Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Vấn đề bảo đảm định hướng chính trị trong xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình trả tiền luận văn thạc sỹ báo chí học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.8 KB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

ĐẢM BẢO ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH TRỊ
TRONG XÃ HỘI HÓA
SẢN XUẤT CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH TRẢ TIỀN

Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số:

60 32 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

CẦN THƠ – 2015

1


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu tiếp nhận thông tin của công
chúng ngày càng cao, đòi hỏi hệ thống truyền hình nói chung và truyền hình
trả tiền nói riêng phải không ngừng nâng cao chất lượng nội dung và hình


thức, đa dạng, phong phú về cách thức thể hiện. Thực tế trong vài năm trở lại
đây cho thấy: các phương tiện truyền thông hiện đại đã tạo điều kiện cho con
người chủ động tiếp nhận thông tin, cùng một lúc tiếp nhận nhiều nguồn
thông tin, có thể tham gia trực tiếp vào các hoạt động truyền thông, cung cấp
thông tin phản hồi, thể hiện quan điểm, chính kiến của mình.
Bên cạnh các kênh truyền hình quảng bá phát sóng miễn phí như
VTV1, VTV2, VTV3, VTV4, VTV5, VTV6 của Đài Truyền hình Việt Nam
và các kênh truyền hình chính luận của các Đài Truyền hình và Đài Phát
thanh - Truyền hình ở 63 tỉnh, thành trong cả nước, trên thực tế ở nước ta
những năm qua đang xuất hiện ngày càng nhiều kênh truyền hình trả tiền của
Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC, các Đài Phát
thanh - Truyền hình Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh, thành
phố khác phát triển với hàng triệu thuê bao. Chính ở những kênh truyền hình
này, việc xã hội hóa sản xuất các chương trình truyền hình đang diễn ra ngày
càng mạnh mẽ, sôi động.
Có thể nói, nhu cầu tham gia của cộng đồng vào hoạt động truyền
thông, đặc biệt trong lĩnh vực truyền hình đã thực sự tạo nên sự chuyển biến
trong hoạt động xã hội hóa các chương trình truyền hình. Việc thu hút các
nguồn lực bên ngoài là một trong những giải pháp giúp giảm bớt gánh nặng
cho ngành truyền hình vừa khuyến khích các thành viên trong xã hội tham gia
vào các hoạt động mang lại lợi ích cho cộng đồng. Các đài truyền hình giảm
được gánh nặng cả về nhân lực và cơ sở vật chất trong hoạt động sản xuất
2


chương trình, nhiều chương trình truyền hình đã được sản xuất và phát sóng
mà không sử dụng ngân sách của đài.
Song từ đây một vấn đề đặt ra là: khi chúng ta xã hội hóa sản xuất
chương trình truyền hình thì liệu tính định hướng chính trị có còn được bảo
đảm, nhất là khi các đài truyền hình không còn trực tiếp sản xuất các chương

trình truyền hình hoặc do kinh tế chi phối trong việc xã hội hóa nên lơi lỏng
trong việc định hướng nội dung cho đối tác liên kết sản xuất chương trình
truyền hình.
Làm thế nào để bảo đảm định hướng chính trị trong quá trình xã hội
hóa sản xuất các chương trình truyền hình trả tiền, vừa phát huy mặt tích cực
của xã hội hóa, đồng thời hạn chế những tiêu cực xuất phát từ mặt trái của quá
trình này?
Chính những lý do đó đã thôi thúc tôi chọn đề tài: “Vấn đề bảo đảm
định hướng chính trị trong xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình trả
tiền” (với phạm vi khảo sát được giới hạn trong một số kênh truyền hình đang
được xã hội hóa của Truyền hình Cáp Việt Nam hiện nay là các kênh InfoTV,
Invest TV và Fanxiphang TV) cho luận văn thạc sỹ Truyền thông đại chúng,
chuyên ngành Báo chí học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trên thực tế, quá trình xã hội hoá truyền hình trên thế giới đã diễn ra từ
trước chúng ta hàng chục năm. Thuật ngữ xã hội hoá truyền hình cũng đã
được sử dụng ở nước ta từ nhiều năm trước, song trong thực tế việc xã hội
hóa sản xuất các chương trình truyền hình mới thực sự diễn ra sôi động và
phổ biến chỉ mới vài năm gần đây.
Do lịch sử hình thành và quan niệm về quá trình này khá khác nhau nên
các công trình nghiên cứu và các bài viết chủ yếu tập trung vào vấn đề “tư
nhân hoá” các đài truyền hình và “truyền hình thương mại”. Các buổi hội thảo
với chủ đề: “Sản xuất chương trình truyền hình được xã hội hoá như thế
3


nào?” được tổ chức trong hai kỳ Liên hoan Truyền hình toàn quốc lần thứ 25
(năm 2006) tại Nha Trang - Khánh Hoà và Liên hoan Truyền hình toàn quốc
lần thứ 26 (năm 2007) tại thành phố Hồ Chí Minh đã thu hút được rất nhiều
các đài truyền hình trong cả nước và các đơn vị, tổ chức ngoài ngành truyền

hình tham gia. Nhưng các tham luận, ý kiến nhìn chung mới chỉ mang tính đặt
vấn đề, thậm chí lại đặt ra một loạt câu hỏi lớn khác chưa có câu trả lời thuyết
phục như: “Xã hội hoá truyền hình: Cạnh tranh hay hợp tác?”; “Xã hội hoá
truyền hình: đã đến lúc?”…
Tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền, năm 2007 cũng có một khoá
luận tốt nghiệp chuyên ngành Truyền hình của sinh viên Nguyễn Thị Tuyết
Nhung có tiêu đề: “Bước đầu nghiên cứu xã hội hoá truyền hình ở Việt Nam”
(khảo sát chương trình “Làm giàu không khó” của VTV1 từ tháng 1/2007 đến
tháng 5/2007). Trong khoá luận này, tác giả mới chỉ dừng lại ở việc khảo sát
đánh giá thực trạng hoạt động xã hội hoá ở Việt Nam trên cơ sở lựa chọn một
chương trình cụ thể là “Làm giàu không khó” của Kênh VTV1, Đài Truyền
hình Việt Nam trong 3 tháng. Với phạm vi, đối tượng khảo sát nhỏ, hẹp như
vậy nên việc đánh giá xu thế và đưa ra giải pháp còn nhiều bất cập.
Trong khóa luận “Xu hướng phát triển của truyền hình Việt Nam trong
bối cảnh hội nhập” của sinh viên Nguyễn Thị Mai Hồng, lớp báo K24, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền cũng đã chỉ ra một số xu hướng phát triển của
truyền hình Việt Nam ở thời điểm đó như: xu hướng về nội dung, xu hưóng về
công nghệ, xu hướng xã hội hoá, xu hướng truyền hình tương tác…. Riêng xu
hướng xã hội hoá truyền hình tuy đã được đề cập tới nhưng do khuôn khổ và
mục đích của một khoá luận tôt nghiệp đại học nên tác giả chỉ dừng lại ở liệt
kê, tổng hợp chứ chưa đi sâu phân tích để chỉ ra những tính chất, lộ trình,
nguyên tắc và những vấn đề mà ngành Truyền hình Việt Nam nói chung và
Truyền hình Cáp Việt Nam nói riêng phải đối mặt khi tham gia tiến trình xã
hội hoá sản xuất chương trình.

4


Riêng về vấn đề sản xuất chương trình truyền hình trả tiền cũng đã
được tác giả Bùi Bích Phượng đề cập tới trong luận văn Thạc sỹ Báo chí (bảo

vệ năm 2006 tại Hội đồng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà
Nội) có tiêu đề: “Truyền hình trả tiền ở Việt Nam”. Trong luận văn này, ở
chương 2, tác giả đã giới thiệu về cơ cấu bộ máy quản lý của Truyền hình Cáp
Việt Nam và về công nghệ phát hình số vệ tinh DTH giai đoạn từ năm 2003 2006. Tuy nhiên, đây là giai đoạn mà quá trình xã hội hóa sản xuất chương
trình truyền hình chưa thực sự phát triển mạnh mẽ như hiện nay.
Trên các báo, tạp chí ở nước ta cũng đã có các bài viết, bài nghiên cứu
của các nhà lý luận về báo chí nói riêng và truyền hình nói chung về các vấn
đề liên quan xung quanh chủ đề này như: nghiên cứu về xu hướng phát triển
của truyền hình; nghiên cứu kinh tế báo chí; nghiên cứu về nguồn nhân lực
cho báo chí… Một số tờ báo, trang web cũng có những bài viết đề cập đến
những khía cạnh khác nhau của vấn đề xã hội hoá truyền hình như: “Xã hội
hoá truyền hình: chưa được như mong đợi”; “Xã hội hoá truyền hình cạnh
tranh hay hợp tác” (Báo Thanh Niên, 2007); “Xã hội hoá truyền hình: không
phải phân lô, bán sóng”, “Xã hội hoá truyền hình nhà nước và tư nhân đều
có nỗi niềm” (Báo Văn hoá, 2007)…
Nhìn chung, các nghiên cứu trên bước đầu đã đề cập đến các khía cạnh
khác nhau của vấn đề xã hội hoá truyền hình như: ý nghĩa của xã hội hoá
truyền hình, vai trò của từng thành viên trong việc phối kết hợp sản xuất
chương trình…. Tuy nhiên, các công trình này chưa phác hoạ được bức tranh
khái quát, cũng như chưa chỉ ra được lộ trình, mô hình, nguyên tắc, những trở
ngại khi tiến hành xã hội hoá sản xuất các chương trình truyền hình nói chung
và chương trình trả tiền trên Truyền hình Cáp Việt Nam nói riêng.
Do vậy có thể nói rằng: cho đến nay, vấn đề bảo đảm định hướng chính
trị trong xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình trả tiền vẫn chưa được
tác giả nào nghiên cứu. Vì thế, đây là một đề tài mới, vừa kế tiếp được những
vấn đề đang đặt ra, nhưng lại không trùng lặp với những đề tài đã có.
5


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ thực trạng của quá trình xã hội hóa sản xuất
chương trình truyền hình trả tiền của Truyền hình Cáp Việt Nam, đề tài “Bảo
đảm định hướng chính trị trong xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình
trả tiền” sẽ tìm kiếm những giải pháp có tính khả thi nhằm phát huy những
mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực, qua đó nâng cao tính định hướng
chính trị của quá trình xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình trả tiền
hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích trên, tác giả luận văn này phải tập trung
thực hiện một số một số nhiệm vụ nghiên cứu chính sau đây:
- Hệ thống hóa các quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước liên quan đến vấn đề định hướng chính trị của hoạt động báo chí nói
chung và truyền hình trả tiền nói riêng; Nghiên cứu các tài liệu lý luận Báo
chí và lý luận chuyên ngành Truyền hình để xây dựng cơ sở lý luận nhằm
định hướng cho quá trình thực hiện luận văn;
- Khảo sát, phân tích, đánh giá những chương trình và kênh truyền hình
đã và đang được sự hợp tác của các nguồn lực bên ngoài ngành truyền hình,
qua đó chỉ ra được những mặt ưu điểm, những mặt hạn chế và những vấn đề
đang đặt ra trong quá trình này;
- Thực hiện các cuộc phỏng vấn sâu và điều tra xã hội học nhằm thu
thập ý kiến nhận xét, đánh giá của công chúng và của chính những người
đang trực tiếp tham gia quá trình xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình
trả tiền;
- Nêu ra những kiến nghị, giải pháp có tính khả thi nhằm góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả của vấn đề bảo đảm định hướng chính trị trong
quá trình xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình trả tiền tại truyền hình
Cáp Việt Nam hiện nay.
6



4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là các chương trình truyền
hình trả tiền của Truyền hình Cáp Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu, khảo sát là kênh chương trình truyền hình trả tiền
Đầu tư Invest TV (VCTV15) Truyền hình Cáp Việt Nam. Thời gian khảo sát
từ năm 2008 đến tháng 6/2011.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1.Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn này là Luật Báo chí và những quan điểm
của Đảng, chủ trương chính sách Nhà nước Việt Nam về báo chí nói chung và
vấn đề xã hội hoá sản xuất truyền hình trả tiền nói riêng.
5.2.Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện công trình nghiên cứu này, tôi sử dụng kết
hợp một số phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu được thực hiện trong việc khảo sát
các công trình nghiên cứu, sách lý luận, các văn bản, chỉ thị, nghị quyết... có
liên quan đến vấn đề xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình nói chung
và các chương trình thuộc hệ thống truyền hình trả tiền nói riêng.
Phương pháp này cũng được sử dụng để hệ thống hóa những vấn đề
của lý luận báo chí nói chung và lý luận về truyền hình nói riêng nhằm tạo cơ
sở lý luận cho đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp khảo sát thực tế được vận dụng để làm sáng tỏ thực
trạng của quá trình xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình trả tiền ở
nước ta hiện nay với những ưu điểm, hạn chế và những vấn đề đặt ra nhìn từ
phương diện định hướng chính trị.
- Phương pháp phỏng vấn sâu cũng được thực hiện với đối tượng là các
phóng viên, biên tập viên đang trực tiếp làm việc tại các kênh truyền hình đã
và đang được xã hội hóa.


7


Đặc biệt, tôi phỏng vấn lãnh đạo các công ty như: Công ty cổ phần
truyền thông Việt Ba Media, Công ty cổ phần truyền thông Invest TV là
những đơn vị đang tham gia xã hội hóa tổ chức sản xuất chương trình truyền
hình trả tiền và phỏng vấn các cán bộ, lãnh đạo Ban biên tập Truyền hình Cáp
Việt Nam - những người chịu trách nhiệm về nội dung của chương trình
truyền hình được xã hội hóa trên hệ thống Truyền hình Cáp.
- Các phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để đánh giá các
cứ liệu, các kết quả điều tra và rút ra những luận điểm khoa học, từ đó đề xuất
những giải pháp cần thiết nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của
vấn đề bảo đảm định hướng chính trị trong quá trình xã hội hóa sản xuất
chương trình truyền hình trả tiền ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
6.1.Ý nghĩa lý luận
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên đề cập đến vấn đề bảo đảm định
hướng chính trị trong quá trình xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình
trả tiền ở nước ta trong bối cảnh hiện nay. Những kết quả của luận văn sẽ góp
một phần bổ sung cho lý luận báo chí truyền hình ở nước ta.
Những kết quả của luận văn cũng sẽ là một tài liệu tham khảo bổ ích,
cho các thầy cô giáo, các nhà nghiên cứu lý luận báo chí truyền hình và cho
sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh khi nghiên cứu về những vấn đề
liên quan đến vấn đề này.
Đóng góp mới của đề tài nghiên cứu này là đã làm sáng tỏ thực trạng
của quá trình xã hội hóa sản xuất các chương trình truyền hình trả tiền ở nước
ta hiện nay. Trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến vấn đề bảo đảm định hướng
chính trị - một yêu cầu có tính nguyên tắc của báo chí Việt Nam nói chung và
truyền hình trả tiền nói riêng, nhất là khi mà quá trình này đang ngày càng trở
nên phổ biến và lan tỏa sâu rộng.


8


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của đề tài sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết, bổ ích cho các
phóng viên, biên tập viên và những người đang tham gia quá trình xã hội hóa
sản xuất chương trình truyền hình trả tiền ở nước ta hiện nay nói chung và ở
Truyền hình Cáp Việt Nam nói riêng.
Tác giả hy vọng luận văn sẽ giúp cho các nhà quản lý, các phóng viên,
biên tập, những người tham gia sản xuất, quản lý nội dung các chương trình
truyền hình xã hội hóa trên hệ thống truyền hình trả tiền có được cái nhìn đầy
đủ, rút ra bài học kinh nghiệm và lý luận, tư duy sắc sảo trong việc bảo đảm
định hướng chính trị trong xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình trả
tiền.
Quá trình nghiên cứu đề tài cũng sẽ là một cơ hội để tác giả tích lũy
kiến thức, nâng cao tầm hiểu biết và năng lực chuyên môn của một phóng
viên Ban biên tập Truyền hình Cáp (Đài Truyền hình Việt Nam).
7. Kết cấu của luận văn
Trong luận văn này, ngoài các phần: mở đầu, kết luận, tài liệu tham
khảo những nội dung chủ yếu được trình bày trong 3 chương, 8 tiết.
Phần Phụ lục ở cuối luận văn gồm những tài liệu có liên quan trực tiếp
đến quá trình thực hiện công trình nghiên cứu này.

9


Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA
SẢN XUẤT CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH
TRẢ TIỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Một số thuật ngữ, khái niệm
1.1.1.1. Xã hội hóa
Có thể nói rằng, hiện nay có rất nhiều ý kiến tranh luận về khái niệm xã
hội hóa. Mỗi người đưa ra quan điểm dưới góc nhìn riêng của mình với các
đối tượng xã hội hóa khác nhau.
Ở các nước phương Tây, cụm từ “xã hội hóa” ( tiếng Pháp là
socialisation) thường được dùng theo nghĩa “tập thể hóa”, “đặt dưới chế độ
cộng đồng”, “quản lý hay điều khiển của nhà nước nhân danh xã hội”...
Theo cách nói trên, người ta hiểu khái niệm xã hội hóa là quá trình
chuyển giao để khu vực dân sự (ngoài nhà nước) "gánh đỡ" những công việc
trước đây do Nhà nước làm hoặc "quán tính" của tư duy cũ vẫn cho rằng đúng
ra Nhà nước phải làm.
Như vậy, xã hội hóa có thể hiểu là quá trình huy động nguồn lực của cả
xã hội vào một lĩnh vực nào đó mà trước kia chỉ có đơn vị nhà nước tham gia,
làm cho một hoạt động xã hội nào đó (y tế, văn hóa, thể thao...) lan tỏa khắp
các thành phần xã hội, huy động các thành viên trong xã hội tham gia vào
hoạt động đó, phát huy được mọi tiềm năng trí tuệ và vật chất của toàn xã hội
đầu tư vào hoạt động đó và được hưởng lợi bằng chính sự tham gia của mình.
1.1.1.2.Chương trình truyền hình
Chương trình truyền hình là sự liên kết, sắp xếp bố trí hợp lý các tin
bài, bảng tư liệu, hình ảnh, âm thanh trong một thời gian nhất định, được mở
10


đầu bằng lời giới thiệu, nhạc hiệu, kết thúc bằng lời chào tạm biệt, đáp ứng

yêu cầu tuyên truyền của cơ quan báo chí truyền hình nhằm mang lại hiệu quả
cao nhất cho khán giả.
Thuật ngữ chương trình “program” trong chương trình truyền hình
được hiểu gồm các chương trình như: Chương trình “Thời sự”, “Vì an ninh
Tổ quốc”, chương trình “Tài chính Kinh doanh”, “Thanh niên”, “Quân đội”,
“Phụ nữ”, “Thiếu nhi”, “Trò chơi (game show)”,… được phân bổ, sắp xếp
theo các kênh chương trình và được thể hiện bằng những nội dung cụ thể qua
tin, bài, tác phẩm truyền hình.
Một đài truyền hình thường bao gồm có các bộ phận: lãnh đạo quản lý,
biên tập viên, phóng viên, kỹ thuật viên. Trong đó phóng viên là người trực
tiếp sáng tạo tác phẩm báo chí truyền hình. Các tác phẩm báo chí truyền hình
này thể hiện bản lĩnh chính trị, năng lực và trách nhiệm xã hội của nhà báo
truyền hình. Uy tín, ảnh hưởng của một đài truyền hình trước hết được quy
định bởi khả năng nắm bắt thực tiễn, phát hiện những vấn đề nổi cộm, có ý
nghĩa và phản ánh chúng một cách kịp thời tới công chúng khán giả, góp
phần nâng cao nhận thức, mở rộng hiểu biết và định hướng tư tưởng cho
công chúng.
Đối với một đài truyền hình, quá trình sản xuất bắt đầu bằng việc sáng
tạo các tác phẩm truyền hình. Các tác phẩm tin, bài, phóng sự... được phát
sóng thông qua các chương trình truyền hình đều có sự lựa chọn, sắp xếp bố
trí hợp lý để giúp khán giả tiếp nhận chương trình một cách đầy đủ, hệ thống,
có chiều sâu.
Thực hiện sản xuất một chương trình truyền hình, cho dù là một bản tin
ngắn hay một phim tài liệu, một phóng sự... cũng đều phải qua các khâu như:
xác định đề tài, chủ đề, phác thảo nội dung, bàn bạc cùng ê kíp thực hiện tiền
kỳ lựa chọn cách để quay phim, ghi hình, thể hiện sao cho thích hợp với
những nội dung đó... Khâu cuối cùng của quá trình này là tiến hành sắp xếp,
dựng hình (montage), ghép nối tất cả các cảnh thành những câu chuyện bằng
11



hình ảnh, nối tiếp nhau một cách lôgic. Dựa trên ý nghĩa đề tài của các cảnh,
để viết lời bình. “Khán giả tuyền hình phải được thấy và nhìn, lắng nghe và
nghe được, đồng thời cũng hiểu được” [8, tr.148].
Các loại hình truyền thông đại chúng như báo in, phát thanh, truyền
hình, báo mạng có sự khác biệt trong phương thức phản ánh và tái tạo hiện
thực. Bởi mỗi loại hình báo chí ngoài những nét chung đều có những đặc thù
riêng. Đặc thù đó tạo ra những nét riêng từ việc sản xuất, tiếp nhận và tiêu
dùng sản phẩm. Có thể nói chương trình truyền hình là kết quả cuối cùng của
quá trình giao tiếp của đài truyền hình với công chúng truyền hình. “Trong
tương quan so sánh với các loại hình báo chí khác, truyền hình mang tính
tổng hợp sâu sắc thông qua thính giác và thị giác” [14, tr. 234].
Từ những vấn đề trên, chúng ta có thể thấy chương trình truyền hình là
hình thức thể hiện thực tế, hình thức vật chất hóa sự tồn tại của truyền hình
trong xã hội để truyền tải thông tin đến công chúng truyền hình. Có thể nói,
nếu không có chương trình thì không còn truyền hình. Nhưng mặt khác,
chương trình truyền hình là kết quả hoạt động, là sản phẩm của tập thể cơ
quan đài: bộ phận lãnh đạo, bộ phận kỹ thuật, bộ phận nội dung chương trình,
bộ phận hậu cần… tạo nên thuật ngữ chương trình truyền hình cả về mặt sáng
tạo và sản xuất chương trình.
Cũng như việc sản xuất các sản phẩm khác, có người sản xuất, có
người tiêu dùng. Người tiêu dùng sản phẩm báo chí cũng có tác động chi phối
tới người làm ra sản phẩm, trong báo chí mối quan hệ đó được thể hiện: nhà
báo - tác phẩm - công chúng. “Chương trình truyền hình tạo thành chu kỳ
khép kín các mắt xích trong chuỗi mắt xích giao tiếp truyền hình” [11, tr. 36].
Tóm lại, chương trình truyền hình là kết quả sau một quá trình sản xuất
của đài truyền hình, trong đó bao gồm các quá trình sáng tạo ra nó từ nhiều
công đoạn và ở nhiều mức độ khác nhau. “Tính tập thể trong sáng tạo tác
phẩm báo chí truyền hình là một yêu cầu khách quan” [17, tr.34].


12


1.1.1.3. Xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình
Có thể nói rằng xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình không
phải là một khái niệm mới trong trong lĩnh vực truyền hình.
Quá trình xã hội hoá công tác sản xuất chương trình truyền hình đã diễn
ra từ rất lâu đối với các nhiều nước có sự phát triển mạnh mẽ của lĩnh vực
truyền hình. Hiểu theo nghĩa rộng của quá trình này chính là sự tham gia vào
quá trình sản xuất chương trình từ bên ngoài ngành truyền hình. Tức là trong
các khâu sản xuất, hình thành tác phẩm của một chương trình truyền hình có
sự tham gia của một hoặc nhiều đơn vị, cơ quan không liên quan đến nhà Đài
và sự hợp tác được thực hiện trên cơ sở bình đẳng, góp phần tích cực, lành
mạnh vào việc nâng cao chất lượng chương trình truyền hình.
Thực hiện xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình đồng nghĩa với
việc một số kênh truyền hình hoặc một chương trình truyền hình không phải
đảm nhận toàn bộ các khâu sản xuất mà đã có đơn đặt hàng một số các đơn vị
tư nhân chuyên làm về một lĩnh vực nào đó của truyền hình.
Hiện nay, xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình đang là xu thế
của các đài truyền hình nhằm huy động sức mạnh của mọi nguồn lực xã hội
cho việc sản xuất các chương trình truyền hình. Truyền hình không chỉ là nhà
cung cấp thông tin mà còn phải đa dạng các loại hình chương trình, phục vụ
nhu cầu ngày càng cao của khán giả.
Bên cạnh đó nhờ những tiến bộ khoa học kỹ thuật, các thiết bị sản xuất
truyền hình cũng ngày trở nên hiện đại, tiện nghi và đặc biệt là rẻ hơn rất
nhiều so với trước, mở ra một khả năng hợp tác vô cùng rộng lớn cho cả
truyền hình và các đơn vị bên ngoài đài. Các đơn vị này có thể tham gia trực
tiếp và thực hiện sản xuất các chương trình truyền hình. Điều dễ nhận thấy
trước tiên là về nội dung, hình thức thông tin của truyền hình trở nên mới hơn,
thông tin cũng đa dạng và phong phú.

1.1.1.4. Vấn đề định hướng chính trị

13


Quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với hoạt động báo chí luôn chỉ rõ:
Báo chí Việt Nam luôn là tiếng nói của Đảng, là diễn đàn của quần chúng
nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Đảng và Nhà nước luôn tạo
mọi điều kiện thuận lợi để báo chí phát triển nhanh chóng, vững chắc, phát
triển đi đôi với định hướng chính trị, quản lý xã hội [30, tr. 97] .
Định hướng chính trị tư tưởng của hệ thống báo chí truyền hình không
nằm ngoài những nguyên tắc chung đó và đây chính là sự xác định phương
hướng về chính trị và tư tưởng trên loại hình báo chí truyền hình, với những
nội dung yêu cầu có những nét giống và khác với các loại hình báo chí khác .
Tính tất yếu khách quan của việc đảm bảo tính định hướng chính trị tư tưởng
của báo chí truyền hình bắt nguồn từ chính vị trí, chức năng, vai trò của báo
chí nói chung, ngành truyền hình nói riêng.
Theo lý thuyết về báo chí truyền thông được giảng dạy trong các
trường đại học báo chí hiện nay, báo chí có 3 nhóm chức năng cơ bản là: chức
năng tư tưởng; chức năng quản lý; chức năng khai sáng, phát triển văn hoá,
giải trí và dự báo. Về nguyên tắc hoạt động của báo chí cách mạng ở Việt
Nam bao gồm: tính đảng, tính khuynh hướng, tính khách quan, chân thật, tính
nhân dân, tính nhân văn, tính dân tộc, tính quốc tế… Báo chí nói chung luôn
có vai trò định hướng xã hội về nhiều mặt, trong đó trước hết là định hướng
về chính trị tư tưởng. Truyền hình là một bộ phận của hệ thống báo chí,
đương nhiên phải có vai trò và nhiệm vụ định hướng chính trị tư tưởng.
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã khẳng định: “Chú trọng nâng cao
tính tư tưởng, phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục, tổ chức và
phản biện xã hội của các phương tiện thông tin đại chúng vì lợi ích của nhân
dân và đất nước; khắc phục xu hướng thương mại hoá, xa rời tôn chỉ, mục

đích trong hoạt động báo chí, xuất bản…” [45].
Việc nâng cao tính định hướng chính trị tư tưởng của báo chí nói chung
và lĩnh vực truyền hình nói riêng ngày càng cần thiết và càng gia tăng cùng
với sự phát triển của đời sống xã hội. Xu thế phát triển của xã hội hiện đại
14


trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay đã chứng minh một thực tế rằng:
Truyền hình ngày càng có khả năng chiếm ưu thế lớn hơn so với các loại hình
báo chí khác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh được những người làm báo cách mạng Việt
Nam suy tôn là nhà báo cách mạng bậc thầy. Tư tưởng và những chỉ dẫn của
Người luôn là định hướng soi đường cho báo chí cách mạng nước ta. Người
từng chỉ rõ: “... Tất cả những người làm báo (người viết, người in, người sửa
bài, người phát hành, v.v.) phải có lập trường chính trị vững chắc. Chính trị
phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì những việc khác mới đúng được.
Cho nên các báo chí của ta đều phải có đường lối chính trị đúng” [46].
Định hướng chính trị là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong
công tác lãnh đạo, quản lý hệ thống báo chí nói chung và lĩnh vực truyền
hình. Định hướng chính trị tư tưởng có ý nghĩa như “kim chỉ nam” dẫn đường
mọi hoạt động. Báo chí nước ta là báo chí xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, gắn liền với dân chủ xã hội chủ nghĩa, không phục vụ
mục đích, quyền lợi của riêng một cá nhân, lực lượng nào nên không thể tách
rời yếu tố định hướng chính trị tư tưởng.
Vì thế có thể nhận định rằng: Việc xã hội hóa sản xuất chương trình
truyền hình phải bảo đảm định hướng chính trị, nội dung và hình thức chương
trình, bảo đảm tuân thủ đúng chủ chương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước và thuần phong mỹ tục của dân tộc, góp phần xây dựng đất nước.
Xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình không biến kênh truyền hình đó
thành của tư nhân hoặc của một công ty truyền thông nào đó.

1.1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước và của ngành Truyền hình
Việt Nam về xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình
1.1.2.1. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa sản xuất
chương trình truyền hình

15


Sản xuất chương trình truyền hình là một hoạt động tốn kém và đòi
hỏi đầu tư nhiều về tài chính, thiết bị kỹ thuật, máy móc công nghệ hiện đại.
Chính vì vậy, nguồn chi phí cho đầu tư kỹ thuật và nhân sự của truyền hình là
không nhỏ. Tuy nhiên, trên thực tế, nguồn chi từ ngân sách nhà nước cho các
đài truyền hình thời gian qua chưa phải là nhiều. Điều đòi hỏi các đài truyền
hình phải không ngừng nỗ lực phấn đấu. Việc thu hút các nguồn lực bên
ngoài là một trong những giải pháp giúp giảm bớt gánh nặng cho ngành
truyền hình.
Trên cơ sở đó, việc xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình hiện
nay là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Đây
không chỉ là vấn đề chiến lược, trọng tâm của hoạt động báo chí truyền thông,
mà còn là một trong những phương thức mới, đáp ứng nhu cầu phát triển của
hoạt động báo chí truyền hình trong bối cảnh mới hiện nay.
Ở Việt Nam đã bước đầu có những tài liệu nghiên cứu về vấn đề xã hội
hóa sản xuất các chương trình Truyền hình. Tại các cuộc Liên hoan truyền
hình toàn quốc lần thứ 25 (ngày 5/1/2006 tại Nha Trang - Khánh Hoà) và lần
thứ 26 (tổ chức ngày 11/1/2007 tại thành phố Hồ Chí Minh) do Đài Truyền
hình Việt Nam tổ chức, các buổi hội thảo với chủ đề chính là sản xuất chương
trình truyền hình sẽ được xã hội hoá như thế nào, đã thu hút được rất nhiều
các đài truyền hình trong cả nước và các đơn vị, tổ chức ngoài ngành truyền
hình tham gia. Bên cạnh đó còn có nhiều bài viết, nghiên cứu của các nhà lý
luận về báo chí nói riêng và truyền hình nói chung về vấn đề xã hội hóa sản

xuất chương trình truyền hình.
Ngày 28/5/2009 Bộ Thông tin Truyền thông ban hành Thông tư
09/2009/TT-BTTTT. Có thể nói, đây là văn bản tạo cơ sở pháp lý trong lĩnh
vực truyền hình tại Việt Nam. Nội dung thông tư này cho phép các doanh
nghiệp “có tư cách pháp nhân và đăng ký kinh doanh theo pháp luật Việt
Nam” được hợp tác với đài truyền hình để sản xuất không chỉ một phần mà
toàn bộ kênh chương trình truyền hình, áp dụng không chỉ truyền hình trả tiền
16


mà cả với truyền hình quảng bá, phạm vi điều chỉnh của thông tư là truyền
hình và cả phát thanh.
Đài truyền hình muốn thực hiện hợp tác chỉ cần làm thủ tục đăng ký
hoặc thông báo với Bộ Thông tin Truyền thông. Thông tư này cũng quy định:
Hoạt động liên kết là sự “hợp tác giữa một bên là đài phát thanh, truyền hình
với một bên là đối tác liên kết để tạo ra một phần hoặc toàn bộ sản phẩm liên
kết”. Trong đó, “quyền lợi của đối tác liên kết có thể được trả bằng quyền lợi
từ hoạt động quảng cáo, tài trợ hoặc từ nguồn thu phí phát thanh, truyền hình
theo một phương thức nhất định khi phát sóng chính sản phẩm liên kết của
đài phát thanh, truyền hình”.
Theo nội dung Thông tư 09/2009 thì các hình thức hoạt động liên kết
bao gồm: Trao đổi bản quyền chương trình hoàn chỉnh; trao đổi bản quyền
định dạng chương trình; tổ chức sản xuất chương trình hoặc một phần chương
trình và tổ chức sản xuất toàn bộ kênh chương trình truyền hình.
Mới đây nhất, ngày 24/3/2011, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định
số 20/2011/QĐ-TTg ban hành "Quy chế quản lý hoạt động truyền hình trả
tiền" (gọi tắt là QĐ 20), chính thức có hiệu lực từ ngày 15/5/2011. Quyết định
20 ra đời là một yêu cầu thực tế nhằm phát triển loại hình dịch vụ đặc thù này
với các loại hình truyền hình cáp, truyền hình kỹ thuật số mặt đất, truyền hình
trực tiếp qua vệ tinh và truyền hình di động. Ngoài quy định việc quản lý,

cung cấp, sử dụng hạ tầng kỹ thuật dịch vụ truyền hình trả tiền, Quyết đinh
này sẽ quản lý cả về nội dung thông tin trên hệ thống truyền hình trả tiền
tại nước ta. Việc xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình nhưng vẫn
phải đảm bảo được mục tiêu, định hướng của Đảng về chính trị, tư tưởng,
văn hóa [42, tr.35].
1.1.2.2. Quan điểm của Đài Truyền hình Việt Nam về xã hội hóa sản
xuất chương trình truyền hình
Ngày 7/9/1970, chương trình truyền hình thử nghiệm đầu tiên của nước
Việt Nam Dân chủ cộng hoà được phát sóng. Đến nay sau 41 năm xây dựng
17


và trưởng thành, Đài truyền hình Việt Nam đã phát triển thành một Đài quốc
gia có quy mô và uy tín trong hệ thống báo chí, thực hiện thành công công tác
chính trị, tuyên truyền, phổ biến đường lối chủ trương của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước.
Đặc biệt từ khi chỉ phát sóng một kênh duy nhất, đến nay Đài Truyền
hình Việt nam đã phát triển thành 6 kênh truyền hình quảng bá gồm VTV1,
VTV2, VTV3, VTV4, VTV5, VTV6 và nhiều kênh truyền hình khác trên hệ
thống truyền hình Cáp như VCTV1 (Fanxiphang TV); VCTV2 (kênh phim
truyện Việt nam); VCTV3 (Kênh thể thao), VCTV4 (Kênh văn nghệ)…
Trong lĩnh vực truyền hình, quá trình xã hội hoá sản xuất các chương
trình truyền hình đã diễn ra từ rất lâu đối với các nước có sự phát triển mạnh
mẽ của lĩnh vực truyền hình. Tiến sĩ Trần Đăng Tuấn - Nguyên Phó Tổng
Giám đốc thường trực Đài Truyền hình Việt Nam cho rằng, nghĩa rộng của
quá trình xã hội hóa này chính là sự tham gia vào quá trình sản xuất chương
trình từ bên ngoài ngành truyền hình. Tức là trong các khâu sản xuất, hình
thành tác phẩm của một chương trình truyền hình có sự tham của một hoặc
nhiều đơn vị, cơ quan không liên quan đến nhà đài.
Do vậy, bên cạnh việc phát triển các kênh truyền hình quảng bá, Đài

Truyền hình Việt Nam luôn có sự quan tâm đầu tư đúng mức trong lĩnh vực
xây dựng và phát triển hệ thống Truyền hình Cáp. Lý do thứ nhất là trong
tương lai không xa, việc phát sóng công nghệ analog mặt đất như hiện nay sẽ
không còn phù hợp và được thay thế bằng các phương thức truyền dẫn phát
sóng hiện đại qua vệ tinh, qua hệ thống truyền hình cáp hữu tuyến. Lý do thứ
hai có thể thấy đó là việc Đài Truyền hình Việt Nam quan tâm phát triển
truyền hình cáp sẽ góp phần đa dạng hóa các chương trình truyền hình giải trí,
văn nghệ, thể thao, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của đông đảo khán giả
xem truyền hình.
Tuy nhiên, do kinh phí ngân sách phục vụ sản xuất chương trình hàng
năm có hạn, do vậy việc đầu tư thích đáng cho các chương trình truyền hình
18


trả tiền ở Đài Truyền hình Việt Nam mới chỉ dừng ở mức độ nhất định. Chính
vì những lý do này, chủ trương xã hội hóa sản xuất chương trình ở Truyền
hình Cáp Việt Nam được coi là một trong những xu thế và là nhiệm vụ tất yếu
của Đài Truyền hình Việt Nam. Ban biên tập Truyền hình Cáp không nhất
thiết phải thực hiện toàn bộ các khâu sản xuất một số chương trình truyền
hình mà có thể đặt hàng một số các đơn vị tư nhân chuyên làm về một lĩnh
vực nào đó của truyền hình. Ở một nấc cao hơn, xã hội hoá sản xuất chương
trình trên Truyền hình Cáp Việt Nam là mở rộng hình thức cho các đơn vị bên
ngoài đài, bất kể là nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân có thể đảm nhiệm
trọn gói một chương trình và Ban biên tập Truyền hình Cáp, Đài truyền hình
Việt Nam có thể tiếp nhận, kiểm duyệt nội dung và cho phát sóng.
Trước mắt, chủ trương xã hội hóa sản xuất chương trình ở Truyền hình
Cáp giúp Đài truyền hình Việt Nam giảm được gánh nặng cả về nhân lực và
cơ sở vật chất trong hoạt động tổ chức sản xuất các chương trình truyền hình.
Nhờ có sự hợp tác với các đơn vị bên ngoài mà rất nhiều chương trình ở
Truyền hình Cáp đã được sản xuất và phát sóng mà không cần phải huy động

kinh phí ngân sách và phương tiện của đài. Nhiều chương trình phối hợp sản
xuất với các đơn vị bên ngoài đã nhận được sự đánh giá cao của dư luận nói
chung, cho thấy sự đúng đắn về quan điểm cũng như chủ trương thực hiện xã
hội hóa sản xuất một số chương trình Truyền hình Cáp của Đài Truyền hình
Việt Nam.
Hiện nay quá trình này được thực hiện tại Truyền hình Cáp Việt Nam
theo nhiều phương thức như:
Đài Truyền hình Việt Nam giao cho Ban biên tập Truyền hình Cáp trực
tiếp ký kết hợp tác với đối tác ngoài Đài sản xuất các chương trình truyền
hình. Ban biên tập Truyền hình Cáp thay mặt lãnh đạo Đài kiểm duyệt nội
dung và cho phát sóng các chương trình truyền hình do các tổ chức, công ty
truyền thông Media hay các nhà đầu tư tự sản xuất chương trình trên các kênh
19


thuộc hệ thống truyền hình Cáp VCTV trên cơ sở hợp tác khai thác quyền lợi
quảng cáo và các dịch vụ giá trị gia tăng mang lại.
Thêm vào đó, việc đẩy mạnh xã hội hoá sản xuất chương trình truyền
hình này giúp cho từng cá nhân, từng tập thể trong Ban biên tập Truyền hình
Cáp sẽ có trách nhiệm hơn về công việc, nâng cao năng lực, trình độ công
nghệ, tiếp cận những phong cách thể hiện mới khi sản xuất các chương trình
truyền hình.
Hiện nay, bên cạnh việc xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình ở
một số kênh trên hệ thống truyền hình trả tiền (truyền hình Cáp), Đài Truyền
hình Việt Nam đang thẩm định hơn 40 chương trình được xã hội hoá trên các
kênh truyền hình quảng bá; hướng tới phát sóng những chương trình hay, chất
lượng để xây dựng uy tín và thương hiệu của Đài. Quá trình này có sự đóng
góp, tham gia của các công ty, đơn vị, tập thể ngoài đài truyền hình.
Với quan điểm thống nhất cao trong Đài cũng như trong các cơ quan
quản lý là: xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình nói chung và truyền

hình trả tiền nói riêng không có nghĩa là Đài Truyền hình Việt Nam rút lui
trận địa, khoán trắng mà ngoài công tác tuyên truyền cần tập trung công sức
vào để kiểm soát nội dung, góp phần đảm bảo định hướng chính trị và cũng là
để xây dựng những chương trình truyền hình có chất lượng hơn. Ngoài ra, còn
phải đầu tư công sức vào việc tận dụng trí tuệ xã hội, tổ chức lực lượng sản
xuất bên ngoài, nghiệm thu, đánh giá chất lượng nội dung chương trình; tiến
tới chuyển mô hình tổ chức Đài sang cơ chế sản xuất với hàm lượng tri thức
cao hơn.
1.2. QUÁ TRÌNH XÃ HỘI HÓA SẢN XUẤT CHƯƠNG TRÌNH Ở
TRUYỀN HÌNH CÁP VIỆT NAM
1..2.1. Thực trạng quá trình xã hội hóa sản xuất chương trình
Truyền hình Cáp Việt Nam

20


Trước đây khái niệm xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình là
một cụm từ hoàn toàn mới mẻ nếu như không muốn nói là khá nhạy cảm ngay
ở trong Đài Truyền hình Việt Nam chứ chưa nói đến hệ thống truyền hình
Cáp. Thế nhưng, từ khi Đài Truyền hình Việt Nam thống nhất chủ trương xã
hội hóa một số chương trìnhTruyền hình trên các kênh quảng bá thì điều này
cũng đồng nghĩa với việc các ban biên tập khác trong Đài cũng sẽ phải chủ
động trong việc tìm kiếm đối tác, phối hợp sản xuất các chương trình truyền
hình. Tùy theo yêu cầu và nội dung cụ thể mà tại mỗi ban biên tập, hoạt động
xã hội hóa sẽ được triển khai thực hiện một phần hoặc cả chương trình truyền
hình với các đối tác ngoài Đài truyền hình.
Đối với Ban biên tập Truyền hình Cáp, Đài Truyền hình Việt Nam,
mặc dù là một đơn vị khá non trẻ song trước yêu cầu mới, Ban biên tập đã có
nhiều nỗ lực trong việc thiết lập quan hệ với các đối tác để thực hiện có hiệu
quả chủ trương xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình.

Sự kiện đã đánh dấu mốc đầu tiên của quá trình xã hội hóa sản xuất
chương trình ở Ban biên tập Truyền hình Cáp là ngày 6/3/2007, Info TV kênh thông tin tài chính kinh tế - kênh truyền hình chứng khoán trực tiếp đầu
tiên tại Việt Nam, do Trung tâm Kỹ thuật Truyền hình Cáp - VCTV ký kết
triển khai cùng đối tác Công ty Cổ phần Truyền thông Đại Dương đã chính
thức phát sóng, đưa số kênh trên mạng cáp VCTV lên tới 45 kênh. Việc xã
hội hóa trên kênh Info TV được thực hiện theo phương thức: Trung tâm kỹ
thuật Truyền hình Cáp Việt Nam (VCTV) ký kết hợp đồng kinh tế, chịu mọi
trách nhiệm tổ chức nghiệm thu và thanh lý hợp đồng tài chính với đối tác,
Ban Biên tập Truyền hình Cáp thực hiện sản xuất một số chuyên mục trên
kênh Info TV và trực tiếp là đầu mối đảm nhận việc giám sát, kiểm soát nội
dung các chương trình truyền hình do Công ty cổ phần truyền thông Đại
Dương sản xuất. Sau khi phía đối tác lập kế hoạch sản xuất chương trình, lên
khung chương trình phát sóng kênh Info TV, Ban Biên tập truyền hình Cáp
triển khai duyệt nội dung, nếu những chương trình này đảm bảo chất lượng,
21


phù hợp nội dung định hướng chính trị và yêu cầu của Đài sẽ cho phép phát
sóng trên các kênh truyền hình xã hội hóa.
Sau một thời gian lên sóng và thực hiện xã hội hóa sản xuất các chương
trình trên kênh Info TV thành công, đã tạo được sự đồng thuận của dư luận xã
hội và đặc biệt là giảm được tối đa chi phí sản xuất chương trình, tạo được
nguồn thu cho Đài truyền hình Việt Nam nói chung và Ban Biên tập Truyền
hình Cáp nói riêng.
Đặc biệt, ngày 14/7/2008 Tổng giám đốc Đài truyền hình Việt Nam đã
chính thức ban hành quyết định số 818/QĐ- THVN ban hành chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Biên tập truyền hình Cáp
trong đó nêu rõ, Ban Biên tập Truyền hình Cáp có nhiệm vụ trình Tổng Giám
đốc phê duyệt để tổ chức sản xuất chương trình, gói chương trình các kênh
tiếng Việt theo đặt hàng của đối tác, đồng thời tổ chức nghiệm thu các thể loại

chương trình theo phân cấp của Đài. Có thể nói đây là quyết định mở ra
hướng đi mới, tạo mọi điều kiện thuận lợi để Ban Biên tập Truyền hình Cáp
xây dựng cơ chế hợp tác sản xuất chương trình, thực hiện ký hợp đồng mua
bản quyền chương trình hoặc gia công, sản xuất các chương trình truyền hình
với các đối tác ngoài Đài.
Ngày 8/8/2008, sau thời gian thương thảo hợp đồng và ký kết hợp tác,
kênh Truyền hình O2TV được ra đời trên cơ sở ký kết hợp tác với Công ty
truyền thông S và bắt đầu được phát sóng trên kênh VCTV10 của Truyền
hình Cáp - Đài Truyền hình Việt Nam và trên hệ thống truyền hình số vệ tinh
DTH. Sau khi hình thành, kênh truyền hình O2TV đã nhanh chóng mở rộng
diện phủ sóng, kết nối với các mạng lưới truyền hình cáp và truyền hình các
địa phương phục vụ đông đảo khán giả truyền hình.
Tháng 10/2009, Kênh Truyền hình Đầu tư Invest TV- VCTV15 được ra
đời trên cơ sở ký kết hợp tác xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình với
Công ty cổ phần Truyền thông Việt Ba. Sau đó, để thuận tiện cho công tác
quản lý sản xuất, thanh toán tài chính, phía đối tác đã chuyển sang thành lập
22


Công ty Truyền thông Invest TV để phối hợp sản xuất chương trình và là đầu
mối chịu trách nhiệm chính thực hiện việc đôn đốc sản xuất các chương trình
phát sóng trên kênh Invest TV.
Tính đến cuối năm 2009, Ban Biên tập Truyền hình Cáp, Đài Truyền
hình Việt Nam đã cho ra đời 14 kênh truyền hình tiếng Việt (trong đó có 6
kênh thực hiện xã hội hóa sản xuất chương trình), làm phụ đề và giám sát làm
phụ đề 6 kênh truyền hình nước ngoài, kiểm soát nội dung 26 kênh truyền
hình nước ngoài.
Thời điểm này, chỉ tính riêng nhân lực lao động tại các kênh thực hiện
xã hội hóa đã có tới tổng số 359 người, trong đó kênh có O 2TV 130 người;
kênh truyền hình Invest TV có 80 người; kênh truyền hình Style TV có 60

người; kênh Info TV có 12 người; kênh truyền hình TV Shopping có 27 người
và kênh truyền hình Real TV có tới 50 người.
Trong năm 2010, Ban biên tập Truyền hình Cáp đã thực hiện sản xuất
và cho lên sóng thêm được một kênh truyền hình mới là Kênh Du lịch. Riêng
kênh VCTV1 được đổi tên thành kênh truyền hình Fansipan TV (vì đây cũng
là kênh truyền hình được xã hội hóa đầu năm 2010 được thực hiện hợp tác với
công ty Phanxipan), tiếp sau đó là xã hội hóa sản xuất chương trình ở các
kênh truyền hình Bóng đá TV, Style TV...
Đặc điểm chung của các kênh truyền hình được xã hội hóa này là các
công ty truyền thông là đơn vị trực tiếp thực hiện sản xuất các chương trình
truyền hình, đảm bảo khối lượng đến 80% thời lượng phát sóng của kênh
truyền hình xã hội hóa. Một số chương trình khác trên các kênh xã hội hóa
này do Ban Biên tập Truyền hình Cáp sản xuất (hoặc tham gia sản xuất một
phần). Phía đối tác sẽ chi trả tài chính theo phương thức thỏa thuận hợp tác
gia công giữa Ban Biên tập và công ty truyền thông. Đây là thỏa thuận gia
công sản xuất các chương trình do phía đối tác đặt hàng mang tính thường
xuyên với ban biên tập và về cơ bản, đến nay các chương trình này đã được
nâng cao chất lượng, hình thức thể hiện và nội dung chương trình.
23


Nhiều ý kiến cho rằng khi Ban Biên tập Truyền hình Cáp - Đài Truyền
hình Việt Nam tổ chức xã hội hóa sản xuất các chương trình truyền hình đã
thực sự tạo nên bước đột phá trong nội dung hoạt động và đã có những cố
gắng cải tiến nhất định trong nội dung và hình thức thể hiện kể cả việc góp
phần tạo nguồn thu cho Đài và Ban Biên tập Truyền hình Cáp.
Năm 2011, theo kế hoạch hợp tác sản xuất chương trình đã ký với
Trung tâm Kỹ thuật Truyền hình Cáp, Trung tâm này đã nhất trí thỏa thuận
đồng ý đặt hàng Ban Biên tập Truyền hình Cáp số tiền sản xuất chương trình
lên tới 74,6 tỷ đồng. Trên thực tế kể từ khi tham gia xã hội hóa sản xuất các

chương trình truyền hình, nguồn thu dự kiến từ các hợp đồng đặt hàng ký
trực tiếp với Ban Biên tập Truyền hình Cáp mỗi năm ước đạt 9,3 tỷ đồng,
trong đó ngoài phần kinh phí Ban Biên tập được giữ lại và chi trả cho hoạt
động sản xuất chương trình, số kinh phí bình quân thu về cho đơn vị chủ
quản của Ban Biên tập Truyền hình Cáp là Đài Truyền hình Việt Nam ước
đạt 1,3 tỷ đồng/ năm.
Nhìn về số lượng các kênh truyền hình trên hệ thống truyền hình cáp có
thể thấy, nếu như đến tháng 12/2009, Ban Biên tập Truyền hình Cáp thực hiện
xã hội hóa được 6 kênh truyền hình thì đến tháng 8/2011, đã có 9 kênh truyền
hình được Ban Biên tập Truyền hình Cáp thực hiện xã hội hóa thành công.
Điều dễ nhận thấy là thông qua hoạt động xã hội hóa, Đài Truyền hình Việt
Nam nói chung và Ban Biên tập Truyền hình Cáp nói riêng đã giảm được
gánh nặng cả về nhân lực và cơ sở vật chất trong hoạt động sản xuất các
chương trình truyền hình đặc biệt là việc cho ra đời các kênh truyền hình mới
vốn rất tốn kém về nhân lực và tài chính, đáp ứng được nhu cầu của đông đảo
khán giả xem truyền hình.
Nhờ có hoạt động xã hội hóa và sự hợp tác với các đơn vị truyền thông
bên ngoài Đài mà rất nhiều chương trình truyền hình đã được sản xuất và phát
sóng trên hệ thống truyền hình trả tiền mà không cần phải huy động tài chính
từ nguồn kinh phí ngân sách của Đài Truyền hình Việt Nam.
24


Cho đến cuối năm 2010, Ban Biên tập Truyền hình Cáp, đã tranh thủ
vận dụng được nhiều chính sách cơ chế mới của Đài Truyền hình Việt Nam
đối với hoạt động xã hội hóa sản xuất chương trình. Ban Biên tập đã được
lãnh đạo Đài quan tâm và tạo điều kiện rất nhiều trong lĩnh vực xây dựng cơ
chế hợp tác sản xuất, ký hợp đồng kinh tế để gia công, sản xuất chương trình
và chính thức có hiệu lực từ đầu 2010. Bên cạnh đó Tổng Giám đốc cũng đã
ủy quyền toàn bộ khâu duyệt chương trình trên các kênh truyền hình trả tiền

cho Ban Biên tập Truyền hình Cáp, thông qua một hội đồng duyệt cấp Ban do
Ban Biên tập đề xuất và được Tổng Giám đốc phê duyệt (giống như mô
hình của các Đài Trung tâm khu vực thuộc Đài Truyền hình Việt Nam quản
hiện nay).
Điều quan trọng nhất là các chương trình phối hợp sản xuất với các đơn
vị truyền thông bên ngoài nói chung và các chương trình truyền hình do Ban
Biên tập Truyền hình Cáp sản xuất và giám sát nội dung chương trình vẫn giữ
đúng định vị nội dung của các kênh, không để xảy ra tình trạng chồng chéo
nội dung giữa các kênh truyền hình, các chuyên mục hoặc như cách nói phổ
thông hiện nay xã hội đang gọi đó là không để xảy ra các hiện tượng thả nổi,
"bán sóng truyền hình".
1.2.3. Những vấn đề đặt ra trong quá trình xã hội hóa sản xuất
chương trình của Truyền hình Cáp Việt Nam
Trước hết phải nói rằng, trong bất kì giai đoạn phát triển của xã hội,
báo chí nói chung cũng như truyền hình nói riêng có vai trò rất lớn trong việc
định hướng dư luận xã hội, tạo ra dư luận xã hội. Dư luận xã hội ở đây được
hiểu là những phản ứng, thái độ của xã hội đối với một sự kiện, hiện tượng,
vấn đề nào đó trong xã hội đang diễn ra. Trong khi đó, tính chất của dư luận
xã hội lại phụ thuộc rất lớn vào nội dung thông tin được phản ánh trên các
phương tiện báo chí, truyền thông. Điều đó chứng tỏ nếu thông tin bị bóp méo
hay xuyên tạc thì hậu quả sẽ rất lớn. Lãnh đạo Đài Truyền hình Việt Nam
luôn nhất quán với quan điểm rằng truyền hình trả tiền phải lấy yếu tố hiệu
25


×