Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC - CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI CỦA LÊ NIN VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN CỦA NƯỚC TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.22 KB, 21 trang )

CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI CỦA V.I. LÊNIN
Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ NHIỀU
THÀNH PHẦN ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Lời nói đầu
Những tư tưởng cơ bản V.I.Lê nin về Chính sách kinh tế mới (NEP) và
kinh nghiệm thực hiện NEP ở nước Nga thời kỳ sau nội chiến (đầu những năm
20) đã trở thành đề tài hấp dẫn của giới nghiên cứu lý luận và các nhà hoạt
động chính trò –xã hội nhiều nước trên thế giới, đây cũng là đề tài thu hút sự
quan tâm đặc biệt của đông đảo những người làm công tác lý luận và các nhà
hoạt động chính trò - xã hội nước ta khi bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới
đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Đã có nhiều ý kiến lý giải khác
nhau xung quanh quan điểm của V.I.Lê nin về con đường quá độ lên chủ nghóa
xã hội ở một nước tiểu nông, sản xuất hàng hoá nhỏ, về những hình thức “trung
gian”, những biện pháp “quá độ”, về việc sử dụng CNTB nhà nước, thực hiện
chính sách tự do buôn bán, kinh doanh, quan hệ hàng-tiền, v.v. đặc biệt là làm
thế nào để vận dụng thành công những tư tưởng cơ bản ấy ở nước ta hiện nay.
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới ở nước ta, nhu cầu tìm hiểu
những tư tưởng cơ bản của V.I.Lê nin về NEP vẫn đang là vấn đề có ý nghóa
thời sự đòi hỏi phải được nghiên cứu sâu sắc hơn cả từ phương diện lý luận và
thực tiễn.
Đánh giá tổng quát sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện,
Đảng ta đã khẳng đònh, nước ta: “Đã thu được những thành tựu to lớn, có ý
nghóa rất quan trọng… nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, nhưng
một số mặt còn chưa vững chắc” [1]. Bởi vậy, những tư tưởng cơ bản của
V.I.Lê nin về NEP và thực tiễn thực hiện NEP trong bối cảnh khủng hoảng
kinh tế-xã hội trầm trọng ở nước Nga thời kỳ sau nội chiến vẫn là một chỉ dẫn
lý luận và bài học kinh nghiệm bổ ích đối với chúng ta.
Đảng ta nhấn mạnh: “Phải vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển chủ
nghóa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng của V.I.Lê nin về
chính sách kinh tế mới, về chủ nghóa tư bản nhà nước sáng tạo nhiều hình thức


quá độ, những nấc thang trung gian đa dạng, phù hợp với hoàn cảnh lòch sử cụ
thể để đưa nước ta đi lên chủ nghóa xã hội một cách vững chắc” [2].
1


Chúng ta đang ở trong giai đoạn xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần đònh hướng XHCN. Nghiên cứu NEP chính là cơ sở cho
chúng ta thấy rõ: phải sử dụng “đòn xeo” sản xuất hàng hoá như thế nào, phải
vận dụng cơ cấu nhiều thành phần kinh tế với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước ra sao, sử dụng CNTB nhà nước với tư cách là “phòng chờ đi vào chủ
nghóa xã hội” là thế nào, vận dụng chính sách tự do buôn bán, kinh doanh…
những vấn đề đó luôn đòi hỏi được giải quyết trên cơ sở nhận thức đúng đắn và
vận dụng sáng tạo NEP. Bởi vậy, việc trở lại với những tư tưởng cơ bản của
V.I.Lê nin về NEP vẫn còn là vấn đề vừa có ý nghóa lý luận vừa có ý nghóa
thực tiễn đối với nước ta hiện nay.
Mục đích chuyên đề nghiên cứu, làm sáng tỏ những nội dung cơ bản của NEP.
Trên cơ sở đó thấy được sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta trong đổi mới kinh tế nói
chung và đổi mới các thành phần kinh tế nói riêng ở Việt Nam hiện nay.
Chuyên đề có nhiệm vụ nghiên cứu những luận điểm cơ bản của V.I.Lê
nin về NEP và sự vận dụng của Đảng ta trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề: trên cơ sở những luận điểm cơ bản
của V.I.Lê nin được trình bày trong NEP làm sáng tỏ đường lối đổi mới thành
phần kinh tế ở nước ta hiện nay. Chuyên đề nghiên cứu thành công sẽ góp
phần phục vụ cho giảng dạy bộ môn kinh tế chính trò Mác-Lênin ở Học viện
Lục quân và là tài liệu tham khảo cho các bộ môn khoa học xã hội nhân văn
cũng như các đối tượng khác trong Học viện.
Chuyên đề được kết cấu: lời mở đầu, nội dung, kết luận và danh mục tài
liệu tham khảo.

2



1. CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI CỦA V.I.LÊ NIN
1.1.Bối cảnh lòch sử ra đời NEP
Sau những cuộc chiến tranh khốc liệt (chiến tranh thế giới lần thứ
nhất 1914 – 1918 và nội chiến 1918 – 1920 ), nước Nga đã lâm vào tình trạng
khủng hoảng hết sức nặng nề cả về phương diện kinh tế, chính trò lẫn xã hội.
Trong các cuộc chiến tranh đó, trên 20 triệu người (1/7 dân số nước
Nga khi đó ) đã bò thiệt mạng, trong đó có khoảng gần 30% là nam giới đang ở
tuổi lao động. Nguồn của cải vật chất bò tiêu huỷ trong các cuộc chiến tranh đó
cũng hết sức lớn. Một phần tư tài sản quốc dân bò tiêu huỷ, thu nhập quốc dân
giảm gần 2 lần so với trước chiến tranh. Đại đa số các xí nghiệp công nghiệp ở
tình trạng đình đốn, ngừng hoạt động, đặc biệt là các ngành công nghiệp nặng.
So với trước chiến tranh sản lượng của các ngành công nghiệp nặng giảm tới 7
lần. Ngành giao thông vận tải ở vào tình trạng tê liệt gần như hoàn toàn. Nhiên
liệu thiếu, lương thực, thực phẩm không đủ cung cấp. Những khó khăn về cung
cấp lương thực, thực phẩm cho thành phố ngày một tăng đã dẫn đến tình trạng
phần lớn dân cư ở các thành phố lâm vào cảnh sống vất vưởng, nhiều người,
trong đó có cả những công nhân lành nghề đã lũ lượt kéo về nông thôn. Đội
ngũ giai cấp vô sản do bò cùng cực về đời sống đã giảm đi quá nhiều về số
lượng. Mặc dù vẫn là chỗ dựa vững chắc của Chính quyền Xô viết, song trong
đội ngũ những người vô sản, ở một bộ phận nào đó, đã xuất hiện hiện tượng
tha hoá, biến chất và tỏ ra bất mãn với Chính quyền Xô viết, thậm chí trong
hàng ngũ những người công nhân đã có một bộ phận nảy sinh tư tưởng hoài
nghi thất vọng, thiếu tin tưởng vào đường lối xây dựng và phát triển kinh tế của
Chính quyền Xô viết .
Khi nội chiến vừa kết thúc, nguy cơ trực tiếp phục hồi thực lực của bọn
Culắc không còn nữa, thì đối với những người nông dân Nga, chế độ trưng thu
lương thực thừa mà Chính quyền Xô viết đã ban hành và thực hiện vào đầu năm
1919 là không thể chấp nhậnø. Dưới chế độ trưng thu lương thực thừa, sản xuất

nông nghiệp bắt đầu suy sụp. Sự bất mãn của những người nông dân đối với chế
độ trưng thu lương thực thừa ngày một tăng và trên thực tế, nó đã biến thành
những cuộc bạo loạn. Khối công nông liên minh rạn nứt có nguy cơ tan vỡ.

3


Chính sách kinh tế mới ra đời trong một bối cảnh đặc biệt và hết sức phức
tạp. Đó là nước Nga đang trong tình trạng khủng hoảng hết sức nặng nề cả về
kinh tế lẫn chính trò và xã hội do hậu quả của chiến tranh, và hơn nữa, do việc
thực hiện Chính sách “cộng sản thời chiến”mà khi đó đã trở nên không còn
phù hợp nữa.
Những tư tưởng của NEP được trình bày trong bản phác thảo sơ bộ những
luận cương về nông dân vào tháng 2 năm 1921. Bản phác thảo sơ bộ này của
V.I.Lê nin đã được thảo luận rộng rãi trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Nga. Đầu tháng 3 năm 1921 bản dự thảo cuối cùng về chính sách này
đã được thông qua và tại Đại hội X Đảng Cộng sản Nga (giữa tháng 3 năm
1921), nó đã được chính thức hoá về mặt pháp luật bằng Sắc lệnh do V.I.Lê
nin ký ngày 21 thánh 3 năm 1921)
1.2. Nội dung cơ bản của NEP
Nội dung Chính sách kinh tế mới là một hệ thống gồm nhiều khâu liên
hoàn có quan hệ mật thiết với nhau tạo thành một cơ chế kinh tế giúp cho nước
Nga tháo gỡ khó khăn và điều hành sự vận động kinh tế xã hội có hiệu quả. Tư
tưởng cơ bản của Chính sách kinh tế mới bao gồm các khâu chủ yếu sau.
Một là, thay chế độ trưng thu lương thực thừa bằng thuế lương thực. Để
khôi phục và phát triển những lực lượng sản xuất của nông dân không thể dựa
vào chế độ trưng thu lương thực thừa được áp dụng trong hoàn cảnh đất nước
có chiến tranh, bởi với chế độ đó và trong bối cảnh hoà bình phát triển kinh tế,
người nông dân đã không còn những kích thích sản xuất. Do vậy Chính quyền
Xô viết không thể thực hiện được nhiệm vụ khôi phục và phát triển lực lượng

sản xuất, nếu không có sửa đổi căn bản trong chính sách lương thực. V.I. Lênin
khẳng đònh: “Một trong những điều sửa đổi đó là thay chế độ trưng thu bằng
thuế lương thực, do đó có tự do buôn bán, ít nhất cũng là trong phạm vi đòa
phương, sau khi đã nộp đủ thuế” [3].

4


V.I.Lê nin thừa nhận rằng do chiến tranh và tình trạng bò tàn phá nặng nề
của nền kinh tế đất nước Chính quyền Xô viết đã buộc phải thi hành Chính
sách “cộng sản thời chiến”, chính sách trưng thu lương thực thừa. Chính sách
của thời kỳ thực hiện chính sách cộng sản thời chiến không còn thích hợp nữa.
Nó chỉ là một biện pháp tạm thời trong hoàn cảnh bắt buộc. Đối với giai cấp vô
sản đang thực hiện quyền chuyên chính của mình trong một nước tiểu nông thì
chính sách đúng đắn là phải tổ chức việc trao đổi những sản phẩm công nghiệp
cần thiết cho nông dân để lấy lúa mì của họ. Hơn nữa,V.I.Lê nin còn khẳng
đònh để khắc phục những sai lầm do chính sách “cộng sản thời chiến” đem lại,
để cứu vãn nước Nga thoát khỏi khủng hoảng, giờ đây Chính quyền Xô viết
cần áp dụng chế độ tự do buôn bán, trao đổi hàng hoá cần thay chế độ trưng
thu lương thực thừa bằng thuế lương thực.
Luận chứng cho sự cần thiết phải thay chính sách trưng thu lương thực
thừa bằng thuế lương thực, V.I.Lê nin chỉ rõ: cần phải đặt mối quan hệ giữa
chúng ta với nông dân trên cơ sở thuế lương thực, chứ không phải trên cơ sở
trưng thu. Dưới chế độ trưng thu nền kinh tế tiểu nông không có một cơ sở kinh
tế bình thường và phải sống lay lắt trong nhiều năm, vì người tiểu nông không
còn thích thú củng cố và phát triển hoạt động của mình, cũng như nâng cao sản
lượng, kết quả là chúng ta mất một cơ sở kinh tế.
Do chiến tranh và khủng hoảng kinh tế nặng nề, Chính quyền Xô viết
không có khả năng và không thể cung cấp được cho nông dân những sản phẩm
công nghiệp để đổi lấy lúa mì cần thiết cung cấp cho thành thò, công nhân và

binh lính. Bởi thế, chính quyền Xô viết cần đặt ra thuế lương thực, nghóa là thu
dưới danh nghóa thuế một lượng lúa mì tối thiểu, cần thiết phần còn lại sẽ được
đổi bằng các sản phẩm công nghiệp. Sự trao đổi đó chính là biện pháp khuyến
khích, kích thích, thúc đẩy người nông dân phát triển sản xuất. Vì nhà nước sẽ
không trưng thu tất cả số lương thực thừa của người nông dân mà chỉ thu một số
thuế, thêm vào đó, số thuế này được nhà nước ấn đònh trước, nên người nông
dân sẽ tích cực sản xuất hơn.

5


Có thể nói khi ban hành và thực hiện NEP, V.I.Lê nin đã nhìn thấy ở nó khả
năng đem lại những đòn bẩy kinh tế cho công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế
ở nước Nga tiểu nông trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đòn bẩy kinh tế đó đã
không có khi thực hiện Chính sách “cộng sản thời chiến”. Chính vì vậy, khi
chuyển sang NEP thuế lương thực được V.I.Lê nin: “Coi là khâu đầu tiên, là “đòn
xeo”, là một trong những biện pháp cấp tốc, cương quyết nhất, cấp thiết nhất để cải
thiện đời sống của nông dân và nâng cao lực lượng sản xuất của họ” [4].
Cùng với việc ban hành Sắc lệnh về thuế lương thực khi bắt tay vào công
cuộc xây dựng đất nước theo NEP, mùa Thu năm 1922, Chính quyền Xô viết
dưới sự chỉ đạo của V.I.Lê nin đã ban hành Luật ruộng đất nhằm khẳng đònh
việc quốc hữu hoá ruộng đất mà Sắc lệnh về ruộng đất đã tuyên bố tháng 101917. Đồng thời trao cho nông dân quyền sử dụng ruộng đất không hạn chế về
thời gian, cấm chỉ việc tuỳ tiện trưng thu ruộng đất, kể cả các cơ quan nhà
nước. Với bộ luật này các hình thức sử dụng đất đai cuả người nông dân đã
được hợp pháp hoá, và cũng không hướng người nông dân vào việc khẩn
trương tập thể hoá. Nhờ đó những người nông dân Nga đã yên tâm và phát
triển sản xuất. Có thể nói việc thay thế chế độ trưng thu lương thực thừa bằng
thuế lương thực ổn đònh, việc cho nông dân quyền tự do lựa chọn hình thức sử
dụng đất đai, kể cả việc rút ra khỏi công xã nông thôn. Việc cho phép thuê
ruộng đất và thuê sức lao động đã tạo ra điều kiện cho việc tăng tích luỹ kinh

tế ở nông thôn. Hơn nữa, nhờ đó mà một hình thức kinh tế được hình thành
một cách tự nhiên và tỏ ra thích hợp với nước Nga khi đó là hình thức kinh tế
nông dân kiểu gia trưởng và sản xuất hàng hoá nhỏ. Hình thức kinh tế này
cùng với việc cho người nông dân được tự do phát triển sản xuất, sử dụng các
kích thích kinh tế và đình chỉ đường lối nhà nước hoá ràng buộc chặt chẽ về
mặt hành chính đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế chung trên phạm vi cả nước.
Thúc đẩy việc nâng cao mức sống cho nông dân, kiến lập được sự liên minh
giữa nền kinh tế XHCN và nền kinh tế nông dân.
Vào mùa Xuân năm 1921 vấn đề sống còn đối với nước Nga khi đó là cải
thiện đời sống không những của nông dân mà cả công nhân, Song, với việc
thay chế độ trưng thu lương thực thừa bằng thuế lương thực, Chính quyền xô
viết phải bắt đầu bằng việc cải thiện đời sống của người nông dân. Bởi lẽ,
muốn cải thiện đời sống của người công nhân thì Chính quyền Xô viết phải có
trong tay lúa mì, thực phẩm và nhiên liệu. Như vậy, việc cải thiện đời sống cho
người công nhân rõ ràng là phải được bắt đầu và thông qua việc cải thiện đời
sống cho người nông dân.
6


Nhờ thi hành chính sách thuế lương thực mà người nông dân đã quan tâm
hơn đếùn việc phát triển sản xuất và qua đó đời sống của họ đã được cải thiện,
việc cung cấp lương thực cho thành phố, quân đội được bảo đảm và ngũ cốc
của nước Nga lần đầu tiên sau Cách mạng Tháng Mười lại xuất hiện trên thò
trường quốc tế. Sau gần hai năm thi hành chính sách này,tại Đại hội IV Quốc
tế Cộng sản, V.I.Lê nin đã xác đònh: “Trong vòng một năm nông dân chẳng
những đã thắng được nạn đói, mà lại còn nộp thuế lương thực đến mức là chúng
tôi đã thu được hằng trăm triệu pút, mà gần như hoàn toàn không phải áp dụng
đến một biện pháp cưỡng bức nào cả. Những cuộc bạo động nông dân trước
1921, có thể nói là một việc phổ biến ở Nga, hiện nay đã hầu như hoàn toàn
chấm dứt”. Nông dân lấy làm hài lòng với tình hình của họ hiện nay” [5].

Hai là, cho phép tự do buôn bán. V.I.Lê nin coi việc thực hiện chế độ tự
do trao đổi hàng hoá, tự do buôn bán, kinh doanh đi cùng với việc thi hành thuế
lương thực cũng là một nội dung cơ bản, có tầm quan trọng và ý nghóa lớn lao
không kém của NEP. V.I.Lê nin coi vấn đề này cần phải đặt lên hàng đầu là
đòn xeo chủ yếu của NEP, là cái để kiến lập sự liên minh kinh tế vững chắc
giữa giai cấp vô sản và giai cấp nông dân, là cái cần thiết để người nông dân
mở rộng sản xuất và cải thiện đời sống của họ. Tự do trao đổi hàng hoá, tự do
buôn bán, kinh doanh là vấn đề “không thể tránh khỏi”. Chính vì thế V.I.Lê
nin yêu cầu nhà nước vô sản phải coi đó là vấn đề kinh tế và chính trò quan
trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở một nước tiểu nông.
Phân tích những hậu quả kinh tế trong những năm thực hiêïn Chính sách
“Cộng sản thời chiến” V.I.Lê nin đã nhận thấy nhà nước vô sản đã đi quá xa
trong việc quốc hữu hoá thương nghiệp và công nghiệp, trong việc đình chỉ
những sự trao đổi đòa phương. Với nhận thức đó, V.I.Lê nin cho rằng trong thời
kỳ quá độ chính quyền Xô viết cần phải cho phép nông dân được tự do tới một
mức độ nào đó trong lưu thông đòa phương, thậm chí có thể cho phép lưu thông
tự do ở đòa phương trong một phạm vi khá lớn. Bởi lẽ, khi người tiểu nông còn
là tiểu nông thì họ vẫn luôn cần đến sự kích thích, sự thúc đẩy đối với nền kinh
tế của họ bằng cách tự do trao đổi hàng hoá, tự do buôn bán, kinh doanh.
Để làm được điều đó V.I.Lê nin khẳng đònh phải áp dụng cơ chế thò
trường, sử dụng mối quan hệ hàng-tiền, phải nghiên cứu thò trường.V.I.Lê nin
viết: “Để thực hiện được trao đổi hàng hoá và không bò thò trường tự do đánh
gục, nghóa là để không bò cái kiểu buôn bán tự do đó đánh gục, thì chúng ta cần
hiểu rõ nó, cần phải thử sức với nó và lấy chính con chủ bài của nó để đánh gục
nó… muốn thế cần phải hiểu nó…” [6].
7


Khi đề cập đến việc sử dụng cơ chế thò trường và mối quan hệ hàng tiền,
đến chế độ tự do trao đổi hàng hoá, tự do buôn bán, kinh doanh. V.I.Lê nin đã

nhìn thấy ở đó sự phục hồi CNTB và giai cấp tư sản, song điều đó không có gì
đáng sợ, thậm chí nó còn có lợi, nó đặt biệt có lợi cho việc chống lại tình trạng
phân tán của những người sản xuất nhỏ. Trong điều kiện giai cấp vô sản nắm
quyền lãnh đạo thì: “Không việc gì phải sợ điều đó…nhà nước …có trong tay
đầy đủ phương tiện để cho phép những quan hệ đó-những quan hệ hiện đang có
ích và cần thiết trong hoàn cảnh sản xuất nhỏ-phát triển có chừng mực nhất
đònh và để kiểm soát những quan hệ đó” [7].
Ba là, giai cấp vô sản sử dụng chủ nghóa tư bản nhà nước gắn nhiệm vụ
cải tạo nền sản xuất tiểu nông, giai cấp công nhân, những người sản xuất nhỏ
với nhiệm vụ cải tạo thành phần kinh tế tư bản tư nhân và giai cấp tư sản kể cả
khi thành phần kinh tế này và tầng lớp tư sản mới được hình thành do việc thi
hành NEP . V.I.Lê nin cho rằng chính sách hợp lý nhất cần áp dụng khi CNTB
phục hồi đối với một nước quá độ lên CNXH từ nền sản xuất nhỏ và nông dân
chiếm đa số không phải là tìm cách ngăn cấm hay ngăn chặn sự phát triển của
nó, mà là tìm cách hướng nó vào con đường CNTB nhà nước.
Việc phát triển CNTB nhà nước không chỉ như là một biện pháp quá độ
đặc biệt một mắt khâu trung gian trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở một
nước tiểu nông với nền sản xuất nhỏ là phổ biến. Trong điều kiện giai cấp vô
sản nắm quyền lãnh đạo chính trò, Chính quyền Xô viết lãnh trách nhiệm quản
lý và điều tiết sản xuất, CNTB nhà nước chính là sự chuẩn bò vật chất đầy đủ
nhất cho chủ nghóa xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghóa xã hội. Nó là chiếc
cầu nhỏ vững chắc mà Chính quyền Xô viết cần phải bắc để xuyên qua nó đi
vào CNXH.

8


Việc sử dụng và phát triển CNTB nhà nước là một trong những nội dung cơ
bản của NEP, V.I.Lê nin không chỉ đề xuất mà còn yêu cầu Chính quyền Xô
viết tổ chức và sử dụng nhiều hình thức khác nhau của nó như tô nhượng trong

công nghiệp, hợp tác xã của người sản xuất nhỏ,tư nhân làm đại lý cho nhà nước
trong lónh vực thương nghiệp, cho tư nhân thuê nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản
xuất v.v. Trong số các hình thức đó của CNTB nhà nước, V.I.Lê nin rất coi trọng
hình thức hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ. Đồng thời V.I.Lê nin đã
dành sự quan tâm đặc biệt cho hình thức tô nhượng, hình thức cho tư bản nước
ngoài thuê lại các xí nghiệp thuộc sở hữu nhà nước. V.I.Lê nin coi trọng loại xí
nghiệp tô nhượng này bởi vì, hình thức tô nhượng trong công nghiệp chẳng
những có khả năng bảo đảm mức sống khá giả cho một bộ phận nào đó, dù là
nhỏ của giai cấp công nhân hiện đang làm việc tại các xí nghiệp tô nhượng ấy,
mà nó còn giúp cho giai cấp công nhân Nga học tập cách quản lý hợp lý, đẩy
nhanh việc khôi phục kinh tế, củng cố hoà bình đang là đòi hỏi bức thiết đối với
Chính quyền Xô viết ở thời điểm đó. V.I.Lê nin đã chỉ rõ: “Trong một nước tiểu
nông đã bò cực kỳ tàn phá và quá đỗi lạc hậu, thì sự phát triển của CNTB do nhà
nước vô sản kiểm soát và điều tiết là có lợi và cần thiết” [8].
Trong số các xí nghiệp tô nhượng, V.I.Lê nin luôn dành sự đánh giá cao
hơn cho kiểu xí nghiệp tô nhượng theo lối công ty liên doanh mà ở đó, nhà kinh
doanh nước ngoài hợp tác với nhà nước XHCN “theo cổ phần”. V.I.Lê nin coi
việc sử dụng rộng rãi các công ty liên doanh sẽ có lợi hơn cho công cuộc xây
dựng CNXH ở một nước nông nghiệp lạc hậu. Hình thức nhà nước cho tư nhân
thuê lại các xí nghiệp, hình thức thương nghiệp tư doanh, hình thức hợp tác xã
của những người sản xuất nhỏ cũng là hình thức CNTB nhà nước khi chúng
phục tùng, phục vụ nhà nước XHCN.
Những nội dung cơ bản của NEP cho thấy nó là giải pháp đúng đắn, mang
tính chiến lược, là vấn đề kinh tế-chính trò quan trọng nhất để cải tạo nền kinh
tế nông nghiệp lạc hậu theo hướng XHCN, cải thiêïn đời sống nhân dân, thu hút
họ vào công cuộc xây dựng CNXH với cách thức, biện pháp “dễ tiếp thu nhất”,
“đơn giản nhất”, “dễ dàng nhất”. NEP mở ra con đường đưa kinh tế tư bản tư
nhân vào quỹ đạo của CNTB nhà nước và cho phép giai cấp vô sản thực hiện
mục tiêu đã đònh.
2.Ý NGHĨA CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI CỦA V.I.LÊ NIN ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN

KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1ø Thực trạng kinh tế nước ta trước đổi mới
9


Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng (1975), mô hình kinh tế kế
hoạch hoá tập trung ở miền Bắc được áp dụng trên phạm vi cả nước. Kế hoạch
5 năm lần thứ hai (1976 – 1980) với các chỉ tiêu kinh tế –xã hội quá cao đã
được vạch ra, nhằm nhanh chóng xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghóa.
Mặc dù trong kế hoạch này có sự đầu tư khá lớn, nhưng phần lớn các chỉ tiêu
đều không đạt.
Trong khi đó, quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với các nước xã hội
chủ nghóa (Liên Xô và Đồng Âu) không còn nguồn viện trợ không hoàn lại như
trước nữa mà trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Mặt khác, do sự khó khăn về kinh
tế của các nước này, nên nguồn vốn vay từ các nước xã hội chủ nghóa chủ yếu
từ Liên Xô, ngày càng giảm sút, trong khi đó Mỹ tiếp tục bao vây, cấm vận
kinh tế, ngăn cản Việt Nam bình thường hoá quan hệ với các nước và tổ chức
quốc tế. Hơn nữa chiến tranh biên giới phía Bắc và chiến tranh biên giới Tây
Nam (1978 – 1979) gây ra những đảo lộn lớn trong nền kinh tế nước ta.
Do vậy, từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX, nền kinh tế nước ta bắt đầu
lâm vào tình trạng khủng hoảng: sản xuất đình trệ, tốc độ tăng trưởng rất thấp.
Thu nhập quốc dân trong những năm 1976-1980 chỉ tăng trung bình 0,4%/năm;
công nghiệp tăng 0,6%. Trong khi đó dân số hàng năm tăng nhanh (2,3%/năm).
Thu nhập bình quân đầu người giảm, lương thực bình quân đầu người giảm, từ
274kg/người năm 1976 xuống còn 268kg/người năm 1980. Lương thực thiếu
gay gắt, hàng năm phải nhập 70 – 80 vạn tấn. Hàng tiêu dùng thiết yếu thiếu
nghiêm trọng, chất lượng kém. Ngân sách thâm hụt, nhập siêu lớn, giá cả tăng
nhanh (20%/năm).
Kế hoạch 5 năm lần thứ 3 (1981 – 1985) tiếp tục thực hiện các mục tiêu

mà Đại hội Đảng lần thứ IV (1976) đã đề ra, kết quả là nền kinh tế đã lâm vào
khủng hoảng trầm trọng: các ngành sản xuất, dòch vụ bò đình trệ. Nền kinh tế
mất cân đối nghiêm trọng, thâm hụt lớn về thương mại và ngoại tệ. Thiếu hụt
trong cán cân thanh toán quốc tế, nhập siêu ngày càng lớn, nợ nước ngoài tăng.
Thất nghiệp lớn, lạm phát tăng nhanh, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp ngày càng nặng nề hơn.
Sau hai kế hoạch 5 năm kể từ khi thống nhất đất nước (1976 – 1985), nền
kinh tế Việt Nam đã rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Thu nhập
quốc dân bình quân mỗi năm chỉ tăng 3,7%, nông nghiệp tăng 3,8%. Sản lượng
lương thực năm 1985 là 18,2 triệu tấn, bình quân đầu người là 304kg.

10


Trước tình hình đó, Đảng ta khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước, trong đó có đổi mới kinh tế.
2.2. Quá trình đổi mới thành phần kinh tế ở Việt Nam
Nội dung cơ bản của NEP và những tư tưởng của V.I.Lê nin về thực hiện
NEP cho thấy, vấn đề vận dụng NEP trong bối cảnh của công cuộc đổi mới ở
nước ta hiện nay, trước hết chúng ta phải thấy được sự khác biệt về bối cảnh
lòch sử cụ thể. Thời kỳ thực hiện NEP ở nước Nga đầu những năm 20 so với
việc vận dụng NEP ở nước ta hiện nay là cả một khoảng thời gian khá dài.
Song, vấn đề kinh tế-xã hội mà NEP đã giải quyết thành công ở nước Nga khi
đó, có thể nói lại khá gần g với những vấn đề mà hiện nay chúng ta đang
phải giải quyết. Đương nhiên, bối cảnh lòch sử cụ thể ở nước Nga đầu những
năm 20 cũng như tình hình quốc tế ở thời kỳ đó không giống với thực tiễn lòch
sử ở nước ta hiện nay và bối cảnh quốc tế hiện thời.
Tính đến sự khác biệt về bối cảnh hiện thực đó, chúng ta cần thấy rằng,
nước Nga thực hiện NEP với điểm xuất phát là một nước đã trải qua giai đoạn
phát triển TBCN ít nhiều nền sản xuất công nghiệp đã được hình thành, cùng

tồn tại và phát triển với nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá nhỏ. Còn chúng ta
vận dụng NEP trong bối cảnh quá độ lên CHXH không qua phát triển TBCN,
cả sản xuất công nghiệp lẫn nông nghiệp cho đến nay vẫn đang trong tình trạng
lạc hậu, phân tán, thậm chí có lónh vực chưa đạt đến trình độ tiền tư bản. Nước
Nga thực hiện NEP trong bối cảnh quốc tế hết sức bất lợi, trong vòng vây của
chủ nghóa đế quốc và nguy cơ chiến tranh, dường như “một cách đơn độc” và
“có vẻ thuần tuý Nga”. Còn chúng ta vận dụng NEP trong bối cảnh đã có được
kinh nghiệm thực hiện NEP ở nước Nga và hàng loạt các nước XHCN trước
đây, cũng như kinh nghiệm của bản thân chúng ta thời kỳ trước đổi mới và giờ
đây, tuy CNXH không còn tồn tại với tư cách một hệ thống, song xu hướng quá
độ lên CNXH vẫn là một đặc trưng căn bản trong thời đại ngày nay. Bên cạnh
đó là xu hướng giao lưu hợp tác khu vực và quốc tế đang ngày càng mở rộng.
Trong bối cảnh hiện thực đó khi vận dụng NEP đòi hỏi phải nhằm mục tiêu
xây dựng thành công CNXH trên đất nước ta. Để thực hiện mục tiêu đó yêu cầu
cần phải phát triển kinh tế nhiều thành phần đònh hướng XHCN. Vận dụng NEP
đòi hỏi phải sử dụng đúng đắn quy luật giá trò quan hệ hàng tiền, tạo hành lang
pháp lý đầy đủ cho việc tự do trao đổi hàng hoá, tự do buôn bán và kinh doanh tư
nhân trên cơ sở thiết lập sự điều tiết của nhà nước ở mức độ hợp lý.

11


Khẳng đònh quan điểm vận dụng một cách sáng tạo và phát triển hơn nữa
những tư tưởng cơ bản của V.I.Lê nin về NEP nhằm mục đích sáng tạo ra nhiều
hình thức quá độ, những nấc thang trung gian đa dạng phù hợp với công cuộc
đổi mới ở nước ta hiện nay. Đảng ta chủ trương: “Đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác. Kinh tế nhà nước đóng vai trò
chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng, tạo điều kiện
và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư, làm ăn lâu
dài. Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với các

thành phần kinh tế khác cả trong và ngoài nước. p dụng phổ biến các hình
thức kinh tế tư bản nhà nước” [9].
Về việc áp dụng phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước và cho
phép tồn tại kinh tế tư bản tư nhân. Vấn đề này có nhiều quan niệm khác nhau,
một số quá nhấn mạnh tính đối kháng về chính trò giữa sự phát triển các hình
thức kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân với việc xây dựng nền kinh
tế đònh hướng XHCN. Những người theo quan điểm này cho rằng sự phát triển
các thành phần kinh tế này sẽ dẫn đến sự ra đời giai cấp tư sản, tầng lớp tư sản
mới và do vậy, có nguy cơ mất ổn đònh chính trò, đi chệch hướng XHCN. Thậm
chí có người còn cho rằng kinh tế thò trường và CNXH không thể cùng tồn tại.
Một số người khác khi đề cập vấn đề này đã đưa ra những đánh giá quá
cao về kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân. Họ chỉ nhận thấy ở
đó tính chất kinh tế, vai trò kinh tế. Vai trò đó được thể hiện ở tỷ trọng đóng
góp vốn đầu tư, tỷ trọng trong GDP, ở khả năng tạo công ăn việc làm, khai
thác tài nguyên… Từ những kết quả phát triển kinh tế đó họ cho rằng kinh tế tư
bản nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân không chỉ là một thành phần kinh tế
mà còn có ý nghóa như một chế độ kinh tế thống trò có tác dụng chi phối toàn
bộ nền kinh tế quốùc dân.
Một số người khác tuy cũng khẳng đònh tính tất yếu của việc phát triển
kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân, song lại cho rằng việc phát
triển các thành phần kinh tế này chỉ nên coi là tạm thời, là giải pháp tình thế
chứ không phải là giải pháp mang ý nghóa chiến lược lâu dài.
Tất cả những người theo quan niệm trên, dù là đánh giá thấp hay đánh giá
cao vai trò của kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân cũng đều thừa
nhận và luôn nhấn mạnh vai trò quyết đònh, chủ đạo của kinh tế nhà nước,
cũng như vai trò hết sức quan trọng của kinh tế tập thể trong nền kinh tế nhiều
thành phần đònh hướng XHCN.
12



Kinh tế tư bản nhà nước với tư cách là thành phần kinh tế: “Bao gồm các
hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân trong và
ngoài nước ngày càng phát triển đa dạng” [10]. Kinh tế tư bản nhà nước có vai
trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả
năng tổ chức quản lý… của các nhà tư bản vì lợi ích của bản thân họ, cũng như
của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Để kinh tế tư bản nhà nước
thực hiện được vai trò quan trọng đó, chúng ta chủ trương áp dụng nhiều
phương thức góp vốn kinh doanh giữa nhà nước với các nhà kinh doanh tư nhân
trong các nước nhằm “tạo thế, tạo lực” cho các doanh nghiệp Việt Nam phát
triển tăng sức hợp tác và cạnh tranh với bên ngoài. Cải thiện môi trường đầu tư
và nâng cao năng lực quản lý để thu hút có hiệu quả vốn đầøu tư trực tiếp của
nước ngoài.
Thực tiễn của công cuộc đổi mới được tiến hành ở nước ta những năm vừa
qua đã chứng minh rằng: trong bối cảnh quốc tế hiện nay chúng ta không có
điều kiện để quá độ thẳng, trực tiếp lê CNXH mà chỉ có khả năng thực hiện
bước quá đôï gián tiếp. Với đường lối đổi mới phát triển đất nước theo đònh
hướng XHCN. Đảng ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, phát triển kinh tế thò trường, cho phép tự do buôn bán, trao đổi hàng hoá,
thu hút đầu tư nước ngoài, góp vốn, hợp tác, liên doanh với tư bản nước ngoài.
Phát triển doanh nghiệp tư nhân, cổ phần hoá các xí nghiệp nhà nước làm ăn
thua lỗ v.v. điều đó có thể dẫõn tới sự phục hồi CNTB ở một mức độ nhất đònh
nào đó. Song, một khi CNTB được phục hồi, thì biện pháp hữu hiệu nhất như
V.I.Lê nin đã khẳng đònh, không phải là thủ tiêu nó, mà tìm cách hướng nó vào
con đường CNTB nhà nước. Đương nhiên, trong điều kiện hiện nay, các hình
thức của CNTB nhà nước không còn hoàn toàn giống như các hình thức thời
V.I.Lê nin đầu những năm 20 mà đa dạng, phong phú hơn nhiều. Nhưng dù có
đa dạng, phong phú đến đâu đi chăng nữa, thì những hình thức của CNTB nhà
nước đó, trong điều kiện giai cấp vô sản nắm quyền lãnh đạo và thực hiện
công cuộc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo đònh hướng XHCN, nó chỉ là những bước quá độ, những

khâu trung gian để phát triển lực lượng sản xuất đưa nước ta quá độ lên CNXH.

13


Điều đó được quy đònh bởi lẽ, cho đến nay có thể nói, chúng ta mới chỉ
hoàn thành về cơ bản chặng đường đầu của thời kỳ quá độ và nhìn chung vẫn
là một nước kinh tế tiểu nông. Thêm vào đó do hậu quả của chiến tranh, do
thực hiện cơ chế quản lý tập trung, bao cấp kéo dài. Chúng ta chưa có được
“phòng chờ” để đi vào CNXH. Do vậy, tất yếu phải tự mình tạo ra “phòng
chờ” đó, tự mình bắc “những chiếc cầu nhỏ” để đi lên CNXH. Phát triển các
hình thức kinh tế tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở một nước
tiểu nông, sản xuất hàng hoá nhỏ như nước ta hiện nay không chỉ là con đường,
là phương tiện để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá, hiện
đại hoá mà còn nhằm đưa nước ta nhanh chóng thoát khỏi tình trạng của một
nước nghèo và chậm phát triển, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn nữa so với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh tiến từng bước vững chắc lên CNXH.
Vấn đề phát triển kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã trong bối
cảnh xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, Đảng ta khẳng
đònh: “Kinh tế tập thể với các hình thức hợp tác đa dạng. Chuyển đổi hợp tác
xã cũ theo Luật hợp tác xã đạt hiệu quả thiết thực. Phát triển hợp tác xã kinh
doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành để sản xuất hoặc kinh doanh
dòch vụ, tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh phù hợp quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá” [11]. Với quan niệm như vậy về kinh tế tập
thể Đảng ta chủ trương phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng
từ thấp đến cao, được tổ chức theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng cùng có
lợi quản lý dân chủ, trên cơ sở đóng góp cổ phần và tham gia lao động trực
tiếp của các thành viên.


14


Thực tiễn những năm đổi mới ở nước ta cho thấy, quá độ lên CNXH từ
nền sản xuất hàng hoá nhỏ, lạc hậu, nông dân chiếm đại bộ phận dân cư,
chúng ta không thể không phát triển kinh tế hợp tác xã. Từ những tư tưởng cơ
bản của V.I.Lê nin về NEP và quan niệm của ông về chế độ hợp tác xã trong
nền kinh tế nhiều thành phần đòi hỏi chúng ta phải coi kinh tế hợp tác xã như
là một tế bào của nền kinh tế thò trường. Bản thân V.I.Lê nin khi nói về việc
thi hành NEP và thực hiện chế độ hợp tác xã cũng đã cho rằng, những biện
pháp quá độ lên CNXH ở các nước đại công nghiệp và các nước tiểu nông
nghiệp không thể giống nhau. Trong mỗi thời đại lòch sử đặc biệt, trong mỗi
hoàn cảnh cụ thể, chúng ta phải tìm ra và thực hiện được những biện pháp đặc
biệt, phù hợp với thời đại với hoàn cảnh đó. Thêm vào đó, ứng với mỗi giai
đoạn lòch sử chúng ta cần phải tìm ra “cái mắt xích đặc biệt” và khi đã tìm ra
nó thì cần phải “nắm lấy để giữ vững được toàn bộ cái xích” và chuẩn bò cho
bước chuyển vững chắc sang mắt xích kế bên.
Những tư tưởng đó của V.I.Lê nin cho thấy từ một nước nông nghiệp lạc
hậu như nước ta quá độ lên CNXH, chúng ta chỉ có thể thực hiện cách mạng
XHCN bằng một loạt biện pháp quá độ đặc biệt, quá độ gián tiếp, chứ không
thể tiến thẳng lên CNXH . Một khi chúng ta chưa có được nền đại công nghiệp
cơ khí, chưa có được nền sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, có trình độ phát
triển cao, xét về phương diện kinh tế thì sự tồn tại kinh tế hợp tác thiết nghó là
tất yếu và cần thiết. Một khi chúng ta chưa có điều kiện để “chuyển trực tiếp”
từ nền tiểu sản xuất lên nền sản xuất lớn XHCN, thì ở một chừng mực nào đó
CNTB nhà nước, hợp tác xã là “không thể tránh khỏi”, nó là “sản vật tự nhiên
của nền tiểu sản xuất và trao đổi” và sự tồn tại của nó với tư cách là “mắt xích
trung gian” giữa sản xuất nhỏ và nền sản xuất lớn XHCN là hoàn toàn cần
thiết và có lợi, nhất là khi hướng nó theo quỹ đạo của CNXH, làm cho nó trở
thành một phương thức hữu hiệu để phát triển lực lượng sản xuất.


15


Với cơ sở lý luận đó thực tiễn của hơn 15 năm đổi mới đất nước theo
đònh hướng XHCN và cụ thể hoá Nghò quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Hội nghò toàn thể Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 5 đã thông qua
nghò quyết về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập
thể. Trong nghò quyết đó Đảng ta chủ trương: “Tiếp tục phát triển kinh tế tập
thể trong các ngành, lónh vực, đòa bàn, trong đó trọng tâm ở khu vực nông
nghiệp, nông thôn, phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp, nông thôn
phải trên cơ sở bảo đảm quyền tự chủ của kinh tế hộ, trang trại, hỗ trợ đắc lực
cho kinh tế hộ, trang trại phát triển; gắn với tiến trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; không ngừng phát triển sức
sản xuất, nâng cao năng xuất, hiệu quả và sức cạnh tranh trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế” [12].
Để phát triển các hình thức hợp tác, liên kết giữa các thành phần kinh tế
diễn ra một cách thuận lợi, có hiệu quả, chúng ta chủ trương thực hiện Luật
hợp tác xã trong các lónh vực, các khu vực sản xuất, vận động và giúp đỡ các
tiểu thương, tiểu chủ tự nguyện xây dựng các cơ sở kinh tế hợp tác đa dạng, từ
thấp đến cao; thành lập tổ chức hội nghề nghiệp, nghiệp đoàn trong những
ngành nghề thích hợp. Phát triển nhiều hình thức hợp tác, liên kết giữa kinh tế
nhà nước với các thành phần kinh tế khác trên nguyên tắc tự nguyện, bình
đẳng và bảo đảm lợi ích hợp pháp của mỗi chủ thể kinh tế.
Theo Luật hợp tác xã đã được Quốc hội thông qua tháng 05/1996, các hợp
tác xã kiểu mới ở nước ta đã bước đầu được hình thành dựa trên quyền tự chủ
kinh doanh của mỗi hộ nông dân, được Nhà nước giao quyền sử dụng đất lâu
dài đểû phát triển sản xuất. Các hợp tác xã kiểu mới đó cần phải được coi là
một tế bào của kinh tế thò trường. Mục tiêu đặt ra đối với các hợp tác xã kiểu
mới là vì sự hoạt động có hiệu quả của kinh tế hộ nông dân. Tuy nhiên, trong

nền kinh tế nhiều thành phần mà chúng ta đang ra sức xây dựng và phát triển,
khi chúng ta đang cùng nhau tìm kiếm những con đường hữu hiệu để nâng cao
hiệu quả sản xuất nông nghiệp, cũng như toàn bộ nền kinh tế đất nước, bên
cạnh việc khuyến khích phát triển các hợp tác xã kiểu mới, chúng ta không thể
không quan tâm đến những hình thức nhỏ của sản xuất nông nghiệp, đến kinh
tế trang trại nhỏ và vừa, kinh tế hộ gia đình. Chính sách khoán 10 những năm
trước đây là một ví dụ. Với chính sách đó, chúng ta đã cho phép kinh tế hộ gia
đình, kinh tế trang trại nhỏ phát triển và nhờ đó sản xuất nông nghiệp ở nước ta
đã có bước phát triển đáng kể. Nhờ nó mà quyền chủ động sản xuất, kinh
doanh của người nông dân được giải phóng khỏi những ràng buộc sắc lệnh.
16


Nhận thức rõ hiệu quả của thành phần kinh tế này, tại Hội nghò lần thứ
năm Ban Chấp hành Trung ương khoá IX Đảng ta chủ trương: “Miễn thuế sử
dụng đất nông nghiệp trong hạn điền đến năm 2010 cho hộ nông dân. Miễn thuế
thu nhập doanh nghiệp trong một thời gian nhất đònh đối với hợp tác xã nông,
lâm, diêm, ngư nghiệp mới chuyển đổi hoặc mới thành lập. Thực hiện chính
sách hỗ trợ đầu vào, đầu ra cho sản xuất nông nghiệp” [13].
Thực hiện chủ trương đó, chúng ta đã chủ động đầu tư và thu hút vốn của
các thành phần kinh tế khác, trong đó kinh tế hợp tác xã đã góp phần không
nhỏ, vào việc xây dựng các doanh nghiệp mới, cải tạo, mở rộng các doanh
nghiệp hiện có. Trên thực tế, các doanh nghiệp đó đã ra đời và bắt đầu hoạt
động có hiệu quả. Có thể nói, trong công cuộc đổi mới đất nước, với sự nhận
thức hết sức rõ ràng và đúng đắn về ý nghóa quốc tế và tính thời sự của NEP.
Đảng ta đã khẳng đònh việc vận dụng sáng tạo tư tưởng của V.I.Lê nin về NEP,
nhất là quan niệm về CNTB nhà nước, về hợp tác xã là vấn đề có ý nghóa đặc
biệt quan trọng trong việc sáng tạo ra những hình thức quá độ phù hợp với bối
cảnh của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
2.3. Một số suy nghó bước đầu về quân đội tham gia sản xuất, xây dựng

kinh tế ở nước ta hiện nay.
Từ năm 1995 đến nay, quán triệt sâu sắc các Nghò quyết, Chỉ thò của Đảng
và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới, tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, đặc biệt là Nghò quyết số 06/ NQ- ĐUQSTƯ ngày 10 tháng 01 năm
1995 của Đảng uỷ Quân sự Trung ương về nhiệm vụ lao động sản xuất và làm
kinh tế của quân đội. Chỉ thò 103/ CT- ĐUQSTƯ ngày 23 tháng 05 năm 1998
về việc sắp sếp, tổ chức lại doanh nghiệp trong quân đội. Nghò quyết 150/ NQĐUQSTƯ ngày 01 tháng 08 năm 1998 của Đảng uỷ Quân sự Trung ương về
nhiệm vụ tham gia lao động sản xuất, làm kinh tế, phát huy vai trò nòng cốt
tham gia xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội, củng cố quốc phòng- an ninh
trên các đòa bàn chiến lược.

17


Quân đội với tư cách là lực lượng nòng cốt trong thực hiên hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghóa. Hơn lúc
nào hết quân đội phải nhận thức sâu sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao
cho, trong đó có nhiệm vụ tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế. Đảng ta chỉ rõ:
“Tiếp tục khẳng đònh tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế là một nhiệm vụ chiến
lược của quân đội nhằm duy trì năng lực sản xuất quốc phòng, góp phần tăng
cường khả năng sẵn sàng chiến đấu. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, quân đội
phải phấn đấu là một trong những nguồn nội lực của đất nước trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và là lực lượng nòng cốt giải quyết các vấn đề
quốc phòng - an ninh, kinh tế-xã hội trên các đòa bàn chiến lược, nơi biên giới,
hải đảo, vùng biển đặc quyền kinh tế” [14].
Trong tình hình hiện nay nhiệm vụ tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế
của quân đội có ý nghóa rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nước, đồng thời góp phần xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại đáp ứng với yêu cầu mới hiện nay. Để thực hiện tốt
nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế các lực lượng quân đội phải có chuyển

biến mạnh mẽ cả nhận thức và hành động góp phần làm cho kinh tế nhà nước
luôn giữ vai trò chủ đạo đònh hướng xã hội chủ nghóa. Xây dựng các khu kinh
tế quốc phòng trên các đòa bàn khó khăn, biên giới, hải đảo theo kế hoạch của
Nhà nước. Thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, lo dòch vụ sản xuất, tạo
điều kiện cho dân phát triển kinh tế-xã hội, tạo dựng lòng tin của dân, từ đó
xây dựng thế trận quốc phòng- an ninh vững chắc. Các doanh nghiệp trên cơ sở
sắp sếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất-kinh doanh, hoàn
thành tốt nhiệm vụ quốc phòng giao, chấp hành đúng pháp luật Nhà nước và
quy đònh của Bộ Quốc phòng. Để lực lượng quân đội tham gia sản xuất, xây
dựng kinh tế đạt hiệu quả cao, một yếu tố không thể thiếu là phải đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng, sự kiểm soát của Nhà nước. Đổi mới tư duy, đặc biệt là tư
duy kinh tế, kiên quyết loại bỏ kiểu tư duy cũ dẫn đến ỷ lại, trông chờ kém
năng động trong sản xuất, xây dựng kinh tế.
Như vậy, quân đội tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế là một nhiệm vụ có
ý nghóa chiến lược trong tình hình hiện nay. Để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đó
đòi hỏi phải giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề, trong đó chủ thể kinh tế là các lực
lượng quân đội tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế giữ vai trò quyết đònh.
KẾT LUẬN
18


Chính sách kinh tế mới là giải pháp đúng đắn, hợp lý mang tính chiến
lược, là vấn đề kinh tế và chính trò quan trọng nhất để cải tạo nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu theo hướng xã hội chủ nghóa, cải thiện đời sống nhân dân, thu
hút họ vào công cuộc xây dựng chủ nghóa xã hội với cách thức, biện pháp dễ
tiếp thu nhất, đơn giản nhất, dễ dàng nhất. Chính sách kinh tế mới mở ra con
đường đưa kinh tế tư bản tư nhân, tầng lớp tư sản mới và chủ nghóa tư bản khi
nó được phục hồi ở một mức độ nào đó vào q đạo của chủ nghóa tư bản nhà
nước và cho phép giai cấp vô sản “bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc” xuyên
qua chủ nghóa tư bản nhà nước lên chủ nghóa xã hội một cách chậm hơn nhưng

chắc chắn hơn. Chính sách kinh tế mới là giải pháp hữu hiệu để tăng cường
quyền lực nhà nước, củng cố vai trò lãnh đạo của giai cấp vô sản, củng cố vững
chắc khối liên minh công -nông trên cơ sở kinh tế.
Qua tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm và nghiên cứu lý luận, Đảng
ta đã khẳng đònh một cách đúng đắn rằng: trong thời đại ngày nay, con đường
đưa nước ta đi lên chủ nghóa xã hội một cách vững chắc không thể là con
đường nào khác ngoài việc vận dụng một cách sáng tạo và tiếp tục phát triển
chủ nghóa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng của
V.I.Lênin về NEP, về chủ nghóa tư bản nhà nước nhằm sáng tạo ra nhiều hình
thức quá độ, nhiều nấc thang trung gian, phù hợp với hoàn cảnh lòch sử cụ thể
của nước ta trong bối cảnh quốc tế hiện thời. Những tư tưởng cơ bản của
V.I.Lênin về NEP vẫn là “cái cẩm nang thần kỳ”, cơ sở lý luận để chúng ta
hoạch đònh con đường qúa độ lên chủ nghóa xã hội ở nước ta. Chính vì vậy,
việc vận dụng và phát triển NEP một cách sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của thực
tiễn nước ta hiện nay cần phải được coi là cơ sở lý luận của công cuộc đổi mới,
của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và là cách tiếp cận mới
mang tính nguyên tắc về chủ nghóa xã hội trong thời đại ngày nay.
Quân đội nhân dân Việt Nam, lực lượng nòng cốt trong xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghóa có vai trò hết sức quan trọng góp phần tạo ra môi
trường ổn đònh để thực hiện đường lối đổi mới nói chung và đổi mới kinh tế nói
riêng. Từ những tư tưởng của V.I.Lê nin về NEP và quan điểm của Đảng ta đối
với nhiệm vụ của quân đội tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế trong
giai đoạn hiện nay. Chúng ta càng nhận thức sâu sắc đây là nhiệm vụ chiến
lược, đòi hỏi toàn quân phát huy tính năng động sáng tạo, khắc phục khó khăn
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao cho, góp phần thực
hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong tình
hình mới.
19



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb. CTQG, HN, 1996, tr.67
[2]. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghò đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khoá VII, Nxb. CTQG, HN, 1994, tr.24
[3]. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến Bộ, M, 1978, Tập 43, tr.294
[4]. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến Bộ, M, 1978, Tập 43, tr.262
[5]. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến Bộ, M, 1977, Tập 45, tr.331
[6]. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến Bộ, M, 1977, Tập 43, tr.427, 428.
[7]. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến Bộ, M, 1977, Tập 43, tr 331.
[8]. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến Bộ, M, 1977, Tập 44, tr 9.
[9]. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb CTQG, HN, 1996, tr.92
[10]. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX,
Nxb CTQG, HN, 2001, tr.191
[11]. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb CTQG, HN, 2001, tr.190
[12]. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghò lần thứ năm BCHTƯ
Khoá IX, Nxb. CTQG, HN, 2002, tr.30,31
[13].Đảng cộng sản Việt Nam : Văn kiện Hội nghò lần thứ năm BCHTƯ
Khoá IX, Nxb. CTQG,HN ,2002, tr.34,35
[14]. Nghò quyết số 71/ ĐUQSTƯ ngày 25 tháng 4 năm 2002 của
ĐUQSTƯ về nhiệm vụ sản xuất xây dựng kinh tế của Quân đội trong thời kỳ
mới – tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp
Quân đội.

20


21




×