Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở huyện đông anh thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1011.58 KB, 118 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong chương trình đổi mới toàn diện đất nước, Đảng và Nhà Nước ta luôn chú
trọng đến việc hình thành, phát triển các doanh nghiệp (DN), đặc biệt là các
DNNVV (DNNVV) và coi đó là lực lượng chủ lực của phát triển kinh tế–xã hội và
hội nhập kinh tế quốc tế. Tại Đại hội X của Đảng đã đặt ra yêu cầu xây dựng chiến
lược quốc gia về phát triển DN. Cùng với đường lối đổi mới, các chính sách phát
triển kinh tế, Luật Đầu tư nước ngoài. Luật DN, quỹ hỗ trợ DNNVV,… đi vào cuộc
sống thực sự thúc đẩy các DN thuộc các thành phần kinh tế ra đời và ngày càng
phát triển nhanh về số lượng, rộng về quy mô, phong phú về các loại hình và hoạt
động ngày càng có hiệu quả
DNNVV ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế
của một đất nước. Trong những năm gần đây, thời khoa học và công nghiệp phát
triển mạnh mẽ, thì DNNVV lại càng được trú trọng trên nhiều quốc gia. Ở nước ta,
số lượng các DNNVV tăng mạnh qua các năm. Năm 2006 cả nước có 89.270
DNNVV thì đến năm 2009 con số này đã là gần 332.500 DN. Việc tăng nhanh số
lượng các DNNVV cũng đồng nghĩa với việc cạnh tranh ngày càng gay gắt. Sự tồn
tại và sức sống của một DN thể hiện trước hết ở năng lực cạnh tranh (NLCT). Để
từng bước vươn lên giành thế chủ động trong quá trình hội nhập, nâng cao NLCT
chính là tiêu chí phấn đấu của các DN Việt Nam.
Tuy nhiên, theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), NLCT của Việt
Nam trên các cấp độ (Quốc gia, DN, sản phẩm) so với thế giới còn thấp kém và
chậm được cải thiện. Đây cũng là nhận xét chung cho các DN Việt Nam, riêng đối
với các DNNVV chắc chắn còn thấp hơn nữa ở cả thị trường nội địa và xuất khẩu.
Mặc dù tăng nhanh về số lượng nhưng nhìn chung các DNNVV chưa chủ động
sản xuất các loại sản phẩm có tính tiện dụng cao, chưa có sản phẩm chủ lực, thiếu
tính cạnh tranh. Cơ sở vật chất phục vụ cho SXKD cũ kỹ, công nghệ sản xuất lạc
hậu, thiếu vốn phục vụ cho việc đổi mới trang thiết bị SXKD (SXKD). Khả năng

1



quản trị DN còn yếu kém, chất lượng lao động thấp, hạn chế đến việc tiếp cận các
tiến bộ khoa học tiên tiến.
Đông Anh là một huyện thuộc ngoại thành Hà Nội, trong những năm vừa
qua thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà Nước, Thành Phố
Hà Nội và chính quyền địa phương về phát triển DNNVV, số lượng các DNNVV
trên địa bàn huyện đã tăng lên nhanh chóng, hoạt động trong mọi ngành nghề và
lĩnh vực, góp phần tích cực làm thay đổi bộ mặt của huyện trong những năm qua.
Đông Anh có 2 khu công nghiệp lớn: Khu công nghiệp Đông Anh và khu công
nghiệp Thăng Long. Đóng trên địa bàn Huyện có trên 700 công ty TNHH, 355 công
ty cổ phần, 105 DN tư nhân, 30 công ty nhà nước, 11 công ty TNHH nhà nước một
thành viên, trong đó có khoảng trên 1.100 DNNVV . Tuy nhiên, các DNNVV Đông
Anh cũng còn tồn tại nhiều mặt yếu kém như đã nói ở trên, dẫn đến làm hạn chế
khả năng cạnh tranh của các DN trên thị trường trong và ngoài nước
Yêu cầu đặt ra là cần đánh giá được năng lực cạnh tranh NLCT của các
DNNVV, từ đó có cở sở để đưa ra giải pháp nâng cao NLCT cho các DNNVV ở cả
thị trường nội địa và xuất khẩu.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn trên chúng tôi đã tiễn hành nghiên cứu đề tài:
“Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở
huyện Đông Anh Thành phố Hà Nội”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của các DNNVV ở huyện
Đông Anh Thành phố Hà Nội từ đó đề xuất giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh
cho các DNNVV.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
• Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về DNNVV, NLCT của DNNVV.
• Phân tích thực trạng về NLCT của các DNNVV ở huyện Đông Anh
Thành phố Hà Nội.
• Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến NLCT của các DNNVV ở huyện

Đông Anh Thành phố Hà Nội.

2


• Đề xuất một số giải pháp nâng cao NLCT cho các DNNVV ở huyện Đông
Anh Thành Hà Nội.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
1.3.1 Câu hỏi nghiên cứu
1. Cạnh tranh là gì? Thế nào là NLCT của DNNVV?
2. NLCT về thị trường, thị phần, marketing của các DNNVV Đông Anh hiện
nay như thế nào?
3. Sản phẩm (dịch vụ) của các DNNVV có lợi thế cạnh tranh trên thị trường
hay không?
4. Khả năng cạnh tranh về tài chính, công nghệ và trình độ quản lý DN của
các DNNVV Đông Anh ở mức độ nào?
5. Các yếu tố nội bộ DN và các yếu tố bên ngoài DN có ảnh hưởng như thế
nào đến NLCT của các DNNVV Đông Anh?
6. Hệ thống giải pháp nào để năng cao NLCT cho các DNNVV ở huyện
Đông Anh?
1.3.2 Giả thuyết nghiên cứu
1. Hoạt động marketing của các DN có ảnh hưởng đến NLCT của các
DNNVV huyện Đông Anh.
2. Quy mô nguồn vốn có ảnh hưởng đến NLCT của các DNNVV huyện
Đông Anh
3. Công nghệ các DN đang sử dụng có ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm
và thị phần của các DNNVV huyện Đông Anh.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là xem xét đánh giá và đề xuất các

giải pháp nhằm nâng cao NLCT cho các DNNVV ở huyện Đông Anh Thành phố
Hà Nội.
Chủ thể mà đề tài hướng vào nghiên cứu là các DN, các cơ quan quản lý Nhà
Nước có liên quan đến DN như: Phòng kinh tế; Phòng công thương Huyện Đông
Anh Thành phố Hà Nội.

3


1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về thời gian: Đề tài thu thập số liệu thứ cấp từ năm 2007- 2009.
Thời gian thực hiện đề tài từ 23/12/2009 – 26/05/2010
- Phạm vi về không gian: Chúng tôi chỉ tập trung vào các DNNVV ở huyện
Đông Anh Thành phố Hà Nội để thu thập xử lý thông tin cho việc phân tích trong
đề tài.
- Phạm vi về nội dung: Nội dung chính tập trung vào NLCT của các
DNNVV. Để làm rõ nội dung chính này nghiên cứu còn phân tích các yếu tố nội
sinh và ngoại sinh tác động đến NLCT của DN ở hai thị trường nội địa và xuất
khẩu.

4


PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Các khái niệm cơ bản
2.1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa
Về bản chất DN nhỏ và vừa là một loại hình DN, vì vậy để hiểu thế nào là
DNNVV trước hết phải thống nhất khái niệm về DN. Theo Luật DN Việt Nam thì “
DN là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng

ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động
kinh doanh” (Luật doanh nghiệp, 2005) DN được phân loại căn cứ theo nhiều tiêu
chí khác nhau. Theo ngành kinh tế và lĩnh vực kinh doanh có thể phân thành DN
công nghiệp, DN nông nghiệp, DN thương mại, dịch vụ; theo hình thức sở hữu và
cơ sở pháp lý có thể phân thành DN Nhà Nước, DN tư nhân, công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần, công ty liên doanh, DN có vốn đầu tư nước ngoài; theo
quy mô thì có DN lớn, DNNVV.
Ở nước ta thuật ngữ DNNVV được sử dụng rộng rãi trong khoa học kinh tế
và quản lý từ khi thực hiện công cuộc cải cách kinh tế, chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước. Tuy nhiên
cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về DNNVV cũng như đối với
nhiều nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Các quan niệm về DNNVV cũng thay
đổi theo từng thời điểm khác nhau.
Hiện nay, ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung, chưa có sự thống
nhất các chỉ tiêu nhằm xác định loại hình DNNVV. Có quan điểm gắn việc phân
loại quy mô DN với đặc điểm kinh tế kỹ thuật của từng ngành và dựa trên cơ sở tiêu
thức vốn và lao động. Chẳng, ở Nhật Bản, theo quy định của Bộ luật cơ bản về
DNNVV, trong lĩnh vực công nghiệp chế biến và khai thác thì DN sử dụng dưới
300 lao động, có số vốn SXKD dưới 100 triệu yên thuộc DN nhỏ; còn ở Malayxia,
DN có số vốn nhỏ hơn 500 Ringit và sử dụng dưới 50 lao động là DN nhỏ. Lại có
quan niệm đánh giá quy mô DN không phải chỉ theo từng ngành kinh tế kỹ thuật,
dựa vào tiêu thức vốn và lao động mà cả doanh thu của DN. Chẳng hạn, Đài Loan

5


quy định trong ngành công nghiệp chế tạo, xây dựng và khai khoáng thì doanh thu
không vượt quá 1,5 triệu USD, vốn không vượt quá 40 triệu NT$ và sử dụng dưới
500 lao động được xếp vào DNNVV. Cũng có quan điểm phân loại quy mô DN
theo từng ngành nghề và tiêu thức lao động sử dụng. DN nhỏ trong các ngành công

nghiệp ở Hồng Kông và Hàn Quốc là những DN sử dụng dưới 100 lao động
(Nguyễn Cúc, 2000).
Bảng 2.1 Tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số nước và vùng lãnh
thổ trên thế giới
Tiêu chí áp dụng
Số lao động
Tổng vốn hoặc giá trị tài sản
Inđônêxia
<100
<0.6 tỷ Rupi
Xingapo
<100
<499 triệu USD
Thái Lan
<100
<200 Bath
Hàn Quốc
<300 trong CN, XD
<0.6 triệu USD
<200 trong TM&DV
<0,25 triệu USD
Nhật Bản
<100 trong bán buôn
<10 triệu yên
<50 trong bán lẻ
<100 triệu yên
Châu Âu
<250
<27 triệu ECU
Mêhicô

<250
<7 triệu USD
Mỹ
<500
<20 triệu USD
Nguồn: Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, 2002
Nước

Năm 1996 Liên minh Châu Âu đã đưa ra một định nghĩa chung về DNNVV.
Theo định nghĩa này thì các DN được chia thành các loại hình: DN vi mô có dưới
10 công nhân; DN có dưới 50 công nhân, doanh thu dưới 7 MECU/năm và tổng số
chi phí nhỏ hơn 5 MCEU/năm; DN vừa có dưới 250 công nhân và doanh thu dưới
40 MECU/năm với tổng số chi phí dưới 27 MECU/năm; Thêm vào đó yêu cầu phải
là các DN độc lập (không bị các DN hoặc nhóm DN khác sở hữu 25% hoặc hơn nửa
số tài sản của DN đó (Nguyễn xuân Đạt và cộng sự, 2002).
Ở Việt Nam định nghĩa về DNNVV được phản ánh ở Công văn số 681/CPKTN do Chính phủ ban hành ngày 20/06/1998 theo đó DNNVV là DN có số công
nhân dưới 200 người và vốn đăng ký kinh doanh dưới 5 tỷ đồng (tương đương
378.000 USD – theo tỷ giá tại thời điểm ban hành Công văn). Tiêu chí này đặt ra
nhằm xây dựng một bức tranh chung về các DNNVV ở Viêt Nam phục vụ cho việc
hoạch định chính sách. Trên thực tế tiêu chí này không cho phép phân biệt DN cực

6


nhỏ, nhỏ và vừa. Vì vậy tiếp theo đó, ngày 23/11/2001 Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNNVV. Trong đó có nêu định nghĩa
về DNNVV như sau: “DNNVV là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký
kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số
lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”.
Gần đây, ngày 30/06/2009 Chính phủ ban hành Nghi định số 56/2009/NĐCP về trợ giúp phát triển DNNVV có nêu định nghĩa về DNNVV như sau: DNNVV

là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia
thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn
tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của DN) hoặc
số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên).
Bảng 2.2: Tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo ngành
Khu vực

DN siêu
nhỏ
Số lao
động

DN nhỏ

Tổng nguồn
Số lao động
vốn
I. Nông, lâm nghiệp
>10 - 200
<= 10 người <=20 tỷ đồng
và thủy sản
người
II. Công nghiệp và xây
>10 - 200
<=10 người <=20 tỷ đồng
dựng
người
III. Thương mại và
>10 - 50
<=10 người <=10 tỷ đồng

dịch vụ
người

DN vừa
Tổng nguồn
Số lao động
vốn
> 20 -100 tỷ > 200 - 300
đồng
người
>20 - 100 tỷ >200 - 300
đồng
người
>10- 50 tỷ >50 - 100
đồng
người

Nguồn: Nghị định 56/2009/NĐ-CP
2.1.1.2 Khái niệm cạnh tranh
Thuật ngữ “cạnh tranh” có nguồn gốc từ tiếng La Tinh với nghĩa chủ yếu là
sự đấu tranh, ganh đua, thi đua giữa các đối tượng cùng phẩm chất, cùng loại, đồng
giá trị nhằm đạt được những ưu thế, lợi thế, mục tiêu xác định. Trong hình thái cạnh
tranh thị trường, quan hệ ganh đua xảy ra giữa hai chủ thể cùng (nhóm người bán),
cũng như chủ thể cầu (Nhóm người mua), cả hai nhóm này tiến tới cạnh tranh với
nhau và được liên kết với nhau bằng giá cả thị trường. Theo Samuelson: Cạnh tranh
là sự kình địch giữa các DN cạnh tranh với nhau để giành khách hàng. Theo KacMarx: Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản để giành
giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu được lợi
nhuận siêu ngạch.

7



Theo kinh tế Vi mô thì một thị trường cạnh tranh hoàn hảo có rất nhiều người
mua, người bán để cho không có một người mua hoặc một người bán duy nhất nào
có ảnh hưởng, có ý nghĩa đối với giá cả. Theo cuốn “Các vấn đề pháp lý và thể chế
về chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh” thì cạnh tranh là một
trong những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường, là năng lực phát triển của nền
kinh tế thị trường. Canh tranh là sự sống còn của mỗi DN, đó là sự ganh đua giữa
các nhà DN trong việc giành một nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao
lợi thế của mình trên thị trường để đạt được một mục tiêu kinh doanh cụ thể như lợi
nhuận, doanh số hoặc thị phần.
Ngày nay, cạnh tranh là một yếu tố kích thích kinh doanh. Trong nền kinh tế
thị trường quy luật cạnh tranh là động lực phát triển sản xuất. Như vậy, cạnh tranh
là một quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hóa, là nội dung cơ bản trong cơ
chế vận động của thị trường. Sản xuất hàng hóa càng phát triển hàng hóa bán ra
càng nhiều, số lượng người cung ứng càng đông thì cạnh tranh càng khốc liệt. Kết
quả của cạnh tranh là loại bỏ những đơn vị làm ăn kém hiệu quả và sự lớn mạnh của
những công ty làm ăn có hiệu quả.
Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực
và thế giới. Do vậy sự cạnh tranh trở nên ngày càng khốc liệt, các DN trong nước
không chỉ cạnh tranh với nhau mà còn phải cạnh tranh với các DN nước ngoài. Đó
là những DN có tiềm lực tài chính dồi dào, đội ngũ lao động trình độ cao, công
nghệ sản xuất hiện đại… Điều này đặt ra rất nhiều vấn đề cho các DNNVV.
2.1.1.3 Khái niệm năng lực cạnh tranh
Hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về NLCT (hay còn gọi
là sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh). Nếu xét ở góc độ cấp độ thì NLCT có 3 cấp
độ, đó là:
- NLCT Quốc gia: năng lực của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền
vững thu hút được đầu tư, đảm bảo kinh tế xã hội, nâng cao đời sống của người dân.
- NLCT của DN.

- NLCT của sản phẩm: được phản ánh qua các tiêu chí như: giá cả, chất
lượng, kiểu dáng cũng như sự độc đáo, phù hợp với thị hiếu người tiêu dung… Một

8


hàng hóa, dịch vụ được coi là có sức cạnh tranh cao khi chúng có chất lượng vượt
trội độc đáo riêng có.
Trong đề tài này chúng ta quan tâm đến NLCT của DN.
2.1.1.3 Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Khái niệm NLCT của DN được đề cập đầu tiên ở Mỹ vào đầu những năm
1990. Theo Aldington Report (1985): “DN có khả năng cạnh tranh là DN có thể sản
xuất sản phẩm và dịch vụ với chất lượng vượt trội và giá cả thấp hơn các đối thủ
khác trong nước và quốc tế. Khả năng cạnh tranh đồng nghĩa với việc đạt được lợi
ích lâu dài của DN và khả năng đảm bảo thu nhập cho người lao động và chủ DN”.
Định nghĩa này cũng được nhắc lại trong “Sách trắng về NLCT của Vương quốc
Anh” (1994). Năm 1998, Bộ thương mại và công nghiệp Anh đưa ra đinh nghĩa
“Đối với DN, NLCT là khả năng sản xuất đúng sản phẩm, xác định đúng giá cả và
vào đúng thời điểm. Điều đó có nghĩa là đáp ứng nhu cầu khách hàng với hiệu suất
và hiệu quả hơn các DN khác”.
Tuy nhiên, khái niệm NLCT đến nay vẫn chưa được hiểu một cách thống
nhất. Theo Buckley (1998), NLCT của DN cần được gắn kết với việc thực hiện mục
tiêu của DN với 3 yếu tố : các giá trị chủ yếu của DN, mục đích chính của DN và
các mục tiêu giúp các DN thực hiện chức năng của mình.
Điểm lại các tài liệu trong và ngoài nước, có nhiều cách quan niệm về NLCT
của DN. Dưới đây là một số cách quan niệm về NLCT của DN đáng chú ý.
Một là, NLCT của DN là khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi
nhuận của DN. Đây là cách quan niệm khá phổ biến hiện nay, theo đó NLCT là khả
năng tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ so với các đối thủ và khả năng “thu lợi” của các
DN.

Hai là, NLCT của DN là khả năng chống chịu trước sự tấn công của DN
khác. Chẳng hạn, Hội đồng Chính sách NLCT của Mỹ đưa ra định nghĩa: NLCT là
năng lực kinh tế về hàng hóa và dịch vụ trên thị trường thế giới… Ủy ban Quốc gia
về hợp tác kinh tế có trích dẫn khái niệm NLCT theo Từ điển Thuật ngữ chính sách
thương mại (1997), theo đó, NLCT là năng lực của một DN “không bị DN khác

9


đánh bại về năng lực kinh tế”. Quan niệm về NLCT như vậy mang tính chất định
tính, khó có thể định lượng.
Ba là, NLCT đồng nghĩa với năng suất lao động. Theo Tổ chức Hợp tác và
Phát triển kinh tế (OECD), NLCT của DN là sức sản xuất ra thu nhập tương đối cao
trên cơ sở sử dụng các yếu tố sản xuất có hiệu quả làm cho các DN phát triển bền
vững trong điều kiện cạnh tranh quốc tế. Theo M.porter (1990), năng suất lao động
là thước đo duy nhất về NLCT. Tuy nhiên, các quan niệm này chưa gắn với việc
thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ của DN.
Bốn là, NLCT đồng nghĩa với duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh. Chẳng
hạn, tác giả Vũ Trọng Lâm (2006) cho rằng, NLCT của DN là khả năng tạo dựng,
duy trì, sử dụng và sáng tạo mới các lợi thế cạnh tranh của DN, tác giả Trần Sửu
(2005) cũng có ý kiến tương tự: “ NLCT của DN là khả năng tạo ra lợi thế cạnh
tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm
lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững”.
Từ những kết quả nghiên trên, tôi quan niệm: Năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp, là khả năng duy trì
và mở rộng thị phần và có thể sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ với chất lượng vượt
trội và giá cả thấp hơn các đối thủ khác.
2.1.3 Những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiêp nhỏ
và vừa
2.1.3.1 Nhóm yếu tố nội bộ của doanh nghiệp

2.1.3.1.1 Vốn
Vốn là yếu tố đầu tiên cần cho mọi hoạt động của DN. Vấn đề đầu tiên khi
phân tích hệ thống là xem xét đến khả năng tài chính của DN. Tiềm lực tài chính
mạnh giúp DN thực hiện nhiều ý tưởng táo bạo mạo hiểm, có nhiều cơ hội thu được
lợi nhuận cao. Có tiềm lực tài chính mạnh DN có thể tiến hành nhiều hoạt động
SXKD cùng một lúc, có thể tiến hành giảm giá dành thị phần, đầu tư và tái đầu tư
vào các lĩnh vực mới hay mở rộng sản xuât kinh doanh, thực hiện hoạt động SXKD
quy mô lớn, đẩy nhanh hoạt động nghiên cứu và phát triển dẫn đầu trong đổi mới
sản phẩm..... Nguồn lực tài chính là rất quan trọng đối với DN.

10


2.1.3.1.2 Nguồn nhân lực
DN đã có vốn nhưng để đồng vốn đó có hiệu quả thì lại phụ thuộc vào nguồn
nhân lực, những người sử dụng đồng vốn của DN. Nguồn nhân lực có vai trò quyết
định đến sự thành bại của DN đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay - thời đại của nền
kinh tế tri thức. Việc đánh giá phân tích nguồn nhân lực phải xem xét trên các mặt:
trình độ, kinh nghiệm, tinh thần thái độ làm việc, ý thức trách nhiệm, và đặc biệt
ngày nay người ta quan tâm đến khả năng hợp tác hoà đồng trong môi trường làm
việc.
2.1.3.1.3 Khả năng tổ chức quản lý của doanh nghiệp
DN có một cơ cấu tổ chức phù hợp sẽ tối thiểu hoá được chi phí về nguồn
lực, đặc biệt là sự tương đồng với yêu cầu về cơ cấu thực hiện các chiến lược. Khả
năng quản lý tốt sẽ sẽ giúp điều hành và tổ chức DN một cách có hiệu quả, đưa ra
những quyết định chính xác giúp DN giành thắng lợi trong kinh doanh, thu lại kết
quả cao. Quản lý ngày nay cũng cần phải có công nghệ của quản lý, quản lý đòi hỏi
phải có nghệ thuật quản lý. Cùng một DN, cùng một cơ cấu nhưng nhà quản lý nào
biết tận dụng, khai thác tối đa mặt mạnh của hệ thống sẽ giành thắng lợi.
2.1.3.1.5 Hệ thống marketing của doanh nghiệp

Hệ thống marketing có vai trò là cầu nối giữa khách hàng và sản phẩm của DN,
hệ thống này phải đưa đầy đủ thông tin về những ưu việt của sản phẩm đến với
khách hàng, làm hài lòng khách hàng. Hệ thống này phải liên tục thu thập thông tin
phản hồi từ khách hàng nhằm hoàn thiện hơn sản phẩm và đưa ra các loại sản phẩm
mới, đáp ứng những nhu cầu mới, những nhu cầu tiềm ẩn. Hệ thống marketing cũng
tham gia vào quá trình định giá của sản phẩm, lập các kế hoạch, các chương trình
mở rộng thị trường, tìm kiếm khách hàng mới. Khi phân tích hệ thống này DN phải
chú ý đến khả năng thông tin về thị trường, kênh phân phối, dịch vụ sau bán hàng,
xúc tiến bán hàng của DN.
2.1.3.1.6 Nghiên cứu và phát triển
Khi xét đến vấn đề này DN phải tự đánh giá khả năng tài chính cũng như nhân
lực cho lĩnh vực nghiên cứu và phát triển. Chức năng này thường chỉ có ở các DN
tương đối lớn bởi vì kinh phí cho hoạt động này khá cao, kết quả thu được phải qua

11


nhiều lần thử nghiệm. Nhưng chất lượng của nghiên cứu và phát triển có thể giúp
DN giữ vững vị trí đầu ngành, ngược lại sẽ làm DN bị tụt hậu trong lĩnh vực phát
triển sản phẩm mới, chất lượng sản phẩm, kiểu dáng... và đặc biệt là công nghệ sản
xuất. Sự trao đổi thị trường giữa các bộ phận chức năng trong DN với nghiên cứu
và phát triển là hết sức quan trọng
2.1.3.2 Nhóm yếu tố môi trường bên ngoài doanh nghiệp

Kinh tế

Người cung ứng

ĐTCT
tiềm ẩn


Doanh nghiệp trong ngành

Chính trị pháp
luật

Khách hàng

Môi trường ngành
Kỹ thuật
công nghệ

sản phẩm
thay thế

Văn hoá xã hội

Môi trường vĩ mô
Môi trường quốc tế

Sơ đồ 2.1: Các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp
2.1.3.2.1 Môi trường vi mô (môi trường ngành)
Michael E. Porter, trường đại học quản trị kinh doanh Harvard đã đưa ra
những vấn đề cốt lõi nhất để giúp cho các nhà quản lý sử dụng phân tích môi trường
ngành. Đó là mô hình năm lực lượng thị trường:
a) Sự cạnh tranh của các doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành
Có thể nói đối thủ cạnh tranh có tầm quan trọng đặc biệt trong phân tích
chiến lược kinh doanh. Đối thủ cạnh tranh tác động trực tiếp mọi kế hoạch hoạt
động của DN. DN sẽ phải nắm vững điểm mạnh và mặt hạn chế của đối thủ cạnh

tranh nhằm đưa ra các giải pháp hữu hiệu trong cạnh tranh.

12


2.1.3.2.2 Khả năng cạnh của đối thủ tiềm ẩn
Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn là những DN có khả năng nhảy vào ngành trong
tương lai. Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn có thể làm giảm lợi nhuận của DN do sự cạnh
tranh ngày càng gay gắt hơn khi các đối thủ cạnh tranh mới đưa vào khai thác năng
lực sản xuất mới. Do đó DN cần duy trì hàng rào hợp pháp nhằm bảo vệ vị thế dựa
trên ba yếu tố căn bản: thứ nhất là sự ưa chuộng sản phẩm (tạo ra một thương hiệu
quen thuộc, ưa dùng với khách hàng), thứ hai là ưu thế về chi phí thấp (đây là khó
khăn cho các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn khi ra nhập vào thị trường ngành, lợi thế
này bắt nguồn từ phương pháp sản xuất tốt do kết quả của quá trình tích luỹ kinh
nghiệm lâu dài, sự hoạt động ổn định của DN,các mối quan hệ trên thị trường....),
thứ ba là tính hiệu quả sản xuất lớn DN sản xuất với quy mô lớn, góp phần giảm chi
phí trên một đơn vị sản phẩm.
b) Mức độ cạnh tranh của các sản phẩm thay thế
Sự biến động về giá sản phẩm của DN sẽ cho thấy ngay sự biến động về cầu
của sản phẩm thay thế. Khi DN tăng giá thì người tiêu dùng sẽ có khuynh hướng
mua các sản phẩm thay thế. Như vậy các sản phẩm thay thế đã hạn chế mức giá sản
phẩm của DN. Do đó nó cũng gián tiếp hạn chế mức lợi nhuận của DN. DN sẽ phải
tạo ra sự khác biệt lớn, tạo ra những đặc tính mới mà sản phẩm thay thế không có
thì mới có cơ hội nâng giá tăng lợi nhuận. Do đó, DN không thể không xem xét đến
khả năng cạnh tranh tiềm ẩn của sản phẩm thay thế.
c) Sức ép về giá của người mua
Sự thành bại của DN phụ thuộc rất lớn vào nhu cầu của thị trường - chính là
khách hàng. Khách hàng đã chấp nhận sản phẩm của DN, về cơ bản DN đã thành
công bước đầu. Ngày nay, lĩnh vực nào cũng vậy, có nhiều DN cung cấp các sản
phẩm đáp ứng một nhu cầu của khách hàng. Do đó khách hàng càng có cơ hội lựa

chọn hơn, đồng thời các DN cũng phải có khả năng cạnh tranh cao hơn mới có khả
năng thu hút khách hàng. DN phải chú trọng đến chất lượng, mẫu mã của sản phẩm,
dịch vụ hậu mãi nhằm làm tăng uy tín đối với khách hàng, tạo cho khách hàng cảm
giác sự tăng về giá chậm hơn sự tăng lên về chất lượng. Từ đó khách hàng coi giá

13


tăng vẫn còn nằm trong khả năng chấp nhận được vì tâm lý coi giá là sự thể hiện
của chất lượng.
d) Sức ép từ phía người cung cấp:
Người cung cấp ngược lại với khách hàng, vì lợi nhuận, có xu hướng tăng giá
đầu vào của DN làm chi phí của DN tăng lên. DN phải tránh tình trạng chỉ có một nhà
cung cấp, dễ dẫn đến độc quyền, mà phải quan hệ với nhiều nhà cung cấp. Thường
xuyên cập nhật thông tin về số lượng, chất lượng, khả năng cung cấp nhằm lựa chọn
những nhà cung cấp hợp lý nhất, giảm thiểu chi phí cho DN.
2.1.3.2.2 Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô
a) Các yếu tố kinh tế của môi trường vĩ mô
Là các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp nhất đến DN. Các yếu tố này
tương đối rộng nên các DN cần chọn lọc để nhận biết các tác động cụ thể nhất. Các
yếu tố kinh tế chủ yếu tác động đến hoạt động kinh doanh của DN bao gồm:
Thứ nhất, tỷ lệ lãi suất: Không một DN nào khi tiến hành hoạt động SXKD
mà không phải vay vốn. Do đó tỷ lệ lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí của
DN. Đồng thời nó cũng ảnh hưởng lớn đến hoạt động đầu tư của DN, khi DN muốn
triển khai mở rộng quy mô bằng một nguồn vốn có tỷ lệ vốn vay cao. Với dự báo tỷ
lệ lãi suất thấp ít biến động thì chiến lược sẽ được triển khai. Ngược lại chiến lược
sẽ thực hiện nếu trong quá trình hoạnh định dự báo lãi suất sẽ tăng cao.
Thứ hai, tỷ lệ lạm phát. Trong một nền kinh tế tăng trưởng ổn định, tỷ lệ lạm
phát thấp, tạo điều kiện cho DN phát triển nhanh. Trong thời kỳ có lạm phát cao,
giá cả, lãi suất....Trở nên không thể lường trước được. Sự giao động là quá lớn. DN

hoạt động kinh doanh với tỷ lệ rủi ro cao, bởi vì những khoản lợi nhuận thực không
tính toán chính xác được điều này gây ra hiện tượng thoái lui đầu tư.
Thứ ba, chính sách kinh tế: Hoạt động kinh doanh của DN có thuận lợi hay
không cũng nhờ một phần rất lớn vào hệ thống các chính sách của Nhà Nước.
Chính sách tiền tệ, chính sách tài chính, chính sách thuế...ảnh hưởng trực tiếp đến
các DN. Các chính sách càng sâu sát tới các DN, sự hỗ trợ cho các DN càng cao.
Các chính sách này phải đáp ứng nhanh, kịp thời những thay đổi của nền kinh tế.

14


Thứ tư, chu kỳ kinh doanh: DN sẽ rất thuận lợi trong giai đoạn nền kinh tế phát
triển nhưng trong thời kỳ suy thoái DN sẽ phải thu hẹp quy mô, hạn chế đầu tư làm
cho hoạt động của DN chỉ còn là hoạt động đối phó với thị trường.
Ngoài ra còn nhiều yếu tố khác như thất nghiệp, tỷ lệ tăng trưởng, quan hệ đối
ngoại...
b) Các yếu tố chính trị và pháp luật
Các yếu tố chính trị và pháp luật là nền tảng quy định các yếu tố khác của
môi trường kinh doanh. Chúng có thể tạo ra những cơ hội, lợi thế mà cũng có thể
đem lại những hạn chế thậm chí rủi ro cho DN. Sự ổn định về chính trị, sự thống
nhất, hoàn chỉnh về luật pháp tạo ra sự phát triển bền vững cho DN. Ngược lại, sự
biến động mạnh về chính trị, sự mất hiệu lực trong một số văn bản pháp luật mà DN
không dự đoán trước được sẽ tạo ra nhiều mặt hạn chế cho DN.
c) Các yếu tố văn hoá xã hội
Về mặt lâu dài đây là nhân tố ảnh hưởng rộng lớn và sâu sắc nhất đến môi
trường kinh doanh. Sự biến đổi các yếu tố văn hoá xã hội thường chậm nên khó
nhận biết. Sự thay đổi về lối sống, quan niệm về tiêu dùng, trình độ dân trí, cơ cấu
dân số, chuẩn mực xã hội... sẽ làm đảo lộn nhiều loại hàng hoá dịch vụ. Một ví dụ
đơn giản về các trào lưu theo mốt Hàn Quốc đã cho chúng ta thấy những ảnh hưởng
sâu sắc của yếu tố văn hoá

d) Các yếu tố kỹ thuật-công nghệ:
Có thể nói kỹ thuật - công nghệ là một lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ nhất của
các DN hiện nay và trong tương lai. Công nghệ thay đổi có thể làm cho các sản
phẩm hiện đang sản xuất trở nên lỗi thời trong khoảng thời gian ngắn. Sự phát triển
công nghệ làm ngắn đi vòng đời của sản phẩm. Để tồn tại và phát triển DN phải chú
trọng phát triển sản phẩm đồng nghĩa với quá trình phát triển công nghệ, cải tiến
công nghệ. Như vậy công nghệ có thể đem lại sự thuận lợi cũng như sự đe doạ cho
DN. DNNVV Việt Nam không muốn bị tụt hậu sẽ phải chuyển giao công nghệ hiện
đại. Nhưng chuyển giao công nghệ nào vẫn còn là bài toán nan giải cho các DN.

15


2.1.3.2.3 Môi trường kinh doanh quốc tế
Trong thực tế DN có thể tham gia hoặc không tham gia kinh doanh trên thị
trường quốc tế. Song do xu thế hội nhập, toàn cầu hoá nên môi trường kinh doanh
quốc tế cũng ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động kinh doanh của DN. Sự tác động này
ngày càng mạnh khi Việt Nam đã hội nhập AFTA, WTO. Các DN sẽ phải đối đầu
với nhiều đối thủ cạnh tranh quốc tế nặng ký, không còn sự bảo vệ của hành rào
thuế quan. Nhưng có thể nói đây cũng là cơ hội cho DN Việt Nam tung sản phẩm ra
thị trường thế giới.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Kinh nghiệm của các nước, vùng lãnh trên thế giới về phát triển doanh
nghiệp nhỏ và vừa
Các DN nhỏ và vừa có vị trí rất lớn trong nền kinh tế, nó là một trong những
tâm phong vũ biểu của nền kinh tế các nước. Thấy rõ được tầm quan trọng của nó,
các nước trên thế giới không ngừng phát triển hệ thống DNNVV của nước mình. Từ
đầu thế kỷ 20, nhiều mô hình phát triển DNNVV đã mang lại những thành công bất
ngờ, khác hẳn với cái tên khiêm tốn của DN nhỏ và vừa. DNNVV có lợi thế to lớn
trong việc ứng dụng công nghệ mới, thu hút lao động nông thôn và năng động trong

SXKD. Các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản, CHLB Đức và ở nhóm các nước
công nghiệp mới (NICs), loại hình này chiếm trên 90% tổng số các DN (Nhật Bản,
Đức và Tây Âu: 99%; Mỹ và Đài Loan: 98%; Singapore:90%...) và chiếm một tỷ
trọng đáng kể trong GDP của nền kinh tế (Mỹ 50% - 1994; Đức: 50% - 1996).
DNNVV góp phần to lớn cho giải quyết việc làm (Nhật Bản: 79,2% - 1991; Tây
Âu: 57%; Hàn Quốc: 57,8%; Đài Loan: 70%...).
Có thể tóm lược một số kinh nghiệm trên thế giới từ các nước thực thi như
những giải pháp chính yếu cho công cuộc phát triển DNNVV phía sau:
- Tạo cơ sở pháp lý cho DNNVV hoạt động và phát triển
Năm 1957 CHLB Đức đã ban hành luật chống Cácten (chống độc quyền)
nhằm giảm sự phân biệt đối sử và bảo vệ DNNVV khỏi sự thôn tính của các DN
lớn. Năm 1980 ban hành một số các văn bản pháp quy cho phép DNNVV được
hưởng hơn 180 loại ưu đãi.

16


Ở Philippines, từ năm 1987 đã có đạo luật số 77 quy định khái niệm, tiêu chí
DNNVV và cơ chế hỗ trợ. Đến ngày 24 tháng 01 năm 1991 thông qua đạo luật lớn
nhất về phát triển DNNVV, trong đó có điều khoản chính như thành lập hội đồng
phát triển DNNVV, thành lập công ty tài chính và bảo vệ DNNVV, phân bổ bắt
buộc nguồn tài chính cho DNNVV, hợp lý hóa chương trình phát triển DNNVV.
Đến tháng 7 năm 1995 đưa ra đạo luật 8 điều khoản nhằm hỗ trợ DNNVV, năm
1996 có đạo luật của Tổng thống khuyến khích phát triển DNNVV.
Ở Indonesia: DN nhỏ được đặc biệt quan tâm, được công nhận trong Hiến
pháp1945. Năm 1995 có luật số 5 quy định và hướng dẫn cụ thể về việc hỗ trợ phát
triển DNNVV.
- Chính sách hỗ trợ về tài chính
Khó khăn về tài chính là một trở ngại lớn đối với DNNVV ở các nước, đặc biệt
ở các nước đang phát triển. Vì vậy giúp đỡ về tài chính, tín dụng là một trong những

quan tâm hàng đầu của Chính phủ. Việc trợ cấp vốn được tiến hành thông qua một
hệ thống Ngân hàng và các tổ chức tài chính với mức lãi suất ưu đãi khác nhau.
Ở CHLB Đức: Chính phủ giúp vốn cho DNNVV bằng chính sách tài chính
thông qua con đường tín dụng và trợ cấp. Tín dụng đầu tư được ưu đãi theo hướng :
Thành lập DNNVV mới; áp dụng công nghệ cao vào sản suất; Hỗ trợ kinh phí cho
đào tạo và tư vấn; Cấp kinh phí cho dự án và thu hút DNNVV tham gia. Hoạt động
quan trọng nhất về hỗ trợ tài chính là cấp tín dụng và bảo lãnh tín dụng.
Ở Mỹ: Chính phủ lập ra Ngân hàng DN nhỏ để cho DNNVV vay vốn với mức
ưu đãi hoặc có dịch vụ đặc biệt trợ giúp các DN này. Ngoài ra còn có cơ quan quản
lý DN cho DNNVV vay vốn với lãi suất thấp so với Ngân hàng thương mại và bảo
lãnh cho DNNVV vay vốn ở Ngân hàng dưới 500.000 USD với điều kiện người vay
phải hoàn trả nếu kinh doanh thất bại.
Ở các nước Đông Nam Á: Các Chính phủ đều thiết lập nhiều chương trình
trợ giúp tài chính cho DNNVV, như Singapore có tài chính công nghiệp nhỏ; Ở
Malaixia có các cơ quan cấp tín dụng, Ngân hàng Trung Ương và Ngân hàng phát
triển có nhiệm vụ hỗ trợ vốn cho DNNVV. Ở Philippines có Ngân hàng DNNVV
(SMB) đóng vai trò hàng đầu trong hỗ trợ DNNVV.

17


- Chính sách hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm hàng hóa
Tiêu thụ sản phẩm hàng hóa là một khó khăn đối với DNNVV, đặc biệt trong
điều kiện toàn cầu hóa kinh tế và cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Để năng cao
NLCT của hàng hóa của DNNVV, vấn đề cơ bản là hỗ trợ khoa học công nghệ,
nâng cao chất lượng sản phẩm, coi trọng các sản phẩm mang tính truyền thống dân
tộc độc đáo như các loại con giống, con rối ở Indonesia, Philippines, dao kéo của
hợp tác xã Ẩngiu (Thái Lan). Các nước đều có một số chính sách hỗ trợ giới thiệu
và tiêu thụ sản phẩm của DNNVV.
Ở philippines có trung tâm giới thiệu hàng hóa của DNNVV.

Ở Indonesia có các trung tâm thương mại công nghiệp dành cho DN nhỏ sản
suất và tiêu thụ sản phẩm, đồng thời các siêu thị dành các quầy giới thiệu và bán sản
phẩm của các DN nhỏ.
Ở Thái Lan, tại các trung tâm hỗ trợ DNNVV cấp vùng đều có nhà giới thiệu
sản phẩm của DNNVV.
Các nước đều có cục hỗ trợ xuất khẩu nhằm giới thiệu mặt hàng của
DNNVV ra nước ngoài, tạo lập thị trường xuất khẩu và hỗ trợ DNNVV đem hàng
ra bán ở nước ngoài, mở các lớp huấn luyện các hoạt động xuất khẩu cho DNNVV.
- Hỗ trợ về khoa học công nghệ, đào tạo, tư vấn, thông tin
Hỗ trợ khoa học công nghệ cho DNNVV chủ yếu là chuyển giao khoa học
công nghệ, đào tạo nâng cao tay nghề của người lao động sản xuất và người quản
lý, cung cấp các thông tin, vừa nâng cao năng suất và hiệu quả của DNNVV, vừa
nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa.
Ở CHLB Đức, hoạt động tư vấn và đào tạo được đặc biệt chú trọng, gồm các
nội dung chủ yếu như tư vấn về pháp lý, thuế, công nghệ, kỹ thuật và tổ chức
SXKD, tư vấn về môi trường sinh thái, đối ngoại, đào tạo tay nghề, tư vấn về bảo
đảm chất lượng sản phẩm DN.
Ở Thái Lan, Cục hỗ trợ công nghiệp bố trí 11 trung tâm hỗ trợ cấp vùng,
phục vụ cho 75 tỉnh, có nhiệm vụ đào tạo tay nghề và giảng viên cho DNNVV về
kỹ thuật công nghệ và SXKD.

18


Ở Indonesia, có lực lượng tư vấn cho DN nhỏ, có 38 trạm tư vấn tại chỗ với
1500 chuyên gia tư vấn.
- Tạo mối quan hệ hợp tác giữa DNNVV với DN lớn, đẩy mạnh mối quan hệ
hợp tác trong DNNVV, nâng cao NLCT.
Các nước đều coi trọng tạo mối quan hệ hợp tác giữa DNNVV với các DN
lớn, có quy định pháp lý buộc DN lớn phải hỗ trợ DN nhỏ cả vốn, công nghệ hoạt

động và kinh doanh, còn DNNVV trở thành vệ tinh, tham gia chế tạo các phụ tùng,
phụ kiện cho các DN lớn. Ở indonesia còn quy định mỗi DN lớn có trách nhiệm hỗ
trợ một số DN vừa, một DN vừa hỗ trợ một DN nhỏ.
Các nước coi trọng hình thức tổ chức hợp tác của DNNVV do yêu cầu của
SXKD giúp nhau giải quyết đầu vào và đầu ra cho DNNVV, đặc biệt các Ngân
hàng tạo thuận lợi cho vay vốn đồng thời cũng nâng cao NLCT giữa DNNVV thông
qua các hoạt động liên kết, hỗ trợ.
-

Thành lập các cơ quan quản lý, đại diện và hỗ trợ DNNVV
DNNVV ở các nước có vài trò và vị trí quan trọng và chiếm một tỷ trọng lớn

trong nền kinh tế quốc dân, do đó ngoài sự quan tâm của Tổng Thống, Thủ tướng,
Nhà Vua, Chính Phủ và các cơ quan Nhà Nước, các nước đều có cơ quan lo quản lý
và hỗ trợ DNNVV.
Ở philippines có Cục DNNVV nằm trong Bộ Thương mại và Công Nghiệp
để quản lý DNNVV, ở các địa phương có các trung tâm hỗ trợ DNNVV, ở Trung
Ương còn có Hội đồng phát triển DNNVV do đại diện Bộ Thương mại và Công
Nghiệp làm Chủ tịch và 9 thành viên của các bộ phận khác.
Ở Thái Lan có cục hỗ trợ DN nằm trong Bộ Công Nghiệp, vừa quản lý vừa
theo dõi và hỗ trợ DNNVV, có hệ thống tổ chức xuồng các vùng gồm 11 trung tâm
và các sở Công nghiệp ở 75 tỉnh.
- Kinh nghiệm ở Trung Quốc: Tham gia vào tổ chức Thương Mại Thế Giới,
các thị trường của Trung Quốc hiện nay đang có sức hấp dẫn nhờ vào các yếu tố
như mức thuế quan thấp hơn đối với hàng nhập khẩu, những cải cách về tài chính
(tiền tệ, ngân hàng), các công ty có vồn nước ngoài, việc mở cửa của các ngành mới

19



cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng đã khuyến khích họ đầu tư trong các lĩnh vực
bán lẻ, phân phối…
Thị trường xuất khẩu: Trong những năm gần đây Trung Quốc chuyển sang
con đường đa dạng hóa nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động xuất khẩu đồng thời
nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu bằng việc kiểm soát dư lượng thuốc khàng
sinh và tiến hành quảng bá sản phẩm.
- Kinh nghiệm từ Đài Loan: Bộ Trưởng bộ Nông Nghiệp Đài Loan nhấn
mạnh: Năng suất, cách quản lý và phân phối sẽ điều chỉnh lại cho phù hợp với chủ
trương của Chính Phủ nhăm tăng lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm thủy sản Đài
Loan trên thị trường thế giới.
- Kinh nghiệm của Thái Lan: Giữ được tính cạnh tranh về giá so với các
nước khác đang là vấn đề khó khăn đối với Thái Lan. Các nước khác như Indonesia,
Ấn Độ hay Việt Nam hiện vẫn đang còn các nguồn tài nguyên và có lợi thế về tiền
công thấp, thuế suất thấp hoặc được miễn thuế tại một số thị trường. Để cạnh tranh,
Thái Lan phải áp dụng công nghệ mới nhằm giảm giá thành sản xuất, tăng cường
nghiên cứu và phát triển, đặc biệt là các sản phẩm ăn liền và sản phẩm giá trị gia
tăng, theo sát các xu hướng thị trường và lối sống đang thay đổi của người tiêu
dùng. Thái Lan cũng thực hiện có hiệu quả các hệ thống quản lý chất lượng, đảm
bảo an toàn thực phẩm nhằm giữ vững sự tin cậy của người tiêu dùng đối với sản
phẩm của Thái Lan. Đi đôi với việc phát triển công nghệ, Thái Lan rất chú trọng
đến vấn đề môi trường và bảo vệ nguồn lợi sinh vật, nếu không sẽ dẫn đến những
hàng rào thương mại phi thuế quan.
2.2.2 Tình hình phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam
Hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới với việc chuyển sang nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện nhất quán chính sách kinh tế
nhiều thành phần, các DNNVV ở Việt Nam có bước phát triển mạnh, số lượng tăng
lên rất nhanh. Có thể nói rằng, các DNNVV đóng góp quan trọng trong việc giải
phóng và phát triển sức sản xuất, phát huy nội lực vào phát triển kinh tế - xã hội,
góp phần quyết định phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu,


20


tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như tạo
việc làm, xóa đói, giảm nghèo.
Theo số liệu của Tổng Cục Thống Kê vào thời điểm 31/12/2006, cả nước có
khoảng 114.340 DNNVV trong tổng số 131.322 DN (chiếm 87,06%), với tổng số
vốn xấp xỉ 85 tỷ USD, hàng năm đóng góp hơn 40% cho GDP, 33% sản lượng công
nghiệp, 30% giá trị xuất khẩu, tạo ra khoảng 50% việc làm mới (Tổng cục thống kê,
2008).
Qúa trình tồn tại và phát triển của các DNNVV cho thấy loại hình DN này
còn nhiều non kém, yếu ớt trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt do
những hạn chế về năng lực sản xuất (năng lực quản ý yếu, công nghệ lạc hậu, thiếu
thông tin, vốn ít,…). Hơn nữa, có nhiều vấn đề mà DN không tự mình giải quyết
được như tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo
nguồn nhân lực,… Ngoài ra còn nhiều vấn đề khác, nếu có sự hỗ trợ của Nhà Nước
sẽ làm giảm bớt khó khăn cho DNNVV, tạo điều kiện cho DNNVV đứng vững trên
thị trường và phát triển thuận lợi.
Do vị trí quan trọng của mình, vấn đề phát triển DNNVV được Đảng và Nhà
Nước rất quan tâm. Có nhiều chính sách trong nhiều thời kỳ đã được ban hành. Từ
quy định của Thủ tướng Chính phủ trong công văn 681/CP – KTN ngày 20 tháng 6
năm 1998 đến Nghị định 90/2001/NĐ – CP, ngày 23 tháng 11 năm 2001 của Chính
phủ về việc nhận diện DNNVV, đã quy định DNNVV là cơ sỏ sản xuất, kinh doanh
độc lập đã đăng ký kinh doanh theo phát luật hiện hành có vốn đăng ký không quá
10 tỷ đồng và số lao động không quá 300 người. Quy định này không những quy
định về tiêu chí phân loại DNNVV mà còn phải đưa ra hàng loạt chính sách nhằm
hỗ trợ phát triển các DNNVV tại Việt Nam. Từ đó giúp chúng ta có cái nhìn tổng
thê hơn, thống nhất hơn về DNNVV cũng như việc đánh giá đúng tầm quan trọng,
cũng như vai trò to lớn của các DNNVV trong quá trình phát triển nền kinh tế của
đất nước. Tiếp đó các Nghị định 27 CP, 28 CP, 29 CP của Chính phủ về kinh tế cá

thể, kinh tế hợp tác và kinh tế hộ gia đình và các bộ luật (Luật công ty; luật DN tư
nhân, luật hơp tác xã, luật DN Nhà Nước; luật DN thay thế luật DN tư nhân và luật
công ty; luật khuyến khích đầu tư trong nước; luật đầu tư nước ngoài …) đã tạo

21


điều kiện về mặt pháp lý cho sự phát triển DNNVV. Hội nghị ban chấp hành Trung
Ương 5 (khóa X) đã thông qua năm Nghị quyết quan trọng, trong đó có Nghị quyết
14/NQ/TW về tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách khuyến khích và tạo điều kiện
phát triển kinh tế tư nhân. Chỉ thị số 27/2003/CT – TTg ngày 11 tháng 12 năm 2003
của Thủ tướng chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện luật DN, khuyến khích
phát triển DNNVV. Nghị định số 109/2004/NĐ – CP ngày 02 tháng 04 năm 2004 về
đăng ký kinh doanh, cũng như Quyết định số 143/2004/QĐ – TTg của Thủ tướng
Chính phủ ngày 10 tháng 08 năm 2004 về việc phê duyệt chương trình trợ giúp đào
tạo nguồn nhân lực cho các DN càng góp phần cho sự phát triển của DNNVV. Chỉ
thị số 40/2005/CP – TTg ngày 16 tháng 12 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về
việc tiếp tục đẩy mạnh công tác trợ giúp phát triển DNNVV đánh dấu một bước
quan trọng của sự quan tâm của Đảng và Nhà Nước đối với sự phát triển kinh tế tư
nhân và DNNVV.
2.2.3 Các nghiên cứu có liên quan
NLCT là chìa khóa cho sự tồn tại và phát triển của sản phẩm, của DN và từ
đó góp phẩn thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển. Vì vậy, đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu xung quanh vấn đề này, có thể kể đến các công trình tiêu biểu
được công bố như:
- Tiến sĩ Nguyễn Hữu Thắng (2006), Nâng cao sức cạnh tranh của các DN
Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, Đề tài cấp bộ năm 2005,
mã số: B.05 – 17, Học Viện Chính Trị Quốc Gia Hồ Chí Minh theo xu hướng mở
của nền kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, cạnh tranh trong
nước và quốc tế càng trở nên gay gắt, vậy làm thế nào và bằng cách nào nâng cao

NLCT cho DN Việt Nam, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường Quốc
Tế ? Nhóm nghiên cứu đã đánh giá thực trạng NLCT của DN Việt Nam trên cơ sở
đó chỉ ra những hạn chế, trở ngại và nguyên nhân chủ yếu và đưa ra những giải
pháp để nâng cao NLCT cho DN Việt Nam trong điều kiện hội nhập.
- Tiễn sĩ Nguyễn Vĩnh Thanh (2005), Nâng cao sức cạnh tranh của các DN
thương mại Việt Nam trong hội nhập kinh tế Quốc Tế, Nxb Lao Động – Xã hội, Hà
Nội. Cuốn sách này cho thấy DN thương mại có vai trò quan trọng trong phát triển

22


kinh tế xã hội ở Việt Nam. Trong môi trường kinh doanh mới các DN đã chủ động
trong hoạt động kinh doanh, nhưng đồng thới đứng trước một thử thách lớn là tự
chịu trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh của mình. Sự cạnh tranh trên thị
trường của các thành phẩn kinh tế khác ngày càng gay gắt, khốc liệt. Vì vậy nâng
cao sức cạnh tranh cho các DN thương mại là một nội dung cần được quan tâm.
- Tiễn sĩ Vũ Trọng Lâm (2006), Nâng cao sức cạnh tranh của các DN trong
tiến trình hội nhập kinh tế Quốc tế, Nxb Chính trị Quốc Gia Hà Nội. Trên cơ sở
khảo sát, đánh giá thực trạng, cả những thành công và yếu kém trong hoạt động
chuyển đổi cớ chế của các DN nước ta, đặc biệt là Thủ đô Hà Nội những năm qua,
cuốn sách đã luận chứng khá sâu sắc một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các yếu
tố cơ bản của thị trường tác động trực tiếp đến sức cạnh tranh của DN trong hội
nhập kinh tế quốc tế; từ đố rút ra những bài học bổ ích cho việc định ra giải pháp để
nâng cao sức cạnh tranh của các DN Hà Nội.
Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu về NLCT như:
- Chu Văn Cấp (2003), Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta
trong quá trình hội nhập của khu vực và quốc tế, đề tài cấp bộ, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Tú (2004), Nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản xuất
khẩu gạo vào thị trường EU, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Lưu Vũ Mai (2003), Nâng cao sức cạnh tranh của lúa gạo Việt Nam trên thị
trường Thế Giới, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đã hệ thồng hóa những vấn đề lý
luận cơ bản về cạnh tranh, NLCT của DN, đánh giá thực trạng cạnh tranh của DN
và đưa ra quan điểm và những giải pháp nâng cao NLCT cho DN. Tuy nhiên chưa
đi sâu vào phân tích NLCT của các DNNVV.

23


PHẦN III: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
3.1.1 Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
3.1.1.1 Vị trí địa lý
Đông Anh là huyện nằm phía Đông - Bắc thủ đô Hà Nội. Hệ thống sông
Hồng và sông Đuống là ranh giới hành chính của huyện với nội thành, diện tích tự
nhiên là 18.230 ha. Đông Anh là huyện lớn thứ hai của Hà Nội sau Sóc Sơn.
Về địa giới hành chính của huyện Đông Anh như sau:
Phía Bắc giáp huyện Sóc Sơn, Hà Nội
Phía Đông, Đông Bắc giáp tỉnh Bắc Ninh
Phía Đông Nam giáp huyện Gia Lâm
Phía Nam giáp sông Hồng
Phía Tây giáp tỉnh Vĩnh Phúc
Ngoài sông Hồng và sông Đuống ở phía Nam của huyện, phía Bắc còn có
sông Cà Lồ. Trên địa bàn huyện có hai tuyến đường sắt chạy qua: tuyến Hà Nội Thái Nguyên và tuyến Hà Nội - Yên Bái. Cảng hàng không quốc tế Nội Bài được
nối với nội thành Hà Nội bằng đường quốc lộ 3 và đường cao tốc Thăng Long - Nội
Bài, đoạn chạy qua huyện Đông Anh dài 7,5 km. Có thể thấy, Đông Anh là huyện

có lợi thế lớn về giao thông. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu giữa Hà
Nội với các tỉnh Đông Bắc và là cửa ngõ giao lưu quốc tế của đất nước. Đây cũng là
tiền đề thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của huyện.
Với vị trí địa lý thuận lợi và quỹ đất cho phép, Đông Anh đã và đang thu hút
được sự quan tâm của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trên địa bàn huyện hiện
đã có trên 100 DN Trung Ương, thành phố và huyện, trong đó có 4 liên doanh với
nước ngoài đã đi vào hoạt động. Trong thời gian tới, các dự án đầu tư còn tiếp tục
gia tăng. Đây là một thế mạnh của Đông Anh để thúc đẩy phát triển kinh tế, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động của huyện.

24


Trong quy hoạch tổng thể của thủ đô Hà Nội đến 2020 đã ưu tiên đầu tư cho
khu vực Bắc Sông Hồng. Tại đây, sẽ hình thành một Hà Nội mới với các khu vực:
Bắc Thăng Long - Vân Trì, Đông Anh - Cổ Loa, Gia Lâm - Sài Đồng - Yên Viên.
Hướng ưu tiên này đã tạo điều kiện đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá và phát triển kinh tế
- xã hội cho huyện.
3.1.1.3 Thời tiết, khí hậu và thủy văn
Đông Anh có cùng chung chế độ khí hậu của thành phố Hà Nội, đó là khí
hậu nhiệt đới, ẩm, gió mùa. Từ tháng 5 đến tháng 10 là mùa hạ, khí hậu ẩm ướt,
mưa nhiều. Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau là mùa đông, thời kỳ đầu khô - lạnh,
nhưng cuối mùa lại mưa phùn, ẩm ướt. Giữa hai mùa là thời kỳ chuyển tiếp tạo cho
Đông Anh cũng như Hà Nội có bốn mùa phong phú: xuân, hạ, thu, đông.
Nhiệt độ trung bình hàng năm của Đông Anh là 250C, hai tháng nóng nhất là
tháng 6 và tháng 7, nhiệt độ trung bình tháng cao nhất thường xảy ra vào tháng 7 là
37,50C. Hai tháng lạnh nhất là tháng 1 và 2, nhiệt độ trung bình của tháng 1 là 130C.
Độ ẩm trung bình của Đông Anh là 84%, độ ẩm này cũng rất ít thay đổi theo
các tháng trong năm, thường dao động trong khoảng 80 - 87%.
Số ngày mưa trong năm khoảng 144 ngày với lượng mưa trung bình hàng

năm 1600 - 1800 mm. Trong mùa mưa (tháng 5 đến tháng 10) tập trung tới 85%
lượng mưa toàn năm. Mưa lớn nhất vào tháng 8, với lượng mưa trung bình 300 350 mm. Những tháng đầu đông ít mưa, nhưng nửa cuối mùa đông lại có mưa phùn,
ẩm ướt. Vào mùa đông, huyện còn phải chịu các đợt gió mùa đông bắc.
Nhìn chung, thời tiết Đông Anh thuận lợi cho hoạt động sản xuất nông
nghiệp, đặc biệt là các loại cây trồng: lương thực, hoa, rau màu, cây ăn quả. Nhưng
các đợt dông, bão của mùa hè và gió mùa đông bắc của mùa đông cũng gây những
trở ngại nhất định cho hoạt động sản xuất và đời sống nhân dân.
Mạng lưới sông, hồ, đầm trong nội huyện: không có sông lớn chảy qua, các
sông nằm ở ranh giới phía Nam và phía Bắc huyện.
Sông Hồng chạy theo ranh giới huyện từ xã Đại Mạch đến xã Xuân Canh, có
chiều dài 16 km là ranh giới giữa Đông Anh với quận Tây Hồ và huyện Từ Liêm.

25


×