Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ thông qua các bài thơ cho trẻ 5 6 tuổi ở trường mầm non hoa ban mộc châu sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (803.47 KB, 68 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Vũ Tiến Dũng, người thầy
đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu cho đến
khi khóa luận được Hội đồng khoa học nghiệm thu.
Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu,Trung tân thông tin Thư viện, Ban
chủ nhiệm Khoa Tiểu học - Mầm non Trường Đại học Tây Bắc và các bạn sinh
viên lớp K53 Đại học giáo dục Mầm non C đã tạo điều kiện cho chúng tôi học
tập và nghiên cứu để hoàn thành khóa luận này.
Xin cảm ơn các cô giáo và các cháu mẫu giáo 5 - 6 tuổi Trường Mầm non
Hoa Ban - huyện Mộc Châu - Tỉnh Sơn La đã tạo điều kiện giúp đỡ để chúng tôi
hoàn thành khóa luận đúng thời gian.
Sơn La, tháng 5 năm 2016
Tác giả khóa luận

Vì Thị Dương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 4
6. Ý nghĩa của khóa luận ....................................................................................... 5
7. Cấu trúc khóa luận............................................................................................. 6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN ............................. 7
1.1. Cơ sở lí luận ................................................................................................... 7
1.1.1. Đặc điểm tâm lí của trẻ 5 - 6 tuổi ................................................................ 7
1.1.2. Chức năng, vai trò, đặc điểm phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5- 6 tuổi ........... 8
1.1.3. Đặc điểm các tác phẩm thơ dành cho thiếu nhi ........................................ 12


1.1.4. Những yêu cầu khi dạy học phần “Văn học thiếu nhi” cho sinh viên ngành
giáo dục Mầm non. .............................................................................................. 17
1.2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................. 21
1.2.1. Tác phẩm thơ trong chương trình “Chăm sóc - và giáo dục” trẻ em ............ 21
1.2.2. Màu sắc của các thể loại thơ ..................................................................... 24
1.2.3. Khảo sát thực trạng phát triển ngôn ngữ qua thơ cho trẻ 5 - 6 tuổi. ......... 29
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 32
CHƯƠNG 2: BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ 5-6
TUỔI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG DẠY THƠ ........................................... 34
2.1. Sử dụng biện pháp đàm thoại ....................................................................... 34
2.1.1. Khái niệm .................................................................................................. 34
2.1.2. Cách thức thực hiện ................................................................................... 34
2.1.3. Những yêu cầu sử dụng phương pháp đàm thoại khi đọc thơ .................. 37
2.2. Dạy trẻ đọc diễn cảm bài thơ ....................................................................... 40
2.2.1. Rèn luyện trẻ phát âm đúng ...................................................................... 40


2.2.2. Hình thành nhịp điệu của ngôn ngữ và chất liệu giọng nói ...................... 42
2.2.3. Hình thành lời nói diễn cảm cho trẻ .......................................................... 42
2.3. Biện pháp giảng giải, giải thích từ khó ........................................................ 43
2.3.1. Khái niệm .................................................................................................. 43
2.3.2. Cách thức thực hiện................................................................................... 43
2.4. Sử dụng các phương tiện trực quan trong việc đọc thơ cho trẻ nghe .......... 44
2.4.1. Cách thức thực hiện ................................................................................... 45
2.4.2. Yêu cầu của việc sử dụng trực quan ......................................................... 47
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 48
CHƯƠNG 3: THIẾT KẾ VÀ THỂ NGHIỆM SƯ PHẠM ........................... 49
3.1. Mục đích thể nghiệm .................................................................................... 49
3.2. Thời gian, đối tượng và địa bàn thể nghiệm.................................................. 49
3.3. Điều kiện thể nghiệm ................................................................................... 49

3.4. Phạm vi thể nghiệm ...................................................................................... 49
3.5. Mẫu thể nghiệm ............................................................................................ 49
3.6. Tiến trình thể nghiệm ................................................................................... 50
3.6.1. Các bước thể nghiệm................................................................................. 50
3.6.2. Tiêu chí đánh giá và phân loại mức độ phát triển ngôn ngữ của trẻ thông
qua hoạt động đọc thơ. ........................................................................................ 51
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .......................................................................... 63
1. Kết luận ........................................................................................................... 63
2. Kiến nghị ......................................................................................................... 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 65


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Một quốc gia hùng mạnh là một quốc gia có nền giáo dục phát triển. Vì vậy
đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển bền vững, đảm bảo đào tạo một
thế hệ kế tiếp có đầy đủ phẩm chất và năng lực phục vụ cho đất nước. Đại hội
Đảng khóa IX đã khẳng định: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, phát
triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực của con người.
Hiện nay, giáo dục đã trở thành mối quan tâm của toàn xã hội, đặc biệt giáo
dục mầm non chiếm một vị trí quan trọng, là khâu đầu tiên trong hệ thống giáo
dục quốc dân, là bậc học đặt nền móng cho sự phát triển nhân cách con người
mới xã hội chủ nghĩa.
Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai, trẻ em là nguồn hạnh húc của mỗi gia
đình, là tương lai của đất nước, lớp người sẽ tiếp tục sự nghiệp của ông cha để
lại, gánh vác mọi công việc xây dựng Tổ quốc. Mọi trẻ em sinh ra đều có quyền
được giáo dục chăm sóc, được tồn tại và phát triển, được yêu thương trong gia
đình cộng đồng. Khi xã hội càng phát triển thì giá trị con người càng được nhận
thức và đánh giá đúng đắn, do vậy việc chăm sóc và giáo dục trẻ lại càng mang

ý nghĩa nhân văn cụ thể và trở thành đạo lý của thế giới văn minh.
Việc giáo dục trẻ mầm non phải dựa trên nhu cầu cơ bản, thỏa mãn những
mong muốn tốt đẹp của trẻ, khơi gợi sự phát triển khả năng vốn có của trẻ.
Trong trường mầm non, việc “cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học”và
“phương pháp phát triển ngôn ngữ”là những môn học trọng tâm có vị trí quan
trọng trong tất cả các môn học, thông qua các môn học giúp trẻ phát triển ngôn
ngữ một cách tốt nhất và sâu sắc nhất đặc biệt là qua hoạt động dạy thơ cho trẻ.
Dạy thơ cho trẻ giúp trẻ tiếp cận cái hay, cái đẹp trong tiếng nói của dân tộc để
từ đó làm giàu cảm xúc của trẻ, phát triển trí tưởng tượng, giúp trẻ khám phá
những điều mới lạ của thế giới xung quanh. Để làm được những điều đó cần
phải cho trẻ tiếp xúc và làm quen với tất cả các tác phẩm thơ gần gũi với trẻ,
ngôn ngữ thơ phải dễ hiểu, đơn giản mang màu sắc ngộ nghĩnh, vui tươi hồn
1


nhiên nhí nhảnh. Ngôn ngữ thơ được đánh giá là một hiện tượng ngôn ngữ độc
đáo,với các từ láy, từ tượng thanh, từ tượng hình và các phương tiện tu từ mang
nhiều hình ảnh. Tuy nhiên, để phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua thơ đạt hiệu quả
cao rất cần tìm hiểu nghiên cứu một cách đầy đủ.
Nước ta đang thực hiện chiến lược kinh tế xã hội là xây dựng nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nền công nghiệp hiện đại vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh để hòa đồng với các nước
Đông Nam Á và trên Thế giới. thực hiện mục tiêu của Đảng chính phủ có chủ
trương: “giáo dục là quốc sách hàng đầu”và xác định chiến lược “giáo dục con
người là phải đi trước chiến lược kinh tế”, “phát triển bậc học mầm non phù hợp
với điều kiện và yêu cầu từng nơi, bảo đảm hầu hết trẻ 5 tuổi được đi học
chương trình mẫu giáo lớn và chuẩn bị vào lớp 1”. Nghị quyết của Đảng đã xác
định đúng đắn vị trí của giáo dục mầm non trong chiến lược giáo dục và đào tạo
và chỉ ra bước đi thích hợp với khả năng thực tế của đất nước.
Chính vì những lý do trên, bằng sự tìm hiểu và tâm huyết của mình, đồng

thời dựa trên những tiếp thu, học hỏi những thành tựu nghiên cứu thành công
khác, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp phát
triển ngôn ngữ thông qua các bài thơ cho trẻ 5-6 tuổi ở trường Mầm non Hoa
Ban - Mộc Châu - Sơn La”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ngôn ngữ là tài sản quý báu của nhân loại. Nó tồn tại đi lên và phát triển
cùng với xã hội loài người. Nó luôn đồng hành với con người, là phương tiện
giao tiếp của con người, tồn tại bên trong xã hội loài người. Ngôn ngữ là kho
tàng trí tuệ của loài người, nó chứa đựng và làm sống lại những thành tựu to lớn
do xã hội loài người xây dựng lên, là tượng đài đầy giá trị của nền văn minh
nhân loại.
Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ được nghiên cứu rất kỹ lưỡng ở
Liên Xô (cũ) với nhiều nhà sư phạm cùng với những công trình có tính khoa
học, hiệu quả nổi tiếng, những công trình này đã vào Việt Nam khá sớm. Giáo
viên, sinh viên các trường đào tạo giáo viên mầm non đã biết đến Chikhieva.E.I
2


như một tác giả có uy tín trong lĩnh vực nghiên cứu về sự phát triển ngôn ngữ cho
trẻ mẫu giáo. Ngoài ra, có nhiều tác giả chúng ta biết cũng đóng góp quan trọng
vào việc hình thành chuyên ngành phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở nước ta. Có thể kể
đến các tác giả như: Barodis.A.M với cuốn: “Phương pháp phát triển tiếng cho
trẻ”, (Nhà xuất bản Giáo dục Matxccova- 1974); Xukhin với tác phẩm: “Phát triển
lời nói cho trẻ em”,(Nhà xuất bản giáo dục Maxcova- 1974)…
Thời cổ đại có Platon, Aristote, hay như O.B.Enconhin, L.X.Vưgotxki,
V.L.Muakhina…
Những nghiên cứu tuy khác nhau nhưng luôn tìm hiểu chung về một vấn đề
đó là ngôn ngữ.
I.M.Xesênnốp, K.D.Usinxki, L.B.Vuwgotski, Piegiê… có những nghiên
cứu lý tưởng về tâm lý học ngôn ngữ, về sự phát triển ngôn ngữ của trẻ thơ.

Những nhà khoa học Nga cũng có những khám phá quan trọng, khoa học
về những vấn đề hoàn thiện ngôn ngữ ở lứa tuổi mầm non, với một số công trình
tiêu biểu:
A.V.Petrovsky với Tâm lí học lứa tuổi và Tâm lí học sư phạm.
A.M.Barodis với Phương pháp phát triển tiếng cho trẻ em.
A.N.Xôkôlốp với Lời nói bên trong và tư duy.
N.I.Giưnkin với Vấn đề hoàn thiện nội dung và phương pháp.
A.A.Lêonchiép với Những cơ sở lý thuyết của hoạt động lời nói.
Hay các nhà khoa học khác như:
M.M.Konxova với Dạy nói cho trẻ trước tuổi đi học.
V.X.Mukhina với Tâm lí học mẫu giáo.
Ở Việt Nam cũng có những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề
phát triển ngôn ngữ của trẻ như: Dạy nói và trẻ trước tuổi cấp 1 của tác giả Phan
Thiều. Tác giả Phạm Thị Phú và Lê Thị Ánh Tuyết với Phương pháp làm quen
với văn học ở mẫu giáo.
Luận án phó tiến sĩ của Lưu Thị Lan: Những bước phát triển ngôn ngữ của
trẻ từ 1-6 tuổi,dựa trên cơ sở tư liệu ngôn ngữ trẻ em nội thành Hà Nội (1996)

3


Khóa luận tốt nghiệp của Bùi Thị Tâm- Phương pháp phát triển ngôn ngữ
cho trẻ mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi) qua kể chuyện sáng tạo…và rất nhiều công
trình khác nữa. Những công trình nghiên cứu này đã dựa vào đặc điểm phát triển
tâm sinh lý và ngôn ngữ của trẻ và có những đóng góp lớn trên các phương diện
lí luận và thực tiễn. Song những nghiên cứu về ngôn ngữ nói chung và việc phát
triển về ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua các bài thơ nói riêng vẫn còn
hạn chế, gần như chưa một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, đặc biệt là
vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Qua tìm hiểu về đặc điểm của trò chơi cùng với sự phát triển của trẻ mẫu
giáo, đặc điểm tâm lí của trẻ 5- 6 tuổi, khóa luận sẽ đề xuất một số biện pháp
nâng cao việc phát triển ngôn ngữ thông qua các bài thơ cho trẻ từ 5- 6 tuổi ở
Trường Mầm non Hoa Ban.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Với mục đích nghiên cứu đã xác định như trên, khóa luận hướng tới một
số nhiệm vụ cụ thể sau:
- Tìm hiểu một số cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn có liên quan đến vấn đề
nghiên cứu và khảo sát thực trạng trẻ mẫu giáo ở trường mầm non;
- Đề xuất biện pháp nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua các bài thơ;
- Thiết kế thực nghiệm và đưa ra kết luận.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tìm hiểu sự phát triển ngôn ngữ của trẻ thông qua các bài thơ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Trẻ từ 5 - 6 tuổi (30 trẻ)
- Giáo viên Trường Mầm non Hoa Ban
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu sách, tài liệu có liên quan đến khóa luận , đọc và hệ thống hóa các
4


tài liệu có liên quan đến cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu và các tài liệu có
liên quan đến việc nâng cao và phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
5.2.1. Phương pháp quan sát
Quan sát ghi chép việc sử dụng các biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 56 tuổi thông qua các bài thơ.
5.2.2 Phương pháp trò chuyện

Trao đổi, tọa đàm với các giáo viên về khóa luận nghiên cứu.
Hỏi trẻ một số câu hỏi nhằm làm rõ hơn khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ.
5.3. Phương pháp thống kê toán học
Xử lý kết quả nghiên cứu bằng thống kê toán học
5.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Sử dụng phương pháp thực nghiệm trên với 30 trẻ để đánh giá khả năng
phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua thơ
6. Ý nghĩa của khóa luận
6.1. Ý nghĩa lí luận
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc nâng cao việc phát
triển ngôn ngữ thông qua các bài thơ cho trẻ 5 - 6 tuổi.
Sự nghiên cứu thành công của khóa luận sẽ bổ sung việc phát triển ngôn
ngữ cho trẻ thông qua các bài thơ nhằm nâng cao chất lượng giáo dục mầm
non. Hơn thế nữa, khóa luận còn được đóng góp tài liệu về công tác nghiên
cứu khoa học về ngôn ngữ ở lứa tuổi mầm non, của sinh viên khoa Tiểu học Mầm non, Trường Đại học Tây Bắc nói riêng và những độc giả quan tâm đến
vấn đề nói chung.
Đề xuất và vận dụng một số biện pháp giúp trẻ 5 - 6 tuổi nâng cao việc phát
triển ngôn ngữ thông qua các bài thơ.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nếu các biện pháp khóa luận đề xuất phù hợp và được áp dụng thì việc phát
triển ngôn ngữ của trẻ sẽ có hiệu quả, từng bước được nâng cao và dần hoàn
thiện hơn.
5


7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, cấu trúc
của khóa luận gồm 3 chương, cụ thể:
Chương 1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
Chương này tác giả đề xuất tới đặc điểm của thơ, có những biểu hiện gắn

gũi với trẻ nên tạo cho trẻ cảm thấy hấp dẫn và dễ hiểu, các bài có nội dung
phong phú, các tác giả đã đi tìm hiểu và tiếp nhận những sự hứng thú của trẻ.
Chương 2: Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 thông qua hoạt
động dạy thơ
Chương 2, tác giả nghiên cứu các bài thơ được đưa vào trong chương trình
giáo dục mầm non lứa tuổi 5 - 6 tuổi, đồng thời tiếp nhận về ngôn ngữ của thơ
trong chương trình chăm sóc giáo dục mầm non.
Chương 3: Thiết kế và thể nghiệm sư phạm
Ở chương này, chúng tôi đã xây dựng một số biện pháp, quy trình vận dụng
phương pháp giáo dục mầm non mới để tổ chức dạy thơ. Từ những cơ sở lí luận,
thực tiễn, chúng tôi tiễn hành thiết kế một số mẫu giáo án về thơ cho trẻ 5 - 6 tuổi.

6


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Đặc điểm tâm lí của trẻ 5 - 6 tuổi
Sự hồn nhiên vô tư, trong sáng là nét tâm lí nổi bật của trẻ, đặc biệt là trẻ
lứa tuổi mầm non. Nhìn chung ở lứa tuổi này tình cảm thống trị tất cả các mặt
hoạt động tâm lí của trẻ, chính vì vậy nhận thức của trẻ mang đậm màu sắc cảm
xúc, trẻ luôn có nhu cầu được người khác quan tâm và cũng luôn bày tỏ tình
cảm cuả mình đối với mọi người xung quanh và ngỡ ngàng trước những điều
tưởng chừng như rất đơn giản. Một bông hoa, một chiếc lá rơi, một con kiến tha
mồi hay một đêm trăng sáng cũng có thể làm trẻ xúc động một cách sâu sắc.
Chính đặc điểm dễ nhạy cảm này làm cho trẻ khi nghe kể chuyện, đọc thơ có thể
dễ dàng hóa thân vào các nhân vật trong các tác phẩm, trẻ thường có những
phản ứng trực tiếp ngay lập tức thì khi tiếp xúc với tác phẩm trẻ có thể cười hoặc
khóc, có thể sung sướng hay tức giận trước những chi tiết sự kiện của tác phẩm,

những tình huống mà nhân vật gặp phải. Đó là phản ứng biểu thị trạng thái tâm
lí của trẻ, những phản ứng này tương đương với nội dung cả tác phẩm và nó
càng trở nên mạnh mẽ nếu có sự đồng cảm của người lớn. Chính vì vậy, ngôn
ngữ, ngữ điệu, giọng điệu hoặc những cử chỉ điệu bộ của người đọc người kể tác
phẩm văn học cho người nghe là hết sức quan trọng, việc cho trẻ làm quen với
tác phẩm văn học ngoài kiến thức còn tạo cho trẻ một năng lực cảm nhận cái
đẹp, một thái độ cảm nhận cuộc sống, một phong cách sống.
Trẻ càng lớn tinh thần càng dần dần được ổn định sự hiểu biết của trẻ sẽ
phong phú, phức tạp dần theo các mối quan hệ và những hiểu biết về thế giới
xung quanh. Như vậy, từ những cảm xúc tình cảm được nảy sinh trong quá trình
cảm thụ tác phẩm văn học, trẻ sẽ biết yêu thương mọi vạn vật xung quanh. Cảm
xúc chi phối mạnh mẽ tri giác và thái độ tập chung chú ý đặc biệt là hứng thú
nhận thức, trẻ luôn hướng về một cái gì đó. Mỗi hoạt động của trẻ đều kích thích
cảm xúc, mỗi cảm xúc đều ảnh hưởng đến tri giác. Nhờ đó, trên nhận thức được
thế giới xung quanh, nhà tâm lí học và sinh học người Anh Spen-xô cho rằng sự
7


nhận thức của trẻ không những được mã hóa bằng kí hiệu và biểu tượng mà còn
bằng cả cảm xúc. Cảm xúc tinh vi ấy có chức năng tổng hợp và tổ chức thành
các tổ nhận thức thành cấu trúc cảm xúc - nhận thúc còn là sự lặp lại quá trình
này nhờ sự phát triển của các cấp độ tổ chức mà tạo nên sự phát triển của lí trí.
Như vậy, nguồn cảm xúc chẳng có mối quan hệ với nguồn kinh nghiệm cụ thể
của trẻ mà còn gắn bó với tư duy và hành động của trẻ, nó trở thành một yếu tố
tâm lí góp phần phát triển nhân cách của trẻ.
Như đã nói trên, chính bởi trẻ em giàu cảm xúc, tình cảm cho nên sự tiếp
nhận văn học của chúng cũng mang đậm màu sắc cảm xúc, theo quy luật chi
thức kiểu tư duy trực quan hình tượng, nghĩa là những thứ mà chúng có thể mắt
thấy tai nghe được. Nhưng riêng với tác phẩm văn học thì trẻ tiếp nhận bằng cả
tâm hồn, trái tim những tình cảm hết sức hồn nhiên ngây thơ của mình. Có thể

nói, trẻ em có lợi thế trong tiếp nhận cái đẹp trong văn học nghệ thuật. Chỉ cần
một cái chồi non hé mở, một chiếc mầm xinh sắn cũng có thể cho trẻ niềm vui
và sự hứng thú:
Mầm non mắt lim dim
Cố nhìn qua kẽ lá
Thấy máy bay hối hả
Thấy lất phất mưa phùn
(Võ Quảng)
Chính bởi trẻ thơ nhìn đời bằng cặp mắt trong trẻo, với tâm hồn trong sáng
nên trẻ ngạc nhiên và xúc động. ngạc nhiên và xúc động ngay cả khi nhìn thấy
một chiếc rơi, một con kiến tha mồi, một con voi nặng nề kéo gỗ nên dốc. Ta thấy
trong việc tiếp nhận tác phẩm văn học của trẻ ở lứa tuổi mầm non vấn đề tri thức
và kinh nghiệm là rất cần, nhưng quan trọng hơn là vẫn là cảm xúc, đó là năng lực
hóa thân của các nhân vật với cái gây thơ, đơn giản về sự giống nhau giữa các tác
phẩm văn học cũng là hiện thực ngoài đời nên dễ dàng muốn chia sẻ.
1.1.2. Chức năng, vai trò, đặc điểm phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5- 6 tuổi
Ngôn ngữ có vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của con người. Nhờ có
ngôn ngữ mà con người có thể thay đổi với nhau những hiểu biết, truyền cho
8


nhau những kinh nghiệm… Lê - nin đã từng nói: con người muốn tồn tại thì phải
gắn bó với cộng đồng, giao tiếp là một đặc trưng quan trọng của con người,
ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất.
I.J.Gebb đã từng nói rằng: hệt như ngôn ngữ đã làm các việc tách con người
ra khỏi thế giới động vật, ngôn ngữ và lao động là hai yếu tố quyết định, ra đời,
tồn tại và phát triển của con người trong xã hôi.
Bác Hồ của chúng ta đã dạy: “tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô
cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó làm cho nó
ngày càng phổ biến rộng khắp”. (dẫn theo[13,tr.15])

Trong công tác giáo dục của thế hệ trẻ mầm non cho đất nước chúng ta
càng thấy rõ vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục trẻ thơ. Ngôn ngữ đặc
biệt góp phần góp phần đào tạo các cháu trở thành những con người phát triển
toàn diện. Nó đã trở thành một đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học,
song nhìn chung vai trò của ngôn ngữ được thể hiện như sau:
Trước hết, ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp:
Không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của trọng ngôn ngữ, ngay cả những
bộ lạc người ta mới phát hiện cũng dùng ngôn ngữ để nói chuyện với nhau.
Trong xã hội có thể có nhiều phương tiện giao tiếp khác nhau như: cử chỉ,
dấu hiệu, điệu bộ, kí hiệu khác nhau (kí hiệu toán học, kí hiệu hóa học, kí hiệu
đèn giao thông..), kết hợp với âm thanh của âm nhạc, sự kết hợp giữa màu sắc
hội họa,... nhưng bản thân là những kí hiệu dấu hiệu này muốn hiểu cần phải
dùng ngôn ngữ để giải thích. Vì vậy, chính ta cần khẳng định ngôn ngữ là
phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người, trẻ em sinh ra nếu không
có môi trường ngôn ngữ thì không thể sử dụng ngôn ngữ trong hoạt động giao
tiếp được.
A.Aleonchiep nhấn mạnh vai trò của giao tiếp. Sự phát triển lời nói của trẻ
trước hết là sự phát triển của phương thức giao tiếp. Việc tạo cho trẻ môi trường
ngôn ngữ phù hợp là vấn đề rất cần được các nhà giáo dục quan tâm và thiết lập
một cách nghiêm túc.

9


Thứ hai, ngôn ngữ là phương tiện của tư duy, là công cụ để phát triển nhận
thức. Ở trẻ nhỏ tiếng mẹ đẻ là cơ sở của mọi sự phát triển, là vốn quý của mọi tri
thức. Vì vậy, việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho trẻ qua việc đọc và kể lại tác
phẩm văn học là trang bị cho trẻ nhận thức thế giới xung quanh và mở rộng
quan hệ với mọi người, mắt khác ở lứa tuổi mẫu giáo yêu cầu khả năng rèn
luyện diễn đạt cho trẻ là hết sức to lớn và là một nhiệm vụ cấp thiết của gia đình

và ở các lớp mẫu giáo. Việc rèn luyện diễn đạt cho trẻ qua việc đọc và kể lại tác
phẩm văn học có nội dung thông báo đầy đủ rõ ràng, dễ hiểu, ngắt nghỉ giọng
đúng chỗ, giọng nói có sắc thái biểu cảm đó là sự rèn luyện của con người nói
chung của trẻ mẫu giáo nói riêng.
Các Mác và Ăng Ghen cũng đã khẳng định: Ngôn ngữ và tư duy ra đời
cùng một lúc. Ngay từ đầu chúng đã quyện vào nhau không tách rời nhau. Ngôn
ngữ là hiện thực trực tiếp của tư duy. Nếu ngôn ngữ chỉ là những tổ hợp của âm
thanh đơn giản thì không thể trở thành phương tiện giao tiếp được, mặc dù chức
năng giao tiếp của ngôn ngữ gắn liền với chức năng thể hiện tư duy, nhưng
chúng lại tồn tại độc lập với nhau.
Ngôn ngữ của con người không chỉ tồn tại ở dạng thành tiếng mà còn tồn
tại dưới dạng biểu tượng âm thanh trong não bộ, chữ viết như viết ra. Chức năng
của ngôn ngữ với tư duy không chỉ nhận ra lời nói mà cả khi con người ta suy
nghĩ thầm bên trong - ngôn ngữ cũng vẫn là phương tiện biểu hiện. Bởi vậy, con
người không thể tư duy mà không có ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là cơ sở của suy nghĩ và là công cụ của tư duy. Ngôn ngữ là thành
tố của tình cảm, tri thức, trí tuệ, đạo đức... của con người như F.De.Saussure từng
nói là toàn bộ lôgic của cuộc sống chứa đựng trong một giọt của ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là vật chất, tư duy là tinh thần. Tư duy có tính chất nhân loại còn
ngôn ngữ có tính chất dân tộc. Ngôn ngữ và tư duy ra đời cùng một lúc và
không tách rời nhau, trong một chừng mực nào đó chúng xuất hiện cùng nhau và
bổ sung cho nhau.

10


Đối với trẻ em, ngôn ngữ có vai trò quyết định đến sự phát triển tâm lý của
các em, ngôn ngữ làm phát triển tư duy. Ngược lại, tư duy càng phát triển càng
đẩy nhanh sự phát triển của ngôn ngữ.
Khi đứa trẻ đã lớn, nhận thức của trẻ phát triển. Trẻ không chỉ dừng lại ở

những nhận thức về sự vật hiện tượng gần gũi, xung quanh trẻ và còn muốn biết
cả về những điều trẻ không trực tiếp nhìn thấy, trẻ muốn biết về quá khứ, tương
lai. Muốn biết về công việc của người lớn, của cha mẹ, muốn hiểu về chú bộ
đội, về Bác Hồ kính yêu...
Khi đã có một vốn ngôn ngữ nhất định, trẻ sử dụng ngôn ngữ như phương
tiện để biểu hiện nhân thức của mình. Trẻ có thể dùng lời để diễn đạt những hiểu
biết của mình, đặt ra câu hỏi, yêu cầu, nguyện vọng, thể hiện thái độ, tình cảm
yêu ghét, thương cảm… Biểu hiện bằng ngôn ngữ giúp cho nhận thức của trẻ
được củng cố sâu hơn, tạo cho trẻ được sống trong môi trường có các hoạt động
giao tiếp, trên cơ sở đó tạo ra nhiều suy nghĩ sáng tạo mới. Vì vậy, trong các
trường mầm non, khi tiến hành các hoạt động vui chơi, lao động, học tập,… cần
tạo điều kiện kích thích trẻ nói.
Một trong những phương pháp để kiểm tra nhận thức của trẻ là phải thông
qua ngôn ngữ. Như vậy ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục trí
tuệ cho trẻ, thông qua ngôn ngữ trẻ có thể nhận thức về thế giới xung quanh một
cách sâu rộng, rõ ràng, chính xác. Ngôn ngữ giúp trẻ tích cực sáng tạo trong hoạt
động trí tuệ. Như vậy, việc phát triển trí tuệ cho trẻ không thể tách rời việc pháp
triển ngôn ngữ.
Thứ ba, vai trò của ngôn ngữ trong giáo dục đạo đức
Phát triển và hoàn thiện dần ngôn ngữ cho trẻ ở lứa tuổi mầm non có ý
nghĩa to lớn trong việc giáo dục tình cảm đạo đức. Ở lứa tuổi mầm non, đặc biệt
là ở tuổi mẫu giáo trẻ bắt đầu hiểu biết và lĩnh hội những khái niệm, những quy
tắc, những chuẩn mực đạo đức của xã hội. Tuy mới chỉ là những khái niệm ban
đầu nhưng lại vô cùng quan trọng, có tính chất quyết định đến việc hình thành
những nét tính cách riêng biệt của mỗi con người trong tương lai. Muốn cho trẻ
hiểu và lĩnh hội được những khái niệm đạo đức này, chúng ta không thể chỉ
11


thông qua những hoạt động cụ thể hoặc những sự vật, hiện tượng trực quan đơn

thuần mà phải có ngôn ngữ. Nhờ có ngôn ngữ mà trẻ thể hiện được đầy đủ
những nhu cầu, nguyện vọng và tình cảm của mình. Cũng nhờ có ngôn ngữ mà
nhà giáo dục và các bậc cha mẹ có điều kiện hiểu con cháu mình hơn, để từ đó
có thể uốn nắn, giáo dục và xây dựng cho trẻ những tình cảm, hành vi đạo đức
trong sáng nhất.
Thứ tư, ngôn ngữ đối với việc giáo dục thẩm mỹ
Ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong quá trình tác động có mục đích, có hệ
thống nhằm phát triển ở trẻ năng lực cảm thụ cái đẹp và hiểu cho đúng cái đẹp
trong tự nhiên, trong đời sống xã hội, trong nghệ thuật, giáo dục cho trẻ lòng yêu
cái đẹp và năng lực tạo ra cái đẹp.
Thật vậy, trong cuộc sống hằng ngày, khi giao tiếp với người lớn , trẻ nhận
thức được cái đẹp ở xung quanh, từ đó trẻ có thái độ tôn trọng cái đẹp và tạo ra
cái đẹp. Đặc biệt khi tiếp xúc với bộ môn nghệ thuật như: Âm nhạc, tạo hình, trẻ
có thể cảm nhận được những cái đẹp tuyệt vời của cuộc sống qua âm thanh,
đường nét,… Từ đó, giúp trẻ hiểu sâu hơn về giá trị thẩm mỹ, tâm hồn trẻ sẽ
nhạy cảm hơn với cái đẹp và khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học trẻ có
thể tìm thấy ở đó những hình tượng, nhân vật điển hình, mỗi nhân vật mang một
sắc thái riêng, một vẻ đẹp riêng, từ đó trẻ tự biết phải sống như thế nào.
Thứ năm, ngôn ngữ đối với việc giáo dục thể lực
Trong chế độ sinh hoạt hằng ngày giáo viên và người lớn đã dùng ngôn ngữ
để hướng dẫn trẻ thực hiện tốt những yêu cầu mà mình đề ra. Ví dụ: trong giờ
thể dục giáo viên đã dùng ngôn ngữ tạo điều kiện giúp trẻ thực hiện động tác thể
dục nhằm giúp cơ thể phát triển cân đối về chất dinh dưỡng, ngoài chế độ sinh
hoạt hằng ngày trẻ còn cần phải ăn no, ăn đủ chất dinh dưỡng, trong khi ăn
người lớn cần dùng ngôn ngữ của mình để động viên khích lệ trẻ.
1.1.3. Đặc điểm các tác phẩm thơ dành cho thiếu nhi
Là những sáng tác phù hợp với tâm lí lứa tuổi khác nhau của trẻ em, được
“nhìn đôi mắt trẻ thơ”và xuất phát từ cảm xúc hồn nhiên, trong trẻo, tự nhiên
“như trẻ thơ”. Mỗi lần sáng tác cho các em là một lần người viết được “sống lại”
12



tuổi thơ của mình và hòa đồng tâm hồn với trẻ thơ. Thế giới xung quanh trẻ luôn
vui tươi, trong trẻo. Niềm vui như là một lẽ sống tự nhiên của các em - từ cách
nhìn, cách nghe,cách cảm, cách nghĩ, trí tưởng tượng…
Một tác phẩm viết về con người hay đồ vật chỉ được coi là một tác phẩm
văn học thiếu nhi khi tác giả biết “trẻ con hóa”những con vật, đồ vật ấy để nói
lên những suy nghĩ của chính các em; cảm thông, chia sẻ, cảm hóa các em bằng
những bài học nhân ái, nhẹ nhàng mà sâu sắc:
Ngỗng không chịu học
Khoe biết chữ rồi
Vịt đưa sách ngược
Ngỗng cứ tưởng xuôi
Cứ giả đọc nhẩm
Làm vịt phì cười
Vịt khuyên một hồi
Ngỗng ơi! Học! Học!”
(Ngỗng và Vịt - Phạm Hổ).
Có vai trò quan trọng trong việc giáo dục toàn diện nhân cách trẻ em cả về
đạo đức, trí tuệ và tình cảm thẩm mĩ.Ở lứa tuổi mầm non, với tâm hồn thơ ngây,
trong trắng, chưa có nhiều những trải nghiệm cá nhân, nhận thức về thế giới
xung quanh ở mức cảm tính…, nên việc tiếp xúc với cái đẹp lấp lánh của ngôn
từ và trí tưởng tượng phong phú trong tác phẩm văn học thiếu nhi sẽ là cơ sở để
các em rung động và cảm nhận được vẻ đẹp về một thế giới bao la đầy âm
thanh, màu sắc và sự huyền bí. Trong truyện cổ tích, trẻ được gặp ông Bụt, bà
Tiên tốt bụng với những phép biến hóa thần thông, những nàng công chúa xinh
đẹp, những chàng hoàng tử thông minh, can đảm… Còn trong truyện thần thoại,
các em lại được bắt gặp lối nhân hóa và sự tưởng tượng nghệ thuật, ở đó các con
vật, cỏ cây, hoa lá hiện lên một cách sinh động thể hiện tình cảm gắn bó sâu sắc
giữa con người với thiên nhiên. Trẻ thơ vốn đã sẵn trong đầu trí tưởng tượng

phong phú nên khi gặp những yếu tố kì ảo, đẹp đẽ trong các tác phẩm văn học

13


thì trí tưởng tượng ở trẻ càng được thăng hoa, giúp các em phát triển trí tuệ và
thưởng thức cái đẹp, tâm hồn nhạy cảm, tinh tế hơn…
Phải phù hợp với thị hiếu, tâm lí các em và hướng dẫn tới cái đẹp chân thiện - mĩ. Trẻ em ở lứa tuổi mầm non là những “bạn đọc đặc biệt”(chưa biết
đọc, biết viết, được tiếp xúc với văn học thiếu nhi chủ yếu là qua lời đọc, lời kể
của ông bà, cha mẹ, thầy cô,…), cho nên văn học thiếu nhi viết cho các em phải
đặc biệt quan tâm đến đặc điểm tâm lí lứa tuổi và những sở thích của trẻ nhỏ. Các
em vốn rất yêu cái cái đẹp, cái tốt, cái thực; vì vậy các nhà văn cần nắm được
những đặc điểm tâm lí của trẻ để thỏa mãn những nhu cầu ấy một cách tự nhiên.
Những hình tượng nghệ thuật, giàu giá trị nhân văn kết hợp vần điệu, nhạc điệu do
các nhà văn dày công sáng tạo trong tác phẩm sẽ gây được những ấn tượng sâu sắc
trong tâm hồn trẻ thơ, tác động nhẹ nhàng đến nhận thức, tư tưởng tình cảm ở trẻ.
Các tác phẩm thơ có vai trò quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ cho
trẻ. Văn học thiếu nhi như một người bạn đồng hành cùng trẻ thơ, cung cấp cho
trẻ thơ một vốn từ ngữ khổng lồ, đặc biệt là những từ ngữ nghệ thuật. Khi trẻ
thường xuyên tiếp xúc với các tác phẩm văn học thiếu nhi, vốn từ ngữ của các
em phong phú và sống động hơn. Các em tự hình thành cho mình khả năng diễn
đạt một vấn đề một cách mạch lạc, giàu hình ảnh và biểu cảm bởi đã được học
cách diễn đạt sinh động ấy trong tác phẩm. Đối với trẻ mầm non, sự phát triển
ngôn ngữ ấy qua hoạt động bắt chước lời nói, việc làm của các nhân vật hoặc
những cách diễn đạt trong tác phẩm. Chính quá trình trẻ được nghe, được kể
diễn cảm truyện, thơ và được trực tiếp tham gia vào hoạt động đọc, kể lại truyện
thơ sẽ giúp trẻ tích lũy và phát triển thêm nhiều từ mới. Điều này giúp giáo viên
có thể dễ dàng hơn trong việc rèn luyện khả năng biểu cảm trong ngôn ngữ nói,
ngôn ngữ miêu tả, ngôn ngữ đối thoại với trẻ.
Những tác phẩm thơ, truyện của trẻ tự viết cho mình hay của người lớn

viết cho các em phải rất hồn nhiên, vui tươi, ngộ nghĩnh và trong sáng. Những
tác phẩm thơ, truyện do chính các em sáng tác bao giờ cũng thể hiện những xúc
cảm chân thành, hồn nhiên, trong trẻo,… như chính bản tính của trẻ thơ. Qua cái
nhìn “trong veo”ấy, cuộc sống xung quanh các em trở nên hấp dẫn, đẹp đẽ và
14


đầy sức sống. Ví dụ: Đọc bài thơ “Giỡn sóng”của bé Cẩm Thơ, chúng ta thấy
hiện lên một thế giới diệu kì với biết bao điều lí thú dưới con mắt của trẻ thơ:
“Năm năm em lại về giỡn sóng
Ôi cái sóng biển Đông! Phù sa về nhuộm hồng
Triều lên cùng với sóng
Triều reo như trẻ nhỏ
Em òa vào lòng sóng mênh mông”…
Người lớn muốn viết cho trẻ em phải học được sự hồn nhiên, ngây thơ ấy,
phải thực sự hòa nhập với cuộc sống trẻ thơ, sống hết mình với tuổi thơ mới có
thể tạo ra được sự cộng hưởng với trẻ thơ và mang lại cho tác phẩm sự thành
công. Ví dụ: Bài thơ “Chú thỏ đa nghi”(Phạm Hổ):
“Thỏ đây! Ai đấy? Mèo à? Mèo thế nào? Mình không trông thấy cậu/
Nhỡ đứa khác thì sao?”
không chỉ thể hiện sự hồn nhiên ngây thơ mà còn đa nghi, ngốc nghếch của chú
thỏ. Thỏ dùng máy nói mà cứ đòi phải nhìn thấy người ở đầu dây bên kia chú
mới tin đó chính là bạn mình.
- Về nghệ thuật:
* Giàu chất thơ, chất truyện. Sở dĩ các tác phẩm truyện viết cho trẻ em lôi
cuốn, hấp dẫn, có sức cảm hóa lạ lùng, mạnh mẽ được các em là vì luôn lấp lánh
chất thơ. Chất thơ giúp trẻ em sau khi được nghe ông bà, cha mẹ kể chuyện, gấp
sách lại vẫn thấy bao nhiêu điều kì diệu, “bám chặt”lấy tâm hồn, tình cảm và
chắp cánh cho những ước mơ, khát vọng của tuổi thơ.
Chất truyện trong thơ cũng là một trong những yếu tố tạo nên hình tượng

cảm xúc trong thơ. Mỗi bài thơ viết cho trẻ thơ gần như là một trong yếu tố tạo
nên hình tượng cảm xúc trong thơ. Mỗi bài thơ viết cho trẻ gần như một mẩu
truyện hoặc chứa đầy yếu tố truyện. Điều đó khiến cho các em dễ hiểu, dễ cảm
nhận và thuộc lòng những vần thơ. Trong bài “Chú bò tìm bạn”(Phạm Hổ), các
vần thơ, vần thơ được tác giả viết ra bằng những từ ngữ hết sức đời thường để
kể cho các em nghe một câu chuyện về tình bạn đầy xúc động và tinh tế:

15


“Mặt trời rúc bụi tre
Buổi chiều về nghe mát
Bò ra sông uống nước
Thấy bóng mình ngỡ ai
Bò chào: “Kìa anh bạn
Lại gặp anh ở đây”
Nước đang nằm nhìn mây
Nghe bò cười toét miệng…”
* Hài hước, dí dỏm. Mỗi một tác phẩm viết cho các em đều chứa đựng
những tiếng cười hóm hỉnh và tinh nghịch, hồn nhiên và trong sáng. Có thể nói
trong kí ức về một làng quê bình dị, ở đó chứa đựng biết bao điều lí thú nảy sinh
từ những kỷ niệm ấu thơ của mình và bật lên những tiếng cười thật sảng khoái.
Khác với những tác phẩm của trẻ tự viết cho mình, thơ hay truyện của người lớn
viết cho các em phải tiến tới sự kết hợp hài hòa giữa chất thơ và chất trẻ thơ,
phải hồn nhiên, vui tươi, ngộ nghĩnh. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy đặc
trưng ấy trong bài thơ “Ngủ rồi”(Phạm Hổ):
“Gà mẹ hỏi gà con Đã ngủ chưa đấy hả?
Cả đàn gà nhao nhao
Ngủ cả rồi đấy ạ!”…
* Ngắn gọn, trong sáng, dễ hiểu. Nếu như thơ, văn viết cho người lớn

thường hướng tới cái gì đó cao xa, trừu tượng thì thơ, văn viết cho trẻ em phải
ngắn gọn, súc tích, trong sáng, dễ hiểu. Sự ngắn gọn không chỉ thể hiện ở dung
lượng tác phẩm mà còn thể hiện trong cả câu văn, câu thơ. Trong văn xuôi
thường sử dụng những câu đơn, ngắn, vừa sức với khả năng tiếp nhận của trẻ
nhỏ; còn trong thơ, các nhà văn thường sử dụng thể thơ 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ, rất
gần với đồng dao, vui nhộn, vừa dễ đọc, dễ thuộc, dễ nhớ.
* Giàu hình ảnh, vần điệu, nhạc điệu. Những hình ảnh đẹp, rực rỡ cùng
với vần điệu, nhạc điệu vui tươi sẽ làm cho tác phẩm thêm sinh động và có sức
lôi cuốn, hấp dẫn các em. Đây là một trong những yếu tố không thể thiếu trong
thơ viết cho các em.
16


1.1.4. Những yêu cầu khi dạy học phần “Văn học thiếu nhi”cho sinh
viên ngành giáo dục Mầm non
1.1.4.1. Giáo viên phải có những hiểu biết và kiến thức về văn học thiếu nhi
Trong hầu hết các tác phẩm viết cho thiếu nhi thường chứa đựng những yếu
tố kì ảo, hoang đường. Vì vậy, khi dạy học văn học thiếu nhi, mỗi giáo viên cần
phải định hướng cho sinh viên biết khai thác các yếu tố kì ảo, hoang đường
trong các tác phẩm văn học thiếu nhi để thỏa mãn nhu cầu tìm kiếm cái đẹp và
phát triển tư duy, trí tưởng tượng phong phú cho trẻ.
Không những thế, tác phẩm văn học thiếu nhi luôn hướng tới sự hồn nhiên,
vui tươi, ngộ nghĩnh và trong sáng. Vì vậy, khi dạy phần văn học thiếu nhi cho
sinh viên, người dạy cũng phải thổi được cái hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng của
mình trong cảm thụ trong bối cảnh xã hội hiện nay, với những trải nghiệm cuộc
sống diễn ra khá phức tạp ở mỗi con người, không phải ai cũng dễ dàng tìm thấy
được sự đồng cảm thực sự trong cảm thụ các tác phẩm văn học thiếu nhi. Thể
hiện thế giới nội tâm ở nhiều sắc thái cung bậc khác nhau. Có những câu thơ đọc
lên nghe thật vui tai, thật sảng khoái. Ngược lại có những câu thơ nghe sao mà
da diết, day dứt lòng người. Những sắc thái cảm xúc đó khơi dậy ở trẻ tình cảm

sâu đậm về con người, hun đúc ở trẻ một tâm hồn nhạy cảm, dễ xúc động khi
tiếp xúc với con người và cảnh vật xung quanh bồi bổ lòng nhân ái, lòng yêu
quê hương gia đình.
Sự phản ảnh thực hiện của thơ ca vừa thực lại vừa hư, điều đó giúp trẻ phát
triển mãnh liệt trí tưởng tượng. Hơn nữa nghệ thuật nhân cách hóa trong thơ ca
là sự kết hợp hài hòa giữa tình yêu thương với trí tưởng tượng và đó chính là đặc
điểm tâm lý nổi bật của trẻ nhỏ. Sự vật xung quanh trong mắt của trẻ thơ bao giờ
cũng có hồn, nhuốm màu xúc cảm và bay bổng đến kì diệu. Sức tưởng tượng thơ
ca còn giúp trẻ có một tâm hồn giàu ước mơ, sớm hình thành tiền đề của hoạt
động sáng tạo, hình dung ra những cái sẽ có và mong muốn làm nên những điều
tốt đẹp.
1.1.4.2. Thơ mộng và lãng mạn
Trẻ em nào cũng thơ mộng và lãng mạn. Ngây thơ ngộ nghĩnh dễ yêu thương
17


dễ hờn dỗi hay mộng mị buồn vui là thơ mộng. Đôi mắt trẻ thơ là khoảng trời
xanh áng mây trắng đi vào mắt chúng là cả một ảo giác về tương lai. Trăm năm
của một đời người khoảnh khắc tuổi thơ là cái lãng mạn mênh mông nhất.
Phương diện tâm lý này trở thành đặc điểm thẩm mỹ quan trọng của văn học cho
thiếu nhi.
Đặc điểm này ít được nói đến hay nói một cách sơ sài trong nghiên cứu văn
học cho thiếu nhi. Trong khi đó lãng mạn và thơ mộng là thiên tính rõ nét nhất
của lứa tuổi từ ấu thơ cho đến lúc thành niên. Hiện thực đối với trẻ em là những
gì đang có rất nghèo nàn chỉ là những gì trẻ nhìn thấy xung quanh góc sân hay
khoảng trời con đường hay mái trường trẻ đang học tập. Quan hệ xã hội có khi
chỉ là những cấm đoán làm cho trẻ thấy luôn bị tù túng. Đó là lý do trẻ em cần
một thế giới khác lãng mạn hơn thơ mộng hơn thế giới của những ảo tưởng.
Văn học nói chung dù là tác phẩm đi theo chủ nghĩa hiện thực nghiêm ngặt
nhất cũng phải có một chất lãng mạn mộng mơ. Bởi đó là niềm tin khát vọng

của con người mà thiếu nó tác phẩm trở thành bản kê khai đơn giản những sự
kiện hàng ngày của đời sống. Quan niệm văn học càng ngày càng gần gũi với
đời sống có lẽ thích ứng với người lớn hơn là đối với trẻ em. Cũng như chúng ta
càng lớn lên miếng cơm manh áo và các ràng buộc xã hội khác càng làm cho ta
phải bận tâm. Nhưng văn học cho con trẻ chúng ta không thể là một thế giới
đóng kín như thế để chúng những tưởng tương lai của cuộc đời này chỉ có tối
tăm. Nhiệm vụ của một nền văn học lành mạnh là phải dọn đường cho trẻ em
thênh thang bước tới tương lai. Chúng phải được nhìn thấy ánh sáng nhiều hơn
bóng tối cái đáng yêu nhiều hơn đáng ghét cái vui vẻ nhiều hơn những buồn
phiền. Khéo như tác giả Andersen “một giọt nước mắt”của chú lính chì cũng
phải biết giấu đi hay phải thanh lọc bằng một tình yêu trong sáng. Các tác giả
dân gian dù không ý thức rõ điều này nhưng bằng kinh nghiệm mỹ cảm gần như
những tác phẩm nào được đọc hoặc kể cho trẻ nghe cũng đều thấm đẫm tinh
thần lãng mạn mộng mơ. Cũng có lẽ vì thế mà thời phong kiến Khổng tử chọn
Kinh Thi cho trẻ học vỡ lòng. Ông nói “Kinh Thi oán nhi bất nộ” những lời ca
ấy dù có lúc bi ai nhưng không đẩy con người vào thất vọng hay căm thù. Có thể
18


nói bất cứ một tác phẩm nào dù có ý thức viết cho trẻ em hay không nhưng ánh
sáng lãng mạn cũng tràn ngập trong thế giới nghệ thuật tác phẩm đó càng dễ đến
với trẻ em.
Nếu nói văn học phải gần gũi với đời sống như một quy luật sinh tồn và
phát triển của nó thì đối với văn học cho thiếu nhi cần phải nói nó gần gũi với
đời sống của chính trẻ em chứ không phải đời sống chung chung. Đời sống của
cc em khác với đời sống của chúng ta. Chúng sống bằng tinh thần hơn vật chất
bằng niềm vui hơn là những toan lo bằng tình yêu thương hơn là những oán hờn
bằng mơ tưởng hơn là chấp nhận cái hiện hữu đời thường. Tạo điều kiện cho trẻ
sống như điều chúng ước mơ khao khát chính là thực hiện quyền trẻ em như
Công ước quốc tế đã đặt ra. Nhà thơ Phạm Hổ cho công việc làm thơ của mình

giản dị cũng như “muốn góp thêm cho các em một thứ đồ chơi như một viên bi
như một cánh diều hay thậm chí như một thứ đồ chơi điện tử nào đó. Còn chức
năng giáo dục? Nếu có giáo dục theo tôi thơ ca cũng như văn chương nghệ
thuật nói chung chỉ nên giáo dục cho các em về mặt thẩm mỹ mà thôi!”[7 tr38].
Người lớn chúng ta hay bị cái thành kiến rằng vui chơi là hư hỏng vì thế thường
buộc trẻ em phải toan lo như chính mình. Vô tình chúng ta đã cướp mất đi giai
đoạn hạnh phúc nhất của một đời người. Khi đọc mấy câu thơ trong sách học
vần cũ thời bao cấp:
“Mèo con bé tí
Đã có râu ria
Mèo cứ ngồi kia
Meo meo kêu mẹ
Ăn thì ăn khoẻ
Mà lại ham chơi
Bạn nhỏ ta ơi
Chớ theo mèo nhé”
Xuân Quỳnh đã nói bằng nước mắt của người mẹ: “Thực ra việc: “Kêu mẹ
ăn khoẻ ham chơi…”của trẻ con là hoàn toàn không có lỗi. Tại sao lại bắt con
trẻ không được làm nũng mẹ không được ăn khoẻ không được ham chơi. Nếu
19


như ta chưa có hoàn cảnh đáp ứng cho các em được gần mẹ nhiều được ăn và
chơi đầy đủ thì đó là lỗi ở chúng ta. Còn các nhu cầu kia của các em là cần thiết
và chính đáng. Đọc những câu thơ trên tôi thấy thương các em quá!”[10 tr15].
Khi được làm người lớn đôi khi chúng ta nhẫn tâm đánh mất quá khứ của
mình. Chúng ta giáo dục con trẻ toàn những răn đe cấm kỵ điều mà xưa kia trong
chúng ta chẳng mấy ai thích thú. Chúng ta quên rằng chơi đùa đúng nghĩa tích
cực của nó sẽ mang lại bao nhiêu điều bổ ích. Không cần nói đến việc giải toả bao
nhiêu căng thẳng của đời sống thường nhật với trẻ con những khi giải trí như thế

là cả một thế giới mới đang mở ra. Chúng có thể tưởng tượng ra cả một lâu đài
ngoài xa khơi nàng tiên dưới đáy biển hay thần tiên ở trên trời… Đó là lý do vì
sao trẻ em rất thích huyền thoại cổ tích hơn là những sự thật trong lịch sử thích
truyện khoa học viễn tưởng hơn là những trang giáo khoa thư với những công
thức định lý định luật. Chính thế giới hư ảo lãng mạn và mộng mơ đó chắp đôi
cánh tâm hồn cho trẻ thơ đi vào cái huyền diệu của trời đất. Giáo dục thẩm mỹ
cho trẻ em chính là vun đắp cho cả một sự sống tâm hồn trẻ trung lành mạnh ấy.
Viết được những trang văn trang thơ giàu chất lãng mạn mộng mơ là giúp
cho trẻ em nhìn thấy được chính mình trong tác phẩm. Không thấy được bóng
dáng của mình trong tác phẩm trẻ em đọc văn khác nào lạc vào một thế giới xa
lạ mà chúng chưa bao giờ tin đó là sự thật. Sự thật của trẻ em đơn giản là sự thật
mà chính chúng muốn giãi bày khao khát chứ không phải là sự thật như người
lớn chúng ta nghĩ.
Đặc điểm này xuất phát từ bản chất ngây thơ, ngộ nghĩnh của trẻ, ngây thơ
ngộ nghĩnh dễ yêu thương, dễ hờn dỗi, buồn vui là thơ mộng, đôi mắt trẻ thơ là
khoảng trời xanh, áng mây đi vào mắt chúng là cả một ảo giác về tương lai.
Sự thơ mộng và lãng mạng là nét tâm lí nổi bật của trẻ lứa tuổi mầm non,
chính nét tâm lí này đã giúp cho trí tương tượng của tẻ vô cùng phong phú, súc
tưởng tượng của trẻ em dường như vô bờ bến, không biết đâu là bờ, chúng
tượng tượng để khám phá thế giới để thỏa mãn nhu cầu nhận thức của mình,
tưởng tượng góp phần vào tư duy nhận thức của trẻ, trí tượng tượng ở lúa tuổi
này bắt đầu mang tính sáng tạo. Tưởng tượng phụ thuộc vào nhiều cảm xúc,
20


tưởng tượng cũng làm giàu thêm cảm xúc kinh nghiệm của trẻ, việc hình thành
và phát triển tượng tương gắn chặt với phát triển ngôn ngữ cho trẻ, những hình
ảnh hiện lên trong tâm trí của trẻ qua nội dung của các bài thơ, còn tạo cho trẻ
gắn kết bạn bè qua các ình thức đối thơ với nhau như bài thơ “Ong và
Bướm”của tác giả Nhược Thủy

Ong và Bướm
Con bướm trắng
Lượn vườn hồng
Gặp con ong
Đang bay vội
Bướm liền gọi
Rủ đi chơi
Ong trả lời
Tôi còn bận
Mẹ tôi dặn
Việc chưa xong
Đi chơi rong
Mẹ không thích
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tác phẩm thơ trong chương trình “Chăm sóc - và giáo dục”trẻ em
Với tuổi mầm non, tuổi học nói, một cách tự nhiên các bé rất thích và có
nhu cầu muốn được nghe đọc thơ và học đọc thơ. Thơ ca mang đến cho bé một
kho từ vựng mới, hay, đẹp và phù hợp với lứa tuổi, đặc điểm tiếp nhận của các
bé. Đồng thời, thơ khơi gợi nơi bé niềm hứng thú khám phá thế giới, khuyến
khích bé tự tin giao tiếp. Ngôn ngữ thơ ca súc tích, giàu hình ảnh và nhạc điệu
giúp bé dễ cảm, dễ thuộc và dễ nhớ. Và không một người lớn nào không cảm
động khi được lắng nghe và ngắm nhìn một em bé tuổi mầm non đọc bài thơ yêu
thích của mình.
Điểm đặc biệt, bộ sách Thơ hay cho bé mầm non đã tuyển chọn và tập hợp
các bài thơ theo 12 chủ đề chuẩn chương trình giáo dục mầm non hiện hành. Đó
21


là: Động vật; Thực vật; Tết; Thiên nhiên bốn mùa; Lễ hội; Trường mầm non;
Gia đình; Quê hương-Đất nước; Bác Hồ; Giao thông; Nghề nghiệp; Bản thân.

Chính vì vậy không chỉ là sự lựa chọn của nhiều bậc ông bà, bố mẹ, bộ sách phù
hợp để các giáo viên mầm non dùng làm tài liệu giảng dạy.
Với mỗi chủ đề, giáo viên và phụ huynh có thể chọn lựa các bài ngắn - dài
phù hợp để đọc cho các bé và hướng dẫn các bé đọc theo. Bên cạnh đó, mỗi bài
thơ trong Thơ hay cho bé mầm non đều được minh họa bằng những bức tranh
bốn màu khổ lớn, bồi dưỡng trí tưởng tượng cho các bé và tạo hứng thú, niềm
vui cho bé trong mỗi lần mở sách đọc thơ.
Bộ sách tuyển tập những bài thơ hay cho bé mầm non gồm hai cuốn, tuyển
chọn những bài thơ hay nhất của các nhà thơ Việt Nam nổi tiếng viết cho các bé.
85 bài là những bài thơ đã đằm sâu trong kí ức của nhiều thế hệ người Việt: “Ai
dậy sớm” của Võ Quảng; “Xe chữa cháy”, “Mười quả trứng tròn”, “Bắp cải
xanh” của Phạm Hổ; “Trăng sáng sân nhà em”, “Hạt gạo làng ta” của Trần Đăng
Khoa; “Bàn tay cô giáo”, “Gọi bạn” của Định Hải, “Cờ Việt Nam” của Thy
Ngọc, “Bóng mây”của Thanh Hào, “Lời chào đi trước”của Nguyễn Hoàng Sơn,
“Nhất mẹ, nhì bà”của Cao Xuân Sơn...
Những hình ảnh được nối lên trong bài thơ “Hạt gạo làng ta”của tác giả
Trần Đăng Khoa bắt đầu từ ý khái quát: hạt gạo được kết tinh từ những hương vị
ngọt ngào của quê hương. Đó là hương đồng gió nội, là bài ca lao động, là lời ru
của mẹ, là vị phù sa màu mỡ của đất đai quê nhà. Nhưng hạt gạo cũng còn được
làm ra từ trong khó khăn của thiên tai, từ trong khói lửa của chiến tranh. Hạt gạo
không chỉ là sản phẩm vật chất mà còn là sản phẩm tinh thần vô giá: "Hạt gạo
làng ta Có vị phù sa Của sông Kinh Thầy Có hương sen thơm Trong hồ nước
đầy Có lời mẹ hát Ngọt bùi đắng cay”Các khổ 2 và 3 của bài thơ tập trung thể
hiện những "đắng cay"mới có được hạt gạo dẻo thơm. Trong một bài ca dao ông
cha đã từng nhắc nhở: "Ai ơi bưng bát cơm đầy. Dẻo ngon một hạt đắng cay
muôn phần". Vị đắng cay mà Trần Đăng Khoa muốn nói đến là nỗi vất vả trong
khắc phục thiên tai để sản xuất của người nông dân. Những bão lụt, hạn hán dồn

22



×