Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT - THỰC CHẤT MỐI QUAN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN - SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.03 KB, 27 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1.

Thực chất mối quan hệ giữa lý luận và thực

1.1.
1.2
1.3

tiễn
Phạm trù lý luận
Phạm trù thực tiễn
Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực

2.

tiễn
Sự vận dụng của Đảng trong công cuộc đổi

2.1.

mới ở nước ta hiện nay
Đảng ta thường xuyên tổng kết thực tiễn
để bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận cách

2.2.

mạng, trước hết là đường lối đổi mới
Đảng ta luôn coi trọng việc nâng cao trình



2.3.

độ lý luận cho toàn Đảng
Đảng thường xuyên, kiên quyết đấu tranh
chống lại những biểu hiện lệch lạc, sai trái về
tư tưởng - lý luận, bảo vệ sự trong sáng của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh

KẾT LUẬN

MỞ ĐẦU
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nội dung cơ
bản, là linh hồn của triết học Mác – Lênin nói chung và lý luận nhận thức duy


vật biện chứng nói riêng. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Mác đã phát
hiện ra sức mạnh của lý luận chính là mối liên hệ của nó với thực tiễn, cũng
như sức mạnh của thực tiễn là ở mối quan hệ của nó với lý luận. Mối quan hệ
giữa lý luận và thực tiễn là mối quan hệ biện chứng tác động qua lại nhau và
cơ sở của sự tác động qua lại ấy chính là thực tiễn. Thực tiễn luôn luôn vận
động, biến đổi, do đó lý luận cũng không ngừng đổi mới, phát triển. Theo đó
mối quan hệ biện chứng giữa chúng cũng có những nội dung cụ thể và những
biểu hiện khác nhau trong mỗi thời đại, mỗi giai đoạn lịch sử.
Với tư cách là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng cộng sản
Việt Nam đã lãnh đạo đất nước tiến hành thành công công cuộc đổi mới, đưa
nước ta bước đầu thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội, hội nhập
ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế. Trong công cuộc đổi mới này,
Đảng ta luôn quán triệt và vận dụng sáng tạo mối quan hệ biện chứng giữa lý

luận và nhận thức vào điều kiện lịch sử Việt Nam đầy khó khăn, thử thách để
đưa nước ta ngày càng vững bước trên con đường cách mạng vì mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, việc làm rõ vấn đề: “Thực chất
mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn và sự vận dụng của Đảng trong công
cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay” có ý nghĩa rất quan trọng để nhận thức
đúng vai trò, năng lực lãnh đạo, tư duy ngang tầm thời đại của Đảng trong sự
nghiệp đổi mới đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

NỘI DUNG
1. Thực chất mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
1.1. Phạm trù lý luận


Quá trình nhận thức trải qua hai giai đoạn là nhận thức cảm tính và nhận
thức lý tính. Nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức, là
sự phản ánh trực tiếp, cụ thể, sinh động hiện thực khách quan vào các giác
quan của con người. Nhận thức cảm tính gồm các hình thức cảm giác, tri giác
và biểu tượng. Nhận thức lý tính hay tư duy trìu tượng là giai đoạn cao của
nhận thức, nó là sự phản ánh trìu tượng, khái quát và gián tiếp hiện thực.
Nhận thức lý tính được hình thành từ những tài liệu do nhận thức cảm tính
đem lại và được thể hiện dưới các hình thức là khái niệm, phán đoán và suy
luận.
Sự phát triển của nhận thức con người tất yếu dẫn đến sự xuất hiện của lý
luận. Lý luận là sản phẩm cao của nhận thức của sự phản ánh hiện thực
khách quan. Xét về bản chất, lý luận là một hệ thống những tri thức được
khái quát từ thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy
luật của thế giới khách quan. Trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, các
nguyên lý và các quy luật tạo nên lý luận, quy luật là hạt nhân của lý luận, là
sản phẩm của quá trình nhận thức nên bản chất của lý luận là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan.

Lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Tri thức lý luận
là tri thức khái quát tri thức kinh nghiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
“Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những
tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử” 1. Lý luận
được hình thành trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm, nhưng không phải mọi lý
luận đều trực tiếp xuất phát từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó,
lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm mà vẫn không làm mất đi
mối liên hệ giữa lý luận với kinh nghiệm.
Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao
nên nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, về tính quy luật của các sự
vật, hiện tượng khách quan. Vì vậy, nhiệm vụ của nhận thức lý luận là đem
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1996, tập 8, tr497.


quy sự vận động bề ngoài chỉ biểu hiện trong hiện tượng về sự vận động bên
trong thực sự.
1.2. Phạm trù thực tiễn
Thực tiễn là phạm trù đã được đề cập đến trong lịch sử triết học trước
Mác. Tuy nhiên, trong các quan niệm ấy, vị trí, vai trò của thực tiễn chưa
được hiểu một cách đúng đắn. Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục
những thiếu sót trong quan điểm của các nhà triết học trước đó về thực tiễn,
Mác và Ăngghen đã đem lại một quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn
và vai trò của nó đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển
của xã hội loài người. Tư tưởng đó tiếp tục được Lênin khẳng định: “Quan
điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý
luận về nhận thức”1.
Theo quan điểm của triết học mácxít: Thực tiễn là những hoạt động vật
chất cảm tính, có mục đích, có tính lịch sử xã hội của con người nhằm cải

tạo tự nhiên và xã hội.
Quan điểm đó đã chỉ ra rằng: Thực tiễn không phải bao gồm toàn bộ hoạt
động của con người, mà chỉ là những hoạt động vật chất để (phân biệt với
hoạt động tinh thần, hoạt động lý luận), hay nói theo thuật ngữ của Mác là
hoạt động cảm tính của con người. Trong hoạt động thực tiễn, con người phải
sử dụng các phương tiện, công cụ vật chất, sức mạnh vật chất của mình tác
động vào tự nhiên, xã hội để cải tạo làm biến đổi chúng phù hợp với nhu cầu
của mình. Bằng hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi bản thân sự vật
trong hiện thực, từ đó làm cơ sở để biến đổi hình ảnh của sự vật trong nhận
thức. Do đó, hoạt động thực tiễn là hoạt động có tính năng động, sáng tạo, là
quá trình chuyển hoá cái tinh thần thành cái vật chất. Hoạt động thực tiễn là
quá trình tương tác giữa chủ thể và khách thể. Chủ thể luôn hướng vào cải tạo
khách thể trên cơ sở đó nhận thức khách thể. Vì vậy, thực tiễn trở thành mắt
khâu trung gian nối liền ý thức con người với thế giới bên ngoài.
1

V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ M.1980, tập 18, tr167


Tuy trình độ và các hình thức của hoạt động thực tiễn có thay đổi qua
các giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội, nhưng thực tiễn luôn luôn là dạng
hoạt động cơ bản và phổ biến của xã hội loài người. Thực tiễn là hoạt động có
tính chất loài (loài người). Hoạt động đó không thể được tiến hành chỉ bằng
vài cá nhân riêng lẻ, mà phải bằng hoạt động của đông đảo quần chúng nhân
dân trong xã hội. Do đó, về nội dung cũng như về phương thức thực hiện,
thực tiễn có tính lịch sử - xã hội. Thực tiễn cũng có quá trình vận động và
phát triển của nó, trình độ phát triển của thực tiễn nói lên trình độ chinh phục
giới tự nhiên, trình độ làm chủ xã hội của con người.
Thực tiễn có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố và nhiều dạng hoạt
động. Bất kỳ quá trình hoạt động thực tiễn nào cũng gồm những yếu tố như

nhu cầu, lợi ích, mục đích, phương tiện và kết quả. Các yếu tố đó có liên hệ
với nhau, quy định lẫn nhau mà nếu thiếu chúng thì hoạt động thực tiễn không
thể diễn ra được.
Thực tiễn gồm những dạng cơ bản và những dạng không cơ bản. Dạng
cơ bản đầu tiên của thực tiễn là hoạt động sản xuất vật chất. Đây là dạng hoạt
động thực tiễn nguyên thuỷ nhất và cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại và
phát triển của xã hội loài người và quyết định các dạng khác của hoạt động
thực tiễn; nó tạo thành cơ sở của tất cả các hình thức khác của hoạt động sống
của con người, giúp con người thoát khỏi giới hạn tồn tại của động vật. Một
dạng cơ bản khác của thực tiễn là hoạt động chính trị - xã hội nhằm cải tạo,
biến đổi xã hội, phát triển các quan hệ xã hội, chế độ xã hội. Ngoài ra, với sự
ra đời và phát triển của khoa học, một dạng cơ bản khác của thực tiễn cũng
xuất hiện - đó là hoạt động thực nghiệm khoa học. Dạng hoạt động thực tiễn
này ngày càng trở nên quan trọng do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách
mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại.
Trên cơ sở những dạng cơ bản, những dạng không cơ bản của thực tiễn
được hình thành. Đó là mặt thực tiễn của các hoạt động trong một số lĩnh vực
như đạo đức, nghệ thuật, giáo dục, tôn giáo ... Sở dĩ gọi là “không cơ bản”


không phải vì những dạng này kém quan trọng mà chỉ vì chúng được hình
thành và phát triển từ những dạng cơ bản, chúng là dạng thực tiễn phát sinh.
1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
Giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn đòi hỏi
phải thực hiện trên các bình diện, từ quan hệ giữa chủ thể và khách thể; bản
thể luận và nhận thức luận.
Mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận khi chúng ta xét nó từ quan hệ chủ
thể và khách thể. Thực tiễn là khâu trung gian cơ bản giữa chủ thể và khách
thể. Chủ thể ở đây không đơn giản là con người có tư duy lý luận, con người
bằng xương thịt. Chủ thể được thể hiện qua tổng thể các đặc trưng xã hội của

nó, còn thực tiễn là phương thức cơ bản để nó tác động đến khách thể. Thực
tiễn là hình thức liên hệ thực tại khách quan, nhờ đó mà chủ thể tự đối tượng
hoá bản thân, các ý định và mục đích của mình trong khách thể, phát triển các
năng lực của mình. Như vậy, ngoài thực tiễn, chủ thể không có một phương
thức nào để chuyển từ bức tranh lý tưởng về thế giới sang việc thực hiện nó
trong thế giới.
Thực tiễn là quá trình cải tạo vật chất hiện thực, thông qua quan hệ chủ
thể – khách thể, thực tiễn thể hiện là phương thức chủ thể chuyển hoá cái ý
mệnh mục đích, động cơ…) thành cái vật chất (khách thể được cải tạo phù
hợp với mục đích). Trọng tâm ở đây được đặt vào hai mặt của một quá trình
thống nhất: Từ cái ý niệm đến cái vật chất. Nếu chúng ta nhấn mạnh, tuyệt đối
hoá sự cải tạo vật chất, thì sự định hướng thực tiễn bởi ý thức sẽ bị biến mất,
và do vậy, thực tiễn bị biến thành một hành vi máy móc, vô thức. Còn nếu
tuyệt đối hoá sự sự chuyển biến cái ý niệm thành cái vật chất, thì chúng ta
không thể quan niệm thực tiễn là một quá trình khách quan rơi vào chủ nghĩa
duy tâm.
Theo đó, thực tiễn và lý luận không thể là tuyệt đối đối lập với nhau.
Tính tương đối của sự đối lập ấy trước hết được quy định bởi điều là: Quan hệ
lý luận của con người với thế giới không bao giờ có thề là quan hệ tuyệt đối


biệt lập với thực tiễn. Hơn nữa, quan hệ lý luận luôn phục tùng thực tiễn, phục
vụ thực tiễn và phát triển trên cơ sở cải tạo thực tiễn xã hội. Lý luận phải dựa
trên cơ sở quan hệ thực tiễn với hiện thực. Đến lượt mình vốn là hoạt động
của chủ thể có ý thức và ý chí, thực tiễn luôn bao hàm quan hệ lý luận của chủ
thể với khách thể với tư cách là vòng khâu đạt mục đích của hoạt động thực
tiễn.
Sự đối lập tuyệt đối đó không có nghĩa là không có sự đối lập tuyệt đối
giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận do thực tiên chế định và phục vụ thực tiễn,
song chúng có tính độc lập tương đối, mang những đặc trưng riêng của hoạt

động. Cả khi tạo thành một thể thống nhất trong khuôn khổ của hoạt động xã
hội, chúng vẫn là những mặt khác nhau của hoạt động đó. Chỉ khi được đưa
vào thực tiễn, ý niệm, tư tưởng, lý luận mới có thể “cải tạo” thế giới. Nếu
dừng lại trong lĩnh vực ý thức, chúng không có khả năng cải biến một cái gì
ngoài khả năng ý thức. Các tư tưởng, tự chúng, không phải là thực tiễn, mô
hình lý tướng về xã hội tương lai thiếu sự cải tạo vật chất chỉ là mô hình lý
luận. Nhấn mạnh tính đặc thù, tính độc lập của lý luận để không rơi vào chủ
nghĩa thực dụng thiển cận, để phát hiện ra các quy luật phát triển của riêng lý
luận, tính kế thừa lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội khác nhau.
Tính độc lập tương đối của lý luận là có tính chất tương đối. Lý luận
cách mạng hoàn toàn không phải là thực tiễn cách mạng. Tuy nhiên vốn được
sinh ra bởi các nhu cầu của thực tiễn xã hội, lý luận cách mạng trở thành một
bộ phận cấu thành tất yếu của thực tiễn xã hội. Khi tiên đoán tương lai, bản
thân lý luận bắt nguồn từ thực tiễn quá khứ và hiện tại. Lý luận hoàn thành
một chức năng nào đó trong xã hội không phải là ở ngoài khuôn khổ của thực
tiễn, mà là ở bên trong bản thân thực tiễn xã hội.
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trên bình điện bản thể luận và
nhận thức luận. Trước hết cần phải phân biệt tính chất của mối liên hệ này
với tính chất của mối liên hệ giữa ý thức và vật chất. Vật chất có thể tồn tại
thiếu ý thức, song thực tiễn không thể tồn tại thiếu ý thức, đương nhiên là


hình thức vả trình độ của ý thức có thể rất khác nhau (cho tới tư duy lý luận).
Nếu các đặc tính “thứ nhất” và “thứ hai” áp dụng được vào quan hệ giữa vật
chất và ý thức, thì chúng lại không áp dụng được vào quan hệ giữa thực tiễn
và ý thức. Xét về phương diện bản thể luận, lý luận và thực tiễn tạo thành một
thể thống nhất trong hoạt động xã hội tổng hợp. Sự đối lập của chúng trong
khuôn khổ của sự thống nhất này là tương đối. Mặc dù vật chất và ý thức là
các mặt đối lập tương đối về mặt bản thể luận, song vật chất là tiên đề, là
nguyên nhân phát sinh của ý thức, trong khi đó thực tiễn không thể thiếu ý

thức.
Xét về phương diện nhận thức luận, nếu vật chất và ý thức là tuyệt đối
đối lập, thì thực tiễn và lý luận lại không tuyệt đối đối lập nhau. Mọi ý kiến
khác đều có nghĩa rằng thực tiễn, về nguyên tắc, không thể là phương tiện đối
chiếu tri thức về hiện thực và bản thân hiện thực. Trong lý luận nhận thức, tri
thức về đối tượng tuyệt đối độc lập với bản thân lý luận. Các nhà duy vật
trước Mác đã nhìn thấy điều đó nhưng họ không biết đối chiếu tri thức với đối
tượng và do vậy, họ đã bất lực trước các lý lẽ của chủ nghĩa duy tâm và bất
khả lý luận. Nếu tuyệt đối đối lập thực tiễn với lý luận, thì chúng ta cũng sẽ
vấp phải vấn đề đó. Vậy, đâu là bước chuyển từ lý luận đến thực tiễn? Trong
khi đó cuộc cách mạng được C.Mác thực hiện trong nhận thức luận chính là ở
chỗ: ông đã đưa thực tiễn vào lý luận nhận thức ở lĩnh vực mà ý thức tuyệt
đối đối lập với vật chất, Mác đã phát hiện ra khâu trung gian, bước chuyển từ
cái ý niệm đến cái vật chất và từ cái vật chất đến cái ý niệm. Thực tiễn xã hội
hoàn thành vai trò thước đo chân lý và cơ sở của nhận thức chính là do nó
không đối lập tuyệt đối mà đối lập tương đối với ý thức về mặt nhận thức luận
và do nó luôn là hệ thống những hoạt động nhằm đạt tới mục đích xác định.
Do vậy, không nên tuyệt đối hoá cả tính chủ quan lẫn tính khách quan của
thực tiễn.
Như vậy, giữa lý luận và thực tiễn dù xét ở bình diện nào, phương diện
nào cũng có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại nhau, ràng


buộc lẫn nhau, đấu tranh và chuyển hóa lẫn nhau, trong đó thực tiễn giữ vai
trò quyết định, ngược lại lý luận luôn có tác động trở lại hướng dẫn hoạt động
thực tiễn. Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn được thể hiện:
Thứ nhất, thực tiễn có vai trò to lớn đối với lý luận. Ăngghen nhận xét
rằng: “Từ trước tới nay khoa học tự nhiên cũng như triết học đã hoàn toàn coi
thường ảnh hưởng của hoạt động con người đối với tư duy của họ. Hai môn
Êy một mặt chỉ biết có tự nhiên, mặt khác chỉ biết có tư tưởng. Nhưng chính

việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên,
với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy
con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã
học cải biến tự nhiên”.
Tư tưởng đó được Lênin tiếp tục khẳng định: “Thực tiễn cao hơn nhận
thức (lý luận) vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến, mà cả của
tính hiện thực trực tiếp”1.
Con người quan hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà
bằng thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn, cải tạo thế giới
mà nhận thức, lý luận ở con người mới được hình thành và phát triển. Bằng
hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc
lộ những thuộc tính, những tính quy luật để cho con người nhận thức chóng.
Ban đầu con người thu nhận những tài liệu cảm tính, những kinh nghiệm, sau
đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá ... để
phát triển thành lý tính, xây dựng thành lý luận, khoa học phản ánh bản chất,
quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Do đó, có thể nói,
thực tiễn cung cấp những tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Không có thực
tiễn thì không có nhận thức, không có lý luận. Mọi tri thức dù trực tiếp hay
gián tiếp đối với người này hay người kia, thế hệ này hay thế hệ khác dù ở
giai đoạn cảm tính hay lý tính, ở trình độ kinh nghiệm hay lý luận xét đến
cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn.
1

V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ M.1980, tập 29, tr230


Trong quá trình tồn tại, con người không được thế giới đáp ứng thỏa
mãn, nên con người phải cải tạo thế giới bằng hoạt động thực tiễn của mình.
Chính trong quá trình biến đổi thế giới, con người cũng biến đổi luôn cả bản
thân mình, phát triển năng lực bản chất, năng lực trí tuệ của mình. Nhờ đó,

con người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật
của thế giới, làm phong phú và sâu sắc tri thức của mình về thế giới. Thực
tiễn cũng đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức,
lý luận. Nhu cầu, thực tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh
nghiệm, khái quát lý luận, thúc đẩy sự ra đời phát triển của các ngành khoa
học.
Như vậy, trong quá trình hoạt động thực tiễn, trí tuệ con người dược phát
triển, được nâng cao dần cho đến lúc có lý luận, khoa học. Song bản thân lý
luận, khoa học không có mục đích tự thân. Lý luận, khoa học ra đời chính vì
và chủ yếu vì chúng cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người. Thực
tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận. Nhận thức, lý luận sau khi ra đời phải
quay về phục vụ thực tiễn, hướng dẫn, chỉ đạo thực tiễn, phải biến thành hành
động thực tiễn của quần chúng. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi
chóng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn phục vụ mục tiêu phát
triển nói chung.
Lênin đã chỉ ra rằng: Thế giới bí ẩn sẽ hoàn toàn bí ẩn với con người nếu
không có sự tác động của con người vào đó. Sự tác động của con người vào
thế giới khách quan diễn ra một quá trình từ việc thu thập những tài liệu cảm
tính, những kinh nghiệm, sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái
quát hoá, trừu tượng hoá… để phát triển thành lý luận và từ lý luận lại trở về
chỉ đạo thực tiễn.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận còn thể hiện ở chỗ thực
tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Mác viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con
người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một


vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người
phải chứng minh chân lý...”1.
Chỉ có lấy thực tiễn kiểm nghiệm mới xác nhận được tri thức đạt được là
đúng hay sai, là chân lý hay sai lầm. Thực tiễn sẽ nghiêm khắc chứng minh

chân lý, bác bỏ sai lầm. Tuy nhiên, cần phải hiểu tiêu chuẩn thực tiễn một
cách biện chứng, tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối (hay tính xác định) vừa
có tính tương đối (hay tính không xác định).
Thứ hai, vai trò tác động trở lại của lý luận đối với thực tiễn. Bên cạnh
việc đề cao vai trò của thực tiễn đối với lý luận, lý luận nhận thức Mácxít
cũng chỉ ra vai trò của lý luận đối với thực tiễn thể hiện ở tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của nó. Hay nói cách khác, bản thân lý luận, khoa học không
có mục đích tự thân. Lý luận sau khi ra đời quay về phục vụ thực tiễn, hướng
dẫn, chỉ đạo thực tiễn. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng
được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn, phục vụ cho mục tiêu phát
triển. Lý luận tác động trở lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn thông
qua hoạt động của con người.
Lý luận giúp cho chủ thể hoạt động thực tiễn có những quan niệm khoa
học về thế giới. Lý luận có thể dự kiến được sự vận động, phát triển của sự
vật, chỉ ra những phương hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn, là “kim
chỉ nam” soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo cho hành động. Lênin viết: Không có lý
luận cách mạng thì cũng không có phong trào cách mạng, chỉ có đảng nào có
lý luận tiên phong hướng dẫn thì đảng đó mới làm tròn vai trò chiến sĩ tiên
phong. Lý luận một khi thâm nhập vào quần chúng thì biến thành sức mạnh
vật chất, lý luận có thể dự kiến được sự vận động và phát triển của sự vật
trong tương lai, chỉ ra những phương hướng mới cho sự phát triển của thực
tiễn. Nhờ có lý luận khoa học mà hoạt động của con người trở lên chủ động,
1

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, tập 3, tr10


tự giác, hạn chế tình trạng mò mẫm, tự phát. Như vậy, lý luận một khi đã
thâm nhập vào quần chúng thì biến thành sức mạnh vật chất to lớn.
Lý luận giúp cho con người nhận thức hệ thống nguyên tắc, phương

pháp trong hoạt động nhận thức và thực tiễn; giúp chủ thể hoạt động thực tiễn
những mục tiêu cần đạt được trong tình hình cụ thể. Nhờ có lý luận cách
mạng mà chủ thể hoạt động thực tiễn có cơ sở hình thành, phát triển nhân
cách và nâng cao chất lượng hoạt động thực tiễn.
Như vậy, lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với hoạt động thực tiễn.
Tuy nhiên, cùng với nhận thức được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của lý
luận thì chủ thể hoạt động không nên cường điệu vai trò của lý luận, coi
thường thực tiễn, tách lý luận khỏi thực tiễn.
2. Sự vận dụng của Đảng trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo hơn 25 năm qua
đã đạt được những thành tựu về kinh tế - xã hội to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
“Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và
toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang đẩy
mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại
đoàn kết dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định.
Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế
không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất
nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt
đẹp”. Những thành tựu ấy có nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên
nhân là Đảng ta luôn quán triệt, vận dụng và giải quyết tốt mối quan hệ biện
chứng giữa lý luận và thực tiễn trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới. Bởi lẽ, trên
cơ sở quán triệt, vận dụng và giải quyết tốt mối quan hệ giữa lý luận và thực
tiễn đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước không ngừng


được bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam; những căn
bệnh giáo điều, kinh nghiệm, chủ quan duy ý chí đã dần được khắc phục.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là
một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý

luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ
với thực tiễn là lý luận suông” 1. Như vậy, giữa lý luận và thực tiễn theo Chủ
tịch Hồ Chí Minh phải được hiểu trên tinh thần biện chứng: thực tiễn cần tới
lý luận (khoa học) soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng để
không mắc phải bệnh kinh nghiệm, không rơi vào mò mẫm, vòng vo, mù
quáng mất thời gian. Còn lý luận (khoa học) phải dựa trên cơ sở thực tiễn, nảy
sinh từ thực tiễn, phản ánh thực tiễn, luôn liên hệ với thực tiễn và được bổ
sung, hoàn thiện, phát triển thông qua tổng kết thực tiễn có lý luận nếu không
sẽ mắc phải bệnh giáo điều. Nghĩa là thực tiễn, lý luận cần đến nhau, nương
tựa vào nhau, hậu thuẫn, bổ sung cho nhau. Không có thực tiễn sẽ không có lý
luận; ngược lại, không có lý luận thì thực tiễn sẽ mất phương hướng. Thấm
nhuần tinh thần ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo sự
nghiệp đổi mới luôn quán triệt và vận dụng sáng tạo trong giải quyết mối
quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Điều này thể hiện ở những nét
chủ yếu sau:
2.1. Đảng ta thường xuyên tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện,
phát triển lý luận cách mạng, trước hết là đường lối đổi mới
Đại hội VI của Đảng (12-1986) - đại hội đổi mới cũng là kết quả của
tổng kết thực tiễn quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước
(1976-1986) một cách có lý luận và đã rút ra bốn bài học kinh nghiệm. "Một
là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân
làm gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động… Hai
là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy
luật khách quan… Ba là, phải kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, HN.2000, tập 8, tr496


thời đại trong điều kiện mới… Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm

vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa". Có thể nói, chính đường lối đổi mới của Đảng cũng
là kết quả tổng kết thực tiễn hơn 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm
vi cả nước cũng như tổng kết rút kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội của
các nước xã hội chủ nghĩa khác. Chẳng hạn, đường lối phát triển kinh tế nhiều
thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa được Đảng thường xuyên tổng kết
thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện. Đại hội VI coi phát triển kinh tế nhiều thành
phần "là một giải pháp có ý nghĩa chiến lược, góp phần giải phóng và khai
thác mọi khả năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế
hợp lý". Tinh thần đó đã được Hội nghị Trung ương 2 (khoá VI) nhất là Hội
nghị Trung ương 6 (khoá VI) tiếp tục bổ sung, hoàn thiện, phát triển. Hội nghị
Trung ương 6 (khoá VI) xác định phát triển kinh tế nhiều thành phần là chính
sách nhất quán, có ý nghĩa chiến lược lâu dài; các thành phần kinh tế đều bình
đẳng trước pháp luật; kinh tế quốc doanh, kinh tế hợp tác xã phải được củng
cố phát triển, nắm vị trí then chốt trong nền kinh tế. Năm 1988, Bộ Chính trị
Ban Chấp hành Trung ương khoá VI đã ra Nghị quyết 10 nhằm tạo điều kiện
cho các thành phần kinh tế khác phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp, nông
thôn. Tổng kết quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội VI về phát triển kinh tế
nhiều thành phần.
Đại hội VII của Đảng (6-1991) đã cụ thể hơn nữa chính sách phát triển
kinh tế nhiều thành phần, đặc biệt nhấn mạnh tới định hướng xã hội chủ nghĩa
của sự phát triển kinh tế nhiều thành phần: "chúng ta chủ trương thực hiện
nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa"1. Đại hội VII lưu ý kinh tế thị trường không phải là liều thuốc vạn
năng. Cùng với mặt mạnh là thúc đẩy kinh tế phát triển, nhưng đồng thời
cũng làm nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội. Do đó phải chú ý khắc phục những
mặt tiêu cực để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh
1

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.115-116.



tế. Đồng thời, Đại hội VII cũng nhấn mạnh phải nhanh chóng củng cố, phát
triển kinh tế quốc doanh trong những ngành và lĩnh vực then chốt; đổi mới,
củng cố, phát triển kinh tế hợp tác xã trong nông nghiệp.
Đại hội VIII của Đảng (6-1996) tổng kết thực tiễn 10 năm đổi mới đã rút
ra sáu bài học, trong đó có bài học: "Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường vai trò
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế
gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái" 1. Đây vừa là bài học kinh nghiệm vừa là
sự hoàn thiện, bổ sung, phát triển đường lối phát triển kinh tế nhiều thành
phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Rõ ràng là bài học này thể hiện tính chất
xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế nhiều thành phần rất rõ. Đó là sự
quan tâm của Đảng tới công bằng xã hội, tới bản sắc văn hoá dân tộc, tới môi
trường sinh thái. Như vậy, với Đảng ta, phát triển kinh tế nhiều thành phần
không phải bằng mọi giá. Phát triển kinh tế nhiều thành phần chỉ nhằm phát
huy mặt tích cực của nó phục vụ cho chủ nghĩa xã hội; kinh tế nhiều thành
phần chỉ là công cụ, phương tiện để chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội, phục
vụ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội VIII
cũng cụ thể hoá thêm chính sách đối với các thành phần kinh tế khác như kinh
tế tư bản nhà nước; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân nhằm khai
thác có hiệu quả tiềm năng của tất cả các thành phần kinh tế phục vụ mục tiêu
chủ nghĩa xã hội.
Đại hội IX của Đảng (4-2001) tiếp tục khẳng định: "Đảng và Nhà nước
ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của
nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội". Đại hội cũng nhấn mạnh

1

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.72


cùng với phát triển kinh tế phải giải quyết tốt các vấn đề xã hội, coi đây là
một hướng chiến lược thể hiện bản chất ưu việt của chế độ ta. Đồng thời
chính sách kinh tế nhiều thành phần được Đại hội IX cụ thể hoá hơn nữa.
Chẳng hạn như chủ trương phát triển các hình thức tổ chức kinh doanh đan
xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau,
giữa trong nước và nước ngoài; phát triển hình thức tổ chức kinh tế cổ phần;
tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà
nước về kinh tế; thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện
các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là thị trường lao
động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và
công nghệ, v.v”1.
Đại hội X tổng kết 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội IX về phát triển
kinh tế thị trường đã phát triển thêm đường lối này và đề ra nhiệm vụ hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa9.
Đại hội XI tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X và xác định:
Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển
kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân;
giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại. Cũng tại Đại hội XI Đảng ta đã thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm
2011)”. Cương lĩnh xác định: Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức
tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối; Xây dựng nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa
1

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG. HN 2001, tr.32-33.


dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn
hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền
tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển; Mục
tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hoà bình, ổn định chính trị,
bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm
thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với
sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta; Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng
hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất
nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa
giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội trên thế giới.
Như vậy có thể nói, mỗi kỳ đại hội là một lần Đảng tổng kết thực tiễn để
bổ sung, hoàn thiện, phát triển chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần
định hướng xã hội chủ nghĩa một cách sâu sắc hơn, cụ thể hơn, toàn diện hơn
cho phù hợp với điều kiện tình hình trong nước và quốc tế. Không những vậy,
Đảng còn luôn tổng kết kinh nghiệm thực tiễn rút ra những bài học kinh
nghiệm quý báu để chỉ đạo phát triển kinh tế nhiều thành phần sao cho không
chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Mỗi kỳ đại hội là một dịp Đảng tổng kết thực

tiễn một cách toàn diện để bổ sung, hoàn chỉnh đường lối đổi mới, nâng tầm
lý luận, làm rõ hơn con đường lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây là biểu
hiện sinh động của việc quán triệt, vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lý
luận và thực tiễn trong đổi mới của Đảng. Thực hiện Chỉ thị số 24-CT/TW
ngày 12-5-2003 của Ban Bí thư Về tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn
qua 20 năm đổi mới, nhằm hoàn thiện lý luận về con đường lên chủ nghĩa xã


hội ở nước ta, Đảng ta tiếp tục khẳng định giá trị các bài học mà Đại hội X đã
rút ra.
2.2. Đảng ta luôn coi trọng việc nâng cao trình độ lý luận cho toàn
Đảng
Thấm nhuần tinh thần của V.I.Lênin: "Không có lý luận cách mạng thì
không có phong trào cách mạng. Chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong
hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong", cũng
như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng mà không có lý luận cách mạng
khoa học như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam, Đảng ta
luôn luôn coi trọng việc nâng cao trình độ lý luận cho toàn Đảng trong quá
trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới. Đây thực chất là sự quán triệt và vận dụng
sáng tạo trong giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
của Đảng ta. Bởi lẽ, không có trình độ lý luận thì không thể tổng kết thực tiễn
một cách có lý luận và không thể định hướng đúng cho công cuộc đổi mới,
cũng không thể lãnh đạo sự nghiệp đổi mới có kết quả.
Trước hết, trong các văn kiện, Đảng luôn khẳng định kiên trì lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Trong quá
trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng đã tập trung trí tuệ, trên nền tảng của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chèo lái con thuyền cách
mạng, giữ vững sự ổn định chính trị ở nước ta. Đảng đã đề ra một số nghị
quyết nhằm đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chẳng hạn, Nghị quyết số 01

của Bộ Chính trị ngày 28-3-1992 về đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả
học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Các Nghị
quyết Trung ương 6, 7, 8 khoá VI; Nghị quyết số 09 ngày 18-2-1995 của Bộ
Chính trị và nhiều nghị quyết khác Đảng ta đã tỏ rõ lập trường, đấu tranh
chống lại các quan điểm sai trái, bảo vệ những giá trị đích thực của chủ nghĩa
xã hội hiện thực cũng như sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh. Trong tất cả các Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII,


IX, X và XI Đảng ta luôn nhấn mạnh, khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Đại hội VII chỉ rõ: "Đảng làm
giàu trí tuệ của mình bằng cách không ngừng nâng cao trình độ lý luận, nắm
vững và vận dụng sáng tạo những luận điểm cơ bản và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh" 1. Đại hội VIII yêu cầu làm
tốt nhiệm vụ: "căn cứ vào Cương lĩnh và các nghị quyết của Đảng, thường
xuyên bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên đường lối, chủ trương của Đảng, các
vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những kiến thức mới của thời đại"17. Đại
hội IX đề ra nhiệm vụ: "Xây dựng, chỉnh đốn hệ thống các học viện, trường
và trung tâm chính trị, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, trước hết đối với cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp; chống các biểu
hiện tiêu cực trong giảng dạy và học tập. Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khoá IX ra Nghị quyết về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư
tưởng, lý luận trong tình hình mới. Ngày 27-3-2003, Ban Bí thư Trung ương
ra Chỉ thị số 23-CT/TW Về đẩy mạnh nghiên cứu tuyên truyền, giáo dục tư
tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới. Đại hội X của Đảng đề ra nhiệm vụ:
“Trước hết, phải nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng, kiên
định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, vận dụng và phát triển sáng tạo trong thực tiễn hoạt động
của Đảng. Nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận và đổi mới công tác giáo

dục lý luận chính trị, công tác tư tưởng trong Đảng, nhất là cho đội ngũ cán
bộ lãnh đạo và quản lý chủ chốt các cấp”; “Đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình
thức, biện pháp giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” 2.
Đại hội XI xác định: Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn
nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng, tuyên
truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
1
2

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự Thật, HN.1991, tr.129
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, HN 2006, tr.283


Trên tinh thần ấy, việc nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh đã được triển khai sâu rộng trong toàn Đảng và trong toàn xã hội.
Đảng ta đã bước đầu đi sâu, làm rõ hơn những luận điểm của các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác - Lênin trước kia đã đúng, bây giờ trong điều kiện thực tiễn
mới vẫn đúng; những luận điểm nào trước kia đúng nhưng trước tình hình
thực tiễn mới, không còn phù hợp, cần phải bổ sung, phát triển hoặc thay đổi;
những luận điểm nào mà chúng ta hiểu chưa đúng, chưa đầy đủ do các
nguyên nhân khác nhau,... Đây là bước phát triển về lý luận, đồng thời cũng
thể hiện sự quán triệt tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của
Đảng ta. Đặc biệt, Đảng ta đã đạt được những kết quả hết sức quan trọng
trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh. Những nội dung chủ yếu của tư
tưởng Hồ Chí Minh theo nhận thức của Đảng ta là: Tư tưởng Hồ Chí Minh là
một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, là kết quả vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào thực tiễn cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư
tưởng về giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, giải phóng con người; độc

lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc;
về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân,
vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về
phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, thực hiện cần kiệm liêm chính, chí
công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo vừa là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Nhận thức được giá trị to lớn của
tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã phát động toàn Đảng, toàn dân và toàn quân
học tập và làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.


Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, “Đảng đã có sự nhận thức
đúng hơn và bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên một loạt các vấn
đề (chẳng hạn: vấn đề mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, vấn đề sở hữu tư liệu
sản xuất, vấn đề phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, v.v.). Nhờ đó, tư
duy lý luận của Đảng ngày càng sâu sắc hơn, nhận thức đúng đắn hơn thực
chất những tư tưởng của các nhà kinh điển mácxít, đồng thời có sự vận dụng,
phát triển cho phù hợp hơn với thực tiễn Việt Nam”.
Các văn kiện của Đảng cũng chỉ rõ sự cần thiết phải nâng cao trình độ lý
luận cho cán bộ, đảng viên trong tình hình mới. Để nâng cao trình độ lý luận,
"cần đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học lý
luận, coi trọng chất lượng và tính hiệu quả. Tổ chức học tập một cách nghiêm
túc, có hệ thống chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chủ nghĩa yêu nước và truyền
thống cách mạng của dân tộc, của Đảng. Phát huy tính sáng tạo, chủ động của
người học, dành nhiều thời gian cho việc tự học, tự đọc các tác phẩm lý luận
và văn kiện của Đảng"1. Đại hội X của Đảng đề ra nhiệm vụ: “Nâng cao trình

độ trí tuệ, chất lượng nghiên cứu lý luận của Đảng; tiếp tục làm sáng tỏ những
vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta;
làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đường lối, chính sách của Đảng trong thời kỳ
mới. Đại hội XI đề ra nhiệm vụ: Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội,
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và những vấn đề mới nảy sinh
trong quá trình đổi mới, không ngừng phát triển lý luận, đề ra đường lối và
chủ trương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; khắc phục một số mặt lạc
hậu, yếu kém của công tác nghiên cứu lý luận. Tạo môi trường dân chủ thảo
luận, tranh luận khoa học, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của
1

Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 BCH TW khoá IX, Nxb. CTQG, HN, 2002, tr.135-136


cá nhân và tập thể trong nghiên cứu lý luận. Khẩn trương ban hành quy chế
dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị. Nâng cao chất lượng hoạt động
của các cơ quan nghiên cứu lý luận, cải tiến tổ chức nghiên cứu lý luận phù
hợp hơn với nhu cầu thực tiễn. Tổng kết 30 năm đổi mới đất nước.
Đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị, tư tưởng trong Đảng, trước
hết cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý chủ chốt các cấp; đổi mới nội
dung, phương pháp học tập và giảng dạy trong hệ thống trường chính trị, nâng
cao tính thiết thực và hiệu quả của chương trình.
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI): Một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay. Đảng ta đã chỉ ra những biểu hiện suy thoái về chính trị
tư tưởng của một bộ phận cán bộ, đảng viên và đã đề ra những giải pháp
nhằm khắc phục hiện tượng đó để xây dựng Đảng vững mạnh trong giai đoạn
hiện nay.
2.3. Đảng thường xuyên, kiên quyết đấu tranh chống lại những biểu
hiện lệch lạc, sai trái về tư tưởng - lý luận, bảo vệ sự trong sáng của chủ

nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Cùng với việc nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên, Đảng ta
cũng thường xuyên, kiên quyết đấu tranh chống lại những biểu hiện lệch lạc,
sai trái về tư tưởng - lý luận, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây cũng chính là sự quán triệt nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn trong đổi mới của Đảng. Bởi lẽ, đổi mới không
phải là từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa của sự phát triển mà là từ bỏ mô
hình chủ nghĩa xã hội giáo điều, tập trung, quan liêu; là sự lựa chọn biện
pháp, cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội cho phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh thực tế Việt Nam cũng như quốc tế. Quá trình thực hiện công cuộc đổi
mới cũng là quá trình Đảng ta tiến hành cuộc đấu tranh chống lại các thế lực
thù địch trên mặt trận tư tưởng - lý luận; chống lại các chiêu bài "dân chủ
hoá"; "tự do hoá"; "đa nguyên chính trị", v.v..


Với các Nghị quyết Trung ương 6, 7, 8 khoá VI và các nghị quyết khác,
Đảng đã có những quyết định quan trọng chỉ đạo công cuộc đổi mới, tỏ rõ lập
trường quan điểm đấu tranh chống lại những luận điểm sai trái, bảo vệ sự
trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối
của mình. Vào thập kỷ 90 của thế kỷ XX, các thế lực phản động tìm mọi cách
xuyên tạc, bôi nhọ những người cộng sản cũng như chủ nghĩa xã hội hiện
thực ở Liên Xô và Đông Âu. Trước tình hình ấy, Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương khoá VII ra Nghị quyết 09 ngày 18-2-1995 thể hiện lập trường
cách mạng, quyết tâm bảo vệ những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội
hiện thực cũng như sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh. Các nghị quyết của Đảng đã đề ra những yêu cầu mới cho cuộc đấu
tranh chống những nhận thức lệch lạc, những quan điểm sai lầm, những biểu
hiện dao động về tư tưởng, phê phán, bác bỏ những luận điểm sai trái, thù
địch. Đảng ta chủ động chỉ đạo các cơ quan nghiên cứu lý luận, phát huy sức
mạnh tập thể của các nhà khoa học trong thảo luận, nghiên cứu chỉ ra bản chất

sai lầm, hạn chế của những quan điểm sai trái. Đồng thời, Đảng đề ra nhiệm
vụ phải làm sáng tỏ hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận phải hướng vào
những vấn đề của cuộc sống, làm rõ luận cứ khoa học cho các giải pháp, các
xu hướng phát triển; bổ sung, hoàn thiện đường lối làm cho con đường lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng tỏ hơn, v.v.. Làm được như vậy
cũng là góp phần đấu tranh có hiệu quả chống các quan điểm sai trái, lệch lạc,
thù địch. Đây cũng chính là việc làm giàu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quán triệt tốt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
công cuộc đổi mới của Đảng. Chính vì vậy, Đại hội X của Đảng yêu cầu:
“Kiên quyết đấu tranh bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng; phê phán, bác
bỏ các quan điểm sai trái, thù địch” 1. Đồng thời phải “đấu tranh khắc phục
những biểu hiện phai nhạt lý tưởng, cơ hội, chạy theo lợi ích cá nhân,… góp

1

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG HN.2006, tr.132


phần làm thất bại mọi mưu toan “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ của các
thế lực thù địch”2.
Đại hội XI, Đảng tiếp tục khẳng định: Kiên quyết đấu tranh làm thất bại
mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Chủ
động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hoá” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Nghị quyết
Trung ương 4 đã thể hiện rõ quyết tâm của Đảng đối với vấn đề đấu tranh
khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ,
đảng viên.
Như vậy là, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam nói
chung, sự nghiệp đổi mới nói riêng, Đảng ta luôn quán triệt, vận dụng và giải

quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Điều này thể hiện
ở chỗ, Đảng thường xuyên tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện đường
lối, chủ trương, chính sách cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam.
Đồng thời, Đảng làm hết sức mình để nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân, để mỗi cán bộ, đảng viên luôn nắm vững chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và biết vận dụng những tư tưởng đó vào
điều kiện nước ta. Không những thế, Đảng còn quan tâm tích cực chỉ đạo
cuộc đấu tranh không khoan nhượng với những kẻ thù về tư tưởng - lý luận,
chỉ ra bản chất sai lầm, phản khoa học, những mục đích sâu xa của chúng.
Trên cơ sở đó, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, bảo vệ sự đúng đắn trong đường lối của mình. Chính vì vậy mà
hơn 80 năm qua, Đảng ta luôn hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Hơn 80 năm qua, đặc biệt là những năm Đảng lãnh đạo sự nghiệp đổi
mới, Đảng luôn luôn quán triệt, vận dụng và giải quyết tốt mối quan hệ biện
chứng giữa lý luận và thực tiễn trong lãnh đạo cách mạng.
2

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG HN.2006, tr.284


KẾT LUẬN
Vấn đề quan hệ giữa lý luận và thực tiễn có tầm quan trọng đặc biệt
trong triết học xã hội của chủ nghĩa Mác. Tầm quan trọng đó không chỉ ở chỗ:


×