Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

Đánh giá vai trò của một số tổ chức, đoàn thể trong nông thôn đến sự phát triển kinh tế xã hội tại xã việt hùng, huyện trực ninh, tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.73 KB, 118 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng: Số liệu và kết quả nghiên cứu trong khóa luận này
là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học hàm, học vị nào.
Tôi cam đoan rằng: Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện khóa luận này
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong khóa luận đều được ghi rõ
nguồn gốc.
Hà nội, ngày 23 tháng 05 năm 2010
Người cam đoan

Trần Văn Vạn

i


LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực tập tốt nghiệp vừa qua, để hoàn thành được khóa
luận tốt nghiệp, ngoài sự nỗ lực của bản thân tôi đã nhận được rất nhiều sự
quan tâm giúp đỡ của các tập thể, các cá nhân trong và ngoài trường.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến tất cả các thầy, cô giáo thuộc
khoa Kinh tế & Phát triển nông thôn - Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội,
đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo Th.S Nguyễn
Văn Mác đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình làm khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn UBND xã Việt Hùng, HTX nông nghiệp và
các tổ chức đoàn thể, các hộ nông dân xã Việt Hùng đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho tôi hoàn thành tốt đợt thực tập tốt nghiệp này.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn tới gia đình và bạn bè đã động
viên và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập tại trường và thời gian thực
hiện để tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


Hà Nội, ngày 23 tháng 5 năm 2010
Người cảm ơn

Trần Văn Vạn

ii


BÀI TÓM TẮT
Nước ta là một nước nông nghiệp, dân số chủ yếu tập trung ở nông thôn
và làm nông nghiệp để nuôi sống bản thân và gia đình. Trong nông thôn đang
tồn tại những tổ chức, đoàn thể hoạt động rất có hiệu quả trên tất cả các mặt từ
kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị… để giúp đỡ mọi mặt đời sống cho nhân dân,
đồng thời củng cố bộ máy hoạt động của chính quyền tại địa phương.
Hiện nay, trong nông thôn đang tồn tại song song hai hình thức chính
thống và phi chính thống của các tổ chức, đoàn thể. Các hình thức này tồn tại
không mâu thuẫn nhau mà hỗ trợ nhau giúp nông thôn phát triển bền vững.
Bên cạnh đó, các tổ chức, đoàn thể nông thôn cũng đang bộc lộ những hạn
chế về mặt tổ chức, quản lý dẫn đến hiệu quả một số hoạt động chưa cao,
chưa thể hiện tốt vai trò sẵn có của mình.
Trong những năm qua, các tổ chức, đoàn thể trên địa bàn xã Việt Hùng
hoạt động rất hiệu quả và đã mang lại nhiều tác động tích cực về kinh tế - xã
hội cho địa phương. Để hiểu rõ hơn vai trò của các tổ chức, đoàn thể đó
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá vai trò của một số tổ chức,
đoàn thể trong nông thôn đến sự phát triển kinh tế - xã hội tại xã Việt
Hùng, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định”.
Với mục tiêu chính là đánh giá vai trò và kết quả hoạt động của các tổ
chức, đoàn thể trong nông thôn đến sự phát triển kinh tế - xã hội tại xã Việt
Hùng, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao vai trò của các tổ chức, đoàn thể đó. Từ đó đề tài cũng góp phần hệ

thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về các tổ chức, đoàn thể trong nông thôn
ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Để tiến hành nghiên cứu, tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu như
chọn điểm nghiên cứu, tôi chọn điểm nghiên cứu là xã Việt Hùng do trong
những năm gần đây hoạt động của các tổ chức, đoàn thể trên địa bàn xã Việt

iii


Hùng đã có những tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội địa
phương và nâng cao đời sống cho người dân xã; phương pháp thu thập thông
tin được sử dụng để thu thập những thông tin cần thiết phục vụ cho việc
nghiên cứu đề tài bao gồm thu thập thông tin đã công bố là những thông tin
về địa bàn nghiên cứu, một số lý luận và phương pháp thu thập thông tin mới
như chọn mẫu nghiên cứu, ở đây mẫu được chọn là các tổ chức, đoàn thể có
vai trò nổi bật và có nhiều hoạt động thiết thực trong thời gian qua đó là: Tổ
chức cơ sở Đảng, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ. Đối với mỗi
Hội, tiến hành phỏng vấn, xin ý kiến các cán bộ lãnh đạo, những người đứng
đầu các đoàn thể để thu thập thông tin về cơ cấu tổ chức, hoạt động, chức
năng, vai trò của các tổ chức, đoàn thể nghiên cứu; phỏng vấn nông dân để
thu thập ý kiến, nhận xét của họ về hoạt động của các tổ chức, đoàn thể trong
thời gian qua cũng như nhu cầu, nguyện vọng của họ trong thời gian tới; thảo
luận nhóm để có điều kiện chia sẻ thông tin, đóng góp ý kiến cho nhau và có
những đề xuất để hoạt động của các tổ chức này ngày càng tốt hơn; Đề tài còn
sử dụng phương pháp xử lý thông tin; phương pháp phân tích thông tin bao
gồm phương pháp so sánh, phương pháp thống kê mô tả, phương pháp dự
đoán, dự báo. Ngoài ra đề tài còn sử dụng hệ thống các chỉ tiêu để đánh giá,
phân tích vai trò và hiệu quả hoạt động của các tổ chức đó trong thời gian
qua. Sau khi tiến hành thu thập thông tin, xử lý số liệu và tiến hành phân tích,
chúng tôi có những đánh giá về vai trò và kết quả hoạt động của một số tổ

chức, đoàn thể trên địa bàn xã Việt Hùng như sau:
Đối với tổ chức cơ sở Đảng: Là một hệ thống chính trị, lãnh đạo toàn
diện về tất cả mọi mặt, đề ra các chủ trương đường lối nghị quyết và có đường
lối nghị quyết đúng, trúng và tính khả thi cao. Ban chấp hành Đảng bộ xã
luôn coi trọng việc tổ chức quán triệt, học tập và triển khai thực hiện kịp thời,
nghiêm túc các Nghị quyết của BCHTW, Bộ chính trị khoá X, các chủ trương
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chỉ thị Nghị quyết của

iv


Tỉnh uỷ, Huyện uỷ đặc biệt là triển khai thực hiện cuộc vân động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo tinh thần Chỉ thị số 06CT/TW của Bộ chính trị. Xây dựng và tổ chức thực hiện chuẩn mực đạo đức
của cán bộ, công chức để từ đó nâng cao ý thức tu dưỡng rèn luyện của mỗi
cán bộ đảng viên và các tầng lớp nhân dân góp phần thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ xã.
Chú trọng và đề cao việc xây dựng đoàn kết thống nhất trong cấp uỷ,
chính quyền và sự phối hợp đồng bộ của cả hệ thống chính trị đã tạo ra sức
mạnh tổng hợp để hoàn thành nhiệm vụ đề ra. Đội ngũ cán bộ được kiện toàn
đầy đủ năng động, nhạy bén nhiệt tình tâm huyết trách nhiệm với công việc
được giao. Phát huy được vai trò lãnh đạo, biết vận dụng khai thác sự đầu tư
giúp đỡ của cấp trên kết hợp với phát huy nội lực để phát triển.
Đối với Hội nông dân: Số lượng hội viên trên toàn xã cho đến nay là
2.243 người, chiếm 82% tổng số nông dân trên toàn xã. Trong đó, có 1.152
hội viên là nữ chiếm 51% tổng số hội viên, còn hội viên nam là 1.091 người
chiếm 49%. Chính sách đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn; phát triển kinh tế
hợp tác và hợp tác xã; công tác xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa; chính
sách cho nông dân nghèo vay vốn, chính sách trợ cước, trợ giá... đã khơi dậy
nguồn lực to lớn trong nông thôn, làm thay đổi bộ mặt nông thôn, đời sống
vật chất tinh thần của nông thôn được cải thiện rõ rệt. Trình độ dân trí được

nâng lên ngày càng cao thích ứng với cơ chế thị trường. Hội nông dân xã nhà
có vai trò rất quan trọng trong việc tuyên truyền chủ trương đường lối của
Đảng, pháp luật Nhà nước, tích cực vận động hội viên xoá đói giảm nghèo
vươn lên làm giàu chính đáng. Hội còn phối hợp với Ngân hàng chính sách và
Ngân hàng NN&PTNT cho hội viên vay vốn với lãi xuất thấp, tạo điều kiện
thuận lợi để hội viên tích cực sản xuất kinh doanh giúp tăng trưởng kinh tế gia
đình và xã hội. Đặc biệt trong quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi,
phát triển mô hình trang trại gia trại đạt hiệu quả kinh tế cao.

v


Đối với Hội cựu chiến binh: Ban cấp hành Hội đến các chi hội thường
xuyên quan tâm xây dựng, củng cố và từng bước nâng cao chất lượng của các
tổ chức Hội đẩy mạnh tuyên truyền vận động, kết nạp hội viên mới. Duy trì
chặt chẽ các chế độ sinh hoạt từ BCH đến chi hội theo quy chế hoạt động của
hội đầu nhiệm kỳ. Thực hiện tốt các chỉ thị và hướng dẫn của hội cấp trên
tham mưu với cấp uỷ chính quyền địa phương có kế hoạch sát thực tiễn và
nhiệm vụ của địa phương. Cho đến nay, số lượng hội viên trên toàn xã là 521
hội viên trong đó: Đảng viên là hội viên CCB là 255 đồng chí, Thương binh là
53 đồng chí, bệnh binh là 47 đồng chí, hội viên nghỉ hưu là 84 đồng chí còn
lại hội viên là lính biên giới hải đảo. Hội đã chú trọng làm tốt công tác vận
động, động viên cán bộ, hội viên nêu cao tinh thần tự lực tự cường, dám nghĩ
dám làm, tích cực, chủ động phát triển kinh tế nâng cao đời sống gia đình;
Thường trực Hội đã làm tốt việc giao chỉ tiêu về phát triển kinh tế cho từng chi
hội như đưa các loại giống mới, các kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất, chăn nuôi,
trồng trọt. Với truyền thống cần cù, chịu khó, năng động, sáng tạo của quê
hương Việt Hùng, với bản chất truyền thống anh bộ đội “Cụ Hồ”, cán bộ hội
viên luôn gương mẫu trong việc thực hiện các chương trình kinh tế mới ở
địa phương như chương trình chăn nuôi gia súc, gia cầm, chương trình lúa cá kết hợp, kinh tế vườn, vườn đồng… Hội đã tổ chức nhiều hình thức giúp

nhau phát triển kinh tế như: Kết hợp với hội nông dân, hội sinh vầt cảnh và
các tổ chức kinh tế khác trong việc chuyển giao và áp dụng kỹ thuật vào sản
xuất, chăn nuôi.
Đối với Hội phụ nữ: Phụ nữ đóng vai trò rất quan trọng đối với gia đình,
cộng đồng và xã hội nhưng do nhiều nguyên nhân mà phụ nữ lại là đối tượng chịu
nhiều thiệt thòi nhất, mà nguyên nhân chủ yếu nhất vẫn là do định kiến nặng nề
của chế độ phong kiến để lại, cộng với những hủ tục lạc hậu vẫn chưa biến mất
trong nông thôn.

vi


Đến nay vấn đề bình đẳng giới được chú ý nên vai trò của phụ nữ
cũng được quan tâm nhiều hơn. Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước,
phụ nữ đã có nhiều cơ hội hơn để tiếp thu cái mới, những thông tin cùng với
những kỹ thuật tiến bộ trên thế giới, kèm với đó là tư tưởng, quan niệm đã có
phần thông thoáng nên nhiều phụ nữ đã có cơ hội thể hiện mình và giúp phát
triển kinh tế gia đình, cải thiện cuộc sống.
Việt Hùng nằm về phía Đông huyện Trực Ninh và chủ yếu là sản xuất nông
nghiệp, toàn xã có 25 xóm chia làm 25 chi hội phụ nữ với số hội viên tập hợp
là 1590 người. Nhân dân nói chung và các hội viên phụ nữ xã Việt Hùng nói
riêng có đức tính siêng năng, cần cù, chịu thương chịu khó, nhanh nhạy trong
việc tiếp cận và áp dụng các kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất, tiếp cận cơ chế thị
trường, luôn có tư tưởng làm giàu chính đáng. Đội ngũ cán bộ Hội trẻ, đoàn
kết, tâm huyết với phong trào, hội viên tin tưởng vào tổ chức Hội, tích cực
tham gia các hoạt động của Hội cũng như các phong trào của địa phương do
đó mà đời sống của hội viên ngày càng được nâng cao.
Qua tìm hiểu cho thấy hoạt động của các tổ chức, đoàn thể trên địa bàn xã
Việt Hùng có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội của xã và có
mối quan hệ hữu cơ với nhau. Bên cạnh những mặt tích cực, hoạt động của Hội

trong thời gian qua cũng tồn tại những hạn chế về mặt tổ chức, quản lý cần khắc
phục cho nên chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp để nâng cao hơn nữa
vai trò và kết quả hoạt động của các tổ chức đó trên địa bàn xã.
Nói tóm lại, các tổ chức, đoàn thể trong nông thôn đã hình thành,
phát triển và đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương. Là một xã điểm, các tổ chức, đoàn thể trên địa bàn xã Việt Hùng
đã và đang phát huy tích cực vai trò sẵn có của mình và đóng góp to lớn
cho sự phát triển của xã trong thời gian qua.

vii


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BQ
BVTV
CC
ĐU
GDP
GTSX
HCCB
HĐBT
HĐND
Hội LHPN
HNTW
HTX
HV
KHKT
MTTQ
Ngân hàng CSXH
Ng.đ

NGO
NN
NQ
SL
STT
SXKDG
TN
TTCN – XDCB
Tr.đ
UBND
VAC
VSMT
WDA
WTO

: Bình quân
: Bảo vệ thực vật
: Cơ cấu
: Đảng ủy
: Tổng sản phẩm quốc nội
: Giá trị sản xuất
: Hội Cựu Chiến binh
: Hội đồng Bộ Trưởng (nay là Chính Phủ)
: Hội đồng nhân dân
: Hội Liên hiệp Phụ nữ
: Hội nghị Trung ương
: Hợp tác xã
: Hội viên
: Khoa học kỹ thuật
: Mặt trận Tổ quốc

: Ngân hàng Chính sách xã hội
: Nghìn đồng
: Tổ chức phi Chính phủ
: Nông nghiệp
: Nghị quyết
: Số lượng – Sắc lệnh
: Số thứ tự
: Sản xuất kinh doanh giỏi
: Thu nhập
: Tiểu thủ công nghiệp – xây dựng cơ bản
: Triệu đồng
: Ủy ban nhân dân
: Vườn – ao – chuồng
: Vệ sinh môi trường
: Dự án vốn vay phát triển phụ nữ
: Tổ chức thương mại thế giớ

viii


MỤC LỤC

ix


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1 Tiêu chí phân biệt khu vực nông thôn và khu vực thành thị.....Error:
Reference source not found
Bảng 3.1: Tình hình phân bổ và sử dụng đất của xã Việt Hùng ( 2007-2009)
......................................................................Error: Reference source not found

Bảng 3.2: Tình hình dân số và lao động của xã Việt Hùng( 2007-2009). Error:
Reference source not found
Bảng 3.3 Tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật....Error: Reference source
not found
của xã Việt Hùng (2007-2009).....................Error: Reference source not found
Bảng 3.4: Kết quả sản xuất kinh doanh của xã Việt Hùng (năm 2007-2009)
......................................................................Error: Reference source not found
Bảng 4.1: Diện tích gieo cấy và năng suất qua các năm.........Error: Reference
source not found
Bảng 4.2 Tình hình vay vốn của các hộ nông dân xã Việt Hùng năm 2009
......................................................................Error: Reference source not found
Bảng 4.3 Một số lớp tập huấn đã được Hội Nông dân chuyển giao năm 2009
......................................................................Error: Reference source not found
Bảng 4.4 Tình hình vay vốn Hội phụ nữ của các hộ nông dânError: Reference
source not found
xã Việt Hùng năm 2009................................Error: Reference source not found

x


PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Nước ta là một nước nông nghiệp, dân số chủ yếu tập trung ở nông
thôn. Hiện nay, có hơn 70% dân số sống ở nông thôn và chủ yếu làm nông
nghiệp để nuôi sống bản thân và gia đình. Với tỷ lệ nông dân đó có vai trò to
lớn trong công cuộc cách mạng của Đảng, cũng như trong quá trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa của đất nước. Để dẫn đường và giúp nông dân thực
hiện tốt vai trò của mình thì nhất thiết phải có các tổ chức lãnh đạo, các đoàn
thể trong nông thôn đứng ra chỉ đạo nhân dân.
Trong nông thôn, vai trò của các tổ chức, đoàn thể là hết sức quan

trọng và có ý nghĩa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương
cũng như đối với đời sống của mỗi người dân. Các tổ chức, đoàn thể trong
nông thôn ra đời rất sớm chủ yếu có vai trò định hướng, giúp đỡ về mọi mặt
đời sống vật chất - tinh thần cho nhân dân, đồng thời củng cố bộ máy hoạt
động của chính quyền tại địa phương.
Cho đến nay trong nông thôn vẫn đang tồn tại song song hai hình
thức của các tổ chức, đoàn thể đó là các tổ chức chính thống và các tổ chức
phi chính thống. Mỗi hình thức đều có những ưu điểm và nhược điểm
riêng, nếu tồn tại độc lập sẽ hoạt động không hiệu quả, nhưng nếu song
song cùng tồn tại thì sẽ khắc phục được hạn chế của nhau từ đó giúp nông
thôn phát triển bền vững. Cụ thể, các tổ chức chính thống thường có vai trò
định hướng là chính, quan tâm đến mọi mặt của nhân dân cả về kinh tế và
xã hội, chú ý về bề rộng và cố gắng đáp ứng nhu cầu của số đông. Hiện
nay, một bộ phận lớn dân cư thường tham gia vào các tổ chức phi chính
thống, vì ở đó họ có thể thỏa mãn được nhu cầu thiết thực của bản thân.

1


Các tổ chức phi chính thống thường hoạt động hiệu quả hơn và chủ yếu là
hoạt động về kinh tế như cho vay vốn phát triển kinh tế.
Bên cạnh những tác động tích cực mà các tổ chức, đoàn thể trong nông
thôn đã và đang mang lại cho người dân thì một số tổ chức, đoàn thể vẫn còn
những hạn chế về mặt tổ chức, quản lý cho nên nhiều lúc hoạt động còn mờ
nhạt, chưa thực hiện tốt vai trò sẵn có của mình.
Xã Việt Hùng là một xã thuần nông, đời sống nhân dân còn gặp nhiều
khó khăn. Các tổ chức, đoàn thể trên địa bàn xã ra đời sớm và có vai trò rất
quan trọng về kinh tế, xã hội, văn hóa địa phương như hỗ trợ nông dân vay vốn
phát triển kinh tế, tuyên truyền phổ biến chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước, phổ cập giáo dục… Tất cả những hoạt động đó nhằm nâng cao thu nhập,

cải thiện đời sống cho nhân dân, ổn định chính trị, an ninh trật tự trong xã.
Hoạt động của các tổ chức, đoàn thể trên địa bàn xã Việt Hùng thực sự
đang phát huy những hiệu quả tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của xã.
Để hiểu rõ hơn vai trò của các tổ chức, đoàn thể này chúng tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài : “ Đánh giá vai trò của một số tổ chức, đoàn thể trong nông thôn
đến sự phát triển kinh tế - xã hội tại xã Việt Hùng, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam
Định”
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1 Mục tiêu chung
Đánh giá vai trò và kết quả hoạt động của các tổ chức, đoàn thể trong
nông thôn đến sự phát triển kinh tế - xã hội tại xã Việt Hùng, huyện Trực
Ninh, tỉnh Nam Định, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò
của các tổ chức, đoàn thể đó.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về các tổ chức, đoàn
thể trong nông thôn ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

2


- Đánh giá vai trò và kết quả hoạt động của một số tổ chức, đoàn thể
trong nông thôn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của xã.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của các tổ chức, đoàn
thể này tại xã.
1.3 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Đó là vai trò, hoạt động chính của một số tổ chức, đoàn thể trong
nông thôn cũng như tác động của nó đến những người dân.
- Chủ thể nghiên cứu là các tổ chức, đoàn thể trong nông thôn và người dân.
1.4 PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.4.1 Phạm vi về nội dung

Đánh giá vai trò của các tổ chức, đoàn thể trong nông thôn đến sự phát triển
kinh tế - xã hội tại xã Việt Hùng, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định, trong đó đề
tài tập trung nghiên cứu một số tổ chức, đoàn hội có hoạt động mạnh trong thời
gian qua trên địa bàn xã như tổ chức cơ sở Đảng, Hội nông dân, Hội phụ nữ và
Hội cựu chiến binh.
1.4.2 Phạm vi về không gian
Đề tài được tiến hành nghiên cứu trên địa bàn xã Việt Hùng, huyện
Trực Ninh, tỉnh Nam Định
1.4.3 Phạm vi về thời gian
- Thời gian nghiên cứu đề tài: Các số liệu thứ cấp phục vụ cho đề tài
trong giai đoạn từ năm 2007 - 2009.
- Thời gian thực hiện đề tài: Từ ngày 11/01 đến ngày 23/05/2010

3


PHẦN 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.1 Khái niệm và cấu trúc của nông thôn
− Khái niệm về nông thôn
Các quốc gia trên thế giới trong quá trình phát triển đều phân các vùng
lãnh thổ của mình thành hai khu vực là thành thị và nông thôn. Các nhà xã hội
học đã đưa ra một số tiêu chí phân biệt khu vực nông thôn và khu vực thành
thị như thành phần xã hội của dân số, các di sản văn hóa, sự phồn thịnh, sự
phân hóa xã hội của dân cư, mức độ phức tạp của cấu trúc và đời sống xã hội,
cường độ và sự đa dạng của mối liên hệ xã hội… Sự khác nhau căn bản giữa
nông thôn và thành thị được phản ánh rõ nét trong những nguyên lý của xã
hội học nông thôn - đô thị. Trong đó những tiêu chí quan trọng giúp phân biệt
khu vực nông thôn và đô thị bao gồm sự khác nhau về nghề nghiệp, về môi

trường, quy mô cộng đồng, mật độ dân số, tính hỗn tạp và thuần nhất của dân
số, hướng di cư, sự khác biệt xã hội và phân tầng xã hội, hệ thống tương tác
trong từng vùng (Bảng 2.1).
Sự phân biệt nông thôn và thành thị có thể dựa vào các tiêu chí quy
định cho từng vùng. Đối với khu vực thành thị, nhiều nước đã thống nhất coi
số lượng dân cư làm tiêu chí để quy định đô thị. Theo Từ điển Bách khoa của
Liên Xô (cũ) năm 1986 thì đô thị là khu vực dân cư mà phần lớn dân cư ở đó
làm ngoài nông nghiệp. Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học xuất bản
năm 2002 đã định nghĩa đô thị là nơi dân cư đông đúc, là trung tâm thương
nghiệp và có thể cả công nghiệp, thành phố hoặc thị trấn. Cho đến nay, trên
thế giới đều thống nhất coi đô thị là một điểm dân cư tập trung với số lượng
lớn, mật độ cao và tỷ lệ người làm công nghiệp, dịch vụ nhiều hơn hẳn người

4


làm nông nghiệp. Tuy nhiên, cũng còn tùy vào tiêu chí cụ thể có sự khác nhau
giữa các nước, xuất phát từ đặc điểm riêng của mỗi nước.
Bảng 2.1 Tiêu chí phân biệt khu vực nông thôn và khu vực thành thị
Tiêu chí
Nghề

Khu vực nông thôn
Khu vực thành thị
Những người sản xuất nông Những người sản xuất công

nghiệp
Môi

nghiệp, một số ít phi nông nghiệp nghiệp, dịch vụ.

Môi trường tự nhiên ưu trội, quan Môi trường nhân tạo ưu trội, ít

trường
Kích cỡ

hệ trực tiếp với tự nhiên
dựa vào tự nhiên.
Cộng đồng làng bản nhỏ, văn Kích cỡ cộng đồng lớn hơn,

cộng đồng minh nông nghiệp.
văn minh công nghiệp.
Mật độ
Mật độ dân số thấp, tính nông thôn Mật độ dân số cao, tính đô thị và
dân số
Đặc điểm

tương phản với mật độ dân số.
mật độ dân số tương ứng nhau.
Cộng đồng đồng nhất hơn về đặc Không đồng nhất về chủng tộc

cộng đồng điểm chủng tộc và tâm lý.
và tâm lý.
Phân tầng Sự khác biệt và phân tầng xã hội Sự khác biệt và phân tầng xã
xã hội
Di động
Xã hội
Tác động
Xã hội

ít hơn so với đô thị.

hội nhiều hơn ở nông thôn.
Di động xã hội theo lãnh thổ, theo Cường độ di động lớn hơn, có
nghề nghiệp không lớn, di cư cá biến động xã hội mới có di cư
nhân từ nông thôn ra thành thị
từ thành thị về nông thôn.
Tác động xã hội tới từng cá nhân Tác động tới từng cá nhân lớn
thấp hơn. Quan hệ xã hội sơ cấp, hơn. Quan hệ xã hội thứ cấp,
láng giềng, huyết thống.

phức tạp, hình thức hóa.

(Nguồn: Mai Thanh Cúc, 2005).
Ở Việt Nam do đặc thù đất chật, người đông nên những quy định về
tiêu chí của một đô thị khác nhiều so với các nước khác. Quyết định số 132 HĐBT ngày 5/5/1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính Phủ) quy định
nước ta có 5 loại đô thị như sau:
+ Đô thị loại 1: Dân số đạt từ 1 triệu người trở lên, mật độ dân cư từ
15.000 người/km2, tỷ lệ lao động ngoài nông nghiệp từ 90% trở lên.

5


+ Đô thị loại 2: Dân số đạt từ 350.000 đến 1 triệu người, mật độ dân cư
12.000 người/km2, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 80% trở lên.
+ Đô thị loại 3: Dân số từ 100.000 đến 350.000 người, mật độ dân cư đạt từ
10.000 người/km2 trở lên, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 70% trở lên.
+ Đô thị loại 4: Dân số từ 30.000 đến 100.000 người, mật độ dân cư đạt từ
8.000 người/km2 trở lên, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 70% trở lên.
+ Đô thị loại 5: Dân số từ 4.000 đến 30.000 người, mật độ dân cư đạt từ
6.000 người/km2 trở lên, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 60% trở lên.
Như vậy, khu vực nông thôn được xác định là khu vực nằm ngoài

những tiêu chí quy định trên. Có thể coi nông thôn ở Việt Nam bao gồm các
địa bàn dân cư có số lượng dân tập trung dưới 4.000 người, mật độ dân cư ít
hơn 6.000 người/km2 và tỷ lệ lao động phi nông nghiệp dưới 60%.
Việc phân biệt nông thôn và đô thị có tính chất tương đối. Thực tế cho
thấy vẫn còn sự xen lẫn về đất đai, địa bàn dân cư và hoạt động kinh tế xã hội,
đặc biệt là ở các đô thị nhỏ, thị tứ, thị trấn. Ở các nước đang phát triển, những
khu vực nông thôn đang diễn ra quá trình đô thị hóa nhanh chóng.
Hiện nay trên thế giới vẫn chưa có định nghĩa chuẩn xác về nông thôn
và còn có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng dựa vào chỉ
tiêu trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng, có nghĩa là vùng nông thôn có cơ sở
hạ tầng không phát triển bằng thành thị. Quan điểm khác lại cho rằng nên dựa
vào chỉ tiêu trình độ tiếp cận thị trường, phát triển hàng hóa để xác định vùng
nông thôn vì cho rằng vùng nông thôn có trình độ sản xuất hàng hóa và khả
năng tiếp cận thị trường thấp hơn so với đô thị. Một quan điểm khác lại cho
rằng, vùng nông thôn là vùng có dân cư làm nông nghiệp là chủ yếu, tức là
nguồn sinh kế chính của cư dân nông thôn trong vùng là từ hoạt động sản xuất
nông nghiệp. Những ý kiến này chỉ đúng trong từng trường hợp cụ thể và
từng nước nhất định, phụ thuộc vào trình độ phát triển, cơ cấu kinh tế, cơ chế
áp dụng cho từng nền kinh tế. Đối với những nước đang tiến hành quá trình

6


công nghiệp hóa, đô thị hóa, chuyển từ sản xuất thuần nông sang phát triển
công nghiệp và dịch vụ, xây dựng những khu đô thị nhỏ, thị tứ, thị trấn,
những trung tâm công nghiệp nhỏ có quan hệ gắn bó mật thiết với nông thôn,
cùng tồn tại, hỗ trợ và thúc đẩy nhau phát triển.
Như vậy, khái niệm nông thôn chỉ có tính chất tương đối, nó có thể
thay đổi theo thời gian và theo tiến trình phát triển kinh tế, xã hội của các
quốc gia trên thế giới. Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, nhìn nhận dưới

góc độ quản lý, có thể hiểu “nông thôn là vùng sinh sống của tập hợp cư
dân, trong đó có nhiều nông dân. Tập hợp cư dân này tham gia vào các
hoạt động kinh tế, văn hóa - xã hội và môi trường trong một thể chế chính
trị nhất định và chịu ảnh hưởng của các tổ chức khác”.
Một số đặc điểm riêng của nông thôn Việt Nam đó là:
+ Ở vùng nông thôn, các cư dân chủ yếu là nông dân và làm nghề nông,
đây là địa bàn hoạt động chủ yếu của các ngành sản xuất vật chất nông, lâm,
ngư nghiệp và các ngành nghề sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp. Trong
các làng xã truyền thống, sản xuất nông nghiệp chiếm vị trí chủ chốt và là
nguồn sinh kế chính của đại bộ phận nông dân. Cùng với sự phát triển và tiến
bộ của đất nước, đặc điểm này có sự thay đổi. Các vùng nông thôn trong
tương lai sẽ không phải chủ yếu có các nông dân sinh sống và làm nông
nghiệp, thay vào đó là các cư dân cư trú và tiến hành các hoạt động kinh tế
khác nhau, gồm cả sản xuất nông nghiệp, sản xuất công nghiệp và thương mại
dịch vụ. Theo đó tỷ trọng lao động và GDP của các ngành kinh tế ở nông thôn
cũng thay đổi theo hướng gia tăng cho công nghiệp và dịch vụ.
+ Nông thôn thể hiện tính chất đa dạng về điều kiện tự nhiên, môi trường
sinh thái, các vùng nông thôn quản lý một lượng tài nguyên thiên nhiên to
lớn, phong phú và đa dạng, bao gồm các tài nguyên đất, nước, không khí,
rừng, sông suối, ao hồ, khoáng sản, hệ động thực vật gồm cả tự nhiên và do
con người sáng tạo ra.

7


+ Cư dân nông thôn có mối quan hệ họ tộc và gia đình khá chặt chẽ với
những quy định cụ thể của từng họ tộc và gia đình. Ở nông thôn, có nhiều gia
đình trong một dòng họ cùng sinh sống và gắn bó gần gũi, khăng khít lâu đời.
Những người ngoài dòng họ cùng chung sống, góp sức phòng tránh thiên
tai, giúp đỡ nhau trong sản xuất và đời sống hàng ngày tạo nên tình làng nghĩa

xóm bền chặt.
+ Nông thôn lưu giữ và bảo tồn nhiều di sản văn hóa của quốc gia như các
phong tục tập quán cổ truyền về đời sống, lễ hội, sản xuất nông nghiệp và
ngành nghề truyền thống, các di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh…
Đây chính là nơi chứa đựng kho tàng văn hóa dân tộc, đồng thời là khu vực
giải trí và du lịch sinh thái phong phú và hấp dẫn đối với mọi người.
− Cấu trúc của nông thôn
Trước hết, người dân được xác định là chủ thể nông thôn. Người dân
với đa dạng về thành phần nghề nghiệp và sinh kế cũng như sắc tộc, tôn giáo.
Tuy nhiên nét đặc trưng cơ bản có thể nhận thấy ở đây là chủ thể (người dân)
nông thôn có lực lượng lao động nông nghiệp chiếm một tỷ lệ lớn và được coi
là lực lượng nòng cốt của chủ thể nông thôn Việt Nam.
Tuy đa dạng về thành phần nhưng xét ở góc độ gắn kết ảnh hưởng lẫn
nhau, cũng như quyền quyết định về sinh kế và các hoạt động kinh tế, xã hội
khác có thể thấy rằng chủ thể nông thôn tồn tại ở nhiều hình thể, cấp độ và vai
trò khác nhau như cá nhân, gia đình, dòng họ, cộng đồng.
Các cá nhân hay thành viên của chủ thể nông thôn với những nhu cầu,
nguyện vọng, năng lực và ứng xử khác nhau, tùy thuộc vào đặc tính riêng của
từng người. Vai trò của cá nhân hay thành viên có ý nghĩa lớn trong quyết
định và tham gia các hoạt động kinh tế, văn hóa xã hội ở nông thôn.
Ở cấp độ gia đình với những quan hệ phụ thuộc, gắn kết, với nề nếp, quan
niệm và ứng xử cũng rất khác nhau. Trong nông thôn các gia đình nông dân hay

8


các nông hộ đóng vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế, được coi là
một đơn vị sản xuất tự chủ, có quyền quyết định trong sản xuất kinh doanh.
Một nét đặc trưng ở nông thôn Việt Nam là giữa các gia đình nông thôn
có quan hệ họ tộc rất gắn kết. Mỗi dòng họ có những truyền thống, di sản và

những ước định của riêng mình. Sức mạnh tinh thần và vật chất của mỗi dòng họ
nếu được khích lệ và huy động sẽ tạo nên động lực phát triển trong nông thôn.
Bao trùm lên tất cả là sự tồn tại của chủ thể nông thôn ở cấp độ cộng
đồng. Các cộng đồng có thể hiểu như là tập hợp của những người dân có cùng
nền văn hóa, cùng phong tục, cùng sinh sống ở một nơi nhất định, hoặc cùng
có sở thích trong sản xuất, kinh doanh, mối quan tâm, hoặc nghề nghiệp. Theo
nghĩa hẹp có thể coi các đơn vị làng, bản, xóm, thôn, xã, huyện… là các cộng
đồng nông thôn ở Việt Nam.
Như vậy, có thể nhấn mạnh rằng: chủ thể nông thôn là các cá nhân, gia
đình, dòng họ, cộng đồng của cư dân trong đó nông dân chiếm một tỷ lệ đáng
kể và đóng vai trò chủ đạo. Ở khái niệm nông thôn đã nêu ở trên, chủ thể nông
thôn là yếu tố con người. Tạo nên một chỉnh thể nông thôn chính là hoạt động
của chủ thể trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, môi trường và mối
quan hệ của họ với thể chế chính trị cũng như các tổ chức khác trong nông
thôn. Với những ý nghĩa tương đối trong cách phân loại, những hoạt động kinh
tế, văn hóa - xã hội, môi trường và các mối quan hệ bao gồm:
+ Các hoạt động kinh tế: Bao gồm các hoạt động sản xuất nông nghiệp,
sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, các hoạt động thương mại dịch
vụ. Tham gia vào các hoạt động đó gồm đầy đủ các thành phần kinh tế với
các tổ chức đa dạng. Tỷ trọng các ngành kinh tế trong tổng GDP của vùng
nông thôn phụ thuộc vào mức độ phát triển của từng vùng, nhưng theo xu
hướng tỷ trọng sản xuất nông nghiệp sẽ ngày càng giảm và tỷ trọng các ngành
công nghiệp và thương mại dịch vụ sẽ ngày càng tăng.

9


+ Các tổ chức: Bao gồm nhiều loại hình cả chính thống và phi chính
thống như các tổ chức chính quyền ở địa phương, các tổ chức kinh tế, các
đoàn thể quần chúng…Những tổ chức này được hình thành, hoạt động trong

khuôn khổ các thể chế, chính sách, ảnh hưởng và có tác động trực tiếp, gián
tiếp đến các hoạt động chung của cộng đồng hoặc những nhóm dân cư nhất
định trong quá trình phát triển nông thôn.
+ Cơ sở hạ tầng nông thôn: Bao gồm đường nông thôn, hệ thống thủy lợi,
hệ thống thông tin liên lạc, trường học… Những cơ sở này phục vụ đắc lực
cho đời sống sinh hoạt và sản xuất kinh doanh của các cư dân nông thôn.
+ Khoa học và công nghệ: Đây là một thành phần quan trọng ở nông thôn.
Khía cạnh khoa học và những kỹ thuật - công nghệ đó bao gồm cả các kiến
thức bản địa và kinh nghiệm truyền thống của người dân nông thôn về tất cả
các lĩnh vực tác động đến đời sống của họ. Khía cạnh khoa học - công nghệ ở
nông thôn còn là sự nhận thức, tiếp nhận và chuyển giao khoa học - công
nghệ hiện đại, tiên tiến từ bên ngoài của chủ thể nông thôn để thúc đẩy quá
trình phát triển của chính họ.
+ Y tế, sức khỏe cộng đồng: Đây là một yếu tố chi phối và ảnh hưởng quan
trọng tới các hoạt động ở nông thôn. Vấn đề sức khỏe của người dân trong
cộng đồng luôn được coi trọng trong mọi chương trình phát triển. Hệ thống y
tế, các hoạt động chăm sóc sức khỏe thường xuyên được duy trì nhằm đảm bảo
các hoạt động sống và sản xuất của mỗi thành viên trong cộng đồng.
+ Văn hóa - giáo dục: Đây là yếu tố luôn được coi trọng trong phát triển
nông thôn. Khía cạnh văn hóa trong nông thôn về nghĩa rộng là tổng hòa các
mối quan hệ ứng xử giữa con người với nhau và với thiên nhiên, có thể hiện
sự đan xen giữa các yếu tố truyền thống và hiện đại. Việc lưu giữ, giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc của từng vùng là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, cũng cần
mở cửa du nhập những loại hình văn hóa hiện đại, lành mạnh có ảnh hưởng
tích cực đến đời sống tinh thần của người dân nông thôn.

10


+ Môi trường và tài nguyên thiên nhiên: Vùng nông thôn gắn liền với các

điều kiện môi trường tài nguyên thiên nhiên, đó là điều kiện quan trọng, là cơ
sở cho việc phát triển kinh tế của từng vùng.
+ Các chính sách kinh tế và xã hội: Những chính sách này nhằm phát huy
lợi thế và tạo điều kiện phát triển bình đẳng, đồng đều giữa các thành viên
trong vùng cũng như giữa các vùng, miền.

Kinh tế

Các tổ chức

Khoa học công nghệ

CHỦ THỂ
NÔNG THÔN
Cá nhân
Gia đình/ dòng họ
Cộng đồng

Thể chế và chính
sách Nhà nước

Y tế - sức khỏe

Tài nguyên môi trường

Văn hóa - giáo dục

Cơ sở hạ tầng

Sơ đồ 2.1 Cấu trúc của nông thôn

Các thành phần kinh tế xã hội nông thôn được trình bày tóm tắt
trong sơ đồ 2.1. Trong phát triển nông thôn, mọi sự tác động hoặc hoạt
động phát triển nếu chỉ đề cập đến một thành phần riêng rẽ mà không tính
đến ảnh hưởng của các thành phần khác thì sẽ không mang lại kết quả tốt,
bởi vì các thành phần ở đây đã tạo nên sự thống nhất và tác động qua lại
lẫn nhau, hình thành nên một chỉnh thể kinh tế xã hội nông thôn.

11


2.1.2 Vai trò của các tổ chức, đoàn thể trong nông thôn đến phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương
Phát triển kinh tế - xã hội của địa phương là một vấn đề rộng lớn, liên
quan không chỉ đến Chính Phủ, những người dân mà còn đến các tổ chức,
đoàn thể trong nông thôn (gọi chung là các tổ chức). Các tổ chức này đóng
góp tích cực vào mọi mặt hoạt động của sự phát triển và bổ sung vào vai trò
của Chính Phủ trong sự phát triển nông thôn.
Các tổ chức là những cơ quan trực tiếp với người dân và triển khai các
vấn đề, các nội dung trong phát triển nông thôn. Nâng cao vai trò của các tổ
chức, tạo điều kiện để các tổ chức hoạt động có hiệu quả trong các hoạt động
phát triển nông thôn là trách nhiệm của Nhà nước và mỗi người dân. Các tổ
chức liên quan đến phát triển nông thôn bao gồm các chính quyền tỉnh, huyện,
xã; các tổ chức đại diện cho nông dân, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh; các
hợp tác xã kiểu mới; các ngân hàng và hiệp hội tín dụng; các doanh nghiệp Nhà
nước và doanh nghiệp tư nhân; các tổ chức phi chính phủ và các nhà tài trợ.
Vai trò của các tổ chức này trong phát triển kinh tế - xã hội bao gồm:
− Chính quyền tỉnh, huyện, xã
Cơ quan chính quyền tỉnh, huyện, xã là cơ quan Nhà nước địa phương,
trực tiếp quản lý và điều hành các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương mình. Trong nông thôn, chính quyền tỉnh, huyện, xã có vai trò

quan trọng trong các mặt sau:
+ Xây dựng và triển khai các chương trình phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương kể cả xây dựng cơ sở hạ tầng.
+ Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, quy hoạch

phân bổ sử dụng đất cho các mục đích phát triển nông nghiệp và các
mục đích khác theo đúng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương.

12


+ Phân bổ và sử dụng ngân sách, tín dụng và nguồn nhân lực hợp lý
cho các nhu cầu phát triển.
+ Quản lý các hệ thống dịch vụ của Nhà nước trên địa bàn như thủy
lợi, giao thông, giáo dục, y tế, xã hội.
+ Hỗ trợ đầu tư để nâng cấp, mở rộng và xây dựng các cơ sở chế biến
mới ở các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh.
+ Quản lý hoạt động xuất nhập khẩu và tiếp cận các thị trường, quản
lý các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn.
Nói chung tổ chức này có vai trò lãnh đạo, quản lý ở tầm vĩ mô các
hoạt động kinh tế - xã hội của địa phương.
− Hợp tác xã
Các hợp tác xã kiểu mới được thành lập hoặc chuyển đổi phù hợp với
nền kinh tế thị trường, dựa trên cơ sở tự nguyện gia nhập của nông dân và
những người và các tổ chức khác. Hợp tác xã kiểu mới không quản lý các
hoạt động canh tác chính mà chủ yếu cung cấp các dịch vụ đầu vào và dịch vụ
tiêu thụ sản phẩm cho nông dân và các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ trên địa bàn.
Hoạt động của hợp tác xã nhằm tăng sức mạnh tập thể, khắc phục những mặt
tiêu cực của kinh tế thị trường, làm cho các hộ nông dân, các trang trại và cơ

sở sản xuất xích lại gần nhau hơn.
Nói chung các hợp tác xã hiện nay là các hợp tác xã dịch vụ, chủ yếu
cung cấp dịch vụ đầu vào cho nông dân, cơ chế tổ chức và hoạt động so với
hợp tác xã cũ có nhiều tiến bộ hơn và hoạt động có hiệu quả hơn.
− Ngân hàng và các tổ chức tín dụng
Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn trong điều kiện sản xuất
phân tán trong các hộ nông dân và các trang trại, các cơ sở sản xuất quy mô
nhỏ rất cần tín dụng. Hoạt động tín dụng nhằm cung ứng vốn vay cho các yêu
cầu phát triển sản xuất kinh doanh nông nghiệp, chế biến, tiểu thủ công

13


nghiệp, dịch vụ ở nông thôn. Sự tham gia của các ngân hàng, các tổ chức tín
dụng nhằm cung ứng vốn kịp thời, lành mạnh, tránh những tiêu cực của hoạt
động tín dụng phi chính thống. Do đó, việc cung cấp tín dụng với các điều
kiện mà cá nhân và tổ chức có thể quản lý được có tầm quan trọng sống còn
đối với các chương trình phát triển nông thôn của cả nước.
Các nguồn tín dụng chính phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội địa
phương đó là: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (ARDB); Ngân
hàng chính sách xã hội; Các Hiệp hội hoặc Quỹ tín dụng, bao gồm cả các quỹ do
các tổ chức quần chúng điều hành (phục vụ cho các hội viên của Hội); Các tổ
chức xã hội khác và các tổ chức phi chính phủ có nguồn vốn tín dụng nhỏ.
− Các doanh nghiệp Nhà nước
Các doanh nghiệp Nhà nước trước đây được thành lập và hoạt động
trên tất cả các lĩnh vực kinh tế nông thôn. Từ khi thực hiện chính sách đổi
mới, vai trò của các doanh nghiệp Nhà nước được chuyển đổi, nhiều doanh
nghiệp Nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ phần hoặc được bán, được sát
nhập hoặc đóng cửa do bị phá sản. Từ năm 1998, Chính phủ đã đưa ra chương
trình cải cách các doanh nghiệp Nhà nước nhằm khắc phục tình trạng thua lỗ

hoặc làm ăn kém hiệu quả với các chủ trương cụ thể:
+ Đa dạng hóa chủ sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước thông qua việc cổ
phần hóa doanh nghiệp.
+ Giải thể các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn không có hiệu quả.
+ Cơ cấu lại các doanh nghiệp Nhà nước vẫn thuộc Chính phủ quản lý.
+ Xây dựng một hệ thống an toàn xã hội cho những người lao động mất
việc thực hiện chính sách này.
Nhà nước vẫn chủ trương tạo mọi điều kiện để doanh nghiệp Nhà nước
là lực lượng chủ đạo trong những lĩnh vực quan trọng đặc biệt là việc tiêu thụ
sản phẩm và chế biến gạo, đường, muối, cao su, cà phê, chè và các nông sản

14


chủ yếu khác. Ngoài ra, một số doanh nghiệp trong lĩnh vực này được đầu tư
và tạo cơ chế thuận lợi để từng bước bán cổ phần cho nông dân trong vùng sản
xuất nguyên liệu nhằm gắn kết giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản.
− Khu vực tư nhân
Trong nền kinh tế thị trường khu vực tư nhân đang ngày càng tham gia
nhiều vào các lĩnh vực kinh tế nông nghiệp và nông thôn, góp phần phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương. Từ khi thực hiện chính sách đổi mới nền kinh
tế Đảng và Chính phủ ta đã có nhiều chính sách và tạo môi trường thuận lợi
cho kinh tế tư nhân phát triển. Hàng triệu hộ và các doanh nghiệp nhỏ hoạt
động ở quy mô nhỏ trong nông nghiệp, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
dịch vụ trên địa bàn nông thôn. Luật doanh nghiệp ra đời đã tạo điều kiện cho
việc thành lập mới doanh nghiệp và tăng cường hoạt động đầu tư của các
doanh nghiệp vào khu vực nông thôn. Khu vực kinh tế tư nhân được đối xử
bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Hoạt động có hiệu quả của khu
vực kinh tế tư nhân góp phần tạo ra sản phẩm cho xã hội, tạo công ăn việc
làm và thu nhập cho lao động nông thôn và đóng góp vào ngân sách địa

phương theo chính sách thuế của Nhà nước.
Ngoài ra, chủ trương của Nhà nước tiếp tục đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa
và đa dạng hóa chủ sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước để tạo thêm cơ hội cho
khu vực kinh tế tư nhân đầu tư nhiều hơn nữa để phát triển kinh tế nông thôn.
− Các tổ chức xã hội
Các tổ chức, đoàn thể xã hội là những tổ chức, đoàn thể do người dân
tự nguyện lập nên nhằm đáp ứng nhu cầu của từng nhóm hay cộng đồng trong
việc tương trợ, giúp đỡ nhau về đời sống, sinh hoạt xã hội. Các tổ chức, đoàn
thể trong nông thôn thường có ý thức về tôn chỉ, mục đích chung nên dễ thành
lập, tổ chức các hoạt động cũng như duy trì ý nghĩa, mục đích của tổ chức,
đoàn thể trong các thành viên của mình, nó thường bền vững do có cơ sở tại

15


×