Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học THUYẾT về CHÍNH TRỊ xã hội của NHO GIÁO và tác ĐỘNG của nó đối với sự NGHIỆP đổi mới ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.41 KB, 20 trang )

1

1

HỌC THUYẾT VỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA NHO GIÁO VÀ TÁC ĐỘNG CỦA
NÓ ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Người sáng lập ra trường phái Nho giáo - nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ đại
Trung Quốc là Khổng tử, ông tên là Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ra ở nước Lỗ trong một gia
đình quý tộc sa sút. Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ những năm đầu công nguyên và
được “Việt Nam hóa” trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của Dân tộc.
Nho giáo góp phần đáng kể vào việc xây dựng, và phát triển nền văn hiến Việt Nam. Bao
đời từng là hệ tư tưởng thống trị trong kiến trúc thượng tầng phong kiến Việt Nam. Nho
giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hoá, chính trị –xã hội, lẽ sống và phong tục
tập quán của người Việt Nam. Nho giáo trở thành một bộ phận của truyền thống văn hoá
của dân tộc. Trong giai đoạn hiện nay Nho giáo vẫn đang in đậm trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Con người Việt Nam dù tự giác hay không, vẫn còn mang đậm dấu ấn của
Nho giáo. Truyền thống văn hóa trong lịch sử của dân tộc bao gồm văn hoá vật thể và văn
hoá phi vật thể vẫn còn đó. Một Văn Miếu Quốc Tử Giám với 82 tấm bia tiến sĩ sừng sững
uy nghiêm không chỉ được xem là một trong những biểu tượng của văn hóa Thăng Long
Hà Nội, mà còn được xem là kỷ vật thiêng liêng, ngưng tụ của một nền văn hóa truyền
thống được nhiều thế hệ người Việt Nam trân trọng và tự hào. Nhưng truyền thống là do
lịch sử để lại, qua sự vân động và phát triển của xã hội có những vấn đề không phù hợp với
xã hội hiện đại. Mặc dù cơ sở kinh tế - xã hội của Nho giáo đã bị thủ tiêu, nhưng những tàn
dư, phong tục cổ hủ lạc hậu của nó đã và đang trở thành lực cản của sự nghiệp đổi mới ở
nước ta hiện nay.
Trong 30 năm qua, công cuộc đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và
lãnh đạo đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đẩy nhanh sự tăng trưởng về kinh tế, đời sống xã
hội được nâng cao. Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế thị trường cũng đang tạo ra nhiều xáo
trộn trong quan hệ xã hội, trong gia đình và phẩm chất cá nhân. Trong xã hội đã xuất hiện
những biểu hiện tiêu cực cả trong nhận thức và hành động: lối sống thực dụng, chạy theo


đồng tiền làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên xa rời mục tiêu lý tưởng, suy thoái về
phẩm chất đạo đức, nạn tham nhũng, lãng phí, buôn lậu, làm giàu bất chính và các tệ nạn
xã hội khác đang có chiều hướng gia tăng. Những chủ trương biện pháp khắc phục tình
trạng nói trên nó động chạm tới nhiều vấn đề liên quan đến Nho giáo, nhất là khi Nho giáo


2

2

đã đồng hành cùng dân tộc ta hàng ngìn năm, để lại những tư tưởng khó khắc phục như
bệnh bảo thủ trì trệ, quan liêu, giáo điều, chủ nghĩa bình quân. Đến nay những tư tưởng đó
vẫn con tồn tại với nhiều biểu hiện khác nhau. Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam và triển
vọng lớn lao của nó không thể tách rời việc khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của
Nho giáo và sau đó khai thác những nhân tố tích cực để biến thành truyền thống Việt
Nam trên nhiều lĩnh vực của đời sống. Nho giáo là vấn đề của lịch sử nhưng cũng là
vấn đề hiện tại và tương lai. Nghiên cứu tư tưởng chính trị xã hội của Nho giáo để nhìn
nhận, đánh giá rõ hơn những yếu tố đã lỗi thời lạc hậu, những phản giá trị văn hoá cần
xoá bỏ, đồng thời kế thừa những tinh hoa, những cái còn hợp lý để vận dụng, phát huy
nó trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Dưới góc độ tiếp cận của triết học - tư
tưởng chính trị xã hội của Nho giáo có ý nghĩa rất quan trong cả về lý luận và thực tiễn.
1.TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ –XÃ HỘI CỦA NHO GIÁO
Khổng Tử (551 - 479 TCN) là người đầu tiên sáng lập ra Nho giáo. Những
người kế tục nổi tiếng là Mạnh Tử (372 - 289 TCN) và Tuân Tử (298 - 238TCN). Là
học thuyết của xã hội phong kiến, do xã hội phong kiến sản sinh ra, Nho giáo đề ra các
nguyên lý, quy tắc, biện pháp nhằm ổn định xã hội Trung Quốc đương đại và thúc đẩy
xã hội phát triển. Mục tiêu lý tưởng của Nho giáo là xây dựng một nhà nước hưng
thịnh, duy trì kỷ cương xã hội, tông pháp, đẳng cấp, quyền lực tuyệt đối thuộc về Thiên
Tử. Người cai trị phải dùng đức, lễ tiết để làm gương và lôi cuốn dân chúng, từ đó dân
chúng tự giác làm tròn bổn phận của mình. Nghiên cứu tư tưởng của Nho giáo có thể

thấy những tư tưởng chính trị xã hội của nho giáo đó là: tư tưởng về Nhà nước, quyền
lực nhà nước và mối quan hệ giữa dân với nhà nước; đường lối trị nước được đề cập
khá sâu sắc.
1.1.Tư tưởng về nhà nước, quyền lực nhà nước và mối quan hệ giữa nhà
nước với dân
Tư tưởng về nhà nước và quyền lực nhà nước.
Thời xuân thu chiến quốc là một giai đoạn đặc biệt trong lịch sử Trung Quốc (thế
kỷ VII - thế kỷ III TCN) đó là thời đại quá độ từ chế độ chiếm hữu nô lệ kiểu phương đông
sang xã hội phong kiến. Đây là thời kỳ loạn lạc chiến tranh liên miên ở trung Quốc, thời kỳ
“vương đạo suy vi, bá đạo trị vì”. Chính điều kiện lịch sử đó đã quyết định sự ra đời của


3

3

một hình thức nhà nước đặc biệt, nhà nước chuyên chế phương đông, trong đó mọi quyền
lực đều tập trung ở nhà vua.
Tư tưởng Nho giáo ra đời trên cơ sở tổ chức chính trị xã hội đặc biệt đó, nên tư
tưởng về nhà nước, quyền lực nhà nước của Nho giáo biểu hiện rõ nét ở chỗ đề cao vai trò
của nhà vua chuyên chế. Theo Nho giáo, con người có nhiều mối quan hệ gắn bó ràng
buộc lẫn nhau trong phạm vi những cộng đồng nhất định. Trong đó các cộng đồng nhà
(gia), nước (quốc) và thiên hạ là cơ bản nhất, bao quát nhất. Thiên hạ gốc ở nước, nước gốc
ở nhà, nhà gốc ở thân. Nho giáo coi mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau giữa nhà và nước là
mối quan hệ rường cột. Muốn trị quốc trước hết phải tề gia. Nước là vật sở hữu của một số
người tuân mệnh trời và giỏi tề gia. Nước trong quan niệm của Nho giáo vừa là chỉ đất
nước cũng vừa là nhà nước. Nhà nước thời đó thuộc quyền chuyên chế của nhà vua và
hoàng tộc. Nho giáo cho rằng: xã hội phải có người đại diện nắm giữ quyền lực tối cao để
giữ gìn kỷ cương phép nước. Nhà vua chính là người nắm giữ quyền lực tối cao đó, là
người chủ sở hữu đất đai, trực tiếp quản lý kinh tế, tổ chức hành chính, thực hiện pháp luật,

chỉ huy quân đội, giáo dục đạo đức và cả đứng đầu tôn giáo nữa. Để quản lý xã hội, nhà
vua phải tổ chức ra bộ máy quan liêu từ trung ương đến địa phương. Để “chính danh” của
những người nắm quân quyền, Nho giáo chủ trương thuyết “thiên mệnh”. Thuyết này coi
trời là trên hết, ngôi vua được trời lựa chọn để cai quản đất nước và thần dân, nhưng không
cho mãi một người làm vua, mà ai làm điều lành thì được, làm điều ác thì mất. Vì vậy nhà
vua có quyền lực rất lớn nhưng không được lạm dụng quyền ấy để làm điều trái đạo.
Thuyết “thiên mệnh” với tư tưởng an phận thủ thường theo địa vị của mình, đã đè
nặng lên đời sống tinh thần của dân tộc Trung Hoa và các dân tộc tôn sùng Nho giáo suốt
nhiều thế kỷ qua. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho tôn ti trật tự phong kiến
được duy trì quá lâu, kìm hãm sức vươn lên của con người. Tuy nhiên chính thuyết “thiên
mệnh” đã đáp ứng được đòi hỏi bức thiết của lịch sử Trung Quốc thời bấy giờ đó là thống
nhất dân tộc, xây dựng chính quyền trung ương tập quyền hưng thịnh.
.Tư tưởng về dân và mối quan hệ giữa dân với nhà nước
Tư tưởng về dân
Nho giáo được hình thành rất sớm trải qua quá trình tồn tại, đấu tranh gay gắt với
Mặc gia và Pháp gia mà được thừa nhận làm đạo lý trị quốc của nhiều triều đại phong kiến
Trung quốc.


4

4

Khái niệm “dân” của Nho giáo bao gồm: sĩ, nông, công, thương. Sự phân chia này
không dựa trên tiêu chuẩn sở hữu mà theo ngành nghề. Đây cũng chính là bậc thang giá trị
trong xã hội phong kiến, nó phản ánh một nền kinh tế tiểu nông khép kín, tự cung tự cấp,
công thương nghiệp chưa phát triển. Tuy vậy, theo quan niệm của Nho giáo “dân” thông
thường là những người không có địa vì gì trong bộ máy thống trị.
Trong mối quan hệ với nhà nước, quyền lực nhà nước mà người đứng đầu là vua,
dân có vai trò rất lớn. Nho giáo đã sớm nhận thức được vai trò của nhân dân đối với sự tồn

vong của các triều đại phong kiến. Nho giáo cho rằng trong ba yếu tố để một triều đại được
bền vững đó là: đất đai, nhân dân và chính sự thì dân là yếu tố quyết định. Còn về chính sự
thì Nho giáo lại chỉ rõ: lương thực phải đủ để nuôi dân, binh lực phải mạnh để bảo vệ dân
và lòng tin của dân, trong đó lòng tin của dân là quan trọng nhất. Nho giáo cũng đã nhìn
thấy sức mạnh to lớn của nhân dân, “vua lấy dân làm trời”, vua chúa sống được là nhờ dân,
nếu áp bức dân tàn bạo để dân vùng lên thì những người nắm giữ quyền lực nhà nước ắt đi
tới diệt vong. Mạnh Tử rất quan tâm đến dân, ông coi trọng việc cải thiện đời sống của
nhân dân là “gốc”, là trách nhiệm của người cầm quyền: Đấng minh quân phảI làm cho
thần dân ngẩng đầu lên đủ thờ cha mẹ, cúi xuống đủ nuôi vợ con, năm được mùa thì no
luôn, năm mất mùa thì không đến nỗi chết đói. Không thể phủ nhận quan điểm của Mạnh
Tử về dân là có nhiều tiến bộ, nhưng nếu đứng trên lập trường giai cấp mà xem xét thì ông
không có tư tưởng dân chủ thực sự; không có tư tưởng đấu tranh cho quyền làm chủ đất
nước của nhân dân và làm chủ vận mệnh của mình. Kể cả khi ông chủ trương xây dựng
một nền chính trị được lòng dân, quan tâm đến dân để cho dân có “hằng sản” từ đó “có
hằng tâm” thì cũng không ngoài mục đích điều hòa mâu thuẫn giai cấp trong xã hội.
Nói về dân và chính sách trị dân Khổng tử nhấn mạnh các vấn đề: dưỡng dân, giáo
dân và chính hình, trong đó dưỡng dân là yếu tố quan trọng. Bất kỳ chính thể nào, nhà cầm
quyền nào cũng phải coi trọng việc dưỡng dân. nếu khéo dưỡng dân thì nước thịnh, nhà
cầm quyền được dân quý, ngược lại thì nước loạn, dân sẽ bỏ đi nơi khác hoặc nổi loạn,
chính quyền sớm muộn cũng bị lật đổ. Dưỡng dân là làm cho dân no đủ, giàu có. Điều đó
cho thấy Nho giáo đã sớm nhận thấy vai trò to lớn của dân đối với nhà nước và quyền lực
nhà nước, nhưng họ không vượt qua được hạn chế về mặt giai cấp và thời đại, do đó đối
với Nho giáo không có tư tưởng dân chủ thực sự, tất cả đều mỹ dân để dễ bề sai khiến cai
trị. Tuy nhiên, tư tưởng của Nho giáo về dân, về mối quan hệ giữa dân với nhà nước vẫn
hàm chứa nhiều giá trị mà người cầm quyền xưa và nay đều quan tâm, đó là:


5

5


Phải biết tranh thủ dân và nắm lấy dân. Dân là quý, dân như nước, chở thuyền
cũng là dân, lật thuyền cũng là dân, do vậy muốn làm vua chúa, muốn cầm quyền thì phải
tranh thủ dân và nắm lấy dân. Tranh thủ được dân chúng thì làm Thiên tử, được dân là
được cả thiên hạ, người cầm quyền phải thuận lòng dân, phải biết thích cái thích của dân,
ghét cái ghét của dân, theo lòng dân mà trị nước tất sẽ gây dựng được đại nghiệp.
Giữ gìn sinh mệnh và không lãng phí tài sản của dân. Người cầm quyền phải biết
sử dụng sức người, sức của cho phù hợp tránh lạm dụng, lãng phí tiền bạc công sức của
dân, như vậy lòng dân mới yên xã tắc mới bền vững. Tư tưởng của nho giáo về vai trò của
dân được các nhà tư tưởng Việt Nam kế thừa, cải biến và sáng tạo phù hợp với truyền
thống văn hoá dân tộc. Thời Lý – Trần, coi đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân là
việc hàng đầu của đạo trị nước, “ý dân”, “lòng dân” đã trở thành căn cứ, mục đích cho
những chủ trương chính trị lớn. “Chiếu dời đô” nổi tiếng của Lý Công Uẩn đã khẳng định:
Trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, thấy thuận thì thay đổi. Nên vận nước lâu dài, phong
tục phồn thịnh. Trần Quốc Tuấn với tư tưởng “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền
gốc”, coi đó là “thượng sách để giữ nước” đã nhìn rõ nhân dân là tiềm lực về kinh tế và
quốc phòng, bảo đảm cho sự vững chắc của nền độc lập và chủ quyền đất nước. Nguyễn
Trãi xem dân là gốc của nước, dân có quan hệ tới sự yên nguy của triều đại. Dân là số
đông, là cơ sở của xã hội, là lực lượng có vai trò quyết định ủng hộ hay phế truất nền thống
trị của một triều đại.Nhận thức được vai trò của nhân dân không phải là ngẫu nhiên đối với
các nhà tư tưởng Việt Nam. Mặc dù lập trường phong kiến đã hạn chế tầm nhìn của họ về
vai trò của nhân dân, nhưng là những nhà yêu nước lớn, đứng ở đỉnh cao của phong trào
yêu nước lúc bấy giờ, họ đã thấy được yêu cầu phải cố kết cộng đồng, phát huy sức mạnh
của dân tộc nên đã vượt qua được những hạn chế giai cấp vốn có của mình.
Đến Hồ Chí Minh, quan niệm về dân đã phát triển đến một tầm cao mới. Dân là số
đông, phải làm cho số đông đó ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Lấy dân
làm gốc ở Hồ Chí Minh không phải chỉ xem dân là lực lượng dời non lấp biển mà còn là
mục đích, mục tiêu chính trị đều vì dân, xây dựng nền chính trị của dân, do dân và vì dân.
Quan trọng hơn cả là Người đã đưa truyền thống yêu nước thương nòi với cơ chế hoạt
động của nhà nước là của dân, do dân và vì dân thành nguyên tắc cơ bản để xây dựng Đảng

cộng sản và chế độ chính trị xã hội ở Việt Nam.
1.2. Đường lối trị nước của nho giáo


6

6

Nho giáo chỉ rõ cai trị con người và xã hội bằng giáo dục, giáo dưỡng, bằng thu
phục nhân tâm, hạn chế dùng pháp trị. Nho giáo là hệ tư tưởng có tính chất quy chế làm
chuẩn mực để giải quyết các quan hệ xã hội. Các khái niệm tưởng chừng thuần túy đạo đức
nhưng nó mang tính chính trị rất cao.Các phạm trù: “Nhân”, “Lễ”, “Chính danh”, là
nguyên lý đạo đức cơ bản và là hạt nhân trong học thuyết chính trị xã hội của Nho giáo, là
nguyên tắc trị nước của Nho giáo.
Phạm trù “Nhân”, “Lễ”
Nhân: Chữ Nhân trong học thuyết của Khổng Tử có ý nghĩa rất rộng, lúc trừu
tượng, lúc cụ thể, tùy theo trình độ hoàn cảnh mà ông diễn đạt nội dung của nó một cách
khác nhau. Nhưng nội dung bao quát nhất của “Nhân” là Người, là lòng người, là thương
người. Đạo nhân là cái trời phú cho con người, ở cái tâm của con người, đó là lòng thương
người. Điều đó được thể hiện ra ở hai điều cốt yếu: “Người nhân là mình muốn lập thân thì
cũng mong muốn giúp người lập thân, mình muốn thông đạt thì cũng muốn giúp người
thông đạt” và “điều gì mình không muốn thì chớ đem đối xử với người”. “Nhân” là đức
tính hoàn thiện, là cái gốc của con người nên nhân chính là đạo làm người. Đức nhân bao
gồm tinh túy của tất cả các đức tính khác, trong bất kỳ mối quan hệ nào, nếu hỏng về đức
của mối quan hệ đó thì cũng đồng thời là trái với đức nhân, chẳng hạn như: không trung
thực với người khác, không nghiêm khắc với kẻ sai trái lầm lỗi, không cung kính bề trên…
đều là trái với đức nhân. Người muốn đạt nhân theo Khổng Tử phải có “Trí” và “Dũng”.
Nhờ có trí con người mới sáng suốt minh mẫn để hiểu được đạo lý, xét đoán sự việc, phân
biệt phải trái, thiện ác để trau rồi đạo đức và hành động phù hợp với “Thiên lý”. Muốn đạt
nhân còn phải có “Dũng”, người có “Dũng” không phải ỷ vào sức mạnh, hành động bất

chấp đạo lý mà là người quả cảm, dám xả thân vì nghĩa, khi thiếu thốn không làm mất
nhân cách của mình, khi đầy đủ sung túc không xa rời dạo lý.Đức nhân mà nho giáo đề cập
trong học thuyết chính trị của mình hoàn toàn khác với thuyết “kiêm ái” của Mặc Tử,
“Đức” của Lão Tử, lại càng khác với “Bác ái” của đạo ki tô và “Từ bi” của đạo Phật.Đạo
nhân với tính cách là trung tâm của toàn bộ học thuyết chính trị đạo đức của mình, các nhà
Nho nâng lên thành đường lối trị quốc: Nhân trị - tức trị dân bằng đức nhân. Đức nhân là
một tiêu chuẩn bắt buộc, nghiêm khắc nhất đối với kẻ làm quan. Những người làm quan,
các bậc vua chúa đều phải có đức nhân - đó là yêu cầu tối thượng. Nho giáo chú trọng lấy
đạo đức để thực hành chính trị, kẻ tri dân phải tu thân, sửa mình làm gương cho dân,
hướng theo điều thiện, nhờ đó cảm hóa được dân chúng, dân chúng phục mà nghe theo.


7

7

Nhấn mạnh việc tu dưỡng đạo đức, đồng thời Khổng Tử đề cao yêu cầu về cái tài của kẻ
cai trị, cái tài đó giúp họ làm việc sáng suốt, nếu kẻ cai trị chỉ có lòng thương dân thuần túy
thì chưa đủ mà phải có cả trí.
Như vậy, từ “Nhân” đến “Nhân trị” đó chính là tư tưởng về đường lối trị quốc của
Nho giáo, điều đặc biệt và sâu sắc của tư tưởng này là ở chỗ Nho giáo đã đặt đạo đức với
chính trị trong mối quan hệ hết sức chặt chẽ, đạo đức là nền tảng của chính trị. Chính trị là
sự tiếp tục của đạo đức, phải lấy đạo đức làm gốc. Đây cũng là điểm độc đáo của triết lý
phương đông so với các học thuyết phương tây. Do ảnh hưởng của tư tưởng này mà thực
tiễn chính trị phương đông đã hình thành nên mẫu người cai trị với phong cách đặc trưng,
đó là những con người có đủ đức, tài. Xây ngôi nhà chính trị trên nền đạo đức một cánh
thái quá, ít chú ý tới cơ sở kinh tế nên Nho giáo đã duy trì xã hội phương đông trong trạng
thái trì trệ, bảo thủ suốt mấy ngàn năm lịch sử.
Lễ: Phạm trù “Lễ” trước tiên dùng để chỉ việc thờ cúng, tế lễ, sau dùng rộng ra nó
bao gồm cả phong tục tập quán mà xã hội thừa nhận và còn có nghĩa là thể chế, là quyền

uy. Lễ là một công cụ chính trị mạnh mẽ và là một phương pháp trị quốc đắc lực mà Nho
giáo đã cống hiến cho các triều đại phong kiến. Trong gia đình, làng mạc, đất nước và thiên
hạ, thậm chí trong trời đất, con người có bao nhiêu mối quan hệ thì có bấy nhiêu lễ nghi
quy định cụ thể gọi là lễ. Trước bối cảnh “Lễ nhạc hư hỏng”, Khổng Tử muốn dùng lễ để
khôi phục lai trật tự phép tắc, luân lý xã hội, đưa xã hội từ loạn trở thành thịnh trị.Lễ quy
định một cách nghiêm ngặt các mối quan hệ giữa vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn
bè (Ngũ luân). Trong năm mối quan hệ ấy, có ba mối quan hệ rường cột gọi là (Tam
cương): vua tôi, cha con, chồng vợ. Trong các mối quan hệ đó, mỗi người phải tuân theo
địa vị, danh phận của mình . Đó là “Vua dùng tôi nên theo lễ, tôi thờ vua theo đạo trung”,
“Cha đối với con phải nhân từ, con thờ cha theo đạo hiếu”, “Anh em với nhau phải giữ chữ
đễ” tức là phải yêu thương nhường nhịn nhau, “Vợ chồng đối với nhau cũng phải giữ lễ”,
“Bạn bè đối với nhau phải giữ chữ tín”. Như vậy, “Lễ” trong nho giáo là nguyên tắc về
chính trị, một văn bản nghi tiết. Trong các tầng lớp do chế độ phân biệt thứ hạng tạo ra thì
có một loại thước đo để phân biệt họ, do đó mà có danh để đặt ra đạo nghĩa, đạo nghĩa để
đặt ra lễ. Có thể nói, lễ là một cái lưới bủa ra rất rộng và xiết lại hết sức chặt chẽ. Chỗ tinh
vi của Nho giáo là đã đóng khung ý nghĩ và hành động của con người vào phạm vi thực
hiện những quy tắc nghiêm ngặt của cuộc sống, trải qua hàng ngàn năm lịch sử, xã hội theo
Nho giáo đã giữ được sự ổn định trong gia đình và trật tự ngoài xã hội. Lễ trở thành điều


8

8

kiện quan trọng bậc nhất trong việc trị quốc tề gia. Lễ trị của Nho giáo nó trói buộc con
người từ khi lọt lòng đến khi chết, từ trong chiếc nôi gia đình ra đất nước, thiên hạ. Nếu
pháp trị của Hàn Phi Tử táo bạo một cách lộ liễu thì lễ trị của Nho giáo lại trói buộc con
người trong cái vỏ êm dịu, trang trọng. Đó chính là điều mà các triều đại phong kiến thống
trị sau Khổng Tử, từ nhà Hán cho đến nhà Thanh ở Trung Quốc, cũng như từ thời Lý Trần đến Lê - Nguyễn ở Việt Nam tìm thấy để gò chặt cả dân cả nước trong vòng tôn ti trật
tự, kẻ cai trị cứ việc sai khiến, kẻ phụng sự cứ việc tuân theo. Hàm ý sâu xa của lễ là ở đó,

một khi các tầng lớp dưới đều làm theo lễ thì không bao giờ làm mất tôn ti trật tự, đặc biệt
là “Dễ sai” thì bề trên càng dễ cai trị. Trong việc trị nước, trị dân, lễ hay hơn hình pháp ở
chỗ lễ ngăn cấm việc chưa xảy ra, còn hình pháp cấm sau khi sự việc đã xảy ra, lễ giúp
người tránh xa điều ác gần với điều thiện. Tuy nhiên, lễ trị của Nho giáo đã kìm hãm cuộc
sống của con người một cách dai dẳng, đặc biệt là đối với phụ nữ và đông đảo nhân dân lao
động dưới thời phong kiến.
Phạm trù “Chính danh”
Cuối thời Xuân thu - Chiến quốc, tình hình xã hội Trung Quốc hết sức rối loạn,
các nước chư hầu xâm lấn và thôn tính lẫn nhau; sự phát triển của những mâu thuẫn giai
cấp hết sức gay gắt, đó là mâu thuẫn giữa nông dân với lãnh chúa phong kiến, địa vị của
bọn lãnh chúa phong kiến bị lung lay; quan hệ tông pháp rối loạn. Trước tình hình đó Nho
giáo chủ trương lấy thuyết “chính danh” làm vũ khí để ổn định xã hội. Theo Khổng Tử, sự
hỗn loạn của quan niệm danh phận, đẳng cấp, sự sa sút của Thiên tử nhà Chu, sự suy yếu,
bất ổn của các nước chư hầu…tình trạng đó làm cho trật tự xã hội đương đại. Khổng Tử
cho rằng: muốn cứu vãn nguy cơ chính trị thời đó, trước hết phải khôi phục uy quyền của
thiên tử, phải ngăn chặn những việc vượt quyền, mỗi người phải biết giữ danh phận của
mình mới có thể gây lại nền chính trị có đạo, phải “chính danh” để xác định lại danh phận
đẳng cấp…đó là vấn đề căn bản của chính trị thời bấy giờ. “Danh” là tên gọi, là danh vị,
nghĩa là cương vị, quyền hạn. Chính danh là sự quy định rõ cương vị và quyền hạn. Khi
bàn về chính danh, Khổng Tử giải thích: Chính danh là làm cho mọi việc ngay thẳng.
Chính danh thì người nào có địa vị, bổn phận của người đó, trên dưới vua tôi, cha con trật
tự phân minh, vua lấy lễ mà khiến tôi, tôi thờ vua theo đạo trung, vua ra vua, tôi ra tôi…thì
nước mới hưng thịnh, lễ nghĩa, nhân đức, danh phận vẹn toàn. Thực chất quan niệm trên ra
trên, dưới ra dưới đã có từ lâu trong lịch sử Trung Quốc. Các sử gia Trung Hoa từng ghi lại
những hành vi tốt xấu của các vị vua quan một cách công tâm cũng hàm ẩn cái ý chính


9

9


danh. Nhưng lý luận, giảng giải, đặt nó thành một quy tắc và cao hơn nữa là thuật trị nước
thì mãi tới thời Khổng Tử mới có. Danh và thực phải hợp với nhau, nếu không hợp với
nhau thì gọi tên ra người ta sẽ không hiểu, lý luận không xuôi, mọi việc không thành, lễ
nhạc, hình pháp không định được, mà xã hội sẽ hỗn loạn. Để chính danh, trước hết mọi
người phải tự giác giữ lấy danh phận của mình, từ thiên tử, chư hầu, đại phu đến kẻ sĩ phải
tu dưỡng đạo nhân để có sự tự giác đó. Đối với người cai trị, Khổng tử quan niệm: Ông
vua là người được trời giao phó cho nhiệm vụ lo cho dân đủ ăn, đủ mặc, làm gương cho
dân, dạy dỗ dân để dân được sống yên ổn. Làm tròn nhiệm vụ đó là danh xứng với thực.
Như vậy, đối với người cai trị, bản thân phải ngay thẳng. Có như như vậy mới chỉ đạo,
giúp đỡ và ảnh hưởng một cách có hiệu quả đối với người khác. Bên cạnh đó, “ngôn” cũng
phải chính, lời nói với việc làm phải hợp nhau, không được nói nhiều làm ít, không được
nói lời kính cẩn mà trong lòng rỗng không, lời nói phải thận trọng. Nói về nguyên nhân
hỗn loạn của thời Xuân thu, Khổng Tử cho rằng tại thiên tử nhà Chu không làm tròn trách
nhiệm, để quyền hành lọt vào tay chư hầu, khắp thiên hạ đều vô đạo, muốn cho thiên hạ
hữu đạo thì phải chính danh, thiên hạ mà loạn thì lỗi trước hết là ở vua chúa bởi vì vua
không ra vua tôi không ra tôi .
Yêu cầu chính danh đối với người cai trị là hết sức tích cực, nhưng trong điều kiện
chính trị xã hội lúc đó, khó có thể thực hiện được. Do đó, đối với bọn vua chúa phong kiến
thích vượt quyền, không chịu giữ danh phận của mình, không tự giác.
Nguyên tắc chính danh của Khổng Tử là: ai ở địa vị nào cũng phải làm tròn trách
nhiệm ở địa vị ấy, không được hưởng quyền lợi cao hơn địa vị của mình và không ở chức
vị nào thì đừng mưu tính việc của chức vị đó. Đây là điều mà Khổng Tử chú trọng. Chính
danh là mối quan hệ hai chiều: Quân trung thì thần trung, Phụ từ thì tử hiếu… Để có cái
đạo đức xã hội ấy thì phải giáo dục. Giáo dục chính là cái gốc lâu bền tạo ra cái đức, để
con người có đức nhân, sống theo lễ và trở về với chính danh. Thuyết chính danh của
khổng tử là ảo tưởng vì đương thời danh và thực mâu thuẫn nhau sâu sắc. Cái thực là đời
sống xã hội, trật tự xã hội đã có nhiều biến đổi làm cho cái danh cũ được quy định theo lễ
nhà Chu không còn phù hợp nữa, do đó mà không thể thực hiện được. Tuy vậy, thuyết
chính danh vẫn mang ý nghĩa chính trị sâu sắc, đó là: muốn cho xã hội ổn định, người cầm

quyền phải có đức có tài xứng với cái danh vị đã có; mọi người trong xã hội phải tự giác
giữ lấy danh phận của mình theo tôn ti, trên ra trên, dưới ra dưới, thuyết chính danh sau
này được Mạnh Tử, Tuân Tử và các học trò tiếp tục bổ sung và phát triển.


10

10

Các phạm trù, “Nhân”, “Lễ”, “Chính danh” không chỉ là các chuẩn mực đạo đức
đơn thuần mà còn mang tính chính trị cao. Nó trở thành đường lối trị quốc của Nho giáo.
Nhân, lễ, chính danh có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhân là nội dung, lễ là hình thức biểu
hiện của nhân, nhân là gốc, lễ là ngọn, nhân để khôi phục lễ, để trở về với chính danh, xã
hội trở về với đạo. Đó cũng là hoài bão của Nho giáo về một chế độ phong kiến thái bình
thịnh trị. Suốt hơn 2000 năm thống trị, tư tưởng của Nho giáo về nhà nước, quyền lực nhà
nước, mối quan hệ giữa dân với nhà nước; tư tưởng về đường lối trị quốc của Nho giáo đã
góp phần quan trọng xây dựng nên nhà nước phong kiến ở Trung Quốc và các nước lân cận
trong đó có Việt Nam. Nhờ đó các nhà nước phong kiến mang tư tưởng Nho giáo thường
có trình độ cao hơn so với các nhà nước phong kiến cùng thời ở các khu vực khác nhau
trên thế giới. Đó thường là các nhà nhà nước dân sự, có tổ chức thiết chế cao, quản lý xã
hội một cách có hiệu quả. Đó cũng là giá trị tích cực mà ngày nay nhiều nước chủ động
khai thác Nho giáo có kế thừa. Tuy nhiên, trong một chừng mực nào đó, tư tưởng ấy phản
ánh nhận thức của một thời đại, lập trường của một gia cấp và cả tồn tại xã hội cũng như
cái đời sống tinh thần của một giai đoạn lịch sử nhất định, cho nên trong thực tế nó có
nhiều hạn chế cần khắc phục loại bỏ. Tất nhiên việc khắc phục hay loại trừ những hạn chế
của Nho giáo cũng như việc khai thác những giá trị tích cực của nó như thế nào lại tùy
thuộc vào mức độ ảnh hưởng của nó đối với đời sống xã hội.
2. ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ NHO GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI
SỐNG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
Nho giáo đã từng giữ vị trí đặc biệt và có vai trò quan trọng trong đời sống tinh

thần của nhân dân ta qua các giai đoạn lịch sử. Nho giáo phát triển trng mối quan hệ với
Phật giáo và Lão giáo, tác động mạnh mẽ vào đời sống nhân dân và ảnh hưởng sâu sắc đến
mọi mặt của đời sống xã hội Việt Nam. Ngày nay, mặc dù cơ sở kinh tế - xã hội của Nho
giáo đã bị thủ tiêu, nhưng những ảnh hưởng của nó đối với đời sống xã hội Việt Nam còn
rất lớn trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
2.1.Đối với chính trị
ảnh hưởng tích cực của nho giáo đối với đời sống chính trị ở nước ta hiện nay
Xây dựng nền chính trị vì dân
Một trong những giá trị nổi bật của Nho giáo là kêu gọi nhà cầm quyền hướng về
dân và quan tâm đến dân. Đức trị giương cao ngọn cờ vương đạo, chủ trương dùng đức trị,


11

11

bảo vệ dân. Đường lối Vương đạo được đặt trên nền tảng lớn là: Thiên ý dân tâm , Quân
dân tương thân, Thứ - phú - Giáo dân và ái dân.
Đức trị của Nho giáo là học thuyết chính trị - đạo đức đầu tiên đặt vấn đề lấy con
người làm điểm xuất phát cho các chủ trương chính trị. Mặc dù tư tưởng vì dân của đức trị
không có khả năng hiện thực hóa, bởi nó không được xây dựng trên nền tảng chính quyền
của dân, do dân, nhưng ngày nay vẫn còn giá trị khi chúng ta khai thác vận dụng vào việc
xây dựng một nền chính trị vì dân.
Xây dựng nền chính trị vì dân trở thành tư tưởng nhất quán, xuyên suốt quá trình
lãnh đạo và chỉ đạo Cách mạng Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người không chỉ
dừng lại ở việc tuyên truyền nhận thức mà còn đòi hỏi tư tưởng đó phải được hiện thực hoá
trong đời sống xã hội. Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Người đã tuyên bố và từng bước
tổ chức hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước là công cụ của dân, cán bộ là công bộc của
dân. Dưới sự lãnh đạo của Người, những người cộng sản Việt Nam đã khơi dậy, kế thừa và
làm phong phú truyền thống văn hoá của dân cũng như kinh nghiệm quản lý đất nước, tinh

thần độc lập, tự chủ, tự cường đấu tranh chống mọi nô dịch áp bức khơI dậy lòng nhân
nghĩa của dân tộc để xây dựng nền chính trị vì dân.
Từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Nước
ta là một nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân…,
chính quyền từ xã đến trung ương đều do dân cử ra…, quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân.1”. Người còn chỉ rõ: “Các công việc của Chính phủ làm nhằm vào mục đích duy nhất
là mưu tự do, hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ bao giờ cũng phải đặt quyền
lợi của nhân dân lên hết thảy2”.
Chế độ dân chủ thực chất là sự ủy quyền của nhân dân đối với nhà nước - cơ quan
quyền lực của dân. Xây dựng thể chế trước hết là xây dựng chính quyền nhà nước. Thể chế
chính tri vững mạnh và có hiệu lực phải là thể chế có khả năng giải quyết, điều tiết đúng
đắn, hợp lý các quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa lợi ích và trách nhiệm. Nhân dân
là chủ thể quyền lực nhà nước và nhà nước là chủ thể thực hiện sự ủy quyền của nhân dân .
Nhà nước phục vụ dân và dân phải có trách nhiệm xây dựng nhà nước của mình.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng một chính quyền vững mạnh, sáng suốt đã
hiện thực hoá. Sự ra đời và phát triển hơn 60 năm qua của Nhà nước ta cho thấy, Nhà nước
1Hồ
2Hồ

Chí Minh toàn tập, tập5, nxb chính trị quốc gia hà nội, 1995, trang698.
Chí Minh toàn tập, tập4, nxb chính trị quốac gia hà nội,1995, trang22.


12

12

ta dần dần được củng cố và hoàn thiện để trở thành nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nhà
nước trở thành công cụ sắc bén trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và phát triển, nhà nước ta đã bộc lộ không ít
những khiếm khuyết thiếu sót đó là: tệ quan liêu, nạn tham nhũng, xa dân, vi phạm quyền
làm chủ của nhân dân, không ít cán bộ, công chức thoái hóa, biến chất; hoạt động phân tán,
thiếu kỷ luật, kỷ cương; cán bộ thiếu kiến thức khoa học trong tổ chức và quản lý…Những
hiện tượng đó đã làm xói mòn bản chất dân chủ của Nhà nước kiểu mới, làm suy yếu hiệu
lực quản lý của nó trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trước hết phải bắt đầu
từ việc xây dựng và hoàn thiện thể chế và cải cách thủ tục hành chính nhà nước, khắc phục
sửa chữa những khuyết tật, thiếu sót, làm cho bộ máy nhà nước có hiệu lực và hiệu quả
cao, xứng đáng với lòng tin của nhân dân. Xây dựng nền chính trị vì dân, “lấy dân làm
gốc” đã trở thành bài học vô giá của cách mạng nước ta. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI đã khẳng định: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng lấy
dân làm gốc”, “mọi chủ trương chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện
vọng và khả năng của nhân dân lao động, phải khơi dậy được sự đồng tình hưởng ứng của
quần chúng”. Sự nghiệp đổi mới đã đem lại những thành tựu to lớn, làm thay đổi bộ mặt
đất nước, cải thiện một bước rất căn bản đời sống của nhân dân. Loại bỏ yếu tố duy tâm
trong thuyết “chính danh” của Nho giáo, có thể khái thác yếu tố tích cực của nó trong việc
xác định chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị ở
nước ta hiện nay đặc biệt trong mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước. Tất nhiên “chính
danh” ở đây có ý nghĩa là: tổ chức nào có chức năng, nhiệm vụ của tổ chức đó, không “lấn
sân”, bao biện, làm thay.Trong thực tế cho thấy: “sự lẫn lộn chức năng giữa Đảng với Nhà
nước dẫn đến tình trạng Đảng vừa bao biện làm thay, vừa buông trôi khoán trắng cho nhà
nước, làm cho Nhà nước khó phát huy vai trò chủ động, sáng tạo trong việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình, vừa thụ động ỷ lại vào sự lãnh đạo của cơ quan Đảng, vừa lúng
túng, do dự không dám chịu trách nhiệm về các quyết định của mình”.Vì vậy, trong điều
kiện Đảng cầm quyền, cần phải phân định rõ chức năng để Đảng và Nhà nước có cơ chế
hoạt động đúng, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và đối với toàn
xã hội, đồng thời nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước.Trên cơ sở ý chí và
nguyện vọng của nhân dân lao động, Đảng đề ra cương lĩnh, chủ trương, đường lối, chính



13

13

sách lớn định hướng cho sự phát triển của Nhà nước và của toàn xã hội trong từng giai
đoạn nhất định.Đảng lãnh đạo toàn diện, tức là lãnh đạo tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội và các tổ chức chính trị xã hội. Đảng lãnh đạo cả việc xây dựng, hoàn thiện bộ máy tổ
chức lẫn hoạt động của nhà nước và đoàn thể. Không có lĩnh vực hoạt động nào của xã hội
nằm ngoài sự lãnh đạo của Đảng.
Nhà nước cụ thể hóa đường lối, chủ trương của đảng thành pháp luật, chính sách cụ
thể, xây dựng chiến lược kinh tế xã hội và cụ thể hóa nó thành những kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cá bộ có phẩm chất và năng lực quản lý nhà
nước, quản lý kinh tế xã hội, xây dựng bộ máy ngọn nhẹ, có chất lượng cao, xây dựng và
phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm và tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham
gia quản lý công việc của nhà nước và xã hội, bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của
công dân theo luật định, nghiêm trị hành vi vi phạm quyền làm chủ của công dân.
Từ ý nghĩa chính trị sâu sắc của thuyết “chính danh” Nho giáo, có thể khai thác và
vận dụng nó vào việc xác định chức năng, quyền hạn của các tổ chức trong hệ thống chính
trị ở nước ta hiện nay, làm cho các tổ chức đó tránh được tình trạng chồng chéo chức năng,
hoạt động thiếu hiệu quả. đặc biệt là trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, việc xác
định rõ chức năng sẽ góp phần xây dựng Đảng ta vững mạnh, đồng thời Nhà nước cũng
đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của mình nhằm nâng cao hiệu lực quản lý đối với các
lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ảnh hưởng tiêu cực
Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Sau
khi Cách mạng tháng Tám thành công chính quyền thực dân phong kiến bị đánh đổ và
cũng là quá trình xóa bỏ những tàn dư của xã hội cũ, trong đó có tư tưởng Đức trị của Nho
giáo, thay vào đó là đạo đức cách mạng (đạo đức mới) và pháp luật của chế độ dân chủ
nhân dân. Tuy nhiên, việc xây dựng cái mới không phải đơn giản. Pháp luật và đạo đức

mới không phải dễ dàng đi vào đời sống xã hội. Với hàng ngàn năm tồn tại, tư tưởng Đức
trị của Nho giáo đã ăn sâu, bám rễ vào tiềm thức của người Việt Nam. Những tàn dư đó trở
thành lực cản đối với quá trình xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay. Do ảnh hưởng của tư tưởng Đức trị, ở nhiều lúc nhiều nơi nhân dân vẫn chỉ quen
điều chỉnh quan hệ xã hội theo đạo đức truyền thống mà không sống theo quy định của
pháp luật. Phong tục tập quán là những phạm trù lịch sử. Ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định,
theo yêu cầu của sự phát triển xã hội đều có những tập quán tốt và ngược lại có cả những


14

14

hủ tục. Khi phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội, phong tục tập quán là một phương
thức phản ánh bản sắc văn hóa dân tộc, có tác dụng điều chỉnh hành vi của con người, giữ
vai trò to lớn trong việc điều tiết, ổn định xã hội. Nếu không phù hợp nó cnả trở sự phát
triển của xã hội. Vì vậy, nếu phép vua đi ngược với các tập quán làng xã thì nhân dân ở đó
vẫn không tuân theo mà vẫn thực hiện theo tập quán của mình. Trong lịch sử lệ làng đã có
tác dụng cố kết cộng đồng làng xã, chống giặc ngoại xâm, chống thiên tai, bảo vệ bản sắc
văn hóa dân tộc. Tuy vậy, một khía cạnh khác vẫn phải nhận thấy là nếu tư tưởng phép vua
thua lệ làng chi phối tư duy và hành động của nhân dân các địa phương sẽ dẫn đến tình
trạng coi thường kỷ cương phép nước, bất chấp pháp luật, vô chính phủ, địa phương chủ
nghĩa. Một khi người cán bộ lãnh đạo, quản lý không chấp hành nghiêm túc đường lối,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, tùy tiện đặt ra những quy định bất hợp
pháp thì họ đã khởi đầu cho tình trạng hoạt động không bình thường của cả một địa
phương, có thể dẫn đến sai lầm nghiêm trọng, làm rối loạn nề nếp, kỷ cương xã hội. Đây
cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc hình thành các “điểm nóng” ở một số
địa phương trong thời gian vừa qua, chừng nào ở những nơi đó, những “lệ làng” lạc hậu
cũng như những “lệ” mới nảy sinh tùy tiện còn chưa được cải tạo, chưa chấp hành pháp
luật, chừng ấy còn tình trạng vô chính phủ, cục bộ địa phương và những hoạt động tiêu cực

trên phạm vi rộng lớn.Bên cạnh đó ở nước ta hiện nay, pháp luật chưa chặt chẽ, các bộ luật
chưa hoàn chỉnh và thiếu đồng bộ, Sinh hoạt trong nội bộ các cơ quan và đoàn thể, việc
phê bình và tự phê bình, việc sử lý các vụ việc mang tính nội bộ cũng ảnh hưởng không
nhỏ đến việc thi hành pháp luật và tôn trọng pháp luật. Những việc làm nói trên vốn là cần
thiết, là sự bổ sung tốt đẹp cho pháp luật thì nhiều lúc nó tự cho phép thay thế pháp luật.
Về khách quan, nó làm giảm vai trò của pháp luật trong ý thức của nhân dân.
Nho giáo còn ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của
bộ máy Nhà nước. Trước hết có thể thấy bộ máy quản lý còn cồng kềnh, hoạt động kém
hiệu lực, hiệu quả quản lý thấp. Bộ máy Nhà nước muốn thực hiện được đúng chức năng
nhiệm vụ là người tổ chức quản lý xã hội bao giờ cũng đòi hỏi phải được tổ chức thành
một hệ thống hoàn chỉnh, thống nhất từ trung ương đến địa phương . Các cơ quan trong bộ
máy nhà nước cùng các thủ tục, nguyên tắc hành chính được tạo lập ra là khách quan nhằm
thực hiện nhiệm vụ được giao. Nhưng trong quá trình vận hành những nguyên tắc quản lý
của Nhà nước đặt ra đã bị biến dạng, sai lệch. Trong nhiều trường hợp, việc tổ chức hoạt
động của bộ máy chỉ có mục đích tự thân. Sau nhiều lần cải cách, bộ máy Nhà nước đã gọn


15

15

nhẹ hơn, hiệu lực quản lý cũng dần dần được nâng lên, tuy nhiên xét về tổng thể bộ máy
Nhà nước vẫn cồng kềnh. Tại các cơ quan Nhà nước ở các cấp hiện tượng giấy tờ hình
thức còn nặng nề. Bên cạnh đó đội ngũ cán bộ công chức chưa ngang tầm nhiệm vụ, không
ít cán bộ suy thoáI đạo đức, tham nhũng cửa quyền sách nhiễu nhân dân. Những hạn chế
bất cập này làm cho hoạt động của bộ máy Nhà nước vốn đã phức tạp càng phức tạp hơn.
Bên cạnh đó trong bộ máy Nhà nước vẫn còn tình trạng đặc quyền đặc lợi. Để công tác
quản lý được thông suốt, có hiệu quả thì cán bộ công chức của bộ máy quản lý phải có
những quyền hạn nhất định. Nhưng quyền hạn này cũng không nằm ngoài mục đích ổn
định và phát triển xã hội, và vì lợi ích của nhân dân. Những quyền hạn của cán bộ công

chức trong bộ máy Nhà nước chưa phải là nguyên nhân tạo nên quan liêu, nhưng nếu
không có cơ chế kiểm tra giám sát thì quyền lực công dễ có xu hướng chuyển hóa biến
dạng thành quyền lực riêng của cá nhân. Cán bộ công chức Nhà nước dễ chuyển hóa thành
những người có đặc quyền đặc lợi, tùy tiện lợi dụng quyền lực, vị trí công tác được giao để
giải quyết công việc theo ý muốn chủ quan vì quyền lợi riêng của mình.
Đối với quá trình xây dựng hoàn thiện và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân
chủ là một hiện tượng lịch sử xã hội gắn liền với sự tồn tại và phát triển của đời sống con
người ở giai đoạn phát triển cao. Dân chủ, hiểu theo nghĩa chung nhất là mọi quyền lực
thuộc về nhân dân. Nhân dân làm chủ xã hội là mơ ước ngàn đời và cho đến nay vẫn là vấn
đề bức xúc của nhân loại. Ở nước ta chế độ phong kiến và Nho giáo đã có một thời gian
lâu dài để in sâu tư tưởng thiếu dân chủ vào cách nghĩ, cách sống, vào tâm lý thói quen của
người Việt Nam. Chính vì thế, quá trình xây dựng, hoàn thiện và phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta đã vấp phải trở ngại không nhỏ.
Trước hết là sự ảnh hưởng của tư tưởng địa vị, đẳng cấp, gia trưởng cả ở cán bộ và
người dân. Tư tưởng này vẫn đang trực tiếp tác động đến nhận thức và hành vi ứng xử
mang tính chất chính trị xã hội. Xã hội bao giờ cũng đòi hỏi một trật tự, với một hệ thống
các vị trí các cá nhân khác nhau, xuất phát từ phân công lao động xã hội và quan hệ xã hội.
Người có tư tưởng địa vị phân biệt con người từ nghề nghiệp, gia sản đến chức vụ của họ.
Theo họ, quản lý không phải là một nghề mà là một địa vị, là cơ hội, điều kiện tốt để thỏa
mãn ham muốn quyền lực hoặc thu lợi bất chính hoặc tìm kiếm danh vọng. Tư tưởng đó
kích thích người ta dấn thân vào sự ganh đua để được giữ các chức vụ mà quên đi mục
đích, nhiệm vụ phấn đấu với động cơ tốt đẹp, nhằm cống hiến sức mình nhiều nhất cho lý
tưởng cách mạng. Điều đáng ngại nhất là người cán bộ lãnh đạo, quản lý có tư tưởng bản


16

16

vị, là người thường tự cho mình quyền đứng trên tập thể, quần chúng. Trong con mắt của

họ, nhân dân là những người bảo sao nghe vậy, là đối tượng quản lý, sai khiến. Vì vậy, thay
vì tổ chức lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối cách mạng, họ lại sử dụng nhân dân theo
ý đồ riêng. Để củng cố dịa vị của mình, trước hết họ tạo lập phe cánh lợi dụng chức quyền
đưa người thân, người cùng phe cánh vào giữ các cương vị cần thiết thông qua bầu cử cùng
các khâu khác của công tác cán bộ, dần dần những ê kíp được hình thành. Đây chính là tiền
đề của tệ quan liêu, nạn tham nhũng,suy đồi đạo đức của một số cán bộ đảng viên.
Ảnh hưởng của tư tưởng địa vị, đẳng cấp không chỉ biểu hiện ở nhận thức và hành
động của người cán bộ mà còn biểu hiện trong nhận thức và hành động của người dân. Sau
nhiều năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, khái niệm “dân chủ” đã gần gũi hơn với mọi tầng
lớp nhân dân. Về cơ bản, người dân đã ý thức được quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
Nhưng một bộ phận nhân dân, đặc biệt là người dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, nơi
mà quan hệ họ hàng, làng xóm và các tập tục cũ vẫn chi phối cuộc sống hàng ngày vẫn còn
tư tưởng an phận, dễ chấp nhận hiện tại. Họ dường như vẫn sống theo phân vị trên dưới,
đòi hỏi cấp trên thông cảm chứ không sống theo pháp luật, không đấu tranh để tự bảo vệ
quyền lợi. Đối với công việc chung, họ im lặng và lảng tránh, tìm cách vun vén, tìm sự yên
thân. Như vậy cần khẳng định rằng tư tưởng địa vị, đẳng cấp, gia trưởng chưa mất đi. Trái
lại khi bắt gặp mặt trái của cơ chế thị trường, nó tiếp tục trỗi dậy, thậm chí còn phát triển.
Nó không chỉ gây tác động xấu đến nhận thức và hành động của cán bộ và nhân dân ta mà
còn cản trở quá trình thực thi dân chủ ở nước ta. Khắc phục tình trạng thiếu dân chủ do ảnh
hưởng của tư tưởng Nho giáo gây ra không chỉ là yêu cầu của dân chủ hóa sinh hoạt xã
hội, mà còn là điều kiện để Đảng và Nhà nước tiếp nhận được những thông tin chính xác,
làm cơ sở cho việc đánh giá đội ngũ cán bộ và xây dựng đường lối chính sách đúng đắn.
2.2. đối với quá trình phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay
Là một học thuyết chính trị - xã hội, đạo đức cho nên Nho giáo chủ yếu bàn về con
người, xã hội mà ít bàn đến kinh tế. Như vậy không có nghĩa là Nho giáo phủ nhận vai trò
của kinh tế, cũng không có nghĩa là đối với kinh tế Nho giáo chỉ có ý nghĩa tiêu cực. Biện
chứng của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay đòi hỏi phải tiếp thu
những giá trị tích cực đồng thời kiên quyết loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo
đối với quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
ảnh hưởng tích cực

Nhân tố con người


17

17

Mục đích của Nho giáo là xây dựng con người từ đó làm cho xã hội thái bình thịnh
trị. Theo Nho giáo sự hoàn thiện con người vừa là kết quả, vừa là điều kiện, nguyên nhân
của sự hoàn thiện xã hội. Nếu gạt sang một bên những điều kiện lịch sử xã hội thì phải
chăng Nho giáo đã sớm nhận ra vai trò của con người đối với sự ổn định và phát triển của
xã hội. Kinh tế, văn hóa ổn định phát triển xét đến cùng là do con người , vì con người.
Trong đường lối của đảng ta cũng đặc biệt nhấn mạnh đến vấn đề này. Nếu không ổn định
về chính trị xã hội, không quan tâm đào tạo hoàn thiện con người về mọi mặt đức, trí, thể,
mỹ thì không thể phát triển kinh tế, không thể tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tất
nhiên đến lượt nó, việc thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ
trở thành động lực trong việc hoàn thiện con người. Ở nước ta, phát triển kinh tế trị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa đã đẩy nhanh sự tăng trưởng về kinh tế, đồng thời tạo ra
nhiều xáo trộn trong quan hệ xã hội, sinh hoạt gia đình và phẩm chất cá nhân. Để ngăn
ngừa những tiêu cực trong nền kinh tế thị trường, bảo đảm cho sự phát triển vật chất không
kéo theo sự suy thoái tinh thần, chúng ta cần phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, nâng cao những phẩm chất đạo đức vốn có trong dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Những phẩm giá đạo đức tối thượng của con người như: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín trong xã
hội Nho giáo từ xưa đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Điều đáng chú ý là đề cao Nhân,
Nghĩa trong cuộc sống của con người, nhưng Nho giáo cũng không bỏ qua đời sống vật
chất của nhân dân. Bởi nhân dân có đủ ăn đủ mặc thì mới thực hiện được đạo nghĩa đạo
nhân. Chính vì thế Nho giáo khuyên giới cầm quyền tìm mọi cách để giúp dân sản xuất,
phải chăm lo đến việc sản xuất của dân. Nho giáo còn đòi hỏi giai cấp thống trị phải để cho
dân có tài sản riêng. Có như vậy dân mới yên tâm làm ăn, đời sống mới no ấm, nhà nước
mới có của cải dư thừa. Nho giáo cũng nhấn mạnh trách nhiệm của người cầm quyền đối

với cuộc sống của nhân dân, những người cầm quyền phải đồng cam cộng khổ với nhân
dân, không nên có cuộc sống quá chênh lệch so với cuộc sống của dân thường. Đó là điều
đáng để các nhà lãnh đạo trong xã hội hiện đại suy ngẫm. Nước ta đang trong thời kỳ tiến
hành công nghiệp hóa hiện đại hóa, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”, đó là tiền đề bảo đảm cho sự ổn định chính trị xã hội. Muốn vậy,
Đảng và Nhà nước ta phải đề ra những chính sách, biện pháp kinh tế xã hội phù hợp, tạo
điều kiện thuận lợi để khai thác trí tuệ, năng lực sáng tạo của con người. Những biện pháp
chính sách của Đảng, Nhà nước cần xuất phát từ con người và vì con người, bởi con người
vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng nước ta.


18

18

Sản xuất đi đôi với tiết kiệm
Nho giáo nhấn mạnh sản xuất đi đôi với tiết kiệm, sớm đặt ra vấn đề tiết kiệm: “
Đạo lớn làm ra của cải là: số người làm việc sinh lợi ngày càng nhiều, số người ăn tiêu
phung phí ngày càng ít số người làm ra của cải phải mau mắn, siêng năng, những người
tiêu dùng phải thư thả, từ từ. Như vậy của cải luôn luôn đủ”. Khổng Tử còn khuyên vua
“tiết dụng nhi ái dân”, nghĩa là phải tiêu dùng tiết kiệm mà thương yêu dân. Tuân Tử cho
rằng nếu như hết sức làm việc nông, lại tiết kiệm tiêu dùng thì trời chẳng bao giờ làm mình
đói. Với lời răn dạy về tiết kiệm ấy của Nho giáo, những người làm quan thanh liêm ngày
xưa thường ăn uống đơn sơ, trang phục giản dị, coi vẻ đẹp của con người là sự thanh cao
của tâm hồn chứ không phải ở sự xa xỉ trong nhà cửa, áo quần, vật phẩm tiêu dùng. Đất
nước ta hiện nay đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nước ta vẫn còn là
nước nghèo kém phát triển, thu nhập GĐP bình quân đầu người khoảng hơn 900 USD/
năm đời sống nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn nhất là ở vùng sâu vùng xa, tình trạng tiêu
dùng xa hoa, lãng phí diễn ra khá phổ biến cả ở nông thôn và thành thị, trong một số khá
đông cán bộ và nhân dân. Tiết kiệm trong điều kiện ngày nay không phải là khuyến khích

giảm thiểu nhu cầu tối thiểu mà chính là nâng cao khả năng thỏa mãn nhu cầu hợp lý của
con người như là tiền đề để phát huy nguồn lực con người - nhân tố quyết định sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Như vậy, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở nước ta, tư tưởng về sản xuất đi đôi với tiết kiệm của Nho giáo cũng như đức tính cần
kiệm truyền thống của dân tộc cần phải được kế thừa và đổi mới. Cần kiệm đi đôi với
chống tham nhũng và lãng phí, dồn sức đầu tư cho sự phát triển của đất nước trong hiện tai
và tương lai.
Tóm lại, với cách nhìn biện chứng, chúng ta có thể khai thác những giá trị tích cực
của Nho giáo đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Chúng ta có thể đồng tình với các
nhà khoa học Nhật bản, Hàn quốc, Đài loan… khi họ nêu lên khả năng hòa đồng giữa Phú
và Nhân, giữa Nghĩa và Lợi, giữa đạo đức và kinh doanh trong sự phát triển của đất nước.
Nho giá gợi mở cho chúng ta suy nghĩ có thể đưa văn hóa vào kinh doanh, hướng kinh
doanh không chỉ vào việc tăng trưởng kinh tế mà còn xây dựng một xã hội có văn hóa,
xứng đáng với truyền thống dân tộc, đáp ứng được những đòi hỏi của thời đại.
Ảnh hưởng tiêu cực
Nho giáo - hệ tư tưởng của một xã hội được xây dựng chủ yếu trên cơ sở chế độ
ruộng công với chính sách cống nạp từ bên dưới và phân phối từ bên trên giờ đây vẫn còn


19

19

ảnh hưởng tiêu cực tới suy nghĩ, quan niệm của nhiều người. Với tư tưởng “trọng nông ức
thương”, Nho giáo từng kìm hãm công nghiệp và kinh tế hàng hóa phát triển, về mặt sản
xuất Nho giáo coi thường khoa học kỹ thuật, về phân phối nó khuyến khích chủ nghĩa bình
quân. Kinh tế Việt Nam không thể đổi mới và phát triển nếu không gạt bỏ được sự cản trở
đó của Nho giáo.Dưới chế độ phong kiến, ở nước ta đã có quan hệ tiền tệ và trao đổi hàng
hóa ở mức độ nhất định. Nhưng với đặc điểm tồn tại lâu dài và vững chắc của các làng xã,
quan hệ hàng hóa tiền tệ đã không phát triển được. Sau cách mạng tháng Tám 1945 nước ta

vẫn là nền kinh tế tự cung tự cấp. Đó là thách thức lớn khi chúng ta bước vào con đường
phát triển văn minh hiện đại. Thực tiễn đổi mới đất nước đã giúp Đảng ta nhận thức sâu sắc
hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đặc biệt là vai trò
tác dụng của sự phát triển và sử dụng các yếu tố các khâu trung gian quá độ lên chủ nghĩa
xã hội theo kiểu quá độ gián tiếp mà Lênin đã vạch ra. Nhận thức mới đưa đến chủ trương
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thi trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên đây là những tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối
với đời sống xã hội việt nam hiện nay, để khai thác những giá trị tích cực và loại bỏ những
ảnh hưởng tiêu cực của nó trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Trước hết cần nắm
vững phương pháp biện chứng duy vật và tư tưởng Hồ Chí Minh để đánh giá những yếu tố
tích cực và hạn chế của tư tưởng chính trị Nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam hiện
nay. Tìm hiểu nghiên cứu về Nho giáo khi Nho giáo đã từng tồn tại hàng mấy ngàn năm và
luôn được bổ sung, cải biến qua nhiều thời kỳ khác nhau là điều không mấy dễ dàng. Để
tránh những sai lầm đáng tiếc khi nhận định về giá trị tích cực và hạn chế của Nho giáo,
nhất thiết chúng ta phải nắm vững phương pháp biện chứng mácxít. Đề cập đến những tàn
dư của Nho giáo trong xã hội ta hiện nay không có nghĩa là chúng ta xóa bỏ cả những nhân
tố tích cực của nó. Nhiệm vụ của cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng là phải xóa
bỏ những tàn dư tư tưởng cản trở bước tiến lịch sử của xã hội ta. Nhưng chủ nghĩa Mác Lênin hoàn toàn khác với chủ nghĩa hư vô, nó không gạt bỏ cái cũ một cách mù quáng. Nó
đòi hỏi giai cấp công nhân phải tiếp thu những tinh hoa của tư tưởng nhân loại và đứng ở
đỉnh cao của văn hóa loài người để xây dựng xã hội mới. Trên con đường lãnh đạo cách
mạng Việt nam, Hồ Chí Minh đã kế thừa Nho giáo một cách biện chứng. Nhiều khái niệm
của Nho giáo được Người kế thừa và cải biến để những khái niệm ấy chứa đựng một tư
tưởng mới với nội dung mới, phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Chúng ta cần học tập thái


20

20


độ của Hồ Chí Minh đối với việc khai thác những nhân tố hợp lý của Nho giáo vừa lên án
những nét tiêu cực của nó. Đồng thời chúng ta cũng cần phân biệt rõ những yếu tố tích cực
và tiêu cực của Nho giáo với những yếu tố tích cực và tiêu cực mới nảy sinh từ kinh tế thị
trường. Quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong
thời gian qua cho thấy, cơ chế thi trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn tới sự phát
triển kinh tế xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn là một nhân tố khách quan cần
thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác
cơ chế trị trường cũng có những hạn chế tiêu cực đến đời sống xã hội. Kinh tế thị trường
kích thích mạnh mẽ việc tìm kiếm lợi nhuận tối đa nên đã dẫn đến khuynh hướng ít quan
tâm đến những nhu cầu cơ bản của xã hội mang lai lợi nhuận thấp. Việc chạy theo lợi
nhuận thuần túy có thể gây ra hậu quả xấu về môi trường sinh thái, an ninh quốc phòng và
những vấn đề văn hóa xã hội khác. Sự phân hóa giàu nghèo quá mức dẫn tới những bất
công xã hội cũng là do mặt trái của kinh tế thi trường gây ra, đặc biệt là nạn tham nhũng
lãng phí đã và đang là quốc nạn gây ảnh hưởng xấu trên nhiều lĩnh vực, làm giảm lòng tin
của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đó chính là những hiện tượng tiêu cực nảy sinh từ
mặt trái của cơ chế thị trường, từ những sơ hở trong hệ thống pháp luật, trong quản lý kinh
tế xã hội. Đồng thời phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, thực hiện dân chủ hóa trong đời sống xã hội, phát triển nhanh và vững chắc nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập các tổ chức kinh tế thế giới.
Thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
Tài liệu tham khảo
Hồ Chí Minh toàn tập, tập5, nxb chính trị quốc gia Hà nội, 1995, trang 698
Hồ Chí Minh toàn tập, tập4, nxb chính trị quốc gia Hà nội,1995, trang 22
Đào Duy Anh, Việt nam văn hoá sử cương, 2005, nxb Văn hoá tư tưởng.
Bộ giáo dục và đào tạo, Triết học, tập 1, 1997, nxb chính trị quốc gia



×