Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Hoàn thiện công tác phân bổ ngân sách nhà nước tại huyện đại từ tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.26 KB, 94 trang )

1
MỤC LỤC
3.4.1.1.2 Những bất cập, tồn tại.................................................................................62


2
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân sách Nhà nước (NSNN) là khâu cơ bản, chủ đạo của tài chính nhà
nước, là nguồn tài chính tập trung quan trọng nhất trong hệ thống tài chính
quốc gia. NSNN tác động trực tiếp đến việc tăng quy mô đầu tư, thúc đẩy nền
kinh tế tăng trưởng phát triển. Thông qua việc phân bổ NSNN, Nhà nước thực
hiện việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế, thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế nhằm
phát triển bền vững và không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế- xã hội
( KTXH). Điều đó cho thấy việc phân bổ sử dụng nguồn vốn có hiệu quả
NSNN của quốc gia nói chung và của địa phương nói riêng có ý nghĩa hết sức
quan trọng giúp Chính phủ và chính quyền các cấp thực hiện tốt các mục tiêu
tăng trưởng KTXH của mình.
Ở Việt Nam quá trình phân bổ ngân sách đã trải qua nhiều thời kỳ và đã
có những chuyển biến đáng kể,đánh dấu bằng sự ra đời của Quyết định
139/2003/QĐ-TTg về định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên của NSNN
cho các bộ. ban ngành, cơ quan Trung ương ( TW) và các tỉnh,thành phố trực
thuộc TW ngân sách (PBNS) theo Quyết định 139 của Chính phủ đã đạt được
những kết quả quan trọng như : Đảm bảo tính công bằng, hợp lý, đảm bảo
tính công khai, minh bạch của NSNN. Đồng thời qua đó thể hiện ưu tiên đối
với vùng miền núi,vùng cao,vùng đồng bào dân tộc có nhiều khó khăn và
vùng kinh tế trọng điểm,phù hợp với khả năng cân đối NSNN, bảo đảm thực
hiện nhiệm vụ phát triển KTXH, quốc phòng an ninh, góp phần tăng cường
công tác quản lý nguồn tài chính, sử dụng ngân sách có hiệu quả, tiết kiệm.
Tuy nhiên quá trình thực hiện hệ thống định mức phân bổ chi thường
xuyên ( TX) của NSNN trong thời gian qua còn có những hạn chế : Phạm vi


hệ thống định mức phân bổ chưa bao quát hết các lĩnh vực chi TX cưa
NSNN, các vùng miền núi, vùng cao, vùng đồng bào dân tộc khó khăn mặc
dừ đã ưu tiên trong hệ thống ĐMPBNS, nhưng trong giai đoạn mới mục tiêu


3
và yêu cầu phát triển KTXH, xóa đói giảm nghèo được Chính phủ đặt ra rất
lớn nên cần phải tăng mức độ ưu tiên đối với hệ thống định mức phân bổ
NSNN trên cơ sở kế thừa và phát huy những kết quả đạt được, khắc phục các
tồn tại để đáp ứng tốt nhiệm vụ phát triển KTXH của cả nước nói chung và
địa phương nói riêng.
Việc ban hành Quyết định số 151/2006/QĐ-TTg ngày 29/6/2006 và
Quyết định số 210/2006 /QĐ- TTg ngày 12/9/2006 là một sự đổi mới quan
trọng, cá quy định về tiêu chí và định mức được lượng hóa, bảo đảm việc
phân bổ NSNN công khai, minh bạch và công bằng so với trước đây; khắc
phục được việc phân bổ theo cảm tính thiếu căn cứ trước đây. Tuy nhiên,vẫn
còn nhiều vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện,bổ sung trong việc xá định mức chi
NSNN.Việc xây dựng các định mức chi tiêu ngân sách ( NS) vẫn chủ yếu dựa
trên các yếu tố đầu vào, mà chưa tính đến các hiệu quả đầu ra cảu các khoản
chi tiêu, là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng chi tiêu NS
bị lãng phí, hiệu quả thấp.
Huyện Đại từ - tỉnh Thái Nguyên là một trong những huyện phát triển
của tỉnh Thái nguyên, hàng năm đều được trợ cấp từ Ngân sách TW. Trong
những năm gần đây Đại Từ đều đạt các chỉ tiêu kinh tế của huyện và của tỉnh
đề ra do công tác phân bổ NSNN được các ban ngành,các cấp quan tâm chú
trọng. Trên thực tế vốn đầu tư từ NSNN của Huyện Đại Từ đã có những đóng
góp to lớn trong sự nghiệp phát triển KTXH của huyện.Song bên cạnh đó còn
có nhiều nguyên nhân khác nhau đã làm cho việc phân bổ NSNN đạt hiệu quả
chưa cao.
Công tác phân bổ NS lập theo từng năm và thường được lập theo

phương pháp tăng thêm một tỷ lệ phần trăm nhất định so với số ước thực hiện
năm hiện hành,chưa gắn chặt với việc triển khai thực khai thực hiện kế hoạch
KTXH của địa phương. Vì vậy,một số dự toán phân bổ giao chính thức cho
Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện không sát với thực trạng KTXH.Trước


4
tình hình đó, việc nghên cứu đề tài “Hoàn thiện công tác phân bổ Ngân sách
Nhà nước tại huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên”
Nhằm góp phần thực hiện tốt kế hoạch phát triển kinh tế xã hội huyện
Đại Từ tỉnh Thái Nguyên là cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận
thực tiễn đang đặt ra hiện nay
2. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở thực trạng công tác phân bổ công tác NSNN tại huyện Đại
Từ, tỉnh Thái Nguyên, luận văn phân tích nhằm thực hiện công tác phân bổ
NSNN của huyện Đại từ; giúp huyện thực hiện có hiệu quả vốn ngân sách của
Nhà nước, góp phần phát triển KTXH của huyện đến năm 2020.
2.2.Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về NSNN ; phân bổ NSNN, cơ sở
phương pháp luận về xây dựng PBNS.
- Đánh giá thực trạng công tác xây dựng ĐMPBNS và những kết quả
đạt được, những bất cập tồn tại trong việc phân bổ NSNN giai đoạn 20102014 của huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên.
Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân bổ NSNN của
huyện Đại Từ đến năm 2020
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Là công tác phân bổ NSNN ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Đề tài nghiên cứu công tác phân bổ ngân sách của

huyện Đại Từ.
- Phạm vi thời gian nghiên cứu thực hiện trong giai đoạn 2010 -2014
các giả pháp hoàn thiện công tác xây dựng hệ thống định mức phân bổ NSNN


5
uyện Đại Từ nhằm thực hiện tốt mục tiêu mục tiêu tăng trưởng của huyện giai
đoạn 2015-2020.
- Phạm vi về không gian, thông tin được sử dụng đề tài hiện tại phòng
ban (Phòng tài chính/ Bộ phận liên quan của huyện Đại Từ cung cấp và thực
hiện ngân sách cấp tỉnh, huyện Đại Từ.
4. Ý nghĩa khoa học của đề tài nghiên cứu
- Ý nghĩa khoa học:
+ Làm rõ thêm một số vấn đề liên quan đến phân bổ NSNN.
+ Phân tích khách quan thực trạng quan hệ ngân sách trên địa bàn
huyện Đại Từ
- Ý nghĩa thực tiễn:
+Phát hiện những khó khăn vướng mắc, đưa ra các giải pháp nhằm
hoàn thiện công tác Ngân sách trên địa bàn huyện Đại Từ
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu,kết luận,nội dung luận văn gồm 4 chương
- Chương I:Cơ sở lý luận và thực tiễn về NSNN và phân bổ NSNN
- Chương II: Phương pháp nghiên cứu
- Chương III: Thực trạng công tác phân bổ NSNN tại Huyện Đại từ tỉnh
Thái Nguyên
- Chương IV: Giải pháp hoàn thiện công tác phân bổ NSNN


6
CHƯƠNG 1:

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NSNN VÀ PHÂN BỔ NSNN
1.1. Ngân sách nhà nước
1.1.1. Khái niệm NSNN
Trong thực tiễn khái niệm ngân sách thường để chi tổng thu và chi của
một đơn vị trong một thời gian nhất định.Một bảng tính toán và các chi phí để
thực hiện một kế hoạch,hoạc một chương trình cho một mục đích nhất định
cảu một chủ thể nào đó.Nếu chủ thể đó là Nhà nước thì được gọi là Ngân sách
Nhà nước,.
Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu- chi của Nhà nước đã
được nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm
để đảm bảo thực hiện các chức năng nhiệm vụ của nhà nước.
Ngân sách Nhà nước Viện Nam bao gồm NSTW và NSĐP.Ngân sách
địa phương có ngân sách của đơn vị hành chính,các cấp có HĐND và UBND
phù hợp với mô hình tổ chức chính quyền nhà nước ta hiện nay.NSĐP bao
gồm: NS cấp tỉnh,thành phố trực thuộc trung ương,ngân sách cấp
huyện,quận ,thị xã ,thành phố thuộc tỉnh và ngân sách cấp xã,phường,thị trấn.
1.1.2. Nội dung kinh tế của Ngân sách Nhà nước
* Nội dung thu ngân sách Nhà nước.
Căn cứ vào nội dung kinh tế, các khoản thu NSNN ở nước ta gồm:
- Thuế, phí, lệ phí do các tổ chức, cá nhân nộp theo quy định của pháp luật.
- Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước theo quy định của
pháp luật, như tiền thu hồi vốn của Nhà nước tại các cơ sở kinh tế; thu hồi
tiền cho vay của Nhà nước (cả gốc và lãi); thu nhập từ vốn góp của Nhà nước
vào các cơ sở kinh tế, kể cả thu từ lợi nhuận sau khi thực hiện nghĩa vụ về
thuế của các tổ chức kinh tế có sự tham gia góp vốn của Nhà nước theo quy
định của Chính phủ.
- Thu từ các hoạt động sự nghiệp; tiền sử dụng đất; thu từ hoa lợi


7

công sản và đất công ích; tiền cho thuê đất, thuê mặt nước; thu từ bán hoặc
cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà nước.
- Các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân ở trong và
ngoài nước.
- Các khoản viện trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước, các tổ
chức, cá nhân ở ngoài nước cho Chính phủ Việt Nam, các cấp chính quyền và
các cơ quan, đơn vị nhà nước.
- Thu từ Quỹ dự trữ tài chính; thu kết dư NS.
- Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật, gồm: các khoản di
sản nhà nước được hưởng; các khoản phạt, tịch thu; thu hồi dự trữ nhà nước;
thu chênh lệch giá, phụ thu; thu bổ sung từ NS cấp trên; thu chuyển nguồn
NS từ NS năm trước chuyển sang.
Qua cách phân loại này giúp cho việc xem xét từng nội dung thu theo
tính chất và hình thức động viên vào NS, đánh giá tính cân đối, bền vững,
họp lý về cơ cấu của các nguồn thu. Trên cơ sở đó giúp cho việc hoạch định
chính sách cũng như tổ chức điều hành NS phù hợp với các mục tiêu của Nhà
nước trong từng thời kỳ
*.Nội dung chi ngân sách Nhà nước.
+ Chi đầu tư phát triển:
Căn cứ mục đích của các khoản chi, chi ĐTPT chia thành:
- Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng KTXH không có
khả năng thu hồi vốn. Các công trình kết cấu hạ tầng KTXH thuộc đối tượng
đầu tư bằng vốn ĐTPT của NSNN gồm các công trình giao thông; các công
trình đê điều, hồ đập, kênh mương; các công trình bưu chính viễn thông, điện
lực, cấp thoát nước; các công trình giáo dục, khoa học công nghệ, y tế, văn
hóa, thể thao, công sở của các cơ quan hành chính nhà nước, phúc lợi công
cộng...
- Chi đầu tư và hỗ ừợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các



8
tổ chức tài chính của Nhà nước; góp vốn cổ phần liên doanh vào các doanh
nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo quy định
của pháp luật.
- Chi dự trữ nhà nước là khoản chi để mua hàng hóa, vật tư dự trữ nhà
nước có tính chiến lược của quốc gia hoặc hàng hóa, vật tư dự trữ nhà nước
mang tính chất chuyên ngành.
- Chi ĐTPT thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án nhà
nước chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo, chương trình
135, dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, dự án định canh định cư ở các xã
nghèo, dự án chống xuống cấp và tôn tạo các di tích lịch sử, cánh mạng và
kháng chiến..
* Chi thường xuyên:
+ Các lĩnh vực chi thường xuyên bao gồm:
-Chi cho các hoạt động về sự nghiệp kinh tế ,giao thông ,thủy lợi ,nông
nghiệp,ngư nghiệp ....
- Chi cho quốc phòng an ninh,trật tự an toàn xã hội.
- Chi cho sự nghiệp thuộc lĩnh vực văn hóa- xã hội,sự nghiệp giáo dục,y tế ...
- Chi khác.
Ngoài ra chi thường xuyên lớn đã được sắp xếp và phân bổ trên thì còn một
số các khoản chi thường xuyên khác cũng được sắp xếp như chi thường
xuyên mục tiêu quốc gia,dự án nhà nước.Việc phân loại chi thường xuyên
nhằm phục vụ cho việc phân tích đánh giá tình hình sử dụng ngân sách nhà
nước trên cơ sở đó giúp cho việc đánh giá hoạch định các chính sách chi
NSNN phù hợp với mỗi khoản chi.
*Phân loại các khoản chi thường xuyên theo nội dung kinh tế
Việc phân loại này nhằm phục vụ cho việc lập dự toán, quản lý việc phân
bổ, quyết toán và đánh giá tình hình NSNN trong từng đơn vị sử dụng NSNN.
- Các khoản chi cho con người thuộc khu vực HCSN như tiền lương, tiền



9
công, phụ cấp, phúc lợi tập thể, tiền thưởng, các khoản đóng góp theo tiền lương,
chi về học bổng cho học sinh và sinh viên theo chế độ nhà nước quy định cho mỗi
loại trường và các khoản thanh toán khác cho cá nhân.
- Các khoản chi về nghiệp vụ chuyên môn
Hoạt động nghiệp vụ chuyên môn trong các đơn vị HCSN rất khác nhau. Ở
cơ quan công chứng nhà nước, hoạt động nghiệp vụ chuyên môn là xác nhận tính
hợp pháp, hợp lý của các loại giấy tờ cho mỗi tổ chức, cá nhân có nhu cầu; thì ở
các đơn vị sự nghiệp giáo dục và đào tạo là hoạt động giảng dạy, học tập và
nghiên cứu khoa học; ở các đơn vị sự nghiệp y tế lại là hoạt động phòng bệnh,
khám bệnh và chữa bệnh v.v...
tiến hành khảo sát, tham quan học tập những điển hình tiên tiến về nghiên
cứu và ứng dụng quy trình công nghệ…
Một đơn vị được đánh giá là quản lý và sử dụng kinh phí chi thường xuyên
có hiệu quả khi tỷ trọng chi nghiệp vụ chuyên môn trong tổng số chi của đơn vị đó
luôn phải được ưu tiên chỉ đứng sau các nhu cầu chi cho con người.
- Các khoản chi mua sắm, sửa chữa
Trong quá trình hoạt động, các đơn vị HCSN được NSNN cấp kinh phí để
mua sắm các tài sản hay sửa chữa các tài sản đang sử dụng. Các nhà kinh tế đều
khuyến cáo rằng: nếu biết chi những đồng tiền để đáp ứng ngay cho các nhu cầu
duy tu, bảo dưỡng tài sản đúng lúc, kịp thời thì sẽ góp phần tích cực trong việc
kéo dài tuổi thọ của tài sản, chất lượng hoạt động của tài sản ít bị suy giảm và vì
thế hiệu quả của vốn đầu tư được nâng cao.
Mức chi cho mua sắm, sửa chữa của mỗi đơn vị phụ thuộc vào số lượng,
chất lượng tài sản của đơn vị đang quản lý và khả năng vốn NSNN có thể dành
cho nhu cầu chi này.
- Các khoản chi khác
Chi nghiệp vụ chuyên môn là những khoản chi phục vụ cho các hoạt động
chuyên môn nói trên như chi phí về nguyên liệu, vật liệu; chi phí về năng lượng,



10
nhiên liệu; chi phí cho nghiên cứu, hội thảo khoa học; chi phí về thuê mướn chuyên
gia, giáo viên để tư vấn hay đào tạo cho đội ngũ nghiên cứu; chi phí để
1.1.3.

Chức năng của Ngân sách Nhà nước

Chức năng phân phối giữa các cấp ngân sách; thực hiện phân chia theo
tỷ lệ phần trăm (%) đối với khoản thu phân chia giữa các cấp ngân sách và bổ
sung cân đối ngân sách cho cấp dưới để đảm bảo công bằng, phát triển cân đối
giữa các vùng.
- Chức năng đôn đốc; kiểm tra, giám sát, chức năng này cụ thể là các
nhiệm vụ như kiểm tra chấp hành ngân sách Nhà nước, kế toán và kiểm toán
và quyết định ngân sách Nhà nước một cách thường xuyên liên tục. Thực hiện
tốt chức năng này sẽ đem lại những thông tin trung thực cho việc quản lý các
hoạt động của ngân sách Nhà nước, giúp cho Nhà nước phát hiện ra những
thiếu sót, kịp thời chỉnh sửa, phát huy được những kết quả tốt đã đạt được góp
phần thúc đẩy hoàn thiện luật Ngân sách Nhà nước, tiến tới các mục tiêu
chiến lược quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta đã xác định.
Chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp chính quyền về quản lý nhà nước do
pháp luật quy định. Ngân sách là công cụ của chính quyền các cấp trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ. Vì vậy, phân cấp quản lý NS phải phù hợp nhằm đảm bảo
điều kiện vật chất để thực thi nhiệm vụ một cách hiệu quả. Năng lực quản lý của
chính quyền các cấp cũng là một yếu tố cần được xem xét kỹ trước khi thực hiện
phân cấp mạnh cho địa phương.
1.1.4. Vai trò của ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là nguồn huy động tài chính để đảm bảo các nhu
cầu chi tiêu của Nhà nước. Mức động viên vào ngân sách Nhà nước đối với

các tổ chức, cá nhân trong xã hội thông qua thuế và các khoản thu khác phải
hợp lý. Mức động viên cao hay thấp đều có tác động tích cực.
Tỷ lệ động viên vào ngân sách Nhà nước đối với tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) vừa đảm bảo hợp lý với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, vừa


11
đảm bảo cho các đơn vị sản xuất có điều kiện tích lũy để tái sản xuất mở rộng.
hay là nuôi dưỡng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
- Ngân sách Nhà nước là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội
của đất nước. Hiện nay, nền kinh tế thị trường đóng vai trò quan trọng cho sự
phát triển kinh tế của đất nước, tuy vậy nó cũng chứa đựng những mặt hạn
chế mà bản thân nó không thể tự điều chỉnh. Do vậy, sự can thiệp của Nhà
nước và nền kinh tế thị trường thông qua các hoạt động điểu tiết vĩ mô nền
kinh tế tài chính mà quan trọng nhất là ngân sách Nhà nước.
Ngân sách Nhà nước là công cụ thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước trên
mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Ngược lại Nhà nước chỉ có thể
thực hiện thành công hoạt động điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Khi có nguồn tài
chính đảm bảo tức là sử dụng triệt để và có hiệu quả công cụ ngân sách Nhà
nước. Vai trò của ngân sách Nhà nước được khái quả hóa trong các lĩnh vực
kinh tế - xã hội và thị trường:
+) Về mặt kinh tế
Ngân sách Nhà nước là yếu tố quan trọng giúp Nhà nước định hướng hình
thành cơ câu kinh tế mới. kích thích phát triển, sản xuất kinh doanh và chống
độc quyền.
Nhà nước dùng ngân sách để đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển các ngành
mũi nhọn, từ đó tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát
triển của các thành phần kinh tế khác.
Dùng ngân sách Nhà nước để đầu tư hỗ trợ hình thành các doanh
nghiệp Nhà nước là một trong những biện pháp cơ bản chống độc quyền, thị

trường không rơi vào tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo.
Đối với các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước, ngân
sách Nhà nước hỗ trợ cho sự phát triển của doanh nghiệp kịp thời đảm bảo
cho sự ổn định cơ cấu kinh tế hay chuẩn bị chuyển sang cơ cấu mới cao hơn.


12
Thông qua các khoản thuế và chính sách thuế đảm bảo thực hiện định
hướng đầu tư, kích thích hay hạn chế sản xuất kinh doanh.
Các nguồn vay nợ từ nước ngoài và trong nước sẽ tạo thêm nguồn vốn
cho nền kinh tế, tuy nhiên để sử dụng vốn có hiệu quả đòi hỏi phải có biện
pháp sử dụng vốn một cách hợp lý.
+) Về xã hội
Ngân sách Nhà nước chi cho các phúc lợi xã hội như: Y tế, dịch vụ, vui
chơi giả trí, kế hoạch hóa gia đình, văn hóa thể thao, chi đảm bảo xã hội, giải
quyết việc làm, trợ giá mặt hàng… đặc biệt là chi cho sự nghiệp giáo dục –
đào tạo mà chỉ có Nhà nước mới thực hiện được.
Ngân sách Nhà nước được huy động chủ yếu là thuế và các khoản thu
ngoài thuế. Thông qua thuế thu nhập và thuế lợi tức nhằm phân phối lại thu
nhập giữa những người có thu nhập cao và những người có thu nhập thấp với
mục đích là làm giảm sự chênh lệch trong xã hội.
Thông qua thuế gián thu để hướng dẫn tiêu dùng hợp lý, tiết kiệm. Tuy
nhiên cần phải nghiên cứu đầy đủ và có sự thống nhất giữa chính sách và biện
pháp, tránh xảy ra những điều không hợp lý.
+) Về mặt thị trường
Ngân sách Nhà nước có vai trò quan trọng đối với việc thực hiện các
chính sách về ổn định giá cả thị trường, chống lạm phát thông qua thuế, lệ
phí. Phí và chính sách chi ngân sách Nhà nước, Nhà nước có thể điều chỉnh
giá thị trường một cách chủ động.
Chính sách ngân sách Nhà nước thắt chặt hay mở rộng đều có tác động

mạnh tới cung - cầu của xã hội. Chẳng hạn như việc thông huy động của ngân
sách thông qua các khoản thu từ thuế và thu ngoài thuế (phí, lệ phí) và tỷ lệ
động viên của GDP, GNP chiếm tỷ trọng cao thì cung ứng vốn đầu tư dài hạn,
vốn tiền tệ ngắn hạn của các nhà đầu tư và đầu tư sẽ giảm xuống vốn đầu tư
khan hiếm hơn. Bên cạnh đó, nó sẽ làm cho nhu cầu hàng hóa và dịch vụ


13
giảm, nhưng ngân sách Nhà nước lại có điều kiện tăng cầu với quy mô lớn và
chi cho đầu tư lớn do đó tăng cung. Ngược lại khi ngân sách Nhà nước huy
động GDP và GNP thấp thì nguồn đầu tư sẽ tăng dần lên sẽ dẫn tới cung tăng
đồng thời tăng cầu về hàng hóa, dịch vụ, nhưng ngân sách Nhà nước lại
không có điều kiện tăng cầu và chi cho đầu tư.
Khi nhà nước vay vốn với lãi suất cao làm tăng cung vốn từ các nhà
đầu tư, tiết kiệm tiêu dùng, đồng thời làm giảm lượng cầu về vốn đầu tư
của các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế. Ngược lại khi lãi suất thấp
các nhà đầu tư tìm môi trường đầu tư vào sản xuất kinh doanh hàng hóa
dịch vụ mà không muốn cho Nhà nước vay.
Trong nền kinh tế thị trường, giá cả hàng hóa là do thị trường quyết
định, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu và các yếu tố khác. Tuy nhiên có lúc
giá lên cao, để đảm lợi ích cho người tiêu dùng thì Nhà nước có chính sách
giá trần, đồng thời có nguồn hàng hóa dự trữ tung ra thị trường. Ngược lại có
lúc giá lại xuống thấp Nhà nước lại đặt ra chính sách giá sàn, mua bớt lượng
hàng hóa trên thị trường để dự trữ. Muốn giải quyết được vấn đề đó đòi hỏi
nguồn ngân sách Nhà nước phải dồi dào.
Lạm phát là một trong những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, sự
quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế nhằm khắc phục những khuyết tật ấy. Có
nhiều nguyên nhân gây ra lạm phát, trong đó thu, chi ngân sách Nhà nước
cũng là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát.
Khi ngân sách Nhà nước được sử dụng hợp lý và có hiệu quả thì tác

dụng tích cực của nó rất lớn, ngược lại sẽ gây ra tình trạng bất ổn định trên thị
trường làm cho lạm phát tăng cao.
Với vai trò của mình vai trò của NSNN là công cụ của Nhà nước để
cùng với thị trường tác động tích cực vào nền kinh tế,tạo động lực khuyến
khích mọi thành phần kinh tế phát triển.Mở rộng và tăng cường sử sụng tích


14
cực các công cụ tài chính tiền tệ,sửa đổi bổ sung các chính sách phù hợp với
quy luật kinh tế thị trường.
1.2. Phân bổ Ngân sách Nhà nước.
1.2.1 Khái niệm phân bổ NSNN.
Từ thực tiễn hoạt động quản lý, sử dụng NSNN, phân bổ ngân sách
nhà nước được hiểu là: Việc thiết lập, vận hành cơ chế phân chia và phân bổ
nguồn tài chính giữa các cấp ngân sách, giữa ñơn vị quản lý và sử dụng ngân
sách theo những nguyên tắc, tiêu chí, căn cứ, định mức và phương pháp tính
toán nhất định nhằm đảm bảo cho mỗi cấp, mỗi đơn vị có đủ nguồn tài chính
để thực hiện nhiệm vụ theo chức năng được giao, phát triển KTXH, góp phần
giảm thiểu sự bất bình đẳng tài chính giữa các địa phương, đơn vị, thực hiện
quản lý và PBNS theo đúng chủ trương, quan điểm, mục tiêu của Nhà nước
từng thời kỳ
1.2.2. Nguyên tắc phân bổ NSNN
- Thực hiện theo đúng quy định của Luật NSNN,các tiêu chí và định
mức phân bổ vốn xây dựng cơ bản tập trung được xây dựng là cơ sở để xác
định số vốn bổ sung cân đối từ ngân sách tỉnh cho ngân sách cấp huyện thành
phố ( gọi chung là ngân sách cấp huyện ) năm 2015.
- Đảm bảo sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của NSNN tạo điều
kiện để thu hút tối đa các nguồn vốn khác theo cho chủ đầu tư
- Bảo đảm tính công khai,minh bạch,công bằng trong việc phân bổ
NSNN

- Đảm bảo tương quan hợp lý giữa các mục tiêu phát triển
- Đảm bảo thực hiện chức năng,nhiệm vụ của Nhà nước.
1.2.3. Tiêu chí phân bổ NSNN
- Tiêu chí dân số
- Tiêu chí trình độ phát triển
- Tiêu chí diện trình độ phát triển


15
- Tiêu chí diện tích tự nhiên các huyện và thành phố.
- Tiêu chí đơn vị hành chính cấp xã.
- Tiêu chí bổ sung
1.2.4. Căn cứ phân bổ NSNN
Căn cứ lập, tổng hợp và trình phê duyệt dự toán
Hàng năm, căn cứ vào Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư
hướng dẫn, thông báo số kiểm tra về dự toán NS của Bộ Tài chính, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND các địa phương thực hiện
thông báo số kiểm tra về dự toán NS và tổ chức hướng dẫn các đơn vị chủ đầu
tư trực thuộc lập dự toán vốn ĐTPT.
Trong thời gian lập dự toán NSNN hàng năm, đối với các dự án sử dụng
vốn ĐTPT, chủ đầu tư căn cứ vào tiến độ và mục tiêu thực hiện dự án, lập dự
toán vốn đầu tư gửi cơ quan quản lý cấp trên; đối với các dự án sử dụng vốn
sự nghiệp có tính chất đầu tư, chủ đầu tư căn cứ vào nhu cầu sửa chữa, cải
tạo, mở rộng, nâng cấp các cơ sở vật chất hiện có của đơn vị lập dự toán vốn
đầu tư gửi cơ quan quản lý cấp trên. Cơ quan quản lý cấp trên của chủ đầu tư
có trách nhiệm tổng hợp dự toán vốn ĐTPT vào dự toán NSNN theo quy định
của LuậtNSNN.
UBND cấp tỉnh tổng hợp, lập dự toán vốn đầu tư trình Thường trực
HĐND tỉnh xem xét có ý kiến để gửi Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Trên cơ sở kế hoạch phát triển KTXH dài hạn và từng năm, các cân đối

chủ yếu của nền kinh tế, Bộ Tài chính chủ trì phối họp với các Bộ và UBND
cấp tình xây dụng dự toán NSNN (trong đó có dự toán chi đầu tư), phối họp
với Bộ Kế hoạch và Đầu tư phân bổ dự toán vốn đầu tư cho từng Bộ, UBND
tỉnh và các dự án quan trọng của Nhà nước để trình Chính phủ trình Quốc hội
phê chuẩn.
Phân bổ dự toán chỉ đầu tư phát triển


16
Sau khi dự toán NSNN được Quốc hội quyết định và Chính phủ giao,
các Bộ và UBND các cấp lập phương án phân bổ vốn đàu tư cho các dự án
đàu tư thuộc phạm vi quản lý phù họp với kế hoạch KTXH và qui hoạch được
duyệt, đã đủ thủ tục đầu tư và xây dựng, đảm bảo khớp đúng với chỉ tiêu được
giao về tổng mức đầu tư, cơ cấu vốn các dự án quan trọng của Nhà nước và
đúng với Nghị quyết của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ về điều hành kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN hàng năm. Riêng đối với
các dự án được đàu tư từ các nguồn vốn được để lại theo Nghị quyết của
Quốc hội (tiền sử dụng đất, thu từ hoạt động xổ số kiến thiết) phải bảo đảm
tuân thủ đúng quy định về đối tượng đầu tư và mục tiêu sử dụng từng nguồn vốn.
Phương án phân bổ vốn đầu tư của UBND các cấp phải trình HĐND
cùng cấp quyết định. Sở Tài chính phối họp với Sở Kế hoạch và Đầu tư về
việc dự kiến phân bổ vốn đầu tư cho từng dự án do cấp tỉnh quản lý báo cáo
UBND cấp tình quyết định. Phòng Tài chính huyện chủ trì phối họp với các
cơ quan chức năng của huyện tham mưu cho UBND cấp huyện phân bổ vốn
đầu tư cho từng dự án do huyện quản lý. Bộ máy quản lý tài chính NS ở xã
tham mưu cho UBND cấp xã lập phương án phân bổ vốn đầu tư cho các dự án
thuộc phạm vi cấp xã được phân cấp quản lý.
Sau khi phân bổ vốn đầu tư cho từng dự án, các Bộ và UBND huyện
phải gửi Sở Tài chính. UBND cấp huyện gửi cho Sở Tài chính, UBND cấp xã
gửi cho Phòng Tài chính để kiểm tra các quy định sau:

Đảm bảo các điều kiện của dự án được ghi vào kế hoạch đầu tư hàng năm.
Sự khớp đúng với chỉ tiêu được giao về tổng mức đầu tư, cơ cấu vốn
trong nước và vốn nước ngoài, cơ cấu ngành kinh tế, mức vốn cho các dự án
quan trọng của Nhà nước.
Tuân thủ đúng các quy định về đối tượng đàu tư và việc sử dụng từng
nguồn vốn đầu tư với các dự án được đàu tư bằng nguồn vốn theo Nghị quyết
của Quốc hội và quyết định của Chính phủ.


17
Lập dự toán, phân bổ chi thường xuyên
Căn cứ lập dự toán chi thường xuyên
Dự toán chi thường xuyên là một bộ phận hết sức quan trọng của dự
toán chi NSNN. Vì vậy, lập dự toán chi thường xuyên phải dựa ừên những
căn cứ sau:
Chủ trương của Nhà nước về duy trl và phát triển các hoạt động thuộc
bộ máy quản lý Nhà nước, các hoạt động sự nghiệp, quốc phòng - an ninh và
các hoạt động xã hội khác ừong từng giai đoạn. Dựa vào căn cứ này sẽ giúp
cho việc lập dự toán chi thường xuyên của NSNN đạt được những mục tiêu
và nhiệm vụ mà NSNN phải hướng tới. Trên cơ sở đó xác lập các hình thức,
các phương pháp phân bổ vốn của NSNN vừa tiết kiệm, vừa đạt mục tiêu đã
đặt ra.
Các chỉ tiêu của kế hoạch phát triển KTXH có liên quan trực tiếp đến
việc cấp phát kinh phí chi thường xuyên của NSNN. Đây chính là việc cụ thể
hóa các chủ trương của Nhà nước trong từng giai đoạn thành các chỉ tiêu cho
kỳ kế hoạch. Các chỉ tiêu này kết họp với các định mức chi thường xuyên sẽ
là những yếu tố cơ bản để xác lập dự toán chi thường xuyên của NSNN. Tuy
nhiên, khi dựa trên căn cứ này để lập dự toán chi thường xuyên của NSNN
nhất thiết phải thẳm tra, phân tích tính đúng đắn, hiện thực, tính hiệu quả của
các chỉ tiêu đó để có ý kiến điều chỉnh lại kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội

cho phù họp.
Khả năng nguồn kinh phí có thể đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên của
năm dự toán. Muốn dự đoán được khả năng này, cần dựa vào cơ cấu thu
NSNN kỳ báo cáo và mức tăng trưởng của các nguồn thu năm dự toán để thiết
lập mức cân đối chung giữa khả năng nguồn kinh phí và nhu cầu chi thường
xuyên của NSNN.
Các chính sách, chế độ chi thường xuyên của NSNN hiện hành và dự
đoán những điều chỉnh hoặc thay đổi có thể xảy ra thòi gian tới. Đây là cơ sở


18
pháp lý cho việc tính toán dự toán chi thường xuyên của NSNN và tạo điều
kiện cho quá trình chấp hành dự toán được thuận lợi khi có sự điều chỉnh
hoặc thay đổi chính sách, chế độ chi tiêu.
Kết quả phân tích, đánh giá tình hình quản lý và sử dụng kinh phí chi
thường xuyên năm báo cáo sẽ cung cấp các thông tin càn thiết cho việc lập dự
toán chi theo các phương diện:
+ Tính phù hợp của các định mức chi hay các chính sách chế độ chi
tiêu hiện hành, trên cơ sở đó mà hoàn chỉnh bổ sung kịp thời.
+ Xác định hướng gia tăng các khoản chi cả về tốc độ và cơ cấu. Kết
quả của các loại hoạt động được đảm bảo bởi nguồn kinh phí chi thường
xuyên của NSNN.
1.2.5.Định mức phân bổ NSNN
- Xây dựng định mức phân bổ :
+ Định mức chi tổng hợp theo từng đối tượng được tính định mức chi
của NSNN ( hay còn gọi là định mức phân bổ). Định mức chi tổng hợp được
sử dụng nhiều nhất trong quá trình lập dự toán NSNN,nhằm xây dựng được
dự toán sơ bộ để giao số kiểm tra và hướng dẫn các ngành,các đơn vị sử dụng
ngân scahs lập dự trù kinh phí.Định mức chi tổng hợp nhiều khi cũng được
dùng để ấn định chính thức mức chi mà mỗi đối tượng được phép áp dụng khi

xây dựng dự toán ngân sách kỳ kế hoạch.Chính vì thế,người ta gọi những
định mức này là định mức phân bổ.Định mức phân bổ được dùng nhiều nhất
trong quan hệ giữa các cấp ngân sách với nhau trong quá trình lập dự toán chi
thường xuyên của NSNN.Hiện nay giãu NSTW và NSĐP ở nước ta đang sử
dụng ĐMPBNS cho nhu cầu chi thường xuyên dựa trên tiêu chí dân số bình
quân kỳ kế hoạch.
Mặc dù đã có tính đến sự chênh lệch về điều kiện KTXH giữa các
vùng khác nhau,trên cơ sở đó đua ra các mức cho các vùng,theo hướng vùng
nào khó khăn hơn thì được phân bổ kinh phí cao hơn.Theo cách lập luận


19
đó,các cơ quan tài chính cấp trên cho rằng đã đảm bảo được yếu tố công bằng
trong phân bổ nguồn vốn ngân sách cho các địa phương khi tính toán số kinh
phí có thể hưởng theo các mưc phân bổ trên thì họ lại cho rằng không công
bằng.Đay là vấn đề vẫn còn gây ra nhiều tranh cãi trong quá trình lập dự toán
hàng năm.Lựa chọn các tiêu chí phân bổ NS như thế nào cho công bằng hơn
vẫn luôn được coi là vấn đề chưa có được lời giải thỏa đáng.
Khi cơ quan tài chính trực tiếp quản lý nhân sách một cách cấp tiến
hành phân bổ kinh phí cho các đơn vị thuộc ngân sách cấp mình,thì lại không
thể dựa vào định mức phân bổ giữa NSTW,và NSĐP như đã nêu trên.Lúc này
định mức phân bổ cho mỗi ngành,mỗi lĩnh vực trực thuộc ngân sách một cấp
lại phải dựa vào đặc thù hoạt động của mỗi nghành,mỗi lạo hình đơn vị để xác
định đối tượng tính định mức cho vừa phù hợp với hoạt động của các đơn
vị,viawf phù hợp với yêu cầu quản lý.
- Phương pháp xây dựng định mức phân bổ.
+ Định mức phân bổ thường được dùng để xác định nhu cầu chi từ
NSNN cho mỗi loại hình đơn vị thụ hưởng ;trên cơ sở đó mà phác thảo dự
toán sơ bộ về chi của NSNN kỳ kế hoạch.Ngoài ra,nó còn được dùng làm căn
cứ để phân bổ chính thức tổng mức chi kinh phí trong hệ thống các đơn vị dự

toán; hoặc đánh giá khái quát tình hình quản lý và sủ dụng kinh phí của mỗi
đơn vị thụ hưởng sau mỗi kỳ báo cáo. Do vậy với mỗi loại hình đơn vị khác
nhau sẽ có đối tượng để tính định mức phân bổ khác nhau. Bởi vậy, phương
pháp xây dựng định mức phân bổ cho các loại hình đơn vị được tiến hành như
sau:
Xác định đối tượng định mức: Đối tượng để tính định mức phân bổ
cho mỗi loại hình đơn vị phải vừa phản ánh đặc trưng của hoạt động thuộc
nhiệm vụ chuyên môn của mỗi loại hình đơn vị đó,vừa gắn chặt với cách thức
quản lý,phương pháp phân tích tình hình sử dụng kinh phí tại mỗi đơn vị thụ


20
hưởng.Nên với mỗi loại hình hoạt động khác nhau,người ta xác định đối
tượng để tính định mức khác nhau.
Đánh giá,phân tích tình hình thực tế chi theo định mức chi nhằm xem
xét phù hợp của định mức hiện hành.Yêu cầu rất quan trọng đối với định mức
phân bổ này là phải đảm bảo được sự công bằng giãu các vùng,các địa
phương về khả năng tạo nguồn ngân sách để đáp ứng nhu cầu chi thường
xuyên mà mỗi đơn vị địa phương đó phải đảm bảo.Trong khi đó,các loại hình
hoạt động thuộc phạm vi chi thường xuyên ngày càng phát triển.quy trình lập
và phân bổ dự toán NSNN
+ Các yêu cầu đối với đối với định mức phân bổ
Một là,các ĐMPBNS phải được xây dựng một cách khoa học
Hai là: các ĐMPBNS phải có tính thực tiễn cao
Ba là: ĐMPB phải đảm bảo tính thống nhất
Bốn là : DDMPBNS phải đảm bảo tính pháp lý cao
1.2.6 Quy trình lập và phân bổ dự toán NSNN
* Lập dự toán, phân bổ vốn đầu tư phát triển
- Căn cứ lập, tổng hợp và trình phê duyệt dự toán
Hàng năm, căn cứ vào Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư hướng

dẫn, thông báo số kiểm tra về dự toán NS của Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND các địa phương thực hiện thông báo số
kiểm tra về dự toán NS và tổ chức hướng dẫn các đơn vị chủ đầu tư trực thuộc lập
dự toán vốn ĐTPT.
Trong thời gian lập dự toán NSNN hàng năm, đối với các dự án sử dụng
vốn ĐTPT, chủ đầu tư căn cứ vào tiến độ và mục tiêu thực hiện dự án, lập dự toán
vốn đầu tư gửi cơ quan quản lý cấp trên; đối với các dự án sử dụng vốn sự nghiệp
có tính chất đầu tư, chủ đầu tư căn cứ vào nhu cầu sửa chữa, cải tạo, mở rộng,
nâng cấp các cơ sở vật chất hiện có của đơn vị lập dự toán vốn đầu tư gửi cơ quan
quản lý cấp trên. Cơ quan quản lý cấp trên của chủ đầu tư có trách nhiệm tổng hợp


21
dự toán vốn ĐTPT vào dự toán NSNN theo quy định của Luật NSNN.
UBND cấp tỉnh tổng hợp, lập dự toán vốn đầu tư trình Thường trực HĐND
tỉnh xem xét có ý kiến để gửi Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Trên cơ sở kế hoạch phát triển KTXH dài hạn và từng năm, các cân đối chủ
yếu của nền kinh tế, Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với các Bộ và UBND cấp tỉnh
xây dựng dự toán NSNN (trong đó có dự toán chi đầu tư), phối hợp với Bộ Kế
hoạch và Đầu tư phân bổ dự toán vốn đầu tư cho từng Bộ, UBND tỉnh và các dự
án quan trọng của Nhà nước để trình Chính phủ trình Quốc hội phê chuẩn [9, 25].
1.2.2.1.2 Phân bổ dự toán chi đầu tư phát triển
Sau khi dự toán NSNN được Quốc hội quyết định và Chính phủ giao, các
Bộ và UBND các cấp lập phương án phân bổ vốn đầu tư cho các dự án đầu tư
thuộc phạm vi quản lý phù hợp với kế hoạch KTXH và qui hoạch được duyệt, đã
đủ thủ tục đầu tư và xây dựng, đảm bảo khớp đúng với chỉ tiêu được giao về tổng
mức đầu tư, cơ cấu vốn các dự án quan trọng của Nhà nước và đúng với Nghị
quyết của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ về điều hành kế hoạch phát triển kinh
tế – xã hội và dự toán NSNN hàng năm. Riêng đối với các dự án được đầu tư từ
các nguồn vốn được để lại theo Nghị quyết của Quốc hội (tiền sử dụng đất, thu từ

hoạt động xổ số kiến thiết) phải bảo đảm tuân thủ đúng quy định về đối tượng đầu
tư và mục tiêu sử dụng từng nguồn vốn.
Phương án phân bổ vốn đầu tư của UBND các cấp phải trình HĐND cùng
cấp quyết định. Sở Tài chính phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư về việc dự kiến
phân bổ vốn đầu tư cho từng dự án do cấp tỉnh quản lý báo cáo UBND cấp tỉnh
quyết định. Phòng Tài chính huyện chủ trì phối hợp với các cơ quan chức năng
của huyện tham mưu cho UBND cấp huyện phân bổ vốn đầu tư cho từng dự án
do huyện quản lý. Bộ máy quản lý tài chính NS ở xã tham mưu cho UBND cấp xã
lập phương án phân bổ vốn đầu tư cho các dự án thuộc phạm vi cấp xã được phân
cấp quản lý.
Sau khi phân bổ vốn đầu tư cho từng dự án, các Bộ và UBND tỉnh phải gửi


22
Bộ Tài chính. UBND cấp huyện gửi cho Sở Tài chính, UBND cấp xã gửi cho
Phòng Tài chính để kiểm tra các quy định sau:
- Đảm bảo các điều kiện của dự án được ghi vào kế hoạch đầu tư hàng năm.
- Sự khớp đúng với chỉ tiêu được giao về tổng mức đầu tư, cơ cấu vốn
trong nước và vốn nước ngoài, cơ cấu ngành kinh tế, mức vốn cho các dự án quan
trọng của Nhà nước.
- Tuân thủ đúng các quy định về đối tượng đầu tư và việc sử dụng từng
nguồn vốn đầu tư với các dự án được đầu tư bằng nguồn vốn theo Nghị quyết của
Quốc hội và quyết định của Chính phủ [9, 25].
*Lập dự toán, phân bổ chi thường xuyên
- Căn cứ lập dự toán chi thường xuyên
Dự toán chi thường xuyên là một bộ phận hết sức quan trọng của dự toán
chi NSNN. Vì vậy, lập dự toán chi thường xuyên phải dựa trên những căn cứ sau:
- Chủ trương của Nhà nước về duy trì và phát triển các hoạt động thuộc bộ
máy quản lý Nhà nước, các hoạt động sự nghiệp, quốc phòng – an ninh và các
hoạt động xã hội khác trong từng giai đoạn. Dựa vào căn cứ này sẽ giúp cho việc

lập dự toán chi thường xuyên của NSNN đạt được những mục tiêu và nhiệm vụ
mà NSNN phải hướng tới. Trên cơ sở đó xác lập các hình thức, các phương pháp
phân bổ vốn của NSNN vừa tiết kiệm, vừa đạt mục tiêu đã đặt ra.
- Các chỉ tiêu của kế hoạch phát triển KTXH có liên quan trực tiếp đến việc
cấp phát kinh phí chi thường xuyên của NSNN. Đây chính là việc cụ thể hóa các
chủ trương của Nhà nước trong từng giai đoạn thành các chỉ tiêu cho kỳ kế hoạch.
Các chỉ tiêu này kết hợp với các định mức chi thường xuyên sẽ là những yếu tố cơ
bản để xác lập dự toán chi thường xuyên của NSNN. Tuy nhiên, khi dựa trên căn
cứ này để lập dự toán chi thường xuyên của NSNN nhất thiết phải thẩm tra, phân
tích tính đúng đắn, hiện thực, tính hiệu quả của các chỉ tiêu đó để có ý kiến điều
chỉnh lại kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội cho phù hợp.
- Khả năng nguồn kinh phí có thể đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên của


23
năm dự toán. Muốn dự đoán được khả năng này, cần dựa vào cơ cấu thu NSNN
kỳ báo cáo và mức tăng trưởng của các nguồn thu năm dự toán để thiết lập mức
cân đối chung giữa khả năng nguồn kinh phí và nhu cầu chi thường xuyên của
NSNN.
- Các chính sách, chế độ chi thường xuyên của NSNN hiện hành và dự
đoán những điều chỉnh hoặc thay đổi có thể xảy ra thời gian tới. Đây là cơ sở
pháp lý cho việc tính toán dự toán chi thường xuyên của NSNN và tạo điều kiện
cho quá trình chấp hành dự toán được thuận lợi khi có sự điều chỉnh hoặc thay đổi
chính sách, chế độ chi tiêu.
- Kết quả phân tích, đánh giá tình hình quản lý và sử dụng kinh phí chi
thường xuyên năm báo cáo sẽ cung cấp các thông tin cần thiết cho việc lập dự
toán chi theo các phương diện:
+ Tính phù hợp của các định mức chi hay các chính sách chế độ chi tiêu
hiện hành, trên cơ sở đó mà hoàn chỉnh bổ sung kịp thời.
+ Xác định hướng gia tăng các khoản chi cả về tốc độ và cơ cấu. Kết

quả của các loại hoạt động được đảm bảo bởi nguồn kinh phí chi thường
xuyên của NSNN.
Có thể nói các thông tin thu thập được từ kết quả phân tích, đánh giá tình
hình quản lý và sử dụng kinh phí chi thường xuyên của NSNN năm báo cáo là căn
cứ mang tính thực tiễn cao đối với quá trình lập dự toán chi thường xuyên. Trong
khuôn khổ của dự án: “Lập trình tài chính và cải cách cơ cấu” do Học viện đào tạo
khu vực của IMF tại Singapore (STI) hỗ trợ cho Bộ Tài chính Việt Nam, tháng
9/1999 đã đề cập đến phương pháp phân tích số liệu thực tiễn qua một giai đoạn
để xác định chỉ số gia tăng bình quân qua các năm, nhằm lựa chọn mức dự đoán
cho từng chỉ tiêu thu, chi NSNN năm dự toán. Tuy nhiên, muốn tăng tính chính
xác của chỉ tiêu dự đoán cần phải kết hợp với nhiều tham số khác nữa. Chính vì
vậy, việc sử dụng và tôn trọng tất cả các căn cứ là yêu cầu tất yếu khi xây dựng dự
toán chi thường xuyên của NSNN [9, 25].


24
-Các phương pháp xác định dự toán chi thường xuyên của ngân sách nhà
nước
Có 2 phương pháp tính để xác định dự toán chi thường xuyên của NSNN:
a. Phương pháp tính tổng hợp
Theo phương pháp này thì số dự toán chi thường xuyên cho mỗi loại
hình đơn vị sẽ được xác định dựa vào định mức chi tổng hợp (hay định mức
phân bổ) dự kiến cho một đối tượng và số đối tượng bình quân được tính định
mức. Tổng dự toán chi thường xuyên cho các loại hình đơn vị sẽ là số chi
thường xuyên dự toán của NSNN. Có thể mô tả phương pháp này theo công
thức sau:
n

CTX = ∑ ( M i × Di )
i =1


Trong đó: CTX: số chi thường xuyên dự toán của NSNN;
Mi: định mức chi tổng hợp dự kiến cho một đối tượng thuộc loại
hình đơn vị thứ i;
Di: số đối tượng bình quân được tính định mức thuộc loại hình
đơn vị thứ i.
Định mức chi tổng hợp thường do cơ quan tài chính phối hợp với các cơ
quan quản lý ngành trình cấp có thẩm quyền quyết định dựa trên các định mức
kinh tế kỹ thuật, đặc thù về chuyên môn vụ, các chế độ chính sách và khả năng
kinh phí của NSNN trong từng thời kỳ.
Định mức chi tổng hợp được sử dụng để phân bổ NSNN giữa NS các cấp
hoặc trong một cấp NS cho các đơn vị dự toán trực thuộc.
b. Phương pháp tính theo các nhóm mục chi
Trong công tác quản lý các khoản chi thường xuyên của NSNN, người ta
thường phân chia nội dung chi theo 4 nhóm chi chủ yếu như sau:
- Chi thanh toán cho cá nhân;
- Chi cho nghiệp vụ chuyên môn;


25
- Chi cho mua sắm, sửa chữa tài sản;
- Các khoản chi khác.
Dựa trên cơ sở phân chia các nhóm mục chi theo các tiêu thức kể trên,
phương pháp tính dự toán chi thường xuyên theo các nhóm mục được tiến hành
như sau:
Thứ nhất, xác định dự toán chi cho con người dựa trên số công chức viên
chức (CCVC) bình quân dự kiến có mặt trong năm dự toán và mức dự kiến chi
bình quân 1 CCVC
CCN = (MCNi x SCNi)
Trong đó:

CCN: số dự toán chi cho CCVC của NSNN.
MCNi: mức chi bình quân một CCVC dự kiến năm dự toán thuộc ngành
thứ i.
SCNi: số CCVC bình quân dự kiến năm dự toán thuộc ngành i.
MCNi thường được xác định dựa vào mức chi thực tế của năm báo cáo, đồng
thời có tính đến những điều chỉnh có thể xảy ra về mức lương, phụ cấp và một số
khoản khác mà Nhà nước dự kiến thay đổi trong kỳ kế hoạch.
SCNi = SCNđn + SCNtg - SCNgi
Trong đó:
SCNđn: số CCVC có mặt đầu năm dự toán ngành thứ i.
SCNtg: số CCVC dự kiến tăng bình quân năm dự toán ngành thứ i.
SCNgi: số CCVC dự kiến giảm bình quân năm dự toán ngành thứ i.
Thứ hai, tính dự toán chi nghiệp vụ chuyên môn
Tùy theo tính chất hoạt động của mỗi ngành và chế độ Nhà nước cho phép
mà số chi nghiệp vụ chuyên môn có sự khác nhau. Do vậy, số chi nghiệp vụ
chuyên môn của mỗi ngành sẽ được xác định theo từng nội dung cụ thể gắn với
nhu cầu kinh phí và khả năng đảm bảo của nguồn kinh phí NSNN. Chi NSNN
cho nghiệp vụ chuyên môn thuộc mỗi ngành gồm:


×