Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Nghiên cứu mối quan hệ giữa nồng độ interleukin 17 và TNFa trong vấn đề chẩn đoán đẻ non, doạ đẻ non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 58 trang )

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
KHOA CÔNG NGHỆ SINH HỌC
-----

-----

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:

NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ GIỮA
NỒNG ĐỘ INTERLEUKIN 17 VÀ TNFα
TRONG VẤN ĐỀ CHẨN ĐOÁN ĐẺ NON,
DỌA ĐẺ NON
Người hướng dẫn: TS. Đỗ Minh Trung
Sinh viên thực hiện: Lê Hoàng Huyền Trang
Lớp: 12-01
Khoa: Công nghệ sinh học

HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, em đã nhận được sự giúp đỡ quý báu của các
thầy cô, gia đình và bạn bè. Trước hết em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Đại
úy TS.Đỗ Minh Trung đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện trong
suốt thời gian thực hiện đề tài.
Em xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo Khoa công nghệ sinh học, Viện Đại
học Mở Hà Nội đã truyền đạt những kiến thức quý báu, đã tạo điều kiện giúp đỡ em để
từ đó em phát triển thêm vốn hiểu biết của mình vận dụng trong quá trình hoàn thành
khoá luận và trong công việc sau này.
Em xin chân thành cảm ơn tới các cán bộ, nhân viên trong Trung tâm


nghiên cứu Y Dược học Quân sự, Học viện Quân Y đã nhiệt tình giúp đỡ em
trong quá trình thực hiện đề tài.
Song do mới làm quen với công tác nghiên cứu khoa học, tiếp cận với thực tế
cũng như hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên không thể tránh khỏi những thiếu
sót nhất định mà bản thân chưa thấy được. Em rất mong nhận được sự góp ý của quý
Thầy, cô giáo và các bạn để khoá luận được hoàn chỉnh hơn.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã giúp đỡ, khích
lệ tinh thần và tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành đề tài.
Hà Nội, ngày tháng 5 năm 2016
Sinh viên

Lê Hoàng Huyền Trang


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ ....................................................................................................... 1
PHẦN I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU .................................................................... 3
1.1. Khái niệm về đẻ non .................................................................................. 3
1.2. Dịch tễ học của đẻ non ............................................................................... 5
1.3. Một số yếu tố nguy cơ của đẻ non............................................................. 7
1.4. Vai trò của một số cytokine trong đẻ non .............................................. 22
PHẦN 2: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................... 27
2.1. Vật liệu nghiên cứu ................................................................................ 27
2.2. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 28
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: .......................................................................... 28
2.2.2. Thu thập bệnh phẩm ......................................................................... 29
2.2.3. Phương pháp xét nghiệm nồng độ IL-17 và TNFα: ....................... 29
2.2.4. Địa điểm nghiên cứu .......................................................................... 30
2.2.5. Xử lý số liệu ........................................................................................ 31
2.3. Đạo đức trong nghiên cứu ....................................................................... 31

PHẦN 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ......................................................... 32
3.1. Đặc điểm của nhóm nghiên cứu.............................................................. 32
3.2. Nồng độ của IL-17 và TNF-α trong dịch ối ........................................... 32
3.2.1. Nồng độ của IL-17, TNF-α trong dịch ối ......................................... 32
3.2.2. Thay đổi IL-17 và TNFα theo mức độ viêm của ối, màng ối ......... 33
3.2.3. Nồng độ của IL-17 trong dịch ối và sự thay đổi IL-17 trong dịch ối
theo mức độ viêm của ối, màng ối .............................................................. 34


3.2.4. Sự thay đổi nồng độ IL-17 và TNF-α trong dịch ối theo tuổi thai 35
3.3. Mối tương quan giữa nồng độ IL-17 và TNF-α .................................. 35
3.3.1. Tương quan giữa nồng độ IL-17 với TNF-α trong dịch ối .......... 35
3.3.2. Vị trí các tế bào sản xuất IL-17 trong màng ối ............................... 36
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 42
KIẾN NGHỊ ........................................................................................................ 43
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 44


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

IL

: Interleukin

CTC

: cổ tử cung

CCTC
TNF


: cơn co tử cung
: Tumor Necrosis Factor


DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1. Các nguy cơ đẻ non. .......................................................................... 11
Hình 1.2. Các nguy cơ đẻ non khi mang thai................................................... 18
Hình 3.1. Kết quả nhuộm hóa mô miễn dịch phát hiện IL 17 và CD 3 ở
màng ối ................................................................................................................ 38

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1. Phân loại cytokin viêm theo hoạt động ........................................... 23
Sơ đồ 2.1. Các bước tiến hành nghiên cứu....................................................... 28
Bảng 3.1. Đặc điểm của nhóm nghiên cứu ....................................................... 32
Bảng 3.2: Giá trị của IL-17 và TNF-α .............................................................. 32
Bảng 3.3. Nồng độ IL-17 và TNF-α theo mức độ viêm của ối - màng ối....... 33
Bảng 3.4: Giá trị của IL-17 trong dịch ối......................................................... 34
Bảng 3.5: Nồng độ IL-17 theo mức độ viêm của ối-màng ối .......................... 34
Bảng 3.6. Nồng độ IL-17 và TNF-α theo tuổi thai (n = 112). ......................... 35
Biểu đồ 3.1. Tương quan giữa nồng độ IL-17 và TNF-α trong dịch ối. ........ 36


Khóa luận tốt nghiệp

Viện Đại học Mở Hà Nội

ĐẶT VẤN ĐỀ

Theo tổ chức Y tế thế giới, đẻ non là một cuộc chuyển dạ xảy từ tuần 22
đến trước tuần thứ 37 của thai kỳ tính từ ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cùng.
Dọa đẻ non và đẻ non luôn là vấn đề lớn của y học nói chung cũng như
Sản khoa nói riêng. Sơ sinh non tháng có nguy cơ bị bệnh và tử vong cao hơn
nhiều so với sơ sinh đủ tháng. Đẻ non là yếu tố chính gây tử vong cho trẻ sơ sinh
trong tuần đầu tiên.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới thống kê ở 184 quốc gia năm 2010 tỷ lệ đẻ
non chiếm từ 5 – 18% các ca sinh. Tỷ lệ đẻ non không giống nhau ở các quốc gia
trên thế giới và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như điều kiện kinh tế - xã hội, vùng
miền, chủng tộc, phong tục tập quán... Ở Việt Nam hiện nay, tỷ lệ đẻ non vào
khoảng từ 6,5% - 16%. Tỷ lệ tử vong của nhóm sơ sinh non tháng cao gấp 20 lần
nhóm đủ tháng. Chăm sóc và điều trị trẻ đẻ non tốn kém hơn rất nhiều về kinh tế
và thời gian so với trẻ đủ tháng.
Vì vậy, hạn chế tỷ lệ dọa đẻ non và đẻ non luôn là mục đích của y học
nhằm cho ra đời những đứa trẻ có thể chất khỏe mạnh, thông minh. Vấn đề quan
trọng để hạn chế tỷ lệ đẻ non đó là làm sao có thể dự phòng, phát hiện sớm và
điều trị kịp thời cho các sản phụ có nguy cơ đẻ non cao, cũng như tiên lượng
chính xác cho tình trạng dọa đẻ non và đẻ non nhằm đưa ra biện pháp điều trị
phù hợp và có hiệu quả.
Yếu tố nguy cơ và cơ chế bệnh sinh của đẻ non vẫn còn nhiều vấn đề
cần được tiếp tục nghiên cứu. Nhiều nghiên cứu cho thấy có rất nhiều yếu tố
nguy cơ khác nhau ảnh có liên quan đến đẻ non như tiền sử sản khoa, số lấn
SVTH: Lê hoàng Huyền Trang

GVHD: TS. Đỗ Minh Trung
1


Khóa luận tốt nghiệp


Viện Đại học Mở Hà Nội

mang thai, sự căng thẳng thần kinh, kinh tế khó khắn, u xơ tử cung,.... Tham
gia vào cơ chế bệnh sinh, nhiều nghiên cứu cho thấy có sự xuất hiện nhiều
cytokin trong dịch ối cũng như dịch cổ tử cung như IL-8, IL-6, IL-17,
TNFα,.. Đặc biệt có nghiên cứu cho thấy sự tăng mật độ tế bào sản xuất IL17 trong màng ối của thai phụ sau sinh. Tuy nhiên, các yếu tố nguy cơ cũng
như sự tham gia của các yếu tố miễn dịch trong đẻ non vẫn còn vấn đề đang
được tiếp tục nghiên cứu. Xác định chính xác yếu tố nguy cơ giúp có các biện
pháp dự phòng và điều trị hiệu quả, giảm chi phí cũng như thời gian điều trị.
Xuất phát từ yêu cầu đó, em tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu
mối quan hệ giữa nồng độ Interleukin 17 và TNFα trong vấn đề chẩn đoán
đẻ non, dọa đẻ non” với các mục tiêu sau.

Mục tiêu:
- Định lượng nồng độ Interleukin 17 và TNFα.
- Xác định mối quan hệ giữa nồng độ Interleukin 17 và TNFα trong
vấn đề chẩn đoán đẻ non, dọa đẻ non.

SVTH: Lê hoàng Huyền Trang

GVHD: TS. Đỗ Minh Trung
2


Khóa luận tốt nghiệp

Viện Đại học Mở Hà Nội

PHẦN I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU


1.1. Khái niệm về đẻ non
Từ trước đến nay có nhiều tác giả đưa ra các định nghĩa khác nhau về đẻ
non. Định nghĩa này thay đổi theo thời gian và phụ thuộc vào khả năng nuôi
dưỡng trẻ đẻ non sau sinh.
Theo định nghĩa của tổ chức y tế thế giới (WHO) năm 1961: đẻ non là trẻ
đẻ ra có trọng lượng dưới 2500g và tuổi thai dưới 37 tuần. Từ 2004, định nghĩa
của WHO về đẻ non là khi trẻ đẻ ra có tuổi thai từ 22 đến dưới 37 tuần. Theo
Creasy, đẻ non là cuốc đẻ diễn ra từ 20 đến dưới 37 tuần chậm kinh.
Một số tác giả khác cho rằng đẻ non là cuộc chuyển dạ đẻ xảy ra ở tuổi
thai từ 20-36 tuần. Tuy nhiên ngày nay các tác giả trên thế giới đều thống nhất
quan điểm đẻ non là cuộc đẻ xảy ra ở tuổi thai từ 20 – 37 tuần tính từ ngày đầu
kỳ kinh cuối [1].
Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ đẻ non là 12-13%, ở châu Âu và các nước phát triển, báo
cáo tỷ lệ thường là 5-9% [2,3]. Tỷ lệ đẻ non tăng lên ở hầu hết các nước công
nghiệp hóa nhất (công nghiệp phát triển nhất), với Hoa Kỳ tỷ lệ đẻ non ngày
càng tăng từ 9,5% năm 1981 lên 12,7% trong năm 2005, mặc dù đã có nhiều kiến
thức chuyên sâu về các yếu tố nguy cơ, cơ chế bệnh sinh đẻ non và có nhiều biện
pháp can thiệp cộng đồng đã được tiến hành để giảm tỷ lệ đẻ non [3].
Đẻ non là nguyên nhân chính gây tử vong chu sinh (chiếm 75%), hơn một
nửa tỷ lệ tử vong dài hạn. Có 50% trẻ đẻ non bị thiểu năng hệ thần kinh bao gồm
mù, điếc bẩm sinh, chậm mọc răng, liệt não, bệnh phế quản – phổi mạn tính. Có

SVTH: Lê hoàng Huyền Trang

GVHD: TS. Đỗ Minh Trung
3


Khóa luận tốt nghiệp


Viện Đại học Mở Hà Nội

40% trẻ đẻ non tử vong trong đẻ ở tuổi thai dưới 32 tuần, số sống sót trong nhóm
này cũng có nguy cơ tử vong chu sinh cao nhất.
Người ta đã biết rõ tỷ lệ mắc bệnh liệt não ở trẻ đẻ non có mối liên quan
nghịch với tuổi thai, tức là tỷ lệ mắc bệnh liệt não càng cao ở nhóm tuổi thai
càng thấp và ngược lại.
Có nhiều bằng chứng chứng minh tỷ lệ và cấu trúc viêm nhiễm ở trẻ sơ
sinh cũng thay đổi.
Từ nửa sau thế kỷ này, khả năng sống sót của trẻ sơ sinh được thay đổi
căn bản. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật, thói quen sử dụng corticoid trước
sinh, sự phát triển của các khoa cấp cứu sơ sinh, sự cộng tác giữa bác sỹ sản
khoa và các bác sỹ sơ sinh đã tăng tỷ lệ sống sót ở trẻ sơ sinh. Trong những năm
1980 tỷ lệ khả năng sống ở trẻ đẻ non giới hạn ở tuổi thai 26 tuần, tới nay khả
năng sống của trẻ đẻ non được giới hạn ở tuổi thai 22 tuần. Song song với việc
tăng khả năng sống của trẻ đẻ non có tuổi thai cực thấp là sự ra tăng của tỷ lệ
biến chứng muộn của hệ thần kinh và các vấn đề về sức khỏe khác xuất hiện.
Trẻ đẻ non tăng cả nguy cơ biến chứng sơ sinh và mất khả năng muộn như
hội chứng trầm cảm, liệt não, các vấn đề về bệnh phổi, bệnh tiêu hóa, giảm thị
lực, giảm thính lực.
Về lâu dài trẻ sinh non tăng nguy cơ các bệnh tim mạch, tăng huyết áp,
tiểu đường và có thể tăng nguy cơ bệnh ung thư.
Các thiệt hại kinh tế do ảnh hưởng của đẻ non đang là gánh nặng của xã
hội như chăm sóc sức khỏe, giáo dục, dịch vụ xã hội...
Suy hô hấp: trẻ đẻ non thường có biểu hiện tím tái, khó thở. Nếu không
được chăm sóc đặc biệt, trẻ có thể bị suy hô hấp nặng dẫn tới tử vong.
SVTH: Lê hoàng Huyền Trang

GVHD: TS. Đỗ Minh Trung
4



Khóa luận tốt nghiệp

Viện Đại học Mở Hà Nội

Xơ võng mạc: nồng độ oxy trong máu cao làm cho võng mạc của trẻ bị
giãn nở, thị giác của trẻ kém, thậm chí có thể dẫn tới mù lòa.
Bệnh xuất huyết: trẻ đẻ non có thể bị thiếu hụt tế bào máu và bị xuất huyết
các cơ quan nội tạng như: dạ dày, phổi, tiết niệu… Trường hợp nặng, trẻ có thể
bị hôn mê, co giật và tử vong
Trẻ đẻ non tăng nguy cơ nhiễm trùng: do hệ miễn dịch yếu nên trẻ dễ bị
nhiễm trùng phổi, nhiễm trùng máu hoặc viêm màng não…[4].
1.2. Dịch tễ học của đẻ non
Các yếu tố sản khoa dẫn đến đẻ non là: (1) Đình chỉ thai nghén do các chỉ
định về phía mẹ hoặc thai nhi, trong đó có đẻ chỉ huy hoặc mổ lấy thai do vết mổ
cũ; (2) Đẻ non tái diễn với màng ối còn nguyên vẹn, và (3) đẻ non với ối vỡ sớm
(PPROM), kể cả đẻ đường âm đạo hay mổ lấy thai [5]. Khoảng 30-35% số ca đẻ
non do chỉ định sản khoa, 40-45% đẻ non tự phát, và 25-30% đẻ non với ối vỡ
sớm; đẻ non tự phát và đẻ non với ối vỡ sớm được gọi chung là đẻ non nguyên
phát. Các nguyên nhân gây đẻ non có sự khác biệt giữa các sắc tộc. Đẻ non tự phát
là nguyên nhân thường gặp nhất gây đẻ non ở phụ nữ da trắng, nhưng ở phụ nữ da
đen hay gặp đẻ non tự phát với ối vỡ sớm [6]. Đẻ non cũng có thể được phân chia
theo tuổi thai: khoảng 5% số ca đẻ non xảy ra dưới 28 tuần (đẻ cực non), khoảng
15% ở 28 - 33 tuần (đẻ rất non), khoảng 80 - 90% ở 34 tuần đến 36 tuần 6 ngày
(đẻ non muôn). Phần lớn sự gia tăng tỷ lệ đẻ non đơn thai được giải thích bởi số
lượng ngày càng tăng của các ca đẻ sớm do chỉ định sản khoa [7]. Một số lớn các
trường hợp đẻ non đa thai có liên quan đến các công nghệ hỗ trợ sinh sản cũng là
một đóng góp quan trọng vào sự gia tăng chung tỉ lệ đẻ non. Thụ tinh trong ống
nghiệm cũng làm tăng nguy cơ đẻ non [8].

SVTH: Lê hoàng Huyền Trang

GVHD: TS. Đỗ Minh Trung
5


Khóa luận tốt nghiệp

Viện Đại học Mở Hà Nội

Đẻ non tự phát vỡ ối sớm được định nghĩa là màng ối vỡ tự phát ở tuổi
thai dưới 37 tuần ít nhất là 1h trước khi khởi phát các cơn co tử cung. Nguyên
nhân của vỡ màng ối trong nhiều trường hợp là không rõ, nhưng nhiễm trùng
trong tử cung không có triệu chứng là yếu tố thường gặp. Các yếu tố nguy cơ cho
đẻ non tự phát với ối vỡ sớm nói chung tương tự như những người đẻ non tự
phát với màng ối còn nguyên, mặc dù nhiễm trùng và tiếp xúc với thuốc lá đóng
vai trò quan trọng. Hầu hết phụ nữ đẻ non tự phát với ối vỡ sớm bắt đầu chuyển
dạ một cách tự nhiên trong vòng vài ngày, nhưng một phần nhỏ phụ nữ vẫn chưa
đẻ trong vài tuần hoặc vài tháng. Màng ối tạo thành một rào cản đối với sự
nhiễm khuẩn, một biến chứng phổ biến của đẻ non tự phát với ối vỡ sớm là tăng
nguy cơ nhiễm khuẩn trong tử cung và đẻ non.
Đẻ non thường được định nghĩa là các cơn co tử cung đi kèm với thay đổi
cổ tử cung ở tuổi thai dưới 37 tuần. Sinh bệnh học của đẻ non không được hiểu
rõ, nhưng đẻ non có thể đại diện cho kích hoạt tự phát sớm của quá trình chuyển
dạ bình thường hoặc kết quả của các chấn thương bệnh lý. Vai trò đối với thai
nhi trong việc xác định thời gian của sự khởi đầu của chuyển dạ đã được đưa ra
trên cơ sở các nghiên cứu ở cừu [10]. Cắt bỏ tuyến yên hoặc tuyến thượng thận
thai nhi, hoặc cả hai, ngăn cản sự khởi đầu của quá trình chuyển dạ, do đó
cortisol thai nhi là trung tâm khởi phát chuyển dạ ở cừu. Cơ chế tương tự có thể
liên quan đến quá trình sinh đẻ ở phụ nữ, như đề xuất các báo cáo về những thai

kỳ kéo dài với một bào thai vô sọ [11]. Các học thuyết được đề xuất để giải thích
sự khởi phát đẻ non: (1) sự sụt giảm progesterone, (2) sự gia tăng của oxytocin,
và (3) sự kích hoạt màng rụng. Lý thuyết về sự sụt giảm progesterone bắt nguồn
từ nghiên cứu ở cừu [10,12]. Khi quá trình chuyển dạ sắp xảy ra, trục thai nhiSVTH: Lê hoàng Huyền Trang

GVHD: TS. Đỗ Minh Trung
6


Khóa luận tốt nghiệp

Viện Đại học Mở Hà Nội

thượng thận trở nên nhạy cảm với hormon vỏ thượng thận, tăng tiết cortisol.
Cortisol thai nhi kích thích 17α-hydroxylase nhau thai hoạt hóa, làm giảm bài tiết
progesterone và làm tăng sản xuất estrogen. Sự đảo ngược trong các kết quả tỷ lệ
estrogen/progesterone tăng tạo thành prostaglandin, bắt đầu một chuỗi các sự
kiện lên đến đỉnh điểm trong chuyển dạ.Trong cơ thể người, nồng độ
progesterone huyết thanh không giảm khi chuyển dạ [12]. Tuy nhiên, vì các
thuốc đối kháng progesterone như RU486 khởi động qua trình đẻ non và các tác
nhân của giai đoạn progesterone ngăn ngừa đẻ non, giảm nồng độ progesterone
địa phương hoặc số lượng các thụ thể, là một cơ chế chính khởi phát quá trình
chuyển dạ [12,13,14]. Do tiêm oxytocin tĩnh mạch làm tăng tần số và cường độ
của các cơn co thắt tử cung, một giả thuyết cho rằng oxytocin đóng vai trò trong
khởi phát chuyển dạ. Tuy nhiên, nồng độ oxytocin trong máu không tăng trước
khi chuyển dạ và độ thanh thải của oxytocin vẫn không đổi, do đó oxytocin
không làm khởi phát chuyển dạ.
Một con đường quan trọng dẫn đến khởi phát chuyển dạ liên quan đến
kích hoạt viêm màng rụng. Mặc dù vào giai đoạn đó, màng rụng kích hoạt có vẻ
là ít ảnh hưởng nhất trong thành phần hệ thống ức chế thai màng rụng (có thể

thông qua đó giảm nồng độ progesterone địa phương), trong nhiều trường hợp
dọa đẻ non sớm, màng rụng kích hoạt nảy sinh trong trong bối cảnh chảy máu
trong tử cung hoặc nhiễm trùng trong tử cung tiềm ẩn.
1.3. Một số yếu tố nguy cơ của đẻ non
Theo thống kê chung, khoảng 50% số trường hợp đẻ non không rõ nguyên
nhân và yếu tố nguy cơ gây ra. Những trường hợp xác định được bao gồm các
nguyên nhân, yếu tố như: mẹ bị hở eo tử cung, mẹ có tiền căn sản giật nặng, tử
SVTH: Lê hoàng Huyền Trang

GVHD: TS. Đỗ Minh Trung
7


Khóa luận tốt nghiệp

Viện Đại học Mở Hà Nội

cung dị dạng, đa thai, nhiễm trùng ối. Ngoài ra, còn có các yếu tố khác như: tuổi
thai phụ, tiền sử đẻ non, tình trạng kinh tế gia đình, cân nặng của mẹ, mắc bệnh
đái tháo đường, nghề nghiệp, điều kiện làm việc... Theo nghiên cứu của các nước
châu Âu, đẻ non có liên quan đến điều kiện làm việc ở những phụ nữ mang thai
sau: có thời gian làm việc quá 42 giờ trong tuần, công việc phải đứng nhiều (trên
6 giờ mỗi ngày), thai phụ không hài lòng với công việc của mình, công việc đòi
hỏi về thể lực...
Đẻ non được cho là một hội chứng khởi phát bởi nhiều cơ chế, bao gồm
nhiễm trùng hoặc viêm, thiếu máu cục bộ tuần hoàn tử cung - rau hoặc xuất
huyết, tử cung căng phồng quá mức, căng thẳng, và các quá trình miễn dịch qua
trung gian khác [22,24]. Không thể thiết lập một cơ chế chính xác cho hầu hết
các trường hợp; bởi vậy, có nhiều yếu tố nguy cơ liên quan đến đẻ non, nhưng
không có quan hệ nhân quả rõ ràng, được đưa ra để cố gắng giải thích nguyên

nhân đẻ non. Số lượng ngày càng tăng các yếu tố nguy cơ được nghĩ tới là
nguyên nhân chuyển tử cung từ trạng thái yên lặng sang đẻ non hoặc đẻ non tự
phát với ối vỡ sớm. Có rất nhiều yếu tố nguy cơ là kết quả của quá trình tăng lên
của viêm hệ thống, sự kích thích của quá trình nhiễm khuẩn hoặc sự viêm nhiễm
giải thích phần nào sự gia tăng của đẻ non liên quan tới nhiều yếu tố nguy cơ
[Error! Reference source not found.]. Xác định yếu tố nguy cơ dự đoán đẻ non
là một mục tiêu hợp lý vì nhiều lý do. Đầu tiên, xác định các phụ nữ có nguy cơ
cho phép bắt đầu điều trị nguy cơ cụ thể [Error! Reference source not found.].
Thứ hai, các yếu tố nguy cơ có thể xác định một quần thể hữu ích cho nghiên
cứu can thiệp cụ thể. Cuối cùng, xác định các yếu tố nguy cơ có thể cung cấp
những hiểu biết quan trọng về cơ chế dẫn đến đẻ non. Có nhiều đặc điểm của mẹ
SVTH: Lê hoàng Huyền Trang

GVHD: TS. Đỗ Minh Trung
8


Khóa luận tốt nghiệp

Viện Đại học Mở Hà Nội

hoặc thai nhi có liên quan với đẻ non, bao gồm các đặc điểm dân số của mẹ, tình
trạng dinh dưỡng, lịch sử mang thai, đặc điểm mang thai hiện nay, đặc điểm tâm
lý, hành vi bất lợi, nhiễm trùng, các cơn co thắt tử cung và chiều dài cổ tử cung,
và marker sinh học và di truyền [23].
Yếu tố nguy cơ về phía mẹ
Ở Mỹ và ở Anh, phụ nữ được phân loại là người da đen, người Mỹ gốc
Phi và người gốc Phi-Caribê luôn có nguy cơ đẻ non cao hơn: tỷ lệ đẻ non phụ
nữ da đen trong khoảng từ 16%-18% so với 5%-9% đối với phụ nữ da trắng. Phụ
nữ da đen có nhiều khả năng đẻ non tháng rất sớm gấp 3-4 lần hơn so với phụ nữ

từ các nhóm chủng tộc hoặc dân tộc khác [Error! Reference source not
found.,Error! Reference source not found.]. Một phần của sự khác biệt trong
tỷ lệ đẻ non giữa Mỹ và các nước khác có thể được giải thích bởi tỷ lệ đẻ non
trong dân số Mỹ da đen. Theo thời gian, sự chênh lệch về tỷ lệ đẻ non giữa phụ
nữ da đen và trắng vẫn phần lớn không thay đổi và không giải thích được, góp
phần vào một chu kỳ bất lợi sinh sản với hậu quả sâu rộng đến xã hội và y tế
[Error! Reference source not found.]. Phụ nữ Đông Á và gốc Tây Ban Nha
thường có tỷ lệ sinh non thấp. Phụ nữ từ Nam Á, bao gồm cả tiểu lục địa Ấn Độ,
có tỷ lệ đẻ non cao, trọng lượng thai nhi lúc sinh thấp gây ra sự kém phát triển
của thai nhi, nhưng tỷ lệ đẻ non dường như không tăng đáng kể. Các đặc điểm
dân số khác của mẹ có liên quan với đẻ non bao gồm tình trạng kinh tế xã hội và
giáo dục, độ tuổi mẹ quá thấp và cao, tình trạng bà mẹ đơn thân. Các cơ chế gây
đẻ non liên quan đến các đặc điểm dân số của mẹ cũng chưa được rõ ràng [25].
Nghiên cứu quan sát các loại công việc và hoạt động thể chất liên quan
đến đẻ non đã tạo ra những kết quả mâu thuẫn nhau [26]. Điều tra nguy cơ liên
SVTH: Lê hoàng Huyền Trang

GVHD: TS. Đỗ Minh Trung
9


Khóa luận tốt nghiệp

Viện Đại học Mở Hà Nội

quan đến công việc khó thực hiện bởi các yếu tố gây nhiễu; tuy nhiên, sau khi
tính toán cho sự khác biệt dân số, làm việc nhiều giờ và lao động thể chất nặng
nhọc trong điều kiện căng thẳng có thể liên quan với sự gia tăng đẻ non. Mức độ
hoạt động thể chất không liên quan đến tỷ lệ đẻ non. Tuy có sự khác biệt về đặc
điểm dân số, xã hội, hoặc kinh tế, không có bảo hiểm y tế, không có một mạng

lưới mạnh mẽ hỗ trợ an sinh kinh tế và xã hội nhưng sự chênh lệch về tỷ lệ đẻ
non giữa Mỹ và các nước phát triển khác là không rõ ràng. Ngưỡng giới hạn tuổi
thai để xác định đẻ non thấp hơn được sử dụng ở Mỹ có thể giải thích một phần
của sự khác biệt trong tỷ lệ đẻ non. Một điều rõ ràng là trong nhiều nhóm người
nhập cư Mỹ có thời gian sống càng dài ở Mỹ thì tỷ lệ đẻ non càng cao nhưng
chưa có lý giải cho phát hiện này.
Một nguy cơ làm tỷ lệ đẻ non tăng lên là đẻ non phát sinh do mang thai
quá gần lần mang thai trước đó. Thời gian giữa các lần mang thai ít hơn 6 tháng
sẽ làm tăng gấp đôi nguy cơ đẻ non sau khi hiệu chỉnh các biến nhiễu [31]. Hơn
thế, phụ nữ có lần sinh đầu là đẻ non có khoảng thời gian giữa các lần mang thai
ngắn hơn so với phụ nữ đã có lần sinh đầu tiên là sinh thường làm nguy cơ đẻ
non trầm trọng hơn. Mặc dù cơ chế này là chưa rõ ràng, có thể giải thích do tử
cung cần có thời gian để trở về trạng thái bình thường, bao gồm phục hồi tình
trạng viêm liên quan đến lần sinh trước. Tình trạng cạn kiệt của người mẹ có thể
là một nguyên nhân vì mang thai tiêu tốn rất nhiều các vitamin, khoáng chất và
các axit amin dự trữ của người mẹ. Khoảng cách các lần mang thai ngắn làm
giảm cơ hội bổ sung chất dinh dưỡng. Tình trạng dinh dưỡng trong thai kỳ có thể
được mô tả bởi các chỉ số về kích thước cơ thể như chỉ số khối cơ thể (BMI), chế
độ dinh dưỡng và các chất được phân tích trong huyết thanh [25]. Ví dụ: chỉ số
SVTH: Lê hoàng Huyền Trang

GVHD: TS. Đỗ Minh Trung
10


Khóa luận tốt nghiệp

Viện Đại học Mở Hà Nội

BMI của mẹ trước khi mang thai thấp có liên quan với nguy cơ cao đẻ non tự

phát, trong khi béo phì có thể có tác dụng bảo vệ [28]. Phụ nữ có nồng độ thấp
sắt, folate, kẽm trong máu có nhiều nguy cơ đẻ non hơn những sản phụ có các
giá trị này trong giới hạn bình thường [27]. Có nhiều cơ chế mà tình trạng dinh
dưỡng của mẹ có thể ảnh hưởng đến đẻ non như: đẻ non tự phát có thể xảy ra khi
mẹ gầy, liên quan đến thể tích máu giảm và làm giảm lưu lượng máu qua tử cung
[28]. Phụ nữ gầy tiêu thụ nhiều vitamin và khoáng chất hơn, nồng độ thấp các
chất liên quan đến giảm lưu lượng máu và tăng nguy cơ nhiễm khuẩn của mẹ
[29]. Phụ nữ béo phì có nhiều khả năng sinh những đữa trẻ có dị tật bẩm sinh
(khuyết tật ống thần kinh) [30]. Phụ nữ béo phì dễ bị tiền sản giật và tiểu đường
gây biến chứng đẻ non.

Hình 1.1. Các nguy cơ đẻ non.
Tiền sử sản khoa

SVTH: Lê hoàng Huyền Trang

GVHD: TS. Đỗ Minh Trung
11


Khóa luận tốt nghiệp

Viện Đại học Mở Hà Nội

Nguy cơ tái phát đẻ non khoảng 15%-50% phụ thuộc vào số lượng và tuổi
thai của những lần đẻ trước. Mercer và cộng sự thấy rằng với phụ nữ có tiền sử
đẻ non trước đó có nguy cơ đẻ non tăng 2,5 lần trong lần mang thai tiếp theo của
họ. Nguy cơ đẻ non tỉ lệ nghịch với tuổi thai của lần đẻ non trước. Cơ chế của sự
tái phát không rõ ràng, phụ nữ đẻ non tự phát nhiều khả năng đẻ non tự phát ở
lần mang thai kế tiếp, những phụ nữ được chỉ định đẻ non cũng luôn có xu

hướng lặp lại như lần sinh trước. Nhiễm khuẩn tử cung kéo dài dai dẳng hoặc tái
phát giải thích cho việc lặp đi lặp lại nhiều lần đẻ non tự phát. Các rối loạn tiềm
ẩn gây chỉ định đẻ non như tăng huyết áp, tiểu đường, béo phì… thường xuyên
kéo dài giữa các thai kỳ [32,33].
Những đặc điểm khi mang thai
Đa thai chiếm 2-3% số thai kỳ và là nguy cơ đáng kể gây đẻ non, chiếm
15-20% các ca đẻ non. Gần 60% các cặp song sinh là đẻ non. Khoảng 40% các
cặp song sinh có đẻ non tự phát hoặc đẻ non tự phát với ối vỡ sớm trước 37 tuần.
Những trường hợp khác có chỉ định đẻ non do tiền sản giật, do các rối loạn khác
của mẹ hoặc thai nhi. Trong đa thai tử cung căng quá mức dẫn đến các cơn co tử
cung và vỡ ối sớm gây tăng tỷ lệ đẻ non tự phát [34].
Chảy máu âm đạo do bởi rau bong non, rau tiền đạo là nguy cơ cao gây đẻ
non. Tuy nhiên chảy máu trong 3 tháng đầu và 3 tháng giữa thai kỳ không liên
quan đến rau bong non hoặc rau thai tiền đạo mà thường liên quan với các lần đẻ
non kế tiếp sau đó [35]. Thể tích ối: đa ối hoặc thiểu ối có liên quan với đẻ non
và đẻ non tự phát với ối vỡ sớm. Phẫu thuật bụng ở thai phụ trong 3 tháng giữa
và 3 tháng cuối thai kỳ có thể kích thích các cơn co mà đỉnh cao là đẻ non.
Người mẹ có rối loạn bệnh lý: bệnh tuyến giáp, hen suyễn, tiểu đường và cao
SVTH: Lê hoàng Huyền Trang

GVHD: TS. Đỗ Minh Trung
12


Khóa luận tốt nghiệp

Viện Đại học Mở Hà Nội

huyết áp… làm tăng tỷ lệ đẻ non, nhiều người trong số đó được chỉ định đình chỉ
thai kỳ bởi các biến chứng của mẹ. Tiền sử sinh thiết cổ tử cung hoặc khoét chóp

cổ tử cung bằng đốt điện điều trị các rối loạn tiền ác tính cổ tử cung cũng liên
quan đến sự gia tăng đẻ non tự phát. Bất thường của chính tử cung: vách ngăn
buồng tử cung [36], tử cung hình ống, hình tim, tử cung nhi dạng… đều là nguy
cơ đẻ non. Các bà mẹ trải căng thẳng tâm lý nguy cơ đẻ non tăng (thường > 2
lần), ngay cả sau khi đã điều chỉnh những ảnh hưởng của dân số - xã hội, yếu tố
nguy cơ bệnh và các hành vi có nguy cơ [37]. Sự tiếp xúc với điều kiện khách
quan căng thẳng, như sự bất ổn định về nhà ở và vật chất khó khăn nghiêm trọng
cũng liên quan tới đẻ non [38]. Mặc dù cơ chế tiềm ẩn giải thích mối liên hệ giữa
căng thẳng tâm lý hoặc xã hội gây tăng nguy cơ đẻ non là không rõ ràng, vai trò
của hormone giải phóng corticol đã được đề xuất [39,40]. Phụ nữ tiếp xúc với
điều kiện căng thẳng xuất hiện sự gia tăng nồng độ của các dấu hiệu viêm trong
huyết thanh như protein C phản ứng… tạo thành quá trình viêm [41,42]. Những
phát hiện này cho rằng hệ thống viêm có thể là một con đường mà căng thẳng có
thể làm tăng nguy cơ đẻ non. Một nghiên cứu lâm sàng trong thai kỳ cho thấy có
16% phụ nữ mang thai có triệu chứng trầm cảm [43]. Dù không rõ ràng nhưng
đã thấy có mối liên hệ (nguy cơ tăng 2 lần) giữa trầm cảm và đẻ non. Trầm cảm
có liên quan với sự gia tăng sử dụng thuốc lá, ma túy và rượu, do đó, mối quan
hệ giữa trầm cảm và đẻ non có thể được giải thích qua trung gian những hành vi
này [44,45]. Trong một số nghiên cứu điều chỉnh cho hút thuốc lá, ma túy và sử
dụng rượu, sự liên quan giữa trầm cảm và đẻ non tiếp tục tồn tại, cho thấy mối
quan hệ này còn được gây ra bởi nhiều yếu tố khác nữa. Mặc dù, các cơ chế tiềm
ẩn giải thích mối liên quan giữa trầm cảm và đẻ non chưa rõ ràng, nhưng có mối
SVTH: Lê hoàng Huyền Trang

GVHD: TS. Đỗ Minh Trung
13


Khóa luận tốt nghiệp


Viện Đại học Mở Hà Nội

liên quan giữa trạng thái trầm cảm và sự giảm hoạt động các tế bào giết tự nhiên
(tế bào NK), và sự tăng cao các cytokine viêm và các thụ thể của nó [41]. Viêm,
do đó, có thể cũng là một phần trung gian mối liên hệ giữa trầm cảm và đẻ non.
Tại Mỹ, khoảng 20-25% phụ nữ mang thai hút thuốc lá và trong số này 12-15%
tiếp tục hút trong suốt thai kỳ [44]. Sử dụng thuốc lá làm tăng nguy cơ đẻ non (2
lần). Trong số hơn 3.000 chất hóa học trong khói thuốc lá và những tác động
sinh học của hầu hết các chất này chưa được biết. Tuy nhiên, chỉ riêng nicotine
và carbon monoxide là 2 tác nhân co mạch mạnh mẽ và có liên quan với tổn
thương rau thai và giảm tuần hoàn tử cung rau dẫn đến hạn chế tăng trưởng bào
thai và đẻ non theo chỉ định. Hút thuốc cũng liên quan với một hệ thống phản
ứng viêm và có thể gia tăng đẻ non tự phát thông qua con đường đó. Nghiện
rượu nặng có liên quan với đẻ non và được coi như là một yếu tố nguy cơ đẻ
non. Sử dụng cocaine và heroin liên quan với đẻ non ở một số nghiên cứu.
Nhiễm khuẩn tử cung là một cơ chế thường xuyên và quan trọng dẫn đến đẻ non
[46]. Các cơ chế nhiễm trùng trong tử cung dẫn đến đẻ non có liên quan để kích
hoạt hệ thống miễn dịch bẩm sinh [47,48]. Vi sinh vật được nhận diện bởi các
thụ thể nhận diện mẫu ví dụ như các thụ thể tiếp nhận, từ đó suy ra mức giải
phóng các chemokine và cytokine viêm, chẳng hạn như interleukin 8, interleukin
1β và yếu tố hoại tử khối u (TNF) α. Nội độc tố vi sinh vật và các cytokine tiền
viêm kích thích sự sản xuất prostaglandin, các chất trung gian hóa học viêm và
làm giảm enzym kết dính. Prostaglandins kích thích co bóp tử cung, trong khi sự
suy thoái của chất nền ngoại bào trong màng ối bào thai dẫn đến đẻ non tự phát
với ối vỡ sớm [49,50]. Nghiên cứu về lĩnh vực vi sinh vật cho thấy nhiễm trùng
trong tử cung có thể chiếm 25-40% số ca đẻ non, tuy nhiên, 25-40% có thể là chỉ
SVTH: Lê hoàng Huyền Trang

GVHD: TS. Đỗ Minh Trung
14



Khóa luận tốt nghiệp

Viện Đại học Mở Hà Nội

là một ước tính tối thiểu vì nhiễm trùng trong tử cung khó phát hiện với kỹ thuật
nuôi thông thường [51]. Một số nghiên cứu đã xác định các dấu ấn của vi sinh
vật trong khoang ối bằng cách sử dụng các kỹ thuật vi sinh phân tử [24]. Ví dụ,
những thai phụ có kết quả dương tính với Ureaplasma urealyticum PCR, nhưng
nuôi cấy âm tính có tỷ lệ đẻ non tương tự phụ nữ với nuôi cấy dương tính với
cùng loại vi sinh vật. Hơn nữa, tỷ lệ nhiễm khuẩn màng ối tăng gấp đôi khi thấy
vi khuẩn trong khoang ối [50]. Nhiều bằng chứng cho thấy nhiễm khuẩn ối là
một quá trình mãn tính [46].
Phụ nữ dương tính với U. urealyticum trong nuôi cấy nước ối hoặc PCR
dương tính với U. urealyticum vào ba tháng giữa của thai kỳ, nếu chọc ối xác
định gen thường gây đẻ non tự phát hoặc đẻ non tự phát với ối vỡ sớm vào
những tuần sau khi làm thủ thuật [50]. Điều quan trọng ở những phụ nữ đẻ non
nếu tuổi thai càng nhỏ thì tần suất nhiễm khuẩn tử cung càng cao. Ở tuổi thai 2124 tuần hầu hết đẻ non tự phát liên quan đến nhiễm khuẩn màng ối so sánh với
khoảng 10% đẻ non tự phát liên quan đến nhiễm khuẩn ở tuổi thai 35-36 tuần
[40]. Các vi sinh vật phổ biến nhất được báo cáo trong khoang ối là Mycoplasma
spp sinh dục và đặc biệt là U. urealyticum… nhiều vi khuẩn khác cũng đã được
xác định [41]. Một số vi sinh vật ít phổ biến ở đường sinh dục, như
Streptococcus agalactiae, hiếm thấy trong khoang ối trước khi vỡ màng ối [46].
Các vi khuẩn Mycoplasma sinh dục và các vi sinh vật khác phát hiện trong tử
cung trước khi vỡ màng ối thường có độc tính thấp, có thể do nhiễm trùng mạn
tính trong tử cung và không có các dấu hiệu lâm sàng của nhiễm trùng [52].
Nhiễm trùng trong tử cung có thể được hạn chế trong màng rụng rồi qua khoảng
trống giữa các màng ối và màng đệm đi tới khoang ối và thai nhi [46]. Khoang ối
SVTH: Lê hoàng Huyền Trang


GVHD: TS. Đỗ Minh Trung
15


Khóa luận tốt nghiệp

Viện Đại học Mở Hà Nội

thường vô trùng, ảnh hưởng của vi sinh vật trong màng ối ít rõ ràng hơn. Một
nghiên cứu đã xác định các vi khuẩn được nuôi cấy từ màng ối trong 15% phụ
nữ chưa chuyển dạ với các màng còn nguyên vẹn trải qua chỉ định mổ sinh [46].
Huỳnh quang tại chỗ lai với một đầu dò DNA xác định cho bảo toàn vùng DNA
của vi khuẩn (16S ribosome RNA) phát hiện vi khuẩn trong các màng ở 70%
phụ nữ trải qua mổ lấy thai tự nguyện trong thai kỳ [53]. Những phát hiện này
cho thấy sự hiện diện của vi khuẩn trong màng ối đơn thuần không đủ để gây ra
phản ứng viêm, không đủ gây chuyển dạ tự phát và đẻ non [54]. Tuy nhiên, vi
khuẩn trong màng ối và phản ứng viêm liên quan trong nước ối đã được xác định
trong hơn 80% phụ nữ chuyển dạ tự phát sớm với màng ối còn nguyên, những
người trải qua mổ lấy thai [55]. Vì vậy, nhiễm khuẩn có thể dẫn đến đẻ non. Vi
sinh vật có thể được xâm nhập vào khoang ối bằng cách: (1) từ âm đạo và cổ tử
cung (2) qua đường máu thông qua nhau thai (3) thông qua các thủ thuật xâm
lấn, và (4) bằng cách lan truyền ngược thông qua ống dẫn trứng [46]. Con đường
phổ biến nhất là con đường đi từ âm đạo. Hầu hết các nhà nghiên cứu tin rằng,
nhiễm khuẩn từ dưới đi lên xảy ra trong quí 2 của thai kỳ, nhưng chưa rõ ở thời
điềm nào, một số phụ nữ có viêm nội mạc tử cung không có triệu chứng trước
khi mang thai [56]. Có giả thuyết quá trình viêm dễ xảy ra khi màng ối tiến sát
tới màng rụng ở tuổi thai 20 tuần, viêm là yếu tố có thể tạo thành áp-xe, làm cho
thai phụ nhiễm khuẩn biểu hiện ra triệu chứng và bắt đầu quá trình đẻ non sớm [57].
Giai đoạn quan trọng của nhiễm trùng trong tử cung tăng dần là nhiễm

trùng bào thai. Rose-Marie Holst và cộng sự [58] báo cáo nhiễm khuẩn thai chiếm
33% khi nuôi cấy nước ối dương tính so với 4% với nuôi cấy nước ối âm tính.
Trong một nghiên cứu khác, các loài mycoplasma sinh dục đã được phát hiện
SVTH: Lê hoàng Huyền Trang

GVHD: TS. Đỗ Minh Trung
16


Khóa luận tốt nghiệp

Viện Đại học Mở Hà Nội

trong 23% nuôi cấy dây rốn trẻ sơ sinh sinh ở tuổi thai dưới 32 tuần [59]. Cả hai
nghiên cứu cho thấy nhiễm trùng bào thai cận lâm sàng phổ biến hơn so với
truyền thống được công nhận. Vi sinh vật xâm nhập khoang ối thường gây nhiễm
khuẩn ối và nhiễm khuẩn thai nhi [60]. Phản ứng viêm của thai nhi có liên quan
đến sự khởi đầu của đẻ non, tổn thương thai và tàn tật, bao gồm cả hoại tử chất
trắng, bại não, và bệnh phổi mãn tính [61]. Nhiễm khuẩn âm đạo, một rối loạn
được xác định bởi sự thay đổi hệ sinh thái vi khuẩn của âm đạo được chẩn đoán
lâm sàng bởi sự hiện diện của các tế bào manh mối, pH âm đạo > 4.5, khí hư
màu trắng nhiều và có mùi tanh cá khi dịch âm đạo tiếp xúc với kali hydroxide
[22]. Trong phòng thí nghiệm, viêm âm đạo do vi khuẩn được xác định theo các
tiêu chí Nugent trong đó gam màu smears được ghi trên cơ sở số lượng
Lactobacilli có xu hướng thấp và sự hiện diện của các sinh vật tương tự như
Mobiluncus và Bacteroides có xu hướng tăng cao [62]. Một điểm số 7-10 được
sử dụng để chẩn đoán viêm âm đạo và có liên quan với sự tăng 1,5-3 lần tỷ lệ đẻ
non [63]. Phụ nữ da đen Mỹ và Anh bị viêm âm đạo do vi khuẩn gấp 3 lần phụ
nữ da trắng điều này giải thích các phụ nữ da đen đẻ non cao 50% so với da
trắng [65]. Cơ chế nhiễm khuẩn âm đạo có liên quan với đẻ non có thể do vi sinh

vật từ âm đạo xâm nhập gây nhiễm trùng tử cung trước khi hoặc trong khi mang
thai [66].
Những nhiễm khuẩn sinh dục khác liên quan đến đẻ non là khá rõ ràng
[63]. Đối với nhiều loại nhiễm khuẩn, nhiều nghiên cứu đã được công bố, từ ít có
liên quan đến liên quan chặt chẽ với đẻ non. Phụ nữ nhiễm khuẩn sinh dục
thường có các yếu tố nguy cơ khác và nhiều nghiên cứu đã không xem xét các
biến nhiễu. Tuy nhiên, nhiễm Trichomonas liên quan với đẻ non với nguy cơ
SVTH: Lê hoàng Huyền Trang

GVHD: TS. Đỗ Minh Trung
17


Khóa luận tốt nghiệp

Viện Đại học Mở Hà Nội

tương đối khoảng 1-3 [67]. Chlamydia liên quan với đẻ non trong sự hiện diện
của một phản ứng miễn dịch của mẹ và hầu hết có lẽ với một RR khoảng 2 [68].
Bệnh giang mai và bệnh lậu liên quan với đẻ non với một RR khoảng 2 [57].
Liên cầu nhóm B, U urealyticum và colonisations M hominus làm tăng nguy cơ
đẻ non. Một số bệnh nhiễm trùng đường niêu-sinh dục (như viêm bể thận không
có triệu chứng nhiễm trùng), viêm phổi và viêm ruột thừa có thể dẫn đến đẻ non
[66]. Một số nghiên cứu về bệnh nha chu cho thấy tăng nguy cơ nhiễm khuẩn và
đẻ non do các vi sinh vật có ở kẽ hở nướu qua máu và rau thai làm tử cung bị
nhiễm trùng [69]. Tuy nhiên trong 1 nghiên cứu khác, bệnh nha chu được cho là
không liên quan đến tăng vi khuẩn trong tử cung hoặc nhiễm khuẩn ối [70]. Các
con đường sinh học cơ bản về mối quan hệ giữa bệnh nha chu và đẻ non vẫn còn
chưa được hiểu biết rõ ràng.


Hình 1.2. Các nguy cơ đẻ non khi mang thai.

SVTH: Lê hoàng Huyền Trang

GVHD: TS. Đỗ Minh Trung
18


Khóa luận tốt nghiệp

Viện Đại học Mở Hà Nội

So với nhiễm khuẩn, có ít bằng chứng cho thấy nhiễm virus dẫn đến đẻ
non. Tuy nhiên, khi thai phụ nhiễm vi rút nặng, chẳng hạn Varicella gây viêm
phổi hoặc hội chứng hô hấp cấp tính nặng có thể gây ra đẻ non [71]. Trong một
số nghiên cứu chẩn đoán nhiễm vi rút không triệu chứng dựa trên xét nghiệm
DNA virus bằng kỹ thuật PCR trong dịch ối cho thấy ít có liên quan đến đẻ non.
Dường như nhiễm virus mẹ đóng vai trò quan trọng liên quan đến đẻ non, nhưng
vấn đề này còn nhiều ý kiến khác nhau và cần tiếp tục nghiên cứu [72].
Một số nghiên cứu đã chỉ ra mối liên quan giữa tần số co bóp tử cung và
đẻ non [73]. Tuy nhiên, các cơn co tử cung không là tiêu chí dự đoán đẻ non ở
phụ nữ đơn thai vì sự khác biệt là không rõ rệt trong tần số co bóp tử cung của
thai kỳ bình thường và thai phụ đẻ non [74]. McGregor và các cộng sự [57] báo
cáo kết quả tương tự khi nghiên cứu ở các cặp song sinh.
Khi chuyển dạ, cổ tử cung rút ngắn, mềm, ngả trước và xóa. Siêu âm kiểm
tra cổ tử cung đã chỉ ra cổ tử cung rút ngắn là một yếu tố nguy cơ đẻ non [15].
Siêu âm hữu ích trong hai trường hợp: đầu tiên là ở thai phụ không có triệu
chứng, thứ hai là những người xuất hiện các cơn co thắt. Với thai phụ không có
triệu chứng, ở tuần thai 24, chiều dài cổ tử cung < 25 mm xác định nguy cơ tăng
của đẻ non. Cổ tử cung càng ngắn, nguy cơ đẻ non càng cao [15]. Phụ nữ với các

cơn co thắt sớm thường có bệnh cảnh lâm sàng khá phức tạp: 60% phụ nữ số này
không cần điều trị, vẫn sinh đủ tháng. Những thai phụ này thường được theo dõi
trong vài giờ trước khi bắt đầu điều trị thuốc giảm co, corticosteroid hoặc cho
bệnh nhân xuất viện. Chiều dài cổ tử cung khác biệt rõ rệt giữa phụ nữ không
chuyển dạ và những người mang nguy cơ sinh sớm. Với chiều dài cổ tử cung lớn

SVTH: Lê hoàng Huyền Trang

GVHD: TS. Đỗ Minh Trung
19


×