Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

tình yêu thiên nhiên trong thơ văn của nguyễn trãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.9 KB, 16 trang )

Tên Sinh viên: Nguyễn Thị Vy
Lớp văn 1B

Trường đại học sư phạm Huế

Nguyễn Thị Vy
Văn 1B.
Đề tài: Tình yêu thiên nhiên trong thơ của Nguyễn Trãi .
I.

Đặt vấn đề

Muốn hiểu Nguyễn Trãi, nếu như ta chỉ đọc “Bình ngơ đại cáo”, “Thư dụ
Vương Thông lần nữa”, “Hạ quy Lam Sơn”… thì dường như ta chỉ thấy được tác
giả là một bậc quân sư, một nhà chính trị kiệt xuất trên vũ đài chính trị; cịn để
có cái nhìn tồn diện hơn về vị anh hùng, có lẽ phải đặt con người ấy trong
chính nhịp đập của cuộc sống đời thường, trong những tứ thơ viết về thiên
nhiên với mn hình muôn vẻ của ông… ở thể loại này, thơ ông mới thực sự
đúng với con người thật của vị quân sư họ Nguyễn.
II.

Giải quyết vấn đề

Có thể nói thơ viết về thiên nhiên của các nhà thơ xưa bao giờ cùng có cả
cảnh lẫn tình. Nhưng tình và cảnh trong thơ Nguyễn Trãi nếu ta chỉ biết áp đặt
vào cái cơng thức “vịnh cảnh ngụ tình” một cách máy móc thì có lẽ thơ ơng đã
bị cuốn phăng theo dịng thời gian cùng với vô số tác phẩm của các nhà thơ
thời ấy từ mấy trăm năm trước rồi. Cái đáng nói, đáng quý ở đây là tuy nằm
trong hệ thống văn chương qui phạm nhưng Nguyễn Trãi phần nào thốt khỏi
quỹ đạo của nó bằng chính cái tình của mình. Cái tình ấy đạt đến cái thật, cái
thiết tha trong sáng đến nỗi một khi đọc thơ ông, ta khó lịng qn được.


Nhưng đó là cái tình như thế nào, nguyên nhân nào đã buộc thơ ông neo lại với
lịng người suốt sáu trăm năm? Phải chăng đó là tư tưởng nhân nghĩa gắn liền
một khối với lòng yêu nước, thương dân tha thiết, sâu đậm bên cạnh cái chất
phong tình, đa cảm sẵn có trong con người Ức Trai?

Nguyễn Trãi (1380 – 1442), tự là Ức Trai - một nhân tài kiệt xuất trong lịch sử
nước ta, văn võ song tồn. Nói riêng thơ văn ơng, một trong những nội dung
nổi bật là tình yêu thiên nhiên say đắm, nồng nàn của bậc hiền nhân.


Tên Sinh viên: Nguyễn Thị Vy
Lớp văn 1B

Trường đại học sư phạm Huế

Thơ viết về thiên nhiên của Ức Trai chiếm phần lớn và cũng là những bài
thơ hay nhất trong hai tập thơ của ơng. Ơng đã biểu hiện thiên nhiên ấy với
nhiều màu sắc, đường nét, âm thanh. Thiên nhiên ấy mang hồn người, mang
tư tưởng, tình cảm của nhà thơ.

Hãy xem phong cảnh của vùng núi Vân Đồn (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh):

Lộ nhập Vân Đồn sơn phục sơn,
Thiên khơi địa thiết phó kỳ quan.
Nhất bàn lam bích trừng minh kính,
Vạn hộc nha thanh đỏa th hồn.
Vũ trụ đốn thanh trần hải nhạc,
Phong ba bất động thiết tâm can.
Vọng trung ngạn thảo thê thê lục,
Đạo thị phiên nhân trú an.


(Vân Đồn)

Dịch nghĩa:

Đường vào Vân Đồn núi non trùng điệp
Trời đất cao rộng rõ là cảnh diệu kỳ
Cả một mặt phẳng màu xanh biếc, nước trong như gương sáng
Hàng vạn ơ màu huyền xanh như mái tóc rũ


Tên Sinh viên: Nguyễn Thị Vy
Lớp văn 1B

Trường đại học sư phạm Huế

Vũ trụ bỗng thể hiện rõ ràng qua dáng núi và biển
Sóng gió chẳng lay chuyển được tâm can vững chắc
Nhìn vào thấy bờ cỏ màu lục xanh dờn
Thấy nói người thiểu số xưa từng đỗ thuyền trong vịnh.

Thiên nhiên thấm đẫm cảm xúc, tâm hồn thi nhân Nguyễn Trãi. Thiên
nhiên nước ta, qua con mắt nhà thơ Nguyễn Trãi, hiện lên rất đa dạng, sinh
động, có sức sống riêng. Đứng trước một cảnh vật, từ những cảnh tượng hùng
vĩ như Vân Đồn, cửa bể Bạch Đằng, cửa bể Thần Phù, đến những cảnh bình dị
như một ánh trăng, một buổi chợ, một bông hoa nở, một nõn chuối, một luống
mồng tơi, hay một tiếng chim kêu,... tất cả đều gợi lên trong tâm tưởng Ức Trai
những tứ thơ mênh mông, lai láng, những khoảnh khắc say sưa, nồng nhiệt.
Thật đúng là Nguyễn Trãi đã có một mối tình với thiên nhiên, như ơng viết:


Non nước cùng ta đã có nên áng kỳ quan
Một mâm lam biếc, (nước) lắng tấm gương trong
Muôn hộc đen xanh, (núi) bỏ xõa mái tóc màu thúy.
Cịn đây là những nét phác họa hết sức tài tình về vẻ đẹp hùng vĩ của cửa
bể Bạch Đằng – nơi diễn ra những chiến thắng vang dội của Ngô Quyền chống
quân Nam Hán và Trần Hưng Đạo đánh tan giặc Ngun - Mơng:

Gió bấc thổi mặt biển, thế nước lên cuồn cuộn
Giương cánh buồm thơ nhè nhẹ lướt qua sông Bạch Đằng
Như cá sấu bị chặt, cá kình bị phanh, núi uốn quanh co


Tên Sinh viên: Nguyễn Thị Vy
Lớp văn 1B

Trường đại học sư phạm Huế

Như cây giáo chìm, như chiếc kích gẫy, bờ xây lởm chởm...

(Bạch Đằng hải khẩu).
Bài thơ toát lên lòng tự hào của Nguyễn Trãi về truyền thống dân tộc kiên
cường chống giặc ngoại xâm. Và đây là cảnh trí thơ mộng nhưng khơng kém
phần hùng tráng của cửa bể Thần Phù (thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa):
Thần Phù qua đó, lúc đêm khuya
Gió mát trăng thanh cảnh tuyệt kỳ
Măng mọc nghìn đầu, non dựng đứng
Rắn xanh một dải, nước quanh đi...
(Thần Phù hải khẩu)

Còn đây nữa, cảnh đẹp núi Dục Thúy (ở Ninh Bình):

Cửa biển có núi tiên
Từng qua lại mấy phen
Cảnh tiên rơi cõi tục
Mặt nước nổi hoa sen
Bóng tháp hình trâm ngọc
Gương sơng ánh tóc huyền
Nhớ xưa Trương Thiếu Bảo
Bia khắc dấu rêu hoen

(Dục Thúy sơn).


Tên Sinh viên: Nguyễn Thị Vy
Lớp văn 1B

Trường đại học sư phạm Huế

Có những khi thiên nhiên làm cho nhà thơ ngây ngất, cảm hứng của tác giả
càng dạt dào, mãnh liệt. Và, cũng như Lý Bạch (nhà thơ nổi tiếng đời Đường Trung Quốc), Nguyễn Trãi tha thiết với trăng. Trăng tạo nên tứ thơ phóng
khống, tự do, nâng tâm hồn nhà thơ lên đến tột đỉnh của cảm xúc:

Góc biển bên trời mặc ý ngao du
Trong cõi kiền khơn, đến đâu cũng phóng tầm mắt thơ
Hát chài cất lên ba lần, mặt hồ có khói thêm rộng mênh mông
Sáo mục đồng thổi lên một tiếng, mặt trăng trên không càng lên cao vút
Đêm thanh dựa vào khoảng không ngắm xem vũ trụ
Gió thu thổi thừa hứng cưỡi lên cá kình, cá ngao
Sau khi mn việc đã thống qn
Lẽ màu nhiệm thật đáng đưa vào chén rượu đục
(Chu trung ngẫu thành).

Đặc biệt, trong bài “Côn Sơn ca”, bằng những nét tả thực rất sinh động, ta
thấy nhà thơ chan hịa trong cảnh trí thiên nhiên tươi đẹp, với nhiều màu sắc,
âm thanh tươi tắn, rộn ràng:
Côn Sơn nước chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
Cơn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá, như ngồi chiếu êm
Trong ghềnh, thơng mọc như nêm
Tìm nơi bóng mát, ta lên ta nằm
Trong rừng có trúc bóng râm


Tên Sinh viên: Nguyễn Thị Vy
Lớp văn 1B

Trường đại học sư phạm Huế

Trong màu xanh mát, ta ngâm thơ nhàn....
Ở thế kỷ XV, văn học viết của ta đang trên đà xây dựng và phát triển,
Nguyễn Trãi đã tìm tịi một thể thơ mới cho dân tộc, để thoát khỏi ảnh hưởng
của thơ Đường, thơ Tống. Trong thơ chữ Nôm, ông tạo nên thể thơ lục ngôn,
với những câu thơ 6 chữ, mới lạ so với đương thời: Dò trúc, bước qua lịng
suối/ Tìm mai, theo đạp bóng trăng (Tự thán-7); hoặc: Rỗi hóng mát, thủa ngày
trường (Bảo kính cảnh giới-43);... Về ngắt nhịp trong câu thơ thất ngôn, nhiều
khi ông không theo nhịp 4/3 như trong thơ Đường, thơ Tống, mà ngắt nhịp rất
tự do, phóng khống, tùy theo cảm xúc. Ví như ngắt nhịp 2/2/3: Khách đến/
chim mừng/ hoa xảy động/ Chè tiên/ nước kín/ nguyệt đeo về (Thuật hứng–3).
Nguyễn Trãi dùng nhiều từ láy – một hình thức độc đáo, sinh động của ngôn
ngữ dân tộc: Hương cách gác vân, thu lạnh lạnh/ Thuyền kề bãi tuyết, nguyệt
chênh chênh (Bảo kính cảnh giới-31). Nguyễn Trãi có những câu thơ diễn tả

một niềm vui thanh thoát, tế nhị, kín đáo mà tứ thơ rất mới lạ, đáng để chúng
ta ngày nay phải “giật mình”, kính nể. Ví như ơng tả nõn chuối: Tình thư một
bức, phong cịn kín/ Gió nơi đâu, gượng mở xem (Ba tiêu). Ở đây, trí tưởng
tượng của nhà thơ thật kỳ diệu.

Thơ thiên nhiên của Nguyễn Trãi thể hiện lòng lạc quan, yêu đời, yêu
cuộc sống của nhà thơ. Nó khẳng định chỗ đứng của Nguyễn Trãi ở giữa cuộc
đời, trong lòng nhân dân, khơng hề thốt tục. Thủ tướng Phạm Văn Đồng có
lần nói về Nguyễn Trãi: “Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, cuối cùng chẳng
qua là lòng yêu nước thương dân…”, cho nên, khảo sát về thiên nhiên trong
thơ ông, thiết nghĩ, ta chỉ nên tìm hiểu cái chất phong tình và lòng yêu nước
thương dân của tác giả lồng vào nhau, là một mà thơi.“Cảnh ngụ trong tình” –
nếu tình là lịng u nước thương dân thì có lẽ cái tình ấy chỉ thực sự được
nắm bắt khi đã thơng qua cảnh.

Cảnh thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi, trước hết, cần nói rằng chính là
cảnh được nhìn dưới đơi mắt của một nhà nghệ sĩ. Con người nghệ sĩ ấy đã mở
rộng tâm hồn để đón nhận thiên nhiên, thâm nhập vào thiên nhiên và hịa
mình trong thiên nhiên bằng trái tim hết sức nhạy cảm, đa tình và bằng cái chất


Tên Sinh viên: Nguyễn Thị Vy
Lớp văn 1B

Trường đại học sư phạm Huế

phong tình sẵn có cho nên cảnh của ông luôn độc đáo, đặc sắc và khác người
cũng là một điều rất dễ hiểu. Nó trở thành cảnh của riêng ơng, của riêng
Nguyễn Trãi.
Khơng có cái chất phong tình, khơng có một đơi mắt của một nhà nghệ sĩ thì

làm gì họ Nguyễn có được một cảm nhận rất kì lạ, rất độc đáo:

“Bóng tháp hình trâm ngọc
Gương soi ánh tóc huyền”.
khi ơng chiêm ngưỡng núi Dục Thúy? Rõ ràng, Nguyễn Trãi thật sự là một nhà
nghệ sĩ và là một nghệ sĩ lớn bởi cũng bao lần đến Dục Thúy sơn, cũng bao lượt
ngắm nhìn nhưng có thể nói khơng ai và có lẽ chưa có ai để trái tim mình non
tơ lại như Nguyễn, để tâm hồn mình trẻ lại mà trở thành một chàng trai say
đắm trước vẻ đẹp của một mỹ nhân — một cô gái với mái tóc đen huyền xõa
dài, lấp lánh chiếc trâm vàng trên đỉnh đầu. Nối cách khác, dó chính là vẻ đẹp,
là Dục Thúy sơn của riêng Nguyễn Trãi.
Đặc biệt, cũng với cái chất văn ấy, cũng hướng tới mối quan hệ tình yêu trai gái
hết sức trong sáng, Ức Trai đã nhìn cây chuối và ghi nhận:

“Tình thư một bức phong cịn kín
Gió nơi đâu, gượng mở xem”.
Từ cái nõn chuối e ấp, non tơ, cuộn tròn, con người đa cảm ấy lại thấy đó
là một bức thư tình. Mà cũng thực lạ, nõn lá ấy lại được nhìn thấy trên một cây
chuối đã trổ buồng: “Đầy buồng lạ màu thâu đêm”.
Phải chăng chính cái phi lí ấy đã tạo nên một giá trị độc đáo, hiếm có cho bài
thơ? Từ một cây chuối đã trổ buồng mà nhìn thấy một cái nõn lá đã là tài tình
nhưng từ cái nõn lá kia mà nhìn ra một bức thư mà lại cứ thư tình thì thử hỏi
chất phong tình của tác giả nó lai láng đến mức nào?


Tên Sinh viên: Nguyễn Thị Vy
Lớp văn 1B

Trường đại học sư phạm Huế


Xuân Diệu có lần đã nói đùa: “Với cây chuối, Nguyễn Trãi xứng đáng được kết
nạp là một Đoàn viên Thanh niên đầu tiên của nước Việt Nam” và ta có thể nói
thêm: đó cũng là Cây chuối – là một tạo vật tồn tại, là một thanh niên của riêng
Nguyễn Trãi mà thơi.
Thơng thường mà nói thì lòng yêu nước thường bắt nguồn từ lòng yêu thương
thiên nhiên với những sự vật nhỏ nhặt, ngờ như không đâu của chính q
hương đất nước mình. Lịng u nước, yêu thương con người của Nguyễn Trãi
cùng bắt nguồn từ những tình cảm như vậy. Đó là đặc điểm đáng q, đáng trân
trọng trong thơ thiên nhiên của ơng. Ồng đã thấy, đã yêu dậu mồng tơi, hàng
dâm bụt đến cả cây mía, cây chuối – những sự vật thuần túy Việt Nam, cho nên
có thể nói tâm hồn ơng, con người ông cũng là một con người – một tâm hồn
thuần túy Việt Nam. Có ý kiến cho rằng, bài thơ “Cây chuối” cái hay nằm ở hai
câu cuối:
“Tình thư một bức phong cịn kín
Gió nơi đâu, gượng mở xem”.
Bởi nó là một cảm xúc độc đáo, một phát hiện rất mới mẻ ở sự vật
nhưng theo tơi thì cái hay của bài thơ lại năm ngay đầu đề của nó. “Cây chuối”
— tuy nó gần gũi, nó quen thuộc đó nhưng nếu khơng nhìn được nó, khơng
u nó thì Ức Trai làm gì có cái nhìn độc đáo, mới lạ kia? Nhưng để nhìn ra cây
chuối mà thấy cái đẹp của nó thì nhất thiết Nguyễn Trải phải gắn bó, phải u
q hương, đất nước ơng với một tình yêu mãnh liệt, sâu đậm lắm. Cho nên,
con người ấy đâu cần sử dụng cái công thức rập khuôn “sông, tuyết, hoa” của
tận đất nước Trung Hoa như phần lớn các nhà thơ lúc bấy giờ. Ông đã đứng
trên đất nước mình bằng đơi chân của mình, tìm thấy cái đẹp ngay trên q
hương của mình và từ đó trở thành một danh nhân của nhân loại. Chính lịng
u nước buộc ông phải phá rào văn chương qui phạm và cũng chính lịng u
nước đã nâng con người ấy lên tầm cỡ nhân loại.
Có thể nói phần lớn các bài thơ viết về thiên nhiên đều được sáng tác trong
thời gian Nguyễn Trãi ở ẩn, cho nên cảnh trong thơ ông thường buổn là một
điều dễ hiểu. Nhưng cái đáng nói là dù cảnh có vui, buồn đến đâu nhưng con

người thống hiện trong nó vẫn ln hướng tới cái vui, luôn hướng tới một


Tên Sinh viên: Nguyễn Thị Vy
Lớp văn 1B

Trường đại học sư phạm Huế

ngày mai tươi đẹp. Nói đúng hơn vẫn có cái đau đáu, bộn bề tâm sự của một
con người mong muốn trở lại với cuộc đời mà cống hiến cho dân, cho nước. Có
lẽ vì vậy mà trong cái muộn màng của những ngày cuối xuân, Nguyễn Trãi vẫn
thấy:
“Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan”.
Hoa xoan “nở” phải chăng đó là một tấm lịng đang hồi vọng, đang ngóng
trơng, tha thiết được giúp đời, giúp nước. Cũng thế, trong cái “rồi* suốt một
“ngày trường” ông lại nghe thấy:

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ”.
Con người ấy quay lưng với cuộc đời nhưng lại luôn hướng về cuộc đời
đối với tất cả mọi tình cảm, giác quan, vẫn ln ước mơ và thật sự mãn
nguyện.
"Dân giàu đủ khắp đòi phương”. .
Đó chính là điểm tích cực của ơng so với các nhà thơ khi phải rơi vào xu hướng
bất mãn thời thế cùng thời. Chung qui, lòng yêu thiên nhiên của Nguyễn Trãi
chính là lịng u nước, u nhân nghĩa.
Tìm hiểu kho tàng thơ chữ Nơm và chữ Hán của Nguyễn Trãi để lại cho hậu thế,
chúng ta có thể thấy một nét đặc sắc trong những bài thơ thiên nhiên của ông.
Cùng viết về thiên nhiên, nhưng những bài thơ chữ Hán trong Ức Trai thi tập có
sự khác biệt trong đề tài, cảm hứng, chủ đề, tư tưởng cũng như nghệ thuật
ngơn ngữ, xây dựng hình tượng so với thơ chữ Nơm trong Quốc âm thi tập.

Nói đến thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi, trước hết chúng ta cần đặt trong
mối quan hệ qui chiếu với cuộc đời của nhà thơ để giải mã rõ hơn cảm hứng cụ
thể trong từng tác phẩm ở hai tập thơ. Đây là vấn đề địi hỏi q trình khảo
cứu cơng phu và thuộc phạm vi nghiên cứu của một công trình lớn.
Người viết chỉ xin được so sánh mảng thơ thiên nhiên của Nguyễn Trãi ở thơ
chữ Hán và thơ chử Nơm của ơng ở những khía cạnh cơ bản nhất, trên cơ sở


Tên Sinh viên: Nguyễn Thị Vy
Lớp văn 1B

Trường đại học sư phạm Huế

phân tích một số tác phẩm tiêu biểu và tương đối quen thuộc với chúng ta lâu
nay.
Theo một truyền thống thi ca trung đại “cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ” (Hồ Chí
Minh), những bài thơ của Nguyễn Trãi dành một số lượng khá lớn viết về thiên
nhiên.
Thiên nhiên gắn với cuộc đời thăng trầm đầy bi kịch của người anh hùng, như
cũng soi chiếu tâm tư của chính nhà thơ trong những hồn cảnh khác nhau.
Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày
Có thuốc trường sinh càng khoẻ thay
Hổ phách phục linh nhìn mấy biết
Dành, cịn để trợ dân này
Những câu thơ Nguyễn Trãi viết về Tùng như sự khẳng định nhân cách
của chính ơng, một con người cả đời canh cánh nỗi lòng “ưu quốc ái dân”.
Nguyễn Trãi tìm về thiên nhiên và để lại hàng trăm bài thơ chữ Hán và chữ
Nôm, hầu như bài thơ nào cũng toát lên vẻ đẹp lồng lộng thanh cao và cứng
cỏi như dáng tùng vững chãi giữa tuyết sương.
Trong buổi đầu của nền thi ca trung đại Việt Nam, Nguyễn Trãi đã tạo

dựng nên một kiểu nhà nho – nghệ sĩ đích thực, khi tâm hồn ơng hồ quyện với
từng vẻ đẹp đất nước, rung động trước non nước mây trời, cỏ cây hoa lá để
người đời sau hình dung đầy đủ diện mạo của con người có tấm lòng sáng tựa
“sao Khuê buổi sớm” ấy. Lúc làm quan giữa triều, khi về ở ẩn sống đời thanh
bần giữa núi rừng, dù ở đâu thiên nhiên vẫn chiếm một địa vị quan trọng, một
người bạn tâm giao để Nguyễn Trãi kí thác nỗi lịng ln quặn thắt những ưu tư
thời thế:
Non cao non thấp mây thuộc
Cây cứng cây mềm gió hay
Ngồi chưng mọi chốn đều thơng hết
Bui một lịng người cực hiểm thay


Tên Sinh viên: Nguyễn Thị Vy
Lớp văn 1B

Trường đại học sư phạm Huế

Đề tài thiên nhiên trong thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm của Nguyễn Trãi vô cùng
phong phú như phản chiếu cuộc đời lắm thăng trầm của chính ông. Nếu như
trong thơ chữ Hán, ta gặp nhiều địa danh gắn với qng đời sơi nổi, với hồi
bão “ trí qn trạch dân”, với tầm nhìn bao qt lịch sử, chiêm nghiệm thời thế
một cách cụ thể thì ở thơ chữ Nôm lại là những cảm xúc tinh lọc thăng hoa
trong những đề tài tưởng như mịn cũ vì ước lệ “ tùng, trúc, cúc, mai “, “
phong, hoa tuyết, nguyệt”. Nhưng dù cho đề tài cụ thể hay trừu tượng thì
Nguyễn Trãi đều thể hiện con người đầy cá tính của ơng một cách rõ nét trước
thiên nhiên. Cảm hứng bao trùm trong những bài thơ chữ Hán viết về thiên
nhiên phải chăng có thể khái quát trong hai câu thơ này của Nguyễn Trãi :
Kim cổ vô cùng giang mạc mạc
Anh hùng hữu hạn diệp tiêu tiêu

Ngay cả những bài thơ chữ Hán thấm đẫm phong vị trữ tình cũng phảng
phất nỗi niềm người anh hùng trước lẽ hưng phế, đọng lại những hoài niệm về
các triều đại đã qua. Dù cho đó là cảnh đã bao nhiêu lần thưởng ngoạn thì vào
thơ, Nguyễn Trãi vẫn tạo được những rung động khác thường-Một Dục Thuý
sơn qua cảm xúc của ông hiện rõ là nơi “ tiên cảnh trụy trần gian” với vẻ đẹp
thật diễm lệ :
Tháp ảnh trâm thanh ngọc
Ba quang kính thúy hồn
Vẻ diễm kiều như một nàng thiếu nữ của núi Dục Thúy cũng không làm
ơng ngi ngoai hồi niệm về bậc tài danh tiền bối Trương Hán Siêu, trong mối
đồng cảm của người đề thơ núi Th. Đó khơng chỉ là gặp gỡ của hồn thơ yêu
cảnh đẹp, mà còn là nhớ bậc tiền nhân đã cống hiến tài trí phị vua giúp nước :
Hữu hoài Trương Thiếu bảo – Bi khắc tiển hoa ban. Nhiều bài thơ chữ Hán của
Nguyễn Trãi thường khắc hoạ những phong cảnh hùng vĩ của đất nước với bút
lực cuồn cuộn, với hơi văn dào dạt như thuở Bình Ngơ : một Thần Phù hải khẩu
:
Kình phun lãng hống thơi nam bắc
Sóc ủng sơn liên ngọc hậu tiền


Tên Sinh viên: Nguyễn Thị Vy
Lớp văn 1B

Trường đại học sư phạm Huế

Hay một Vân Đồn “ thiên khôi địa thiết phó kì quan”, một Bạch Đằng hải khẩu :
Sóc phong xuy hải khí lăng lăng
Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng
Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng

Cảnh ấy, tình ấy gắn với niềm tự hào dân tộc lớn lao, bởi những danh
thắng cũng đồng thời gắn với những anh hùng mà bản thân nhà thơ ngưỡng
vọng : Thần Phù là nơi anh hùng Hồ Quí Ly chống sự xâm lăng của vua Chiêm
Chế Bồng Nga, Vân Đồn vang danh chiến công của Trần Khánh Dư và bao triều
đại anh hùng vùi thây quân giặc cướp trên sóng Bạch Đằng. Nhưng đồng thời,
Nguyễn Trãi còn nhận ra những mối tương quan trời đất và con người khi suy
ngẫm trước cảnh trời đất vô cùng, để ngậm ngùi cho mối hận anh hùng, để suy
ngẫm về gốc rễ vững bền của đất nước:
Phúc chu thủy tín dân do thuỷ
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên
Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật
Anh hùng di hận kỉ thiên niên
(Quan hải)
Có lẽ chưa ai nhìn thiên nhiên đất trời mà luận anh hùng sâu sắc như
Nguyễn Trãi, anh hùng là phẩm chất cá nhân, nhưng muốn thành nghiệp lớn
phải gắn với nhân dân như thuyền với nước.
Tiếp xúc với thiên nhiên trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi trong Ức Trai thi
tập, chúng ta có thể nhận thấy ý kiến đánh giá của PSG.TS Lã Nhâm Thìn thật
xác đáng: đó là một thiên nhiên kỳ vĩ, hồnh tráng nhưng cũng đồng thời mỹ lệ,
thi vị; thiên nhiên gắn với những địa danh như một cuốn nhật kí gắn với cuộc
đời phong phú từng trải của Nguyễn Trãi; qua đó ta nhận ra một tâm hồn cao
rộng, khống đạt, phong tình và tinh tế.


Tên Sinh viên: Nguyễn Thị Vy
Lớp văn 1B

Trường đại học sư phạm Huế

Phần lớn những bài thơ của Nguyễn Trãi viết về thiên nhiên bằng chữ

Hán đều tuân thủ nghiêm ngặt thể loại Đường luật nhưng khơng hề gị bó cảm
xúc. Thơ thiên nhiên gắn với tâm hồn trí tuệ của một con người lừng danh “viết
thư, thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời” cũng mang theo cái mạnh mẽ phóng
khống của một tấm lịng nặng niềm “ưu ái”, bao giờ cũng phảng phất bóng
dáng con người hăm hở gánh vác giang sơn, trổ tài kinh bang tế thế để thực
hiện hồi bão trí qn trạch dân. Bên cạnh đó là một thiên nhiên chất chứa ưu
tư.
Cùng chung cảm hứng này, trong những bài thơ Nôm, Nguyễn Trãi lại có
dịp bộc bạch nhiều ưu tư hơn. Ơng tìm thấy trong thiên nhiên những bài học
lớn, đặc biệt là thiên nhiên trong chùm thơ Bảo kính cảnh giới ở Quốc âm thi
tập.
Quãng đời lui về ẩn cư quê ngoại Côn Sơn giúp Nguyễn Trãi có dịp hồ
nhập với thiên nhiên hết mình hơn, khi “cơng danh đã được hợp về nhàn”,
những cảm xúc thiên nhiên trong chùm thơ Mạn thuật, Thuật hứng, những
cảm nhận về hoa cỏ trong Hoa mộc mơn…cũng bộc lộ con người ơng thật bình
dị gần gũi. Ta cũng nhận ra chân dung tâm hồn Nguyễn Trãi sinh động tự nhiên
hơn trong những vần thơ dân dã nôm na.
Thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Trãi là cả một khơng gian bát ngát
tình người, tràn căng sức sống “thế giới đông lên ngập một bầu”. Điểm khác
biệt về cảm hứng giữa thơ chữ Nôm và thơ chữ Hán xuất phát từ chính những
nét đặc biệt trong hồn cảnh của nhà thơ khi về ẩn cư:
Ao cạn vớt bèo cấy muống
Đìa thanh phát cỏ ương sen
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yên hà nặng vạy then…
(Thuật hứng)
Vẫn là “phong nguyệt yên hà” nhưng có cái mềm mại lung linh trong cảm
xúc của một hồn thơ nhạy cảm. Trong cuộc sống của vị hưu quan, vẫn còn ắp



Tên Sinh viên: Nguyễn Thị Vy
Lớp văn 1B

Trường đại học sư phạm Huế

đầy những hoài bão hướng về cuộc đời trăn trở niềm “tiên ưu”. Cuộc sống
thanh bình của dân gian cũng tạo nên niềm vui giúp ông vượt lên nỗi niềm
riêng:
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ, khắp địi phương
(Bảo kính cảnh giới, 43)
Thiên nhiên đến với nhà thơ trong tư cách “Núi láng giềng, chim bầu
bạn, mây khách khức, nguyệt anh tam”, nên ông cũng thả lịng mình thật tự
nhiên khơng rào đón. Nếu như đọc thơ chữ Hán, ta đã gặp một Nguyễn Trãi với
Côn Sơn ca thật tiêu dao:
Côn Sơn hữu tuyền
Kỳ thanh linh linh nhiên
Ngô dĩ vi cầm huyền
Côn Sơn hữu thạch
Vũ tẩy đài phơ bích
Ngơ dĩ vi đạm tịch
Nham trung hữu tùng
Vạn cái thuý đồng đồng
Ngô ư thị hồ yển tức kỳ trung…
Thì trong thơ chữ Nơm, ơng cịn thoải mái viết những câu vượt ra khỏi mọi
ràng buộc câu thúc lễ nghi để thật sự hoà đồng cùng cây cỏ đất trời:
Già chơi dầu có của no dùng,
Chén rượu câu thơ ấy hứng nồng.



Tên Sinh viên: Nguyễn Thị Vy
Lớp văn 1B

Trường đại học sư phạm Huế

Ngỏ tênh hênh nằm cửa trúc,
Say lểu thểu đứng đường thông…
(Thuật hứng, 16)
Ta nhận ra một Nguyễn Trãi thật tự do phóng khống giữa đất trời, thật
táo bạo với những từ ngữ thuần Việt đắt giá “tênh hênh”, “lểu thểu” mà vẫn
khơng suồng sã, tưởng khó thành thơ mà vẫn lộ rõ cốt cách thanh cao nhưng
giản dị của Nguyễn Trãi. Thơ chữ Nơm Nguyễn Trãi thường nói về cảnh nhàn,
cuộc sống nhàn rỗi bất đắc dĩ nhưng khơng vì thế làm mất đi vẻ thư thái tự tin
của nhà thơ: “Quét trúc bước qua lòng suối – Thưởng mai về đạp bóng trăng”.
Bên cạnh những bài thơ vịnh cảnh theo truyền thống với những biểu tượng
thiên nhiên gắn với người quân tử như “tùng trúc cúc mai” cịn là những lồi
hoa cỏ bình thường nhưng lại toả ra phẩm chất thi nhân của Nguyễn Trãi tinh
tế nhất. Thưởng thức lại những vần thơ cô đọng mà thấm đượm vẻ tình tứ
trong bài Cây chuối, ta mới thấy Nguyễn Trãi đã vượt trước thời đại mình biết
bao nhiêu:
Tự bén hơi xuân tốt lại thêm
Đầy buồng lạ mầu thâu đêm
Tình thư một bức phong cịn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem
Hồn thơ ấy cũng khơng gị bó câu thúc trong khn khổ thơ luật Đường
mà tìm cách thể hiện cá tính của mình trong những phá cách lục ngơn. Nghiêm
cẩn trong thơ chữ Hán bao nhiêu thì ơng lại phóng túng trong thơ chữ Nơm
bấy nhiêu, đó cũng là dấu ấn đặc sắc của Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi tập.

Người đọc có thể hình dung một Nguyễn Trãi “Cơm ăn chẳng quản dưa muối –
Áo mặc nài chi gấm thêu” giữa một thiên nhiên rất giàu cảm xúc và đậm nét
đời thường:
Quê cũ nhà ta thiếu của nào,
Rau trong nội, cá trong ao.


Tên Sinh viên: Nguyễn Thị Vy
Lớp văn 1B

Trường đại học sư phạm Huế

Cách song mai tỉnh hồn Cô Dịch ,
Kề nước cầm đưa tiếng Cửu Cao
Khách đến vườn còn hoa lạc,
Thơ nên cửa thấy nguyệt vào.
Cảnh thanh dường ấy chăng về nghỉ,
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào
(Mạn thuật, 35)
Bản thân nhà thơ dẫu chán ngán cảnh quan trường, nhưng không hề run
sợ khuất phục trước cường quyền, không phải lánh đời theo triết lý “độc thiện
kỳ thân” mà chính thiên nhiên tiếp cho ơng sức mạnh, tìm ra cách ứng xử với
bọn quyền thần một cách đầy dũng khí. Thiên nhiên ấy hun đúc nên một
Nguyễn Trãi đầy khí phách:
Mai chăng bẻ thương cành ngọc,
Trúc nhặt vun tiếc cháu rồng
Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Ðêm ngày cuồn cuộn nước triều đơng.
(Ngơn chí,50)
III.


Kết thúc vấn đề

Qua những bài thơ viết về thiên nhiên của Nguyễn Trãi, ta có thể nhận ra
đầy đủ về chân dung một con người hội tụ “khí phách của dân tộc, tinh hoa của
thời đại”. Thiên nhiên mà ơng tìm đến cũng là một thiên nhiên đầy sức sống,
thanh cao như tâm hồn ông luôn cuồn cuộn hoài bão lo cho dân cho nước.
Trong bất cứ hồn cảnh nào, những vần thơ của ơng vẫn tốt lên vẻ đẹp của
con người chân chính và “tài năng làm hay làm đẹp cho nước xưa nay chưa
từng thấy” đúng như những lời ca ngợi hậu thế dành cho ông và giúp chúng ta
phần nào hiểu rõ cái tâm sự: “Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông…” của một
đại anh hùng dân tộc-Nguyễn Trãi.



×