Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT phạm TRÙ HÌNH THÁI KINH tế xã hội TRONG lời tựa góp PHẦN PHÊ PHÁN KHOA KINH tế CHÍNH TRỊ của c mác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.02 KB, 18 trang )

PHẠM TRÙ HÌNH THÁI KINH TẾ- XÃ HỘI TRONG LỜI TỰA
“GÓP PHẦN PHÊ PHÁN KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ” CỦA MÁC
=========================
1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Lời tựa tác phẩm “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị” được Mác viết
từ tháng 8 năm 1858 đến tháng 02 năm1859, được xuất bản và phát hành thánh 6
năm 1859. Tuy chỉ có 5 trang song là một văn kiện cực kỳ quan trọng trong quá
trình hình thành, phát triển triết học Mác. Trong đó Mác đã trình bày khái quát
nhưng rất rõ ràng quan niệm về chủ nghĩa duy vật lịch sử - một sự khái quát thiên
tài mà toàn bộ triết học trước đó chưa đạt tới được. Các quan niệm đó được Mác coi
là kim chỉ nam cho mọi sự nghiên cứu sau này của mình. Ông viết: “Kết quả chung
mà tôi đã đạt được và đã trở thành kim chỉ nam cho mọi sự nghiên cứu sau này của
tôi”1. Ở đó chủ nghĩa duy vật đã được áp dụng một cách triệt để vào lĩnh vực xã
hội, làm cho triết học Mác trở nên cách mạng, khoa học, triệt để và hoàn bị nhất
trong lịch sử tư tưởng triết học.
Mặt khác, những năm 50 của thế kỷ XIX, phong trào công nhân phát
triển rất cao, chuyển dần từ tự phát sang tự giác. Cuộc đấu tranh của giai cấp
vô sản để giành dân chủ có xu hướng chuyển thành đấu tranh cho chủ nghĩa
xã hội và đã xuất hiện các tổ chức cộng sản. Trong lúc đó, giai cấp tư sản nhất
là những nhà kinh tế học tư sản đưa ra những luận điểm sai lầm về kinh tế, họ
đang tìm mọi cách biện hộ cho địa vị của giai cấp tư sản và bảo vệ sự tồn tại
vĩnh viễn cho chế độ tư hữu. Họ cho rằng: tư hữu là thuộc tính vốn có của con
người, sự tồn tại của những người vô sản (những người không có của) là hợp
lý, là lẽ tự nhiên. Trước tình hình đó, đòi hỏi phải có một thế giới quan khoa
học soi đường cho giai cấp công nhân trong đấu tranh cách mạng, do đó Mác
viết tác phẩm này nhằm phê phán các quan điểm sai trái này. Đặc biệt là giúp
cho giai cấp vô sản hiểu đúng địa vị, sứ mệnh lịch sử của mình là phải đấu
tranh xoá bỏ chủ nghĩa tư bản. Như Ăngghen kết luận: Giai cấp vô sản không
chỉ là giai cấp đau khổ mà địa vị kinh tế - xã hội của nó buộc nó phải đấu
tranh giải phóng đến cùng.


1 C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr.14


2

2
Để phê phán quan điểm phản động, phản khoa học trên, Mác tập trung

nghiên cứu những quy luật, phát triển kinh tế của hình thái kinh tế xã hội tư
bản chủ nghĩa và tác dụng của chúng nhằm phát triển thế giới quan khoa học
của giai cấp vô sản. Mác chỉ rõ: Phải nghiên cứu kinh tế chính trị học ở một
trình độ cao hơn để phân tích phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; chính điều
đó sẽ làm cơ sở cho việc phát triển thế giới quan khoa học của giai cấp vô sản.
Phải xoá bỏ chế độ tư hữu để trả lại bản chất đích thực cho con người.
Trước khi viết tác phẩm “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”
và lời tựa của nó Mác đã có cả 15 năm lao động và nghiên cứu khoa học
toàn diện với một khối lượng tài liệu đồ sộ. Ông đã nghiên cứu một khối
lượng lớn các tác phẩm về kinh tế - xã hội và soạn thảo những nguyên lý cơ
bản, phát triển học thuyết của mình.
Trong lời tựa “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị” đây là sự tổng
kết, hệ thống hoá tri thức của Mác về chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặt tiền đề cho
Mác viết tác phẩm “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị” và Bộ “Tư bản”
sau này.
2. Kết cấu của tác phẩm
Lời tựa “Góp phần phê phán khoa học kinh tế chính trị” gồm 3 phần:
Phần mở đầu: Mác nêu khái quát ý định kết cấu tác phẩm “Góp phần
phê phán khoa học kinh tế chính trị”.
Phần nội dung: Mác nêu khái lược quá trình nghiên cứu kinh tế chính
trị của mình, trong đó trình bày kết quả nghiên cứu, chủ yếu là những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử.

Phần kết luận: Mác khẳng định kết quả nghiên cứu là khách quan,
nghiêm túc, trung thực. Đúng như Mác đã khẳng định trong tác phẩm của mình:
“Các quan điểm của tôi, dù có bị người ta xét đoán như thế nào chăng nữa và dù
chúng có ít nhất trí như thế nào chăng nữa với những thiên kiến tự tư tự lợi của các
giai cấp thống trị - thì chúng vẫn là kết quả của những sự nghiên cứu trung thực
trong nhiều năm”2.

2 C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 18.

2


3

3
Lời tựa tác phẩm “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị” được in

trong: C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Tập 13, Nxb CTQG, Hà Nội 1993
(từ trang 13 đến trang 18).
3. Một số nội dung triết học thể hiện trong tác phẩm:
Nội dung cơ bản trong lời tựa “Góp phần phê phán khoa kinh tế
chính trị” đó là học thuyết về hình thái kinh tế- xã hội.
Thứ nhất, phương pháp tiếp cận nghiên cứu xã hội của Mác
Để hiểu và thấy được giá trị của tác phẩm chúng ta xem phương pháp
tiếp cận nghiên cứu xã hội của Mác. Đó là, Mác nghiên cứu xã hội từ sản
xuất vật chất và phương thức sản xuất. Trước đó trong tác phẩm “Hệ tư
tưởng Đức” Mác đã khẳng định vai trò quyết định của sản xuất vật chất với
các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, vai trò của phương thức sản xuất với
sự tồn tại, phát triển của lịch sử xã hội. Mác viết: “Hành vi lịch sử đầu tiên
là việc sản xuất trong những tư liệu để thoả mãn những nhu cầu ấy, việc

sản xuất ra bản thân đời sống vật chất” và “Phải xuất phát từ chính ngay sự
sản xuất vật chất ra đời sống trực tiếp để xem xét quá trình hiện thực của
sản xuất và hiểu hình thức giao tiếp gắn liền với phương thức sản xuất ấy
sản sinh ra- tức là xã hội công dân ở những giai đoạn khác nhau của nó- là
cơ sở của toàn bộ lịch sử” 3. Lúc này Mác sử dụng các khái niệm “hình thức
giao tiếp” và “xã hội công dân”.
Chúng ta thấy rằng trong nửa cuối những năm 50 thế kỷ 19, Mác đã
tích cực nghiên cứu kinh tế chính trị học. Trong tiến trình nghiên cứu, Mác đã
vận dụng phép biện chứng duy vật vào nghiên cứu kinh tế để tiếp cận đến sự
khái quát lý luận cơ bản, sự khái quát đó tiếp tục được Mác khẳng định trong
lời tựa “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”. Ở đó Mác xem xét hình
thái kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt đầu từ điều kiện sinh hoạt kinh tế. Mác viết
“Tôi xem xét hệ thống kinh tế tư sản theo thứ tự sau đây; Tư bản, sở hữu
ruộng đất lao động làm thuê nhà nước, ngoại thương thị trường thế giới.
Trong ba mục đầu, tôi nghiên cứu điều kiện sinh hoạt kinh tế của ba giai cấp
lớn hợp thành xã hội tư sản hiện đại; còn mối liên hệ lẫn nhau giữa ba mục
3 C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H.1995, tr 40, tr.54

3


4

4

sau thì rất rõ ràng”4. Mác viết tiếp: “Những công việc nghiên cứu của tôi đã
dẫn tôi đến kết quả là: không thể lấy bản thân những quan hệ cũng như những
hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần của
con người, để giải thích những quan hệ và hình thái đó, mà trái lại, phải thấy
rằng những quan hệ và hình thái đó bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt

vật chất”5. Vậy, nguyên tắc phương pháp luận rút ra là: nghiên cứu các hiện
tượng xã hội phải xuất phát từ điều kiện sinh hoạt vật chất xã hội chứ không
thể tìm trong tinh thần tư tưởng.
Mác đã vận dụng triệt để phép biện chứng duy vật vào nghiên cứu lĩnh
vực kinh tế xã hội. Với phương pháp tiếp cận khoa học khi nghiên cứu các
hiện tượng xã hội, phải đi từ xã hội hiện thực, đi từ nền sản xuất vật chất, từ
điều kiện sinh hoạt vật chất xã hội, chứ không phải xuất phát từ hiện tượng
tinh thần. Từ phương pháp luận trên, Mác nghiên cứu và giải phẫu “xã hội
công dân” theo cách gọi của Hêghen (tức xã hội tư bản chủ nghĩa) và đi đến
khái quát lý luận khoa học về hình thái kinh tế - xã hội. Ông viết: “Phải giải
thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung
đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã
hội”6. Như vậy, với quan điểm tiếp cận “giải phẫu” xã hội bằng chính đời
sống vật chất, bằng lực lượng sản xuất xã hội, Mác là người đầu tiên trong
lịch sử tư tưởng triết học đề cập tới, ông đã vận dụng một cách nhuần
nhuyễn chủ nghĩa duy vật biện chứng vào nghiên cứu xã hội, làm cho triết
học Mác trở nên cách mạng, khoa học và hoàn bị.
Giải thích vấn đề này Ăngghen đã cho rằng: phải lựa chọn phương
pháp nào để nghiên cứu hoặc là phương pháp của Hêghen hoặc phương
pháp siêu hình. Theo ông phương pháp siêu hình của Cantơ bị Hêghen đập
tan rồi, nhưng chính phương pháp của Hêghen lại không dùng được. Vậy,
mà chưa ai dám đảm đương nhiệm vụ lớn lao là phê phán phương pháp
4 C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr.14
5 C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 14
6 C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr15.

4


5


5

Hêghen một cách triệt để. Ông nhận xét: Mác là người duy nhất có khả
năng đảm đương công việc ấy, phê phán Hêghen một cách toàn diện và
triệt để, tìm ra “hạt nhân hợp lý” để khôi phục lại phép biện chứng, giải
thoát nó ra khỏi cái vỏ duy tâm thần bí.
Thứ hai, phạm trù hình thái kinh tế- xã hội
Trong lời tựa tác phẩm “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”,
mặc dù chưa đưa ra một định nghĩa đầy đủ về hình thái kinh tế- xã hội, về lực
lượng sản xuất, về quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng...
nhưng Mác đã chỉ ra cho chúng ta thấy được những nội dung cơ bản, cốt lõi
nhất, chỉ ra được nội hàm của các vấn đề được đặt ra như: thế nào là hình thái
kinh tế- xã hội, kết cấu của hình thái kinh tế- xã hội, mối quan hệ biện chứng
giữa các yếu tố cấu thành hình thái kinh tế xã hội...và đó là phương pháp luận
để tiếp cận và giải phẫu xã hội, nó là kim chỉ nam cho nghiên cứu xã hội của
Mác. Ông viết: “Kết quả mà chúng tôi đã đạt được và đã trở thành kim chỉ
nam cho mọi sự nghiên cứu sau này của tôi, có thể trình bày vắn tắt như sau.
Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ
nhất định, tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ
sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ nhất định của các lực
lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành
cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thức trên đó dựng lên một kiến
trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất
định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”7.
Như vậy, Mác đã chỉ cho chúng ta hiểu thế nào là hình thái kinh tế- xã
hội, các yếu tố và mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành của nó trong một
chỉnh thể thống nhất như một cơ thể sống đó là: lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mác đã vạch ra thực chất sự tồn tại và phát
triển của các hình thái kinh tế xã hội trong kết cấu khách quan của chúng. Đó

là một chỉnh thể thống nhất bao gồm những yếu tố và các mối liên hệ được
hình thành và vận động tuân theo những quy luật khách quan vốn có của
chúng. Các yếu tố lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
7 C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 14- tr 15.

5


6

6

tầng xã hội không tách rời nhau. Trên thực tế không thể phân chia rạch ròi các
yếu tố đó mà luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Theo Mác, trong sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình, con người ta
dù muốn hay không cũng buộc phải duy trì và thực hiện những quan hệ nhất
định với nhau. Những quan hệ này mang tính tất yếu và không phụ thuộc vào
bất cứ ý muốn chủ quan của ai cả. Đó chính là những quan hệ sản xuất. Mác còn
chỉ ra rằng, toàn bộ những quan hệ sản xuất đó hợp thành một cơ cấu kinh tế của
xã hội, tức là cơ sở hiện thực (cơ sở hạ tầng) và trên cơ sở hiện thực đó sẽ được
tạo dựng nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với cơ sở hiện thực đó.
Trong tác phẩm: “Những “người bạn dân” là như thế nào và họ đấu tranh
chống những người dân chủ xã hội ra sao?” Lênin chỉ rõ phương pháp khoa học
và cách mạng của Mác trong xây dựng phạm trù hình thái kinh tế- xã hội:
“Trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, ông đã làm nổi bật riêng lĩnh
vực kinh tế, bằng cách là trong tất cả mọi quan hệ xã hội ông đã làm nổi bật
riêng quan hệ sản xuất. Coi đó là những quan hệ cơ bản ban đầu và quyết định
tất cả mọi quan hệ khác”8. Ông khẳng định: “Chỉ có đem quy những quan hệ xã
hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình
độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có cơ sở vững chắc để quan

niệm sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự
nhiên. Và dĩ nhiên không có một quan điểm như thế thì không thể có một khoa
học xã hội được”9.
Như vậy, Mác đã xem quan hệ sản xuất là “cái sườn” của toàn bộ cơ
thể xã hội, nó phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nhất
định của mỗi hình thái kinh tế- xã hội và có một kiến trúc thượng tầng được
thiết lập tương ứng với những quan hệ sản xuất ấy. Khi bàn về vấn đề này
Lênin đã viết: “Nhưng điều chủ yếu là ở chỗ Mác không thoả mãn với cái
sườn đó, không chỉ dừng lại ở cái “lý luận kinh tế” hiểu theo nghĩa thông
thường của danh từ mà thôi: là ở chỗ tuy rằng Mác chỉ dùng độc có những
quan hệ sản xuất để giải thích cơ cấu và sự phát triển của một hình thái xã hội
nhất định, song ở mọi nơi và mọi lúc, ông đều phân tích những kiến trúc
8 V,I.Lênin, Toàn tập, tập 1, Nxb TB, M.1974, tr 159.
9 V,I.Lênin, Toàn tập, tập 1, Nxb TB, M.1974, tr 163.

6


7

7

thượng tầng tương ứng với những quan hệ sản xuất ấy, và đã thêm thịt, thêm
da cho cái sườn đó”10.
Điều chủ yếu đối với Mác là quan niệm duy vật về lao động về vai trò
quyết định của lao động của sản xuất vật chất trong việc sáng tạo ra mọi của
cải vật chất bảo đảm cho xã hội tồn tại và phát triển cũng như việc sáng tạo ra
chính bản thân con người. Trong mỗi giai đoạn lịch sử con người lại có cách
thức sản xuất riêng và theo Mác: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất
quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung”11.

Từ phương pháp tiếp cận và những luận điểm nêu ra của Mác, chính là
cơ sở khoa học để sau này chủ nghĩa duy vật lịch sử đi đến một khái quát
hoàn chỉnh về hình thái kinh tế- xã hội: “Hình thái kinh tế- xã hội là một
phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai
đoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó,
phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến
trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy”12.
Mặt khác, trong khi nghiên cứu về sự vận động, phát triển của các hình
thái kinh tế- xã hội, Mác cũng đã đưa ra những kết luận hết sức quan trọng đó
là: “Không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực
lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, và
những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi
những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong
lòng bản thân xã hội cũ”13. Theo Mác, xã hội loài người luôn luôn vận động
phát triển không ngừng, trong sự vận động phát triển đó sẽ diễn ra sự thay thế
nhau của các hình thái kinh tế xã hội. Một hình thái kinh tế xã hội lỗi thời, lạc
hậu sẽ bị diệt vong và được thay thế bằng một hình thái kinh tế xã hội mới
tiến bộ hơn. Nhưng hình thái kinh tế xã hội cũ chỉ bị diệt vong khi lực lượng
sản xuất trong xã hội đó đã phát triển, tạo điều kiện chín muồi cho sự ra đời của
những quan hệ sản xuất mới cao hơn. Sự thay thế nhau của các hình thái kinh tế
xã hội là khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, mà
10 V,I.Lênin, Toàn tập, tập 1, Nxb TB, M.1974, tr 164- tr 165.
11 C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 15.
12 Triết học Mác- Lênin, Tập 3, Nxb QĐND, Hà Nội 1995, tr 54.
13 C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 15- tr 16.

7


8


8

nó phụ thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất, do lực lượng sản xuất
quyết định.
Theo Mác xã hội cũ chưa mất đi khi tiền đề vật chất của nó chưa mất
đi, xã hội mới chưa ra đời khi tiền đề vật chất của nó chưa xuất hiện. Mác
viết: “Từ chỗ là hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan
hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu
thời đại một cuộc cách mạng xã hội” 14. Ông viết tiếp: “Không một hình thái
xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã
hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa phát triển, và những quan hệ
sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện
tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội
cũ”15.
Mác còn chỉ ra tính khách quan của lịch sử xã hội, nó không phụ thuộc
vào ý muốn chủ quan của một cá nhân hay một lực lượng chính trị xã hội nào.
Ông viết: “Nhân loại bao giờ cũng chỉ đặt ra cho mình những nhiệm vụ mà nó
có thể giải quyết được, vì khi xét kỹ hơn, bao giờ người ta cũng thấy rằng bản
thân nhiệm vụ ấy chỉ nảy sinh khi những điều kiện vật chất để giải quyết
nhiệm vụ đó đã có rồi, hay ít ra cũng đang ở trong quá trình hình thành”16.
Đặc biệt trong lời tựa này, Mác còn chỉ rõ: “Các quan hệ sản xuất tư
sản là hình thức đối kháng cuối cùng của quá trình sản xuất xã hội, đối kháng
không phải với ý nghĩa là đối kháng cá nhân, mà với ý nghĩa là đối kháng nảy
sinh từ những điều kiện sinh hoạt xã hội của các cá nhân; nhưng những lực
lượng sản xuất phát triển trong lòng xã hội tư sản đồng thời cũng tạo ra những
điều kiện vật chất để giải quyết đối kháng ấy. Cho nên với hình thái xã hội tư
sản, thời kỳ tiền sử của xã hội loài người đang kết thúc” 17. Luận điểm này của
Mác nói lên rằng, hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa là hình thái kinh tế
xã hội cuối cùng trong lịch sử có quan hệ sản xuất với hình thức đối kháng, là

hình thái xã hội cuối cùng trong lịch sử có sự đối kháng trong quá trình sản
xuất xã hội: còn chiếm hữu tư nhân, còn áp bức bóc lột, và chính sự phát triển
14 C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 15.
15 C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 15- tr 16.
16 C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 16.
17 C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 16.

8


9

9

của lực lượng sản xuất trong lòng xã hội tư sản sẽ tạo điều kiện vật chất để
xoá bỏ quan hệ sản xuất, thiết lập quan hệ sản xuất mới- quan hệ sản xuất cộng
sản chủ nghĩa. Nói cách khác, Mác đã dự báo rằng hình thái kinh tế- xã hội tư
bản chủ nghĩa nhất định sẽ bị diệt vong do chính sự phát triển ngày càng cao của
lực lượng sản xuất ở ngay trong lòng xã hội đó và sự diệt vong là không thể
tránh khỏi. Mặt khác chính giai cấp tư sản đã tạo ra những cơ sở vật chất để tự
thủ tiêu mình. Đây là sự phát hiện thiên tài của Mác. Sự phát hiện đó là cơ sở
khoa học quan trọng để học thuyết hình thái kinh tế- xã hội của Mác ra đời và
tiếp tục có những bước phát triển hoàn thiện hơn.
Trên đây là những luận chứng ban đầu để sau này Mác khẳng định sự
phát triển của những hình thái kinh tế- xã hội là một quá trình lịch sử tự
nhiên. Mác viết: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế xã hội là
một quá trình lịch sử tự nhiên”18.
Thứ ba, về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất
Đây là một quy luật cơ bản chi phối sự vận động, phát triển của các

hình thái kinh tế- xã hội được Mác khái quát trong lời tựa. Mác khẳng định sự
phụ thuộc của quan hệ sản xuất vào lực lượng sản xuất, mối quan hệ phụ
thuộc đó không thể đảo lộn. Nội dung khái quát đó của Mác cho đến nay vẫn
chưa thể thay thế. Mác viết: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng,
các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản
xuất hiện có, hay- đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những quan hệ sản xuất
đó- mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực
lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của các
lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành xiềng xích của các lực lượng
sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại, một cuộc cách mạng xã hội”19.
Như vậy, Mác đã chỉ rõ cơ chế vận hành của quy luật, vai trò của lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Theo Mác, con người sống, tồn tại và
phát triển không chỉ dựa vào tự nhiên, mà còn sử dụng công cụ lao động sản
xuất cải tạo tự nhiên làm ra của cải phục vụ cho bản thân mình (trong tác
18 C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb CTQG, H.1993, tr 21.
19 C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 15.

9


10

10

phẩm “Hệ tư tưởng Đức” Mác đã đề cập tới vấn đề này). Trong quá trình đó con
người chủ động đi sâu vào nhận thức thế giới hiện thực, tích cực cải tiến công cụ
sản xuất và do đó lực lượng sản xuất không ngừng phát triển. Sự phát triển của lực
lượng sản xuất “tới một giai đoạn” nhất định sẽ mâu thuẫn với “quan hệ sản xuất
hiện có”, mâu thuẫn đó ngày càng gay gắt dẫn đến một cuộc cách mạng xã hội nổ
ra quan hệ sản xuất cũ bị thủ tiêu, quan hệ sản xuất mới ra đời, phương thức sản

xuất cũ được thay thế bằng phương thức sản xuất mới, xã hội chuyển sang một
hình thái kinh tế xã hội khác cao hơn. Và chỉ khi quan hệ sản xuất trở thành
“xiềng xích” đối với lực lượng sản xuất khi đó cách mạng xã hội mới nổ ra, quan
hệ sản xuất hiện có mới bị phá vỡ, quan hệ sản xuất mới ra đời, một hình thái kinh
tế- xã hội mới được hình thành.
Do lực lượng sản xuất quyết định, song quan hệ sản xuất không phải là yếu tố
bị động mà có vai trò tác động trở lại lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ của lực lượng sản xuất sẽ mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất không phù hợp
với trình độ của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất
và kinh tế xã hội.
Thực tiễn cho chúng ta thấy rằng lực lượng sản xuất chỉ có thể phát
triển khi có một quan hệ sản xuất hợp lý, đồng bộ, phù hợp với nó. Quan hệ
sản xuất lạc hậu hơn hoặc tiên tiến hơn cũng sẽ kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã
bộc lộ gay gắt, đòi hỏi phải giải quyết nhưng con người không phát hiện
được, cũng như khi mâu thuẫn đã được phát hiện mà không được giải quyết
hoặc giải quyết một cách sai lầm, chủ quan duy ý chí...thì tác động kìm hãm
của quan hệ sản xuất sẽ trở thành nhân tố phá hoại đối với lực lượng sản xuất.
Như vậy, trong lời tựa “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”,
Mác đã khái quát tương đối đầy đủ nội dung quy luật về sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Thứ tư, về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng
10


11

11

Nội dung khái quát lý luận về hình thái kinh tế xã hội Mác không chỉ

làm rõ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất mà còn làm rõ quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng một trong hai quy luật cơ bản chi phối sự vận động phát triển của xã hội.
Mác viết: “Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã
hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý,
chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực
đó”20.
Mặc dù Mác chưa gọi là cơ sở hạ tầng mà ông gọi là “cơ sở hiện thực”,
cơ sở hiện thực ấy về thực chất nó đã bao hàm nội dung rất cơ bản để sau này
chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát thành “cơ sở hạ tầng”. Mác đã trừu tượng
hoá tách quan hệ xã hội thành hai loại quan hệ đó là: quan hệ về vật chất và
quan hệ khác (như quan hệ về chính trị, tư tưởng, nhà nước, pháp luật, tôn
giáo...). Trước đó chưa có nhà triết học nào tách ra thành hai quan hệ đó.
Khổng Tử cũng bàn đến mối quan hệ xã hội nhưng chỉ ở bộ phận kiến trúc
thượng tầng: ở mối quan hệ về chính trị, đạo đức (đào tạo ra thế hệ “quần
chùng, áo dài” không quan tâm đến vấn đề sản xuất vật chất); Phoiơbắc chỉ
quan tâm đến mối quan hệ xã hội với “tình yêu”, tạo ra thứ tôn giáo tình yêu,
giải quyết mối quan hệ người với người bằng tình yêu...do đó các ông đều rơi
vào chủ nghĩa duy tâm.
Như vậy, Mác đã làm rõ các khái niệm, vị trí của “cơ sở hiện thực” xã
hội và kiến trúc thượng tầng xã hội. Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ
sản xuất- những quan hệ vật chất khách quan của con người trong hoạt động
lao động sản xuất vật chất. Tổng hợp những quan hệ sản xuất ấy tạo thành cơ
cấu kinh tế- cái cơ sở hiện thực của một kiến trúc thượng tầng ứng với nó.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những cái thuộc về “pháp lý, chính trị”
những quan hệ tinh thần tư tưởng biểu hiện tập trung đời sống tinh thần xã
hội, nó được hình thành trên những quan hệ vật chất xã hội, phản ánh cơ sở hạ
tầng. Bao giờ kiến trúc thượng tầng cũng là của một cơ sở hạ tầng nhất định.


20 C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 15.

11


12

12
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát khái niệm cơ sở hạ tầng: “Cơ sở hạ

tầng dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận
động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó”21.
Vế kiến trúc thượng tầng, theo Lênin khẳng định: “Kiến trúc thượng
tầng gồm những quan hệ xã hội về tư tưởng - ở trên những quan hệ vật
chất”22.
Theo Mác, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội luôn gắn
bó hữu cơ với nhau, tác động qua lại hình thành quy luật chi phối sự vận
động, phát triển của xã hội. Trong mối quan hệ ấy cơ sở hạ tầng quyết định
kiến trúc thượng tầng về mọi mặt. Khi phân tích về mối quan hệ giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng, ông cho rằng cơ sở hạ tầng là yếu tố quyết định
đối với kiến trúc thượng tầng. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với
kiến trúc thượng tầng được thể hiện ở chỗ: nếu cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm
hay muộn sự thay đổi kiến trúc thượng tầng cũng sẽ diễn ra. Quá trình đó thực
hiện không chỉ trong giai đoạn chuyển tiếp có tính chất cách mạng- từ xã hội
này sang xã hội khác- mà còn được thực hiện ngay trong bản thân mỗi hình
thái xã hội. Mác chỉ rõ: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc
thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng” 23. Theo Mác khi cơ
sở kinh tế thay đổi thì kiến trúc thượng tầng đồ sộ ấy cũng bị đảo lộn ít nhiều
nhanh chóng, nó không thể thay đổi tức thì mà có bộ phận thay đổi ngay (như
nhà nước, pháp luật, hệ tư tưởng thống trị...), có bộ phận còn tồn tại dai dẳng

(như tâm lý, phong tục tập quán...).
Mặt khác, Mác đã phê phán quan điểm sai lầm phản khoa học của
chủ nghĩa duy tâm- xem xét sự vận động biến đổi của cơ sở kinh tế trên
cơ sở và chịu sự quyết định của sự biến đổi từ ý thức tư tưởng. Quan niệm
duy tâm giải thích sự vận động của đời sống kinh tế- xã hội bằng những
nguyên nhân thuộc về vai trò của nhà nước và pháp quyền. Ngược lại,
Mác đã chỉ ra vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc
21 Giáo trình Triết học Mác- Lênin, Nxb CTQG, Hà Nội 1999, tr 448- tr 449.
22 V.I.Lênin,Toàn tập, tập 1, Nxb TB, M.1974, tr.219
23 C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 15.

12


13

13

thượng tầng. Mác viết: “Không chỉ lấy bản thân những quan hệ pháp
quyền cũng như những hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát triển
chung của tinh thần của con người, để giải thích những quan hệ và hình
thái đó, mà trái lại, phải thấy rằng những quan hệ và hình thái đó bắt
nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất” 24.
Mác còn cho rằng đấu tranh giải quyết mâu thuẫn nội tại của “xã hội công
dân” không thể bằng các yếu tố tinh thần tư tưởng mà bằng chính các yếu tố vật
chất. Mác chỉ rõ: “Khi xét những cuộc đảo lộn ấy, bao giờ cũng cần phân biệt
cuộc đảo lộn vật chất- mà người ta có thể xác nhận với một sự chính xác của khoa
học tự nhiên- trong những điều kiện kinh tế của sản xuất, với những hình thái
pháp lý, chính trị, tôn giáo, nghệ thuật hay triết học, tóm lại với những hình thái tư
tưởng trong đó con người ý thức được cuộc xung đột ấy và đấu tranh để giải quyết

cuộc xung đột ấy”25. Ngoài ra C. Mác còn đề cập một số nội dung về mối quan hệ
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội; cách mạng xã hội…
3. Ý nghĩa của tác phẩm
Mặc dù mới chỉ là sự khái quát những kết quả nghiên cứu ban đầu của
mình, nhưng Mác đã đưa ra những nguyên lý, tư tưởng về chủ nghĩa duy vật
lịch sử đã được ông khái quát hết sức cô đọng, thể hiện trình độ trừu tượng hoá
và khái quát cao, những nội dung hết sức cơ bản đó nó có tính chất bước ngoặt,
nó có giá trị hoàn thiện thế giới quan, hoàn thiện nội dung và đánh dấu sự phát
triển của chủ nghĩa duy vật lịch sử (các tư tưởng trước đó còn tách rời nhau).
Những nội dung cơ bản C. Mác khái quát trong lời tựa “Góp phần phê phán khoa
kinh tế chính trị” nó là nền tảng thế giới quan, phương pháp luận, là kim chỉ nam
cho mọi nghiên cứu sau này của ông, đặc biệt cho ra đời “Bộ Tư bản”. Mác khẳng
định: đó là kim chỉ nam để nghiên cứu những vấn đề tiếp theo.
Những nội dung trong lời tựa “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”,
giúp chúng ta có cơ sở khoa học, là vũ khí để đấu tranh phê phán những quan điểm
duy tâm về xã hội bảo vệ bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa duy vật lịch
sử nói riêng và chủ nghĩa Mác- Lênin nói chung; là cơ sở giúp chúng ta tiếp tục đi
24 C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 14.
25 C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 15.

13


14

14

sâu nghiên cứu và nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về hệ thống lý luận của chủ nghĩa
duy vật lịch sử.
Ngày nay, cho dù chủ nghĩa xã hội hiện thực rơi vào khủng hoảng,

thoái trào, kẻ thù đang ra sức xuyên tạc, chống phá, nhưng những nội dung
triết học trong tác phẩm vẫn còn nguyên giá trị khoa học và hiện thực của nó.
Muốn có câu trả lời về xã hội hiện nay, muốn tiếp cận xã hội tư bản ngày nay,
muốn nghiên cứu sự phát triển và thay thế chủ nghĩa tư bản ngày nay... vẫn phải
dựa vào kim chỉ nam trong lời tựa “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”
đã trang bị.
Kim chỉ nam trong lời tựa “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”,
đó vẫn là cơ sở lý luận khoa học để các đảng cộng sản xác định con đường đúng
đắn cho dân tộc mình. Đây là cơ sở để tiếp cận, xác định mô hình chủ nghĩa xã
hội, xây dựng quan hệ sản xuất mới, phát triển lực lượng sản xuất...để xây dựng
thành công chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới, mà giai đoạn đầu là
chủ nghĩa xã hội.
Kết quả nghiên cứu của Mác thể hiện sự thiên tài của ông dự đoán về xã
hội tương lai- xã hội cộng sản chủ nghĩa- tính chất nghiêm túc trong khoa học,
những luận chứng có cơ sở khoa học đã chỉ ra quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
nhất định sẽ trở thành “xiềng xích” đối với lực lượng sản xuất và cách mạng xã
hội sớm hay muộn nhất định sẽ nổ ra. Đúng như Mác đã khẳng định trong lời tựa
“Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”của mình: “Các quan điểm của tôi,
dù có bị người ta xét đoán như thế nào chăng nữa và dù chúng có ít nhất trí như thế
nào chăng nữa với những thiên kiến tự tư tự lợi của các giai cấp thống trị - thì chúng
vẫn là kết quả của những sự nghiên cứu trung thực trong nhiều năm” 26. Những tư
tưởng trong lời tựa “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị” của Mác, đặc
biệt là học thuyết về hình thái kinh tế- xã hội là cơ sở để Đảng ta đưa ra đường lối
đối với sự nghiệp đổi mới đất nước.
Chúng ta khẳng định rằng: học thuyết hình thái kinh tế- xã hội là cơ sở khoa học
để Đảng ta đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước và giải quyết thành công những
vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Học thuyết hình thái kinh tế26 C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 18.

14



15

15

xã hội là cơ sở khoa học để nhận thức đặc trưng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
hiện nay. Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua việc xác lập quan hệ sản xuất
thống trị và kiến trúc thượng tầng chính trị tư bản chủ nghĩa. Chế độ chính trị của
chúng ta là chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, chúng ta chỉ bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, còn thành quả cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học công nghệ, trình độ quản lý,
điều hành sản xuất kinh doanh...chúng ta phải tiếp thu, kế thừa cho phù hợp với
hoàn cảnh đất nước.
Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội là phát triển kinh tế thị trường, định hướng
xã hội chủ nghĩa, điều này không trái với các nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin:
chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trải qua mấy
cuộc chiến tranh tàn khốc...do vậy phải phát triển sức sản xuất xã hội, phát triển đa
thành phần kinh tế, có các thành phần kinh tế trung gian quá độ trong đó kinh tế nhà
nước giữa vai trò chủ đạo. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố bảo
đảm các thành phần kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội, một mặt phát huy nội lực, một mặt chúng ta
phải kế thừa toàn bộ các thành quả văn minh của nhân loại thì mới có thể đi tắt đón
đầu, mới có thể rút ngắn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta phải biết kế
thừa thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ của chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ
nghĩa xã hội, cần có những bước trung gian quá độ để đi lên chủ nghĩa xã hội
theo đúng tinh thần của Lênin: những người cộng sản phải biết bắc những chiếc cầu
nho nhỏ xuyên qua chủ nghĩa tư bản để đi lên chủ nghĩa xã hội; phải biết bắt các
nhà tư bản cày trên luống cày của chủ nghĩa xã hội.
Mặt khác, học thuyết hình thái kinh tế- xã hội là cơ sở khoa học để khẳng
định con đường và tính tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở nước ta.

Đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta là hoàn
toàn phù hợp với quy luật khách quan và xu thế phát triển tất yếu của lịch sử. Việc
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta vẫn nằm trong tiến trình lịch sử tự nhiên,
vẫn nằm trong tiến trình phát triển chung của thế giới. Mặt khác, đi lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta nó vẫn phù hợp với xu hướng phát
15


16

16

triển tất yếu của thời đại ngày nay- thời đại ngày nay là thời đại đi lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới.
Đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta là nguyện
vọng, quyết tâm và ý chí của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Đây là sự lựa
chọn chính trị tự nguyện của toàn Đảng toàn dân và toàn quân ta, không có sự lựa
chọn nào khác, không có con đường nào khác- đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa. Những cơ sở kinh tế kỹ thuật và tài nguyên quốc gia cũng như
thành quả to lớn của sự nghiệp cách mạng là những tiền đề kinh tế kỹ thuật để
chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước hơn hai mươi năm
qua đã khẳng định tính đúng đắn của việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn
Quốc của Đảng lần thứ X đã khẳng định những thành tựu trong công cuộc đổi mới
đất nước sau hai mươi năm đó là: “Công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã
hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị

và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị- xã hội ổn
định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế
không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo
ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Những thành
tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với
thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống những quan điểm lý luận về công cuộc đổi
mới, về xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình
thành trên những nét cơ bản”27.
Thực tiễn lịch sử nhân loại đã chứng minh, do những điều kiện không gian,
thời gian khác nhau, có một số nước trong quá trình phát triển không đi theo tuần
tự tất cả các hình thái kinh tế- xã hội theo lược đồ từ thấp đến cao. Nhiều nước
27 Đảng cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của BCHTW Đảng khoá IX tại đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X của Đảng, Hà Nội 2006, tr 10- tr 11.

16


17

17

châu Âu chủ nghĩa tư bản ra đời từ trong lòng của xã hội phong kiến, còn nước
Mỹ thì chủ nghĩa tư bản ra đời trong điều kiện không trải qua chế độ phong kiến.
Nhưng xét về toàn diện quá trình phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội là quá
trình lịch sử tự nhiên. Học thuyết hình thái kinh tế- xã hội là cơ sở khoa học để
khẳng định chúng ta có đủ điều kiện để đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa hiện nay. Chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa có cả những thuận lợi và khó khăn nhất định, cả thời cơ và thách thức.
Trước hết về những thuận lợi đó là: Đảng ta là đảng Mác xít chân chính có

bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng và giàu kinh nghiệm trong quá trình lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng- đây là một yếu tố chính trị có ý nghĩa quyết định trong
việc chuyển hoá nhân tố của thời đại thành sức mạnh bên trong của dân tộc; nhân
dân ta có truyền thống yêu nước nồng nàn, luôn gắn bó với chế độ, và tin tưởng vào
sự nghiệp cách mạng của Đảng, tạo ra những động lực to lớn của cách mạng Việt
Nam. Những cơ sở kinh tế chính trị- xã hội của chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày
càng được củng cố. Mặt khác, với nguồn nhân lực dồi dào, tài nguyên đất nước
phong phú là những điều kiện thuận lợi để chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới đất nước đã tạo ra cho chúng ta có
thế và lực mới. Nước ta nằm ở khu vực kinh tế phát triển năng động, xu thế hội
nhập mở cửa sẽ tiếp thu trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến tạo ra những
thuận lợi cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Bên cạnh đó chúng ta còn gặp phải những khó khăn thách thức, cản trở
quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội đó là: Do có sự tác động của điều kiện quốc
tế đưa đến như sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực, chủ nghĩa đế
quốc tập trung chống phá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, xu hướng toàn cầu
hoá tạo ra sự cạnh tranh gay gắt; hậu quả của chiến tranh ba mươi năm ròng
rã, tàn dư tư tưởng, tâm lý, tập quán cũ...đó là những trở lực chưa thể khắc
phục ngày một, ngày hai.
Mặt khác, trong quá trình đổi mới đất nước còn nảy sinh các nguy cơ
như chệch hướng xã hội chủ nghĩa, tụt hậu về kinh tế, diễn biến hoà bình, tệ
quan liêu tham nhũng...Từ những khó khăn trên đây chúng ta thấy thời kỳ quá
17


18

18

độ đi lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng hết sức khó khăn và

phức tạp.
Nhưng với sự khiêm tốn của những người cộng sản, bằng hệ thống lý
luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin chúng ta có thể khẳng
định rằng trong điều kiện hiện nay Việt Nam có đủ điều kiện và khả năng đi
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa và xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, đó là con đường hợp quy luật và có khả
năng hiện thực.

18



×