRONG LĨNH VỰC SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
1.1 Khái quát về cạnh tranh không lành mạnh
1.1.1 Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Trong quá trình hoạt động kinh doanh trên thị trường, các chủ thể kinh doanh hầu
như đều hướng đến một mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận. Lợi nhuận cao cùng với sự
ganh đua khốc liệt của thị trường là cơ sở để cạnh tranh xuất hiện. Quan điểm về cạnh
tranh hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất, do vậy có khá nhiều định nghĩa và cách hiểu
khác nhau về khái niệm này:
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Cạnh tranh là cố gắng giành phần hơn, phần thắng
về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như nhau”.
Còn trong cuốn Từ điển kinh doanh của Anh xuất bản năm 1992 thì: “Cạnh tranh là
sự ganh đua, kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm tranh giành cùng một loại tài
nguyên hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”2.
Theo Dominique Brault - nhà nghiên cứu người Pháp đã trích dẫn một so sánh mang

tính hình tượng: “Cạnh tranh là một thứ rượu, dùng đúng liều nó là chất kích thích,
dùng quá liều nó trở thành thuốc độc”.
Mặc dù có nhiều quan điểm nhìn nhận khác nhau nhưng chúng ta có thể nhận thấy
cạnh tranh là sản phẩm của nền kinh tế thị trường. Bản chất của cạnh tranh là một hoạt
động có tính hai mặt. Nhìn nhận dưới góc độ tích cực, cạnh tranh là hoạt động đóng vai
trò vô cùng quan trọng trong cân bằng lượng cung - cầu trên thị trường; là cơ sở khẳng
định vị trí của nền kinh tế quốc gia trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế; tạo động
lực cho chủ thể kinh doanh, doanh nghiệp không ngừng đổi mới và phát triển đồng thời
cũng góp phần bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Tuy nhiên, đến một chừng mực
nhất định, khi nhu cầu lợi nhuận thúc giục đã cám dỗ chủ thể kinh doanh đến với
những thủ đoạn thái quá trong cạnh tranh, gây ra những hậu quả bất lợi cho thị trường
và xâm hại đến lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp kinh doanh chân chính. Hành
vi này được coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong kinh doanh.
Cạnh tranh là quyền của chủ thể kinh doanh được Nhà nước thừa nhận trong khuôn
khổ quy định của pháp luật. Nhà nước với vai trò là chủ thể quản lý, có trách nhiệm
duy trì hoạt động cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ trật tự kinh tế và đồng thời bảo vệ lợi
ích của các doanh nghiệp kinh doanh chân chính, chống lại các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong kinh doanh. Xét một cách khái quát, pháp luật chống cạnh
tranh không lành mạnh ngăn chặn các hành vi của doanh nghiệp nhằm tạo lợi thế cạnh
tranh một cách không chính đáng trước các đối thủ cạnh tranh khác. Như vậy, các hành
vi cạnh tranh không lành mạnh đều thể hiện một bản chất chung là doanh nghiệp toan
2

Đặng Vũ Huân, 2004, Pháp luật về chống độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, tr.19

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Nguyễn Thị Hồng Ngọc - Viện ĐH Mở Hà Nội



-7-

tính đạt được thành công trên thị trường mà không dựa trên nỗ lực của chính doanh
nghiệp để cải thiện chất lượng, giá cả của sản phẩm, mà toan tính phát triển bằng cách
chiếm đoạt những ưu thế trong sản phẩm của doanh nghiệp khác hoặc tạo ra những tác
động sai trái lên thị trường.
Trên thế giới, pháp luật điều chỉnh đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã
ra đời từ thế kỷ XIX. Có thể nói, đây là một sự mở đầu mang tính khai phá, khi mà
những điều luật đầu tiên được ra đời để điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trên thị trường. Điều 10 bis Công ước Paris năm 1883 về Bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp. Điều khoản này được bổ sung vào Công ước năm 1900 và được sửa đổi
lần cuối theo Văn bản Stockholm năm 1967, theo đó: “Bất kỳ hành vi cạnh tranh nào
đi ngược lại các thông lệ trung thực trong công nghiệp hoặc trong thương mại đều là
hành vi cạnh tranh không lành mạnh”. Quy định này cho thấy, tiêu chí để đánh giá
hành vi cạnh tranh không lành mạnh là phụ thuộc vào hành vi đó có phù hợp với:
“thông lệ trung thực, thiện chí” hay không? Công ước không quy định rõ khái niệm
“thông lệ trung thực, thiện chí” mà có ý để pháp luật quốc gia của các nước thành viên
Công ước tự định đoạt dựa trên điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội và lịch sử của chính
các quốc gia đó. Trong pháp luật nhiều nước, tại Bỉ và Luxembourg các tiêu chí này
được gọi là “thông lệ thương mại trung thực”, tại Tây Ban Nha và Thụy Sỹ là “nguyên
tắc ngay tình”, tại Italia là “tính chuyên nghiệp đúng đắn”, tại Đức, Hy Lạp và Ba Lan
là “đạo đức kinh doanh”. Còn tại Hoa Kỳ, do thiếu định nghĩa trong các văn bản pháp
luật, các toà án đã xác định từ nguồn án lệ định nghĩa cạnh tranh lành mạnh là “các
nguyên tắc giải quyết trung thực và công bằng” hoặc “đạo đức thị trường”3.
Luật Cạnh tranh Việt Nam đã đưa ra định nghĩa về cạnh tranh không lành mạnh tại
khoản 4, Điều 3 như sau: “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh
của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về
đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”. Khái niệm

cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của pháp luật Việt Nam là khá tương đồng
với quy định của Công ước Paris và pháp luật của các quốc gia khác.
Như vậy, có thể nhận thấy hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi bất hợp
pháp và luôn luôn tồn tại trong hoạt động cạnh tranh của chủ thể kinh doanh trên thị
trường. Do đó, sự điều chỉnh của pháp luật để chống lại các hành vi CTKLM nhằm bảo
vệ quyền lợi cho các chủ thể trong nền kinh tế là một điều hết sức cần thiết.
1.1.2 Đặc điểm hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Theo định nghĩa tại khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004, có thể xác định hành vi
cạnh tranh không lành mạnh với ba đặc điểm cơ bản như sau:

3

Đoàn Tử Tích Phước (2009) “Chế định cạnh tranh không lành mạnh trong pháp luật về cạnh tranh”, Diễn đàn
cạnh tranh - Trang tin Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công thương.

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Nguyễn Thị Hồng Ngọc - Viện ĐH Mở Hà Nội


-8-

• Chủ thể thực hiện hành vi là doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh trên thị
trường
Có thể phân tích đặc điểm đầu tiên này dựa trên hai khía cạnh sau:
- Thứ nhất, trên thị trường cạnh tranh, hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp
luôn gắn liền với hành vi cạnh tranh trong mối tương quan với hoạt động của các
doanh nghiệp khác. Do đó, mọi hoạt động của doanh nghiệp đều có thể bị xem xét về
tính chính đáng, phù hợp với tập quán hay đạo đức kinh doanh và pháp luật về cạnh
tranh không lành mạnh có thể can thiệp vào nhiều hoạt động khác nhau của đời sống

kinh tế. Đặc điểm này khiến cho pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại một số
quốc gia có thể có phạm vi áp dụng rất rộng và điều chỉnh những hành vi đa dạng. Một
ví dụ gần đây được nhiều người biết đến là Luật chống cạnh tranh không lành mạnh
Nhật Bản quy định “hối lộ” cũng bị coi là một dạng hành vi cạnh tranh không lành
mạnh.
- Thứ hai, chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh là các doanh
nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường. Ở đây, khái niệm doanh nghiệp
được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm mọi tổ chức hay cá nhân tham gia hoạt động tìm
kiếm lợi nhuận một cách thường xuyên và chuyên nghiệp, hay sử dụng khái niệm của
pháp luật thương mại là “thương nhân” trên thị trường. Trên một phạm vi rộng hơn,
các quy định về cạnh tranh không lành mạnh còn có thể áp dụng đối với hành vi của
các nhóm doanh nghiệp hoạt động có tổ chức (hiệp hội) và các cá nhân hành nghề tự
do (bác sỹ, luật sư, kiến trúc sư…)4.
Có thể thấy, hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã và đang diễn ra rất phổ biến
trong mọi ngành, nghề; mọi công đoạn của của quá trình kinh doanh và trong mọi lĩnh
vực của nền kinh tế thị trường.
• Hành vi cạnh tranh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh
Đặc điểm này phần nào thể hiện nguồn gốc tập quán pháp của pháp luật về cạnh
tranh không lành mạnh, các quy định về cạnh tranh không lành mạnh được hình thành
và hoàn thiện qua bề dày thực tiễn phát triển kinh tế xã hội. Mặt khác, đặc điểm này
cũng đòi hỏi cơ quan xử lý về hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải có những hiểu
biết và đánh giá sâu sắc về thực tiễn thị trường để phán định tính đúng đắn của một
hành vi cạnh tranh.
“Chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh” là những quy tắc xử sự chung đã
được thừa nhận rộng rãi và lâu dài trong hoạt động kinh doanh. Là tiêu chí để cơ quan
có thẩm quyền và các chủ thể kinh doanh có thể nhận diện được một hành vi là hành vi
cạnh tranh không lành mạnh. Do đặt tiêu chí đánh giá tính lành mạnh của hành vi cạnh
tranh dựa trên các thông lệ, chuẩn mực đạo đức kinh doanh trung thực, thiện chí, nên
pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh luôn có trọng tâm bảo vệ quyền lợi của các
doanh nghiệp kinh doanh trung thực, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.

4

Đoàn Tử Tích Phước (2009) “Chế định cạnh tranh không lành mạnh trong pháp luật về cạnh tranh”, Diễn đàn
cạnh tranh - Trang tin Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công thương.

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Nguyễn Thị Hồng Ngọc - Viện ĐH Mở Hà Nội


-9-

• Hành vi cạnh tranh gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng
Đặc điểm về hậu quả là một tiêu chí hết sức quan trọng để xác định hành vi cạnh
tranh không lành mạnh. Đây là một đặc điểm mang nhiều ý nghĩa về tố tụng và đặc biệt
được chú ý khi việc xử lý cạnh tranh không lành mạnh được tiến hành trong khuôn khổ
kiện dân sự và gắn liền với yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Có một vấn đề đặt ra là việc chứng minh hậu quả trên thực tế có là cơ sở bắt buộc để
xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh hay không? Tùy thuộc vào quan điểm của
mỗi quốc gia mà có các cách nhìn nhận khác nhau về yếu tố hậu quả của hành vi cạnh
tranh không lành mạnh. Trong một số trường hợp, pháp luật các nước thừa nhận hành
vi “đe dọa gây thiệt hại”, cũng như các thiệt hại không thể tính toán được và không
thực tế xảy ra về cơ hội kinh doanh là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Vì vậy, bất
kỳ hành vi nào được thực hiện nhằm gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho chủ thể
kinh doanh khác thì đều bị coi là không lành mạnh.
Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh hướng đến tác động vào nhiều chủ thể
khác nhau trên thị trường. Tuy nhiên, chủ yếu tác động vào hai nhóm chủ thể cơ bản
gồm các đối thủ cạnh tranh và người tiêu dùng. Pháp luật về cạnh tranh Việt Nam còn
quy định thêm một đối tượng mà hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể tác động

tới là Nhà nước. Đây là một quy định rộng hơn, bao quát hơn so với quy định của pháp
luật một số nước trên thế giới.
1.2 Khái quát về quyền sở hữu công nghiệp
Ngày nay ở nước ta quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói
riêng không còn xa lạ trong đời sống hàng ngày. Thuật ngữ “Quyền sở hữu công
nghiệp” đang được nhắc tới ngày một nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng
và ngày cả trong các hoạt động của đời sống từ lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, …, đến
khoa học, công nghệ. Là một phạm trù pháp luật khá trừu tượng liên quan đến thực thi
và bảo hộ quyền tài sản trí tuệ của các chủ thể sản xuất, kinh doanh do đó nhận thức
đúng đắn và đầy đủ các vấn đề lý luận liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp là một
yêu cầu hết sức cần thiết.
1.2.1 Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp
Sở hữu công nghiệp là một loại hình của quyền sở hữu trí tuệ, chỉ lĩnh vực pháp lý
bảo hộ quyền sở hữu đối với các thành quả nghiên cứu triển khai có thể áp dụng công
nghiệp. Quyền sở hữu công nghiệp là một chế định pháp luật bao gồm hệ thống những
quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình sáng tạo, sử dụng, định đoạt các sản phẩm do
lao động trí tuệ làm ra trong lĩnh vực công nghiệp.
Theo quy định tại khoản 4, Điều 4, Luật SHTT thì: “Quyền sở hữu công nghiệp là
quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí
mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh
do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh”.

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Nguyễn Thị Hồng Ngọc - Viện ĐH Mở Hà Nội


- 10 -


Ngoài ra, liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp cần phải xem xét một số khái niệm
dưới đây:
- Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết
một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên.
- Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể hiện bằng hình
khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này.
- Mạch tích hợp bán dẫn là sản phẩm dưới dạng thành phẩm hoặc bán thành phẩm,
trong đó các phần tử với ít nhất một phần tử tích cực và một số hoặc tất cả các mối liên
kết được gắn liền bên trong hoặc bên trên tấm vật liệu bán dẫn nhằm thực hiện chức
năng điện tử. Mạch tích hợp đồng nghĩa với IC, chip và mạch vi điện tử.
- Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn là cấu trúc không gian của các phần tử mạch và
mối liên kết các phần tử đó trong mạch tích hợp bán dẫn.
- Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân
khác nhau.
- Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để
phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng
lĩnh vực và khu vực kinh doanh.
- Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa
phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể.
- Bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa
được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh.
Có thể nhận thấy, pháp luật về quyền sở hữu công nghiệp không chỉ bảo vệ những
dấu hiệu đính kèm trên đối tượng mà còn bảo hộ cho nội dung sáng tạo, bí mật, uy tín
kinh doanh nằm bên trong các đối tượng đó. Không những thế, lợi ích to lớn hơn mà
quyền sở hữu công nghiệp hướng đến bảo vệ đó chính là thành quả lao động sáng tạo
và tạo lập uy tín của chủ sở hữu đối tượng trên thị trường.
1.2.2 Đặc trưng của quyền sở hữu công nghiệp
Quyền sở hữu công nghiệp là một phần của quyền sở hữu trí tuệ nên nó mang các
đặc điểm của quyền sở hữu trí tuệ, đồng thời có thêm một số đặc trưng cơ bản sau5:
• Thứ nhất, đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp luôn gắn liền với hoạt động sản

xuất, kinh doanh.
Điều 1 Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp quy định:
“Sở hữu công nghiệp phải được hiểu theo nghĩa rộng nhất, không những chỉ áp
dụng cho công nghiệp và thương mại theo đúng nghĩa của chúng mà cho cả các ngành
sản xuất nông nghiệp, công nghiệp khai thác và tất cả các sản phẩm công nghiệp và
sản phẩm tự nhiên như rượu, ngũ cốc, thuốc lá, hoa quả, gia súc, khoáng sản, nước
khoáng, bia và bột.”

5

Đại học Luật Hà Nội ,Giáo trình Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, 2008, tr.110-112

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Nguyễn Thị Hồng Ngọc - Viện ĐH Mở Hà Nội


- 11 -

Chính vì lẽ đó mà một trong những điều kiện để được bảo hộ sáng chế, kiểu dáng
công nghiệp, thiết kế bố trí là chúng phải có khả năng áp dụng trong lĩnh vực khoa học,
công nghệ nhằm tạo ra sản phẩm có giá trị cho đời sống con người. Còn đối với nhãn
hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, bí mật kinh doanh phải chứa đựng các chỉ dẫn
thương mại, chúng được xem như chiếc cầu nối giữa nhà sản xuất hay cung cấp dịch
vụ đối với người tiêu dùng. Chủ thể nào nắm giữ được các đối tượng này sẽ có những
lợi thế cạnh tranh hơn hẳn so với chủ thể khác. Trong điều kiện của nền kinh tế thị
trường với mục đích cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì việc quan tâm, đầu tư và trở
thành chủ sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp là công việc thực sự cần thiết.
• Thứ hai, quyền sở hữu công nghiệp được bảo hộ thông qua thủ tục đăng ký tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền

Quyền sở hữu công nghiệp chỉ được pháp luật bảo hộ khi chúng đã được cơ quan
nhà nước chính thức cấp văn bằng bảo hộ. Đăng ký văn bằng bảo hộ là cách thức để
công khai hóa tình trạng của loại tài sản vô hình này đối với các chủ thể khác, là cách
thức để thông báo tài sản này đã thuộc về chủ thể xác định, qua đó tránh tình trạng tài
sản bị người khác chiếm đoạt mà không có căn cứ chứng minh để bảo vệ quyền của
mình. Khác với quyền tác giả, việc đăng ký chỉ mang tính chất khuyến khích, còn việc
đăng ký quyền sở hữu công nghiệp mạng tính chất bắt buộc. Nếu một người đã đầu tư
rất nhiều công sức, tài chính để tạo ra các đối tượng sở hữu công nghiệp nhưng lại
không tiến hành đăng ký quyền cho đối tượng đó thì sẽ không được pháp luật bảo hộ
trong trường hợp có người khác chiếm đoạt hoặc đăng ký trước. Họ chỉ được hưởng
quyền của người sử dụng trước nếu họ thành công trong việc chứng minh họ đã tạo ra
sản phẩm đó một cách độc lập trước ngày đơn đăng ký được nộp. Hơn nữa, thông qua
thủ tục đăng ký, Nhà nước còn nhằm mục đích khuyến khích các hoạt động sáng tạo
trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp và thương mại. Việc đăng tải các thông tin về đối
tượng sẽ được cấp văn bằng bảo hộ tạo điều kiện cho các chủ thể trong xã hội tiếp cận
được các tri thức hiện đại và tiên tiến nhất, làm căn cứ cho các phát minh tiếp theo.
Bên cạnh đó, vẫn có một số đối tượng SHCN được xác lập quyền một cách tự động mà
không cần phải tiến hành thủ tục đăng kí như bí mật kinh doanh và tên thương mại.
• Thứ ba, quyền sở hữu công nghiệp được bảo hộ theo thời hạn của văn bằng bảo hộ
Khác với loại tài sản hữu hình (vật, tiền, giấy tờ có giá, …) các đối tượng sở hữu
công nghiệp thường được bảo hộ trong khoảng thời gian xác định (tuy có một số loại
không xác định thời hạn). Các đối tượng được bảo hộ theo thời hạn là các đối tượng
xác định được tác giả sáng tạo ra các đối tượng đó, những đối tượng sở hữu công
nghiệp không xác định tác giả sáng tạo được bảo hộ không thời hạn hoặc có thời hạn
với những điều kiện nhất định.
1.3 Khái quát chung về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở
hữu công nghiệp
1.3.1 Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công
nghiệp


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Nguyễn Thị Hồng Ngọc - Viện ĐH Mở Hà Nội


- 12 -

Trong nền kinh tế công nghiệp hóa - hiện đại hóa như ngày nay, cạnh tranh đang
diễn ra mọi lúc, mọi nơi. Một trong những nhân tố cạnh tranh đem lại nhiều lợi nhuận
nhất được các doanh nghiệp lựa chọn phổ biến hiện nay đó chính là quyền sở hữu công
nghiệp. Nó là loại tài sản trí tuệ vô hình, chiếm tỷ trọng lớn trong khối tài sản của
doanh nghiệp, góp phần khẳng định giá trị và nâng cao sức cạnh tranh của doanh
nghiệp trên thị trường. Nhận thức được tầm quan trọng đó, một số doanh nghiệp không
muốn tự vươn lên phát triển bằng chính khả năng lao động chân chính của mình đã lựa
chọn con đường phát triển thông qua việc đánh cắp thành quả lao động của các doanh
nghiệp khác.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp là hành vi
vừa mang các đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh vừa liên quan đến
việc sử dụng và chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp. Hành vi cạnh tranh không lành
mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp có thể được định nghĩa: là hành vi do
chủ thể kinh doanh tiến hành trong quá trình kinh doanh liên quan đến việc sử dụng
hoặc chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp trái với chuẩn mực đạo đức thông thường
trong kinh doanh gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, của
doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.
1.3.2 Đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu
công nghiệp
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong sở hữu công nghiệp có những đặc điểm
giống với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói chung, nhưng có thêm các đặc
trưng riêng biệt. Cụ thể, hạnh vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu
công nghiệp có bốn đặc điểm sau đây:

- Chủ thể thực hiện hành vi là doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh trên thị
trường;
- Hành vi trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh;
- Đối tượng mà hành vi hướng tới là việc chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp;
Theo quy định LSHTT 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì có thể chuyển giao
quyền sở hữu công nghiệp thông qua hai hình thức sau:
+ Chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp là việc chủ sở hữu quyền sở hữu công
nghiệp chuyển giao quyền sở hữu của mình cho tổ chức, cá nhân khác (Khoản 1, Điều
138)
+ Chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp là việc chủ sở hữu đối tượng
sở hữu công nghiệp cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng đối tượng sở hữu công
nghiệp thuộc phạm vi quyền sử dụng của mình (Khoản 1, Điều 141)
Về cơ bản, khi một chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh hướng tới xác lập quyền sử
dụng hoặc chuyển giao đối với các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp thì đây chính
là một tiêu chí để xác định tính không lành mạnh của một hành vi cạnh tranh.
- Gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, của doanh nghiệp
khác hoặc của người tiêu dùng.

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Nguyễn Thị Hồng Ngọc - Viện ĐH Mở Hà Nội


- 13 -

Như vậy, có thể nhận thấy một hành vi bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh
liên quan tới quyền sở hữu công nghiệp thì nó vừa vi phạm pháp luật cạnh tranh, vừa vi
phạm pháp luật về sở hữu công nghiệp. Do đó, hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp chịu sự điều chỉnh song song của pháp luật cạnh
tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ.

1.3.3 Khái quát chung về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu
công nghiệp
Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh lần đầu tiên đã được thừa nhận là một bộ
phận cấu thành của bảo hộ Sở hữu công nghiệp vào năm 1900 tại Hội nghị ngoại giao
Brusels về Sửa đổi Công ước Paris về Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp bằng việc bổ
sung Điều 10bis vào Công ước.
Tại khoản 4, Điều 4, Luật SHTT Việt Nam cũng có quy định: “Quyền sở hữu công
nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế
bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh
doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh”.
Sở dĩ pháp luật quy định như vậy là bởi đối tượng sở hữu công nghiệp là một yếu tố
thể hiện lợi thế cạnh tranh trong thương mại. Trong nền kinh tế thị trường các doanh
nghiệp phần lớn hoạt động vì lợi nhuận của chính doanh nghiệp mình nên cần phải có
cạnh tranh giữa các đơn vị kinh tế tự chủ. Thông qua cạnh tranh người tiêu dùng là
người được hưởng lợi và xã hội cũng phát triển. Mọi doanh nghiệp luôn nỗ lực cung
cấp các sản phẩm có ích, hiệu quả, tiết kiệm nhất; giá thành rẻ nhất và chất lượng tốt
nhất nhằm được người tiêu dùng lựa chọn. Tuy nhiên sự nỗ lực của một doanh nghiệp
chân chính sẽ trở nên vô nghĩa nếu như có những hiện tượng không tuân thủ quy tắc cơ
bản của cạnh tranh, cố ý lừa dối người tiêu dùng và giành lợi thế cạnh tranh bằng cách
hạ thấp đối thủ cạnh tranh. Ở đâu có tự do cạnh tranh là ở đó có khả năng xảy ra hành
vi cạnh tranh không lành mạnh. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hệ quả tất yếu
của một hệ thống kinh tế thị trường tự do cạnh tranh. Tuy nhiên, nếu không có biện
pháp để chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì sẽ ảnh hưởng đến quyền
lợi của người tiêu dùng và kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.
Với mục đích bảo hộ thành quả sáng tạo, trí tuệ của các chủ thể kinh doanh, pháp
luật nước ta đã thừa nhận cho các chủ thể kinh doanh quyền chống cạnh tranh không
lành mạnh như là một nội dung của quyền sở hữu công nghiệp theo cả pháp luật sở hữu
trí tuệ và pháp luật về cạnh tranh khi họ gặp phải hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Ví dụ, khi một nhãn hiệu chưa được đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp thì
đương nhiên không thể áp dụng các quy định về hành vi vi phạm quyền sở hữu công

nghiệp khi nhãn hiệu này bị xâm phạm. Trong trường hợp này, pháp luật về cạnh tranh
mà cụ thể là Luật Cạnh tranh và quy định về cạnh tranh không lành mạnh trong Luật
Sở hữu trí tuệ sẽ được sử dụng để bảo vệ doanh nghiệp cũng như những thành quả trí
tuệ của họ chống lại hành vi cạnh tranh không lành mạnh với lỗi cố ý từ phía đối thủ
cạnh tranh liên quan đến việc chỉ dẫn gây nhầm lẫn. Còn trong trường hợp quyền sở
hữu công nghiệp đã được xác lập và bị xâm phạm, chủ sở hữu của các quyền này có
thể lựa chọn áp dụng các biện pháp liên quan đến vi phạm quyền sở hữu công nghiệp

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Nguyễn Thị Hồng Ngọc - Viện ĐH Mở Hà Nội


- 14 -

hoặc liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh nếu hành vi vi phạm này rơi vào hai
trường hợp đó. Thậm chí, chủ thể bị xâm phạm có thể lựa chọn cả hai loại phương thức
giải quyết nếu các yếu tố vi phạm quyền sở hữu công nghiệp và cạnh tranh không lành
mạnh đối với cùng một đối tượng là độc lập với nhau.
Có thể thấy rằng, pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh của nước ta ngày
càng đi vào thực tiễn cuộc sống, góp phần tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh cho
chủ thể kinh doanh chân chính, đồng thời bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng khỏi
những tác động tiêu cực của hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu
công nghiệp hiện nay.

CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
VỀ CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC
SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Nguyễn Thị Hồng Ngọc - Viện ĐH Mở Hà Nội


- 15 -

2.1 Nguồn luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở
hữu công nghiệp
2.1.1 Pháp luật quốc tế
Trên phương diện luật pháp quốc tế, có thể thấy rằng pháp luật về cạnh tranh không
lành mạnh ra đời sớm hơn pháp luật về hạn chế cạnh tranh. Các quy định chống hành
vi hạn chế cạnh tranh chỉ ra đời khi thị trường đã phát triển và đạt được mức độ tập
trung hoá nhất định dẫn đến sự hình thành các doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp
mang quyền lực thị trường cần phải bị kiểm soát. Pháp luật về cạnh tranh không lành
mạnh gắn liền với sự ra đời của thương mại tự do tại Châu Âu thế kỷ XIX, mà theo
một số nhà nghiên cứu, khởi đầu từ Cách mạng Pháp 1791.Các quy định về chống cạnh
tranh không lành mạnh ra đời từ rất sớm, lần đầu tiên được ghi nhận trong Bộ luật Dân
sự của Pháp năm 1804 (Điều 1382 và 1383), Luật chống kinh doanh lừa dối năm 1905,
Luật về thông tin đối với người tiêu dùng và chống quảng cáo man trá năm 1978,
1989…
Bên cạnh đó, Luật Sở hữu trí tuệ quốc tế cũng đóng một vai trò quan trọng và là nền
tảng để hoàn thiện hóa các quy định của pháp luật quốc gia. Khi nhắc đến nguồn của
pháp luật quốc tế về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công
nghiệp không thể không kể tới: Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
năm 1883 là một trong những Công ước quốc tế đầu tiên ghi nhận quyền chống hành vi
cạnh tranh không lành mạnh (khoản 2, khoản 3 Điều 10bis); bên cạnh đó còn có Hiệp
định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ - TRIPS năm
1994 (Điều 8.2 và Điều 40)…
2.1.2 Pháp luật quốc gia

Tại Việt Nam hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công
nghiệp đã được luật hóa trong: Luật Cạnh tranh năm 2004; Luật Sở hữu trí tuệ năm
2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); Luật chuyển giao công nghệ năm 2006; Nghị định
54/2000/NĐ-CP về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ
dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên
quan tới sở hữu công nghiệp và một số văn bản pháp luật khác…
Có thể thấy nguồn của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở
hữu công nghiệp là tương đối đa dạng, bao gồm các văn bản luật thành văn, Điều ước
quốc tế, Tập quán quốc tế mà Việt Nam là nước thành viên.
2.2 Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp
2.2.1 Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp
theo quy định của pháp luật về cạnh tranh
Tại Điều 39 Luật Cạnh tranh 2004 có quy định các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh bao gồm:
“1. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;
2. Xâm phạm bí mật kinh doanh;
3. Ép buộc trong kinh doanh;

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Nguyễn Thị Hồng Ngọc - Viện ĐH Mở Hà Nội


- 16 -

4. Gièm pha doanh nghiệp khác;
5. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;
6. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
7. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
8. Phân biệt đối xử của hiệp hội;

9. Bán hàng đa cấp bất chính;
10. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác theo tiêu chí xác định tại khoản
4 Điều 3 của Luật này do Chính phủ quy định”.
Có thể thấy rằng LCT đã liệt kê ra một loạt các hành vi bị coi là hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực kinh doanh nói chung. Trong quá trình hoạt động, kinh
doanh trên thị trường các chủ thể kinh doanh thực hiện một trong số các hành vi cạnh
tranh tại Điều 39 LCT 2004 nhằm xâm hại trực tiếp đến đối thủ cạnh tranh thông qua
thực hiện các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh, gièm pha, quấy rối doanh nghiệp
khác hoặc một số hành vi có thể ảnh hưởng đến đối thủ cạnh tranh đồng thời lại vi
phạm quyền lợi của người tiêu dùng như chỉ dẫn gây nhầm lẫn, quảng cáo và khuyến
mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh thì đều bị coi là hành vi cạnh tranh không lành
mạnh.
LCT 2004 có quy định hai hành vi cạnh tranh là hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp như sau:
• Hành vi chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn
Khoản 1 Điều 39 Luật Cạnh tranh năm 2004 đã đề cập đến hành vi chỉ dẫn gây
nhầm lẫn và nó được làm rõ hơn tại Điều 40:
“1. Cấm doanh nghiệp sử dụng chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về tên
thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn đại lý và
các yếu tố khác theo quy định của chính phủ để làm sai lệch nhận thức của khách hàng
về hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh.
2. Cấm kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có chỉ dẫn ghi tại khoản 1 Điều này.”
Từ những quy định trên của LCT có thể nhận thấy hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn là
hành vi có một số đặc điểm sau6:
- Thứ nhất, đặc điểm về chủ thể. Chủ thể thực hiện hành vi là “doanh nghiệp”, khái
niệm doanh nghiệp ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, không đồng nghĩa hoàn toàn với
khái niệm "doanh nghiệp" được quy định tại khoản 7 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014
mà còn bao gồm cả cá nhân kinh doanh, trong đó gồm cá nhân có đăng ký kinh doanh
và cá nhân không có đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp
nước ngoài (khoản 1 Điều 2 LCT).

- Thứ hai, đối tượng của hành vi xâm phạm là các chỉ dẫn thương mại của hàng hóa,
dịch vụ. Các chỉ dẫn thương mại này có thể là tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh,
6

TS. Lê Danh Vĩnh, ThS. Nguyễn Ngọc Sơn, Hoàng Xuân Bắc, Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam,
Nxb Tư pháp, 2006, tr 134-137

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Nguyễn Thị Hồng Ngọc - Viện ĐH Mở Hà Nội


- 17 -

biểu tượng kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì, nhãn hàng hóa… LCT không
đưa ra định nghĩa hay bất kỳ dấu hiệu gì để nhận biết các đối tượng trên, do đó, cần
phải sử dụng phối hợp với các quy phạm định nghĩa trong các văn bản pháp luật hiện
hành khác có liên quan, để từ đó có cách hiểu thống nhất trong quá trình áp dụng pháp
luật. Hiện nay, định nghĩa về tên thương mại, chỉ dẫn địa lý được ghi nhận trong Luật
Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), các đối tượng còn lại là nhãn hàng
hóa, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh và kiểu dáng bao bì hàng hóa được
ghi nhận tại điểm b khoản 1 Điều 19 Thông tư 11/2015/TT-BKHCN ngày 26/6/2015
của Bộ khoa học và Công nghệ (gọi chung là “Thông tư 11”) quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 99/2013/NĐ-CP ngày 29/8/2013
của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công
nghiệp. Tại điểm c khoản 1 Điều 19 Thông tư 11 có quy định: “Chỉ dẫn thương mại
gây nhầm lẫn là chỉ dẫn thương mại chứa các dấu hiệu (yếu tố cấu thành, cách trình
bày, cách kết hợp giữa các yếu tố, màu sắc, ấn tượng tổng quan đối với người tiêu
dùng) trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với chỉ dẫn thương mại tương ứng của chủ
thể quyền yêu cầu xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh được sử dụng cho hàng

hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự”. Có thể thấy rằng, các chỉ dẫn thương mại suy cho
cùng là các dấu hiệu về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương
mại của hàng hóa dịch vụ, xuất xứ địa lý, cách sản xuất, tính năng, chất lượng…để
người tiêu dùng có thể phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp khác nhau
trên thị trường sản phẩm cùng loại. Xét về mặt kinh tế, các đối tượng nói trên là thành
quả đầu tư của doanh nghiệp trong việc xây dựng uy tín và thương hiệu cho các sản
phẩm mà mình sản xuất hoặc cung ứng.
- Thứ ba, mục đích cuối cùng của các doanh nghiệp thực hiện hành vi là gây ra sự lầm
tưởng cho khách hàng, khiến họ nhầm lẫn giữa sản phẩm của doanh nghiệp mình với
sản phẩm của doanh nghiệp khác và thu lợi bất chính từ đó. Điều này chẳng khác nào
“bóc lột” thành quả lao động của người khác một cách bất lương và bất hợp pháp. Rõ
ràng, hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu
dùng, xâm phạm đến quyền tự do được lựa chọn của họ mà còn ảnh hưởng trực tiếp
đến lợi ích của doanh nghiệp là nạn nhân của hành vi xâm phạm.
Thông qua những đặc điểm trên, có thể nhận thấy rằng phương pháp để xác định
hành vi vi phạm là so sánh giữa các dấu hiệu để nhận biết hàng hoá của doanh nghiệp
bị xâm phạm với đặc tính để nhận biết hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp đang sử
dụng bị coi là đã có hành vi sử dụng những thông tin gây nhầm lẫn cho khách hàng.
Kết quả so sánh cho thấy có việc doanh nghiệp lợi dụng các đặc tính để nhận biết về
hàng hoá, dịch vụ có uy tín đang có trên thị trường của doanh nghiệp khác, sử dụng
trên sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp mình sẽ là căn cứ quan trọng để kết
luận việc có hay không hành vi vi phạm xảy ra trên thực tế. Dấu hiệu này phản ánh bản
chất không lành mạnh của hành vi sử dụng các chỉ dẫn gây nhầm lẫn; đồng thời, cũng
đặt ra cho luật pháp cũng như các cơ quan, cán bộ hữu quan nhiều vấn đề cần giải
quyết khi xác định hành vi và các đặc tính để nhận biết hàng hoá.
• Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Nguyễn Thị Hồng Ngọc - Viện ĐH Mở Hà Nội



- 18 -

Tại khoản 10 Điều 3 LCT 2004 có định nghĩa về bí mật kinh doanh như sau:
“ Bí mật kinh doanh là thông tin có đủ các điều kiện sau đây:
- Không phải là hiểu biết thông thường;
- Có khả năng áp dụng trong kinh doanh và khi được sử dụng sẽ tạo cho người nắm
giữ thông tin đó có lợi thế hơn so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng thông
tin đó;
- Được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để thông tin đó không bị tiết
lộ và không dễ dàng tiếp cận được”.
Khác với các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp như sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại…Bí mật kinh doanh bao gồm những thông
tin nhưng không phải là những thông tin mang hiểu biết thông thường, nó phát sinh
trong kinh doanh và đem lại cho chủ sở hữu nó những lợi ích kinh doanh nhất định.
Chính vì nhận thức được tầm quan trọng đó mà chủ thể sở hữu bí mật kinh doanh đã và
đang tích cực bảo vệ bí mật kinh doanh của doanh nghiệp mình, chống lại hành vi xâm
phạm bí mật kinh doanh.
LCT đã có quy định chi tiết về đặc điểm của hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh,
tuy nhiên, những đặc điểm nhận dạng hành vi này còn khá chung chung. Đồng thời, bí
mật kinh doanh là đối tượng được bảo hộ không thông qua cơ chế đăng ký bảo hộ với
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chính vì vậy việc bảo hộ bí mật kinh doanh đang là
một vấn đề rất phức tạp. Nếu như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa
là đối tượng được bảo hộ thông qua đăng ký và được cơ quan nhà nước công bố công
khai để các chủ thể kinh doanh khác tìm hiểu, nhận biết và không xâm phạm thì bí mật
kinh doanh là những thông tin bí mật của doanh nghiệp vì vậy không thể công bố công
khai cho các doanh nghiệp khác. LCT đề cao tinh thần “tự bảo vệ” của chủ thể sở hữu
bí mật kinh doanh, và chỉ can thiệp khi phát sinh tranh chấp và có căn cứ để xử lý theo
đúng quy định của pháp luật.

Theo quy định của pháp luật cạnh tranh, tại Điều 41 Luật Cạnh tranh 2004 có liệt kê
bốn hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh, bao gồm:
“1. Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các biện
pháp bảo mật của người sở hữu hợp pháp bí mật kinh doanh đó;
2. Tiết lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở
hữu bí mật kinh doanh;
3. Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ
bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập và làm lộ thông tin thuộc bí mật kinh doanh của chủ
sở hữu bí mật kinh doanh đó;
4. Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người khác khi người này
làm thủ tục theo quy định của pháp luật liên quan đến kinh doanh, làm thủ tục lưu
hành sản phẩm hoặc bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan nhà
nước hoặc sử dụng những thông tin đó nhằm mục đích kinh doanh, xin cấp giấy phép
liên quan đến kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm.”

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Nguyễn Thị Hồng Ngọc - Viện ĐH Mở Hà Nội


- 19 -

Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh không được liệt kê trong các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh theo quy định tại Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, quy
định tại Điều 41 về các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh trong Luật Cạnh tranh lại
tương tự với quy định về hành vi xâm phạm quyền đối với bí mật kinh doanh tại Điều
127 Luật Sở hữu trí tuệ.
Qua quy định này có thể thấy rằng pháp luật điều chỉnh những hành vi tiếp cận, thu
thập thông một cách bất chính nhằm mục đích chiếm đoạt thông tin thuộc bí mật kinh
doanh của chủ thể kinh doanh khác. Pháp luật chỉ thừa nhận việc tiếp cận những thông

tin này thông qua những hình thức hợp pháp là mua lại hay nhận chuyển giao quyền
quản lý từ chủ thể sở hữu bí mật kinh doanh đó.
2.2.2 Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp
theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ
Trên thế giới, các quy định về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp lần đầu tiên được
quy định tại Điều 10bis Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm
1883, Công ước đã đưa ra một danh sách bao gồm ba hình thức cạnh tranh không lành
mạnh đặc biệt bị cấm như sau:
“1. Mọi hành vi nhằm gây ra sự nhầm lẫn, bằng bất kỳ phương tiện nào, với cơ sở,
hàng hoá hay hoạt động kinh doanh, thương mại của đối thủ cạnh tranh.
2. Những tuyên bố sai trái trong công việc kinh doanh nhằm làm mất uy tín của cơ sở,
hàng hoá hay hoạt động kinh doanh, thương mại của đối thủ cạnh tranh.
3. Những chỉ dẫn hoặc tuyên bố sử dụng trong quá trình kinh doanh nhằm lừa dối công
chúng về bản chất, quy trình sản xuất, đặc điểm, sự phù hợp về mục đích, hoặc số
lượng của hàng hoá”.
Tuy nhiên, có thể nhận thấy nội dung của Điều 10 bis mới chỉ đưa ra một danh sách
chưa đầy đủ và chỉ là những ví dụ điển hình về cạnh tranh không lành mạnh để tham
khảo đồng thời khuyến nghị các quốc gia thành viên bổ sung các biện pháp bảo hộ hiệu
quả để chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói
chung và sở hữu công nghiệp nói riêng. Trên thực tế, đã có nhiều hành vi không được
Điều 10bis nhắc tới nhưng lại được pháp luật hoặc toà án các nước công nhận là cạnh
tranh không lành mạnh. Có thể kể đến các hành vi như: gây rối và cản trở kinh doanh,
xâm phạm bí mật kinh doanh hoặc lợi dụng thành quả đầu tư của doanh nghiệp, thương
nhân khác. Xét một cách khái quát, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh được mô
tả trên đây có cùng một bản chất là việc tạo ra những lợi thế không chính đáng trong
tương quan cạnh tranh trên thị trường, và có thể được chia thành ba nhóm: (1) Các
hành vi mang tính chất lợi dụng; (2) Các hành vi mang tính chất công kích; và (3) Các
hành vi lừa dối, lôi kéo khách hàng. Cụ thể7:
- Các hành vi mang tính chất lợi dụng: Đây là nhóm hành vi cạnh tranh không lành
mạnh điển hình, được biết đến dưới nhiều dạng thức khác nhau như gây nhầm lẫn về

nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ (misleading), lợi dụng thành quả đầu tư của người khác
7

Đoàn Tử Tích Phước (2009), Chế định cạnh tranh không lành mạnh trong pháp luật về cạnh tranh,
Diễn đàn cạnh tranh - Trang tin Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công thương.

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Nguyễn Thị Hồng Ngọc - Viện ĐH Mở Hà Nội


- 20 -

(free reading), xâm phạm bí mật kinh doanh…Bản chất của hành vi này là việc chiếm
đoạt hay sử dụng trái phép lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác. Đây cũng là
dạng hành vi gần với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, sự khác biệt chỉ nằm
ở đối tượng bị xâm phạm. Trong trường hợp hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ,
lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện ở số đối tượng nhất định được coi là tài
sản trí tuệ sau khi chủ sở hữu xác lập quyền thông qua việc đăng ký và được cấp văn
bằng bảo hộ. Còn trong trường hợp cạnh tranh không lành mạnh, phạm vi lợi thế cạnh
tranh bị xâm phạm có thể rộng hơn rất nhiều, bao gồm tất cả các giá trị, thành quả mà
doanh nghiệp cạnh tranh đạt được một cách hợp pháp thông qua quá trình kinh doanh,
bao gồm cả những yếu tố công khai như uy tín tên tuổi, chỉ dẫn thương mại hay không
công khai như bí quyết kinh doanh.
- Các hành vi mang tính chất công kích: Đây là nhóm hành vi có chung bản chất là tấn
công vào đối thủ cạnh tranh, triệt tiêu hoặc làm suy giảm các lợi thế cạnh tranh của đối
thủ cạnh tranh. Các hành vi cụ thể rất đa dạng, phụ thuộc vào cách thức, mục tiêu công
kích, có thể là những thông tin sai trái làm mất uy tín đối thủ cạnh tranh, hoặc các hành
vi trực tiếp gây cản trở hoạt động kinh doanh của đối thủ, hoặc lôi kéo, mua chuộc
nhân viên hoặc đối tác của đối thủ cạnh tranh. Một số quốc gia còn xếp những hành vi

hạn chế cạnh tranh thuộc dạng nhẹ như: ấn định giá bán lại, phân biệt đối xử, lạm dụng
ưu thế trong giao dịch (bargaining power) thuộc phạm vi cạnh tranh không lành mạnh
do xem xét yếu tố cản trở hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác.
Mặc dù dạng hành vi công kích nói trên cũng tác động thẳng đến các đối thủ cạnh
tranh của bên vi phạm, nhưng do tính chất trực diện của hành vi, các bên liên quan
thường có khuynh hướng sử dụng các quy định trực tiếp về gây thiệt hại và bồi thường
thường thiệt hại của pháp luật dân sự, hoặc thậm chí cả hình sự, để giải quyết tranh
chấp một cách triệt để, thay vì áp dụng các quy định riêng của pháp luật về cạnh tranh
không lành mạnh. Do đó, tính điển hình của nhóm hành vi này không cao bằng nhóm
hành vi thứ nhất.
- Các hành vi lôi kéo bất chính khách hàng: Việc đặt các hành vi thuộc nhóm này, đặc
biệt là các hành vi kinh doanh bất chính đã trở nên phổ biến trên thị trường như quảng
cáo lừa dối, khuyến mại nhử mồi, chào hàng quấy rối hay ép buộc… vào phạm vi điều
chỉnh của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh còn là một vấn đề gây nhiều tranh
cãi. Bản chất của hành vi này là tạo ra một lợi thế cạnh tranh gian dối để lôi kéo khách
hàng, người tiêu dùng. Đối tượng chịu tác động trực tiếp của các hành vi này là khách
hàng/người tiêu dùng, còn các doanh nghiệp cạnh tranh chỉ chịu ảnh hưởng gián tiếp từ
hành vi vi phạm thông qua việc mất khách hàng.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng tác động của dạng hành vi nói trên không giới hạn tại
một số khách hàng bị lôi kéo và các đối thủ cạnh tranh bị mất khách hàng. Quan trọng
hơn, dạng hành vi này còn khiến thị trường trở nên không minh bạch, làm sai lệch giao
dịch giữa các chủ thể tham gia thị trường, và qua đó ảnh hưởng xấu đến môi trường
kinh doanh chung. Do đó, các quy định điều chỉnh dạng hành vi này vẫn chiếm một vị
trí quan trọng trong pháp luật cạnh tranh nói chung cũng như chế định về cạnh tranh
không lành mạnh nói riêng của nhiều quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển.

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Nguyễn Thị Hồng Ngọc - Viện ĐH Mở Hà Nội



- 21 -

Nhận thấy, việc phân nhóm các hành vi cạnh tranh không lành mạnh như trên mang
tính khái quát phục vụ công tác nghiên cứu. Trên thực tế, giữa các nhóm hành vi nói
trên có sự giao thoa và một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể xếp vào hơn
một nhóm nếu xem xét mục đích vi phạm cũng như đối tượng tác động của chúng.
Chẳng hạn như hành vi quảng cáo so sánh vừa có mục đích công kích đối thủ cạnh
tranh, vừa mang tính chất lôi kéo bất chính khách hàng, đặc biệt nếu sự so sánh dựa
trên thông tin sai lệch. Hay hành vi sử dụng trái phép các dấu hiệu, chỉ dẫn thương mại
của đối thủ cạnh tranh trước tiên mang tính chất lợi dụng uy tín nhưng về lâu dài dẫn
đến hậu quả là làm giảm tính chất độc đáo, khả năng phân biệt của chỉ dẫn thương mại
(dillusion), làm triệt tiêu lợi thế cạnh tranh của đối thủ. Hành vi lôi kéo nhân viên của
doanh nghiệp khác trong nhiều trường hợp cũng phát sinh khả năng xâm phạm bí mật
kinh doanh… Nhìn chung, việc đánh giá hành vi cạnh tranh không lành mạnh phụ
thuộc nhiều vào thực tiễn xử lý, dựa trên quan điểm của cơ quan cạnh tranh, mức độ
ảnh hưởng của hành vi cũng như sự cân bằng giữa lợi ích của doanh nghiệp và của
người tiêu dùng, giữa yêu cầu bảo hộ các quyền chính đáng của doanh nghiệp và
khuyến khích cạnh tranh tự do, phát triển kinh tế xã hội.
Ở Việt Nam, cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp lần đầu tiên được
quy định tại Điều 24 Nghị định 54/2000/NĐ-CP về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh
tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp, bao gồm các hành vi sau8:
Một là, sử dụng các chỉ dẫn thương mại để làm sai lệch nhận thức và thông tin về
chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh, hàng hoá, dịch vụ, nhằm
mục đích: (a) Lợi dụng uy tín, danh tiếng của người sản xuất kinh doanh khác trong
sản xuất kinh doanh của mình; (b) Làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của người sản
xuất kinh doanh khác trong sản xuất kinh doanh của mình; (c) Gây nhầm lẫn về xuất
xứ, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá,
dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng hoá, dịch vụ... cho người tiêu dùng trong quá trình

nhận biết, chọn lựa hàng hoá, dịch vụ hoặc hoạt động kinh doanh.
Hai là, chiếm đoạt, sử dụng thành quả đầu tư của người khác mà không được người
đó cho phép (Điều 24). Các tổ chức, cá nhân bị thiệt hại hoặc có khả năng bị thiệt hại
do hành vi cạnh tranh không lành mạnh thuộc lĩnh vực sở hữu công nghiệp có quyền
yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền: buộc người có hành vi cạnh tranh không
lành mạnh phải chấm dứt hành vi đó, yêu cầu bồi thường thiệt hại; xử lý hành chính
hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi cạnh tranh không lành
mạnh (Điều 25).
Sau đó, Luật sở hữu trí tuệ 2005 ra đời có quy định về các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh tại Điều 130, bao gồm các hành vi sau:

8

TS Đặng Vũ Huân và Đặng Vũ Thùy Linh, Tọa đàm “Luật Cạnh tranh 2004 - Những bất cập và nhu cầu

sửa đổi”, Khoa Luật - Viện Đại học Mở Hà Nội, tháng 3/2016

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Nguyễn Thị Hồng Ngọc - Viện ĐH Mở Hà Nội


- 22 -

“a) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh
doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hoá, dịch vụ;
b) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất
lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ; về điều kiện cung cấp
hàng hoá, dịch vụ;
c) Sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế có

quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu
đó mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên, nếu người sử dụng là
người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu và việc sử dụng đó không được sự
đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu và không có lý do chính đáng;
d) Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự gây
nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ của người khác hoặc chỉ dẫn địa
lý mà mình không có quyền sử dụng nhằm mục đích chiếm giữ tên miền, lợi dụng hoặc
làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương
ứng.”
Luật SHTT quy định ba hành vi cạnh tranh là hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, như sau:
• Hành vi chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn
Hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn được đề cập tại điểm a, b khoản 1 Điều 130 Luật Sở
hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009):
“a) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh
doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hoá, dịch vụ;
b) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất
lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ; về điều kiện cung cấp
hàng hoá, dịch vụ”
Đồng thời tại khoản 2 và khoản 3 của điều luật này cũng đã làm rõ dấu hiệu nhận
biết các đối tượng bị xâm phạm và các hành vi xâm phạm. Các quy định của LSHTT
nhằm bổ sung và hoàn thiện hơn các quy định của LCT. Hành vi chỉ dẫn thương mại
gây nhầm lẫn theo quy định của LSHTT 2005 có các đặc điểm sau:
- Thứ nhất, đặc điểm về chủ thể thực hiện. Chủ thể thực hiện hành vi chỉ dẫn thương
mại gây nhầm lẫn theo quy định của LSHTT bao gồm: tổ chức, cá nhân kinh doanh tại
Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của
LSHTT và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Như vậy, chủ thể thực hiện
hành vi CTKLM liên quan đến chỉ dẫn thương mại theo quy định của Luật SHTT
2005 rộng hơn so với Luật Cạnh tranh 2004. Và do đó sẽ có những khả năng sau đây
xảy ra liên quan đến chủ thể thực hiện hành vi khi tiến hành áp dụng pháp luật:

+ Trường hợp thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật khách quan (các
quy định về sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn) thuộc đối tượng điều chỉnh của
cả LCT 2004 và LSHTT 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009). Trường hợp này, có thể áp
dụng nguyên tắc về mối quan hệ giữa luật chung và luật riêng (theo nghĩa rộng, tức là
không chỉ trong trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của các văn bản pháp luật
Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Nguyễn Thị Hồng Ngọc - Viện ĐH Mở Hà Nội


- 23 -

về hành vi CTKLM như quy định tại khoản 1 Điều 5 Luật Cạnh tranh 2004, mà còn
cả trong trường hợp có sự giống nhau giữa các văn bản pháp luật về một vấn đề) để
xử lý, theo đó, trong quan hệ giữa các đạo luật khác trong nước thì Luật Cạnh
tranh 2004 là "Luật riêng", và do đó, được ưu tiên áp dụng trong trường hợp có
nhiều văn bản pháp luật cùng điều chỉnh một hành vi cạnh tranh.
Tuy nhiên, thực tế nảy sinh một vấn đề, đó là những ngành luật được ban hành sau
này có thể dựa vào những quy định cơ bản của LCT mà xây dựng các quy định về cạnh
tranh không lành mạnh phù hợp với ngành luật mình (ví dụ như Luật Sở hữu trí tuệ).
Từ đó sẽ có thể phát sinh những trường hợp ngành luật mới sẽ có đối tượng điều chỉnh
rộng hơn so với Luật Cạnh tranh, và nếu như có sự thay đổi về các dấu hiệu nhận dạng
các đối tượng hay các hành vi xâm phạm thì cũng sẽ tác động đến sự nhận dạng về các
hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn trong Luật Cạnh tranh. Điều này có nghĩa là các đạo luật
chuyên ngành có thể tác động ngược trở lại Luật Cạnh Tranh, kéo theo đạo luật này sẽ
mất đi dần tầm quan trọng và phạm vi ảnh hưởng của nó.
+ Trường hợp thứ hai, chủ thể tuy vi phạm các quy định pháp luật khách quan,
nhưng chỉ thuộc chủ thể được quy định tại Luật SHTT 2005 (sửa đổi, bổ sung
2009), không thuộc chủ thể được điều chỉnh bởi Luật Cạnh tranh 2004. Trường hợp
này rất rõ ràng, dù một chủ thể có hành động đúng như các dấu hiệu của hành vi cạnh

tranh không lành mạnh được nêu trong Luật Cạnh tranh nhưng là không nằm trong
phạm vi các đối tượng mà đạo luật điều chỉnh thì đồng nghĩa với việc đó không phải là
hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật về cạnh tranh. Do có đối tượng áp
dụng rộng hơn, Luật Sở hữu trí tuệ có thể điều chỉnh được một số hành vi bất hợp pháp
của các chủ thể mà Luật Cạnh tranh chưa bao quát được.
- Thứ hai, đặc điểm về các đối tượng thuộc chỉ dẫn thương mại bị xâm phạm theo quy
định của Luật SHTT 2005, nếu đối chiếu với Điều 40 Luật Cạnh tranh 2004 (không
tính quy phạm "mở" được quy định tại Điều 39) là "rộng" và cụ thể hơn so với Luật
Cạnh tranh 2004. Bởi như đã trình bày ở trên, Luật SHTT 2005 (sửa đổi, bổ sung
2009) còn quy định cả các chỉ dẫn gây nhầm lần về nhãn hiệu hàng hoá. Bên cạnh đó,
chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn còn được cụ thể hoá trong đạo luật này, theo đó chỉ
dẫn gây nhầm lẫn ở đây có thể là về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn
gốc thương mại của hàng hoá, dịch vụ; về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất
lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng
hoá, dịch vụ; được quy định cụ thể như sau:
+ Đối với nhãn hiệu, yếu tố xâm phạm được xác định là các dấu hiệu gắn trên hàng
hóa, bao bì hàng hóa, biển hiệu, phương tiện quảng cáo...trùng hoặc tương tự tới mức
gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã được bảo hộ của chủ thể kinh doanh khác. Dấu hiệu bị
coi là trùng nếu có cùng cấu tạo, cách trình bày (kể cả về màu sắc) với nhãn hiệu đã
được bảo hộ; dấu hiệu bị coi là tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu được bảo
hộ nếu có một số đặc điểm hoàn toàn trùng nhau hoặc tương tự nhau đến mức không
thể dễ dàng phân biệt được chúng với nhau dựa trên các đặc điểm về cấu tạo, cách phát
âm, phiên âm nhằm mục đích gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng.
Hàng hóa, dịch vụ bị nghi ngờ trùng hoặc tương tự về bản chất hoặc có liên hệ về
chức năng, công dụng, kênh tiêu thụ với hàng hóa, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ.

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Nguyễn Thị Hồng Ngọc - Viện ĐH Mở Hà Nội



- 24 -

+ Đối với tên thương mại, yếu tố xâm phạm được thể hiện dưới dạng chỉ dẫn thương
mại gắn trên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch, biển
hiệu...trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với tên thương mại đã được bảo hộ.
Có thể hiểu đơn giản là tên thương mại của sản phẩm, dịch vụ, hàng hóa được sản xuất,
phân phối ra thị trường sau mà có tên thương mại trùng, hoặc gây nhầm lẫn về cách
phát âm, phiên âm, cấu tạo... với tên thương mại đã được đăng ký trước đó.
+ Đối với chỉ dẫn địa lý, yếu tố xâm phạm được xác định là các chỉ dẫn về sản
phẩm, hàng hóa thể hiện thông qua từ ngữ, hình ảnh, biểu tượng mang các thông tin chỉ
khu vực, nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm, hàng hóa sai lệch nhằm mục đích gây nhầm
lẫn cho người tiêu dùng.
+ Đối với thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, yếu tố xâm phạm có thể thuộc một
trong các dạng sau:
Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn được tạo ra do sao chép trái phép thiết kế
bố trí mạch tích hợp bán dẫn đã được bảo hộ.
Sản phẩm hoặc bộ phận (phần) sản phẩm gắn mạch tích hợp bán dẫn được tạo
ra một cách trái phép theo thiết kế bố trí được bảo hộ.
Trên thị trường hiện nay, những vi phạm về chỉ dẫn thương mại được thực hiện công
khai với nhiều thủ đoạn mà người tiêu dùng khó có thể nhận biết được đâu là sản phẩm
thật, đâu là sản phẩm mang các chỉ dẫn thương mại trùng hoạc gây nhầm lẫn với sản
phẩm thật.
Có một vấn đề cần lưu ý đó là, không phải bất kỳ hành vi nào xâm phạm chỉ dẫn
thương mại đều bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu
công nghiệp. Chúng chỉ là hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu
công nghiệp khi thỏa mãn các yếu tố về chủ thể đồng thời hành vi thực hiện nhằm mục
đích cạnh tranh một cách bất chính, xâm phạm đến những đối thủ cạnh tranh nhất định
trên cùng thị trường liên quan về hàng hóa, dịch vụ. Do vậy, sẽ có những hành vi về
mặt khách quan là xâm phạm chỉ dẫn thương mại, nhưng không xuất phát từ chủ thể

cạnh tranh, không vì mục đích cạnh tranh, không hướng tới xâm phạm đến các đối thủ
cạnh tranh thì sẽ không bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong pháp luật
cạnh tranh mà có thể bị xử lý theo quy định của LSHTT 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009)
do xâm phạm đến các đối tượng chỉ dẫn thương mại do luật này quy định.
• Hành vi sử dụng bất hợp pháp nhãn hiệu đã được bảo hộ tại một nước thành
viên là thành viên của điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại
lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó
Theo quy định tại khoản 5 Điều 124 LSHTT 2005, các hành vi sử dụng nhãn hiệu
bao gồm:
“a) Gắn nhãn hiệu được bảo hộ lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện kinh
doanh, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh;
b) Lưu thông, chào bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán hàng hoá mang nhãn
hiệu được bảo hộ;
c) Nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu được bảo hộ.”
Tại điểm c khoản 1 Điều 130 Luật này có quy định: các chủ thể khi thực hiện hành
Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Nguyễn Thị Hồng Ngọc - Viện ĐH Mở Hà Nội


- 25 -

vi sử dụng nhãn hiệu nêu trên mà nhãn hiệu đó đã được bảo hộ tại một nước là thành
viên của điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu
nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành
viên, nếu người sử dụng là người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu và việc
sử dụng đó không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu và không có lý do chính
đáng.
Thông qua khái niệm này có thể nhận thấy hành vi sử dụng nhãn hiệu bị coi là hành
vi cạnh tranh không lành mạnh khi thỏa mãn đầy đủ bốn điều kiện sau đây:

- Nhãn hiệu sử dụng đã được bảo hộ theo Điều ước quốc tế mà Việt Nam cũng là
thành viên;
- Điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn
hiệu sử dụng nhãn hiệu;
- Người sử dụng nhãn hiệu là người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu;
- Việc sử dụng không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu.
• Hành vi đăng ký, chiếm giữ, sử dụng tên miền bất hợp pháp
Trong bối cảnh hội nhập thương mại quốc tế, các phương thức trao đổi thông tin qua
mạng không dây Internet ngày càng trở nên đa dạng và phổ biến. Trong đó, tên miền
đang là một công cụ thương mại được chủ thể kinh doanh sử dụng rỗng rãi với hiệu
quả cao, tiết kiệm thời gian mà chi phí đầu tư ít.
Tên miền không phải là một đối tượng sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật
Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, số vụ việc doanh nghiệp tiến hành đăng ký, sử
dụng tên miền trùng với tên thương mại, nhãn hiệu được bảo hộ mà họ không phải là
chủ sở hữu, hoặc trùng với chỉ dẫn địa lý mà họ không có quyền sử dụng hợp pháp
đang diễn ra ngày một nhiều.
Theo định nghĩa tại khoản 4 Điều 2 Thông tư 24/2015/TT-BTTTT ngày 18/8/2015
của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định về quản lý và sử dụng tài nguyên trên
Internet: “Tên miền là tên được sử dụng để định danh địa chỉ Internet của máy chủ
gồm các dãy ký tự cách nhau bằng dấu chấm”. Tên miền được các tổ chức, cá nhân sử
dụng thông qua đó để quảng bá về tổ chức, sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của doanh
nghiệp mình. Các tên miền được hoạt động trên mạng Internet phải đáp ứng được một
số điều kiện trong đó có điều kiện về tính duy nhất của tên miền.
Theo quy định tại điểm d, khoản 1 Điều 130 LSHTT 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009),
hành vi “ăn cắp” tên miền bị coi là một trong những hành vi cạnh tranh không lành
mạnh. Cụ thể, đó là hành vi: “Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên
miền trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ
của người khác hoặc chỉ dẫn địa lý của mình không có quyền sử dụng nhằm mục đích
chiếm giữ tên miền, lợi dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu,
tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng.”

Hiện nay, tình trạng tranh chấp về tên miền ngày càng gia tăng. Các tranh chấp chủ
yếu liên quan đến việc đăng ký tên miền xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân khác. Tranh chấp về tên miền xảy ra trong trường hợp một chủ thể tiến

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Nguyễn Thị Hồng Ngọc - Viện ĐH Mở Hà Nội


×