Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC - LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC TRONG TÁC PHẨM “NGUỒN GỐC CỦA GIA ĐÌNH, CỦA CHẾ ĐỘ TƯ HỮU VÀ CỦA NHÀ NƯỚC” CỦA ĂNGGHEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.47 KB, 17 trang )

LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC TRONG TÁC PHẨM “NGUỒN GỐC CỦA GIA ĐÌNH,
CỦA CHẾ ĐỘ TƯ HỮU VÀ CỦA NHÀ NƯỚC” CỦA ĂNGGHEN. Ý NGHĨA
TRONG VIỆC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM

Ăngghen viết tác phẩm ''Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và
của nhà nước'' trong hai tháng từ cuối tháng Ba đến cuối tháng Năm 1884,
nhân có những công trình nghiên cứu của nhà Nhân chủng học người Mỹ
H.Moócgan; cùng với việc nghiên cứu lịch sử nhà nước Hylạp, Rôma,
Giécmanh.
Trong thời điểm này chủ nghĩa đế quốc phát triển tương đối hoà bình,
đồng thời cũng là thời kì giai cấp vô sản tập hợp lực lượng để chuẩn bị cho
những cuộc cách mạng sắp tới.
Tình hình kinh tế, chính trị- xã hội nước Đức cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20
diễn ra hết sức phức tạp:
Về kinh tế: nước Đức vẫn là nước kém phát triển so với các nước đã tiến
hành cách mạng tư sản như Anh, Pháp, Hà lan.
Về chính trị- xã hội: giai cấp tư sản Đức vừa yếu kém về kinh tế vừa bạc
nhược về chính trị, nó mang tính hai mặt, một mặt muốn làm cách mạng để
xoá bỏ chế độ phong kiến quân chủ, mặt khác lại sợ lực lượng cách mạng
đang lên- sợ giai cấp vô sản, do đó giai cấp tư sản Đức hèn nhát, cải lương,
thoả hiệp với giai cấp phong kiến.
Trong khi đó, giai cấp vô sản Đức còn nhiều hạn chế: chưa ý thức một
cách rõ ràng vai trò lịch sử của mình, chưa được tổ chức chặt chẽ và còn bị
ảnh hưởng của các tư tuởng cơ hội, thoả hiệp, cải lương xâm nhập. Trong
điều kiện đó xuất hiện các luận thuyết sai lầm của Bachopen, của Lecnan khi
giải thích về lịch sử gia đình.
Từ các lý do nêu trên đã thôi thúc Ăngghen viết tác phẩm “Nguồn gốc của
gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”.
Lúc đầu Ăngghen đề nghị in tác phẩm của mình trong tạp chí lí luận hợp


pháp “Thời mới” của đảng dân chủ xã hội Đức nhưng về sau ông bỏ kế hoạch
vì nhận thấy tác phẩm sẽ không được ấn hành do khuynh hướng chính trị của
nó. Cuốn sách đã được ra mắt ở Xuyrich vào đầu tháng Mười năm 1884. Thời
gian đầu, bọn cầm quyền Đức gây trở ngại cho việc phát hành, nhưng về sau
những khó khăn đó đã được khắc phục và tác phẩm được tiếp tục xuất bản những
lần tiếp theo, với các thứ tiếng khác nhau như tiếng Xecbi, Balan, Rumani, Italia, Đan
mạch; Ăngghen đã hiệu đính các bản dịch tiếng Italia, Đan mạch.


2

2

Tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước''
tiếp tục được xuất bản lần thứ tư có sửa đổi và bổ sung vào cuối năm 1891 ở
Stútgát. Khi Ăngghen còn sống, tác phẩm được xuất bản lần thứ năm vào
năm 1892 và lần thứ sáu vào năm 1894, nhưng nội dung không có gì thay
đổi so với lần xuất bản thứ tư. Tác phẩm của Ăngghen được xuất bản bằng
tiếng Nga lần đầu tiên ở Pêtécbua vào năm 1894. Về sau tác phẩm nhiều lần
được xuất bản bằng tiếng Nga và những tiếng khác.
II. KẾT CẤU CỦA TÁC PHẨM

Tác phẩm gồm có lời tựa cho hai lần xuất bản (lần thứ nhất năm 1848,
lần thứ hai năm 1891) và 9 chương:
- Chương I: Những giai đoạn văn hoá tiền sử;
- Chương II: Gia đình;
- Chương III: Thị tộc I-rô-qua;
- Chương IV: Thị tộc Hy Lạp;
- Chương V: Sự ra đời của Nhà nước A-ten;
- Chương VI: Thị tộc và Nhà nước ở La Mã;

- Chương VII: Thị tộc của người Kentơ và của người Giéc Manh;
- Chương VIII: Sự hình thành Nhà nước ở người Giéc Manh;
- Chương IX: Thời đại dã man và thời đại văn minh.
Tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước''
được in trong C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Tập 21 , Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1995 (từ trang 41 đến trang 265).
III. NHỮNG QUAN ĐIỂM DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ NHÀ NƯỚC CỦA ĂNGGHEN
TRONG TÁC PHẨM

1. Quan điểm duy vật lịch sử về vấn đề nhà nước.
Đây là một trong những vấn đề chủ yếu được Ăngghen trình bày trong tác
phẩm và thể hiện sự phát triển sâu sắc những quan điểm của Mác về nhà nước.
Vấn đề nhà nước được Ăngghen trình bày rõ qua chương V đến chương IX của
tác phẩm, trong đó những kết luận quan trọng được chỉ ra trong chương IX
“thời đại dã man và thời đại văn minh”.
1.1. Tính tất yếu của nhà nước
Trong xã hội nguyên thuỷ chưa có sự xuất hiện của nhà nước, qua phân tích
các thị tộc Irôqua, thị tộc Hylạp, Ăngghen đã khẳng định ở xã hội đó chưa có cơ
sở để hình thành nhà nước. Ăngghen viết: “Căn cứ theo Moócgan, tôi đã mô tả lại

2

2


3

3

chế độ đó một cách chi tiết, vì ở đây, chúng ta có dịp nghiên cứu tổ chức của một

xã hội chưa từng biết đến nhà nước”1.
Tuy nhiên ông cũng chỉ ra rằng vẫn có các cơ quan điều hành chung của xã
hội. Đặc điểm của các cơ quan đó là các tù trưởng, tộc trưởng, liên minh các
thiết chế xã hội tự nguyện nảy sinh để điều hành xã hội. (Ăngghen phân tích từ
trang 142 đến trang 147).
Về bản chất nó khác với bản chất nhà nước sau này: nó không có quân đội,
công an, cảnh sát, quan toà và nhà tù...thế mà mọi việc đều trôi chảy. Ăngghen
viết: “Với tất cả tính ngây thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc đó quả là một tổ
chức tốt đẹp biết bao! Không có quân đội, hiến binh và cảnh sát, không có quý
tộc, vua chúa, tổng đốc, trưởng quan và quan toà, không có nhà tù, không có
những vụ xử án, thế mà mọi việc đều trôi chảy”2.
Ăngghen khẳng định trong quá trình vận động, phát triển của xã hội,
những thiết chế của xã hội cộng sản nguyên thuỷ tất yếu bị phá vỡ, thay thế vào
đó một thiết chế phù hợp hơn đó là nhà nước. Ông viết: “Quyền lực của cộng
đồng nguyên thuỷ đó nhất định phải bị đập tan- và nó đã bị đập tan...Đã làm suy
yếu xã hội thị tộc không có giai cấp và đã đưa xã hội đó đến chỗ diệt vong. Và bản
thân xã hội mới, trong suốt hai nghìn năm trăm năm tồn tại, vẫn không phải là
cái gì khác mà chỉ là sự phát triển của cái thiểu số nhỏ, một sự phát triển bằng
mồ hôi nước mắt của tuyệt đại đa số những người bị bóc lột, áp bức và hiện nay
xã hội đó vẫn là như vậy, trên một mức độ lớn hơn bao giờ hết”3.
Như vậy, Ăngghen đã khẳng định một xã hội để hình thành nhà nước phải
có những cơ sở của nó, nhà nước không phải là thứ quyền lực từ bên ngoài áp
đặt vào.
1.2. Về nguồn gốc nhà nước
Ăngghen đã phê phán quan điểm duy tâm về nguồn gốc của nhà nước: nhà
nước không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội, không phải là
hiện thực của ý niệm đạo đức hay là hình ảnh và hiện thực của lý tính như
Hêghen khẳng định. Ông viết: “Nhà nước quyết không phải là một quyền lực từ
bên ngoài áp đặt vào xã hội, không phải là “hiện thực của ý niệm đạo đức” là
“hình ảnh và hiện thực của lý tính” như Hêghen đã khẳng định”4.

gốc:

Nhà nước nảy sinh trong xã hội; theo Ăngghen, nhà nước ra đời do hai nguồn

1 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 145- tr 146.
2 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 147.
3 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 150.
4 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 252.

3

3


4

4

Nguồn gốc sâu xa: xuất phát từ nguồn gốc kinh tế, đó là kết quả của sự
phân công lao động xã hội, chế độ chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Ăngghen
viết: “Nó đã bị sự phân công và hậu quả của sự phân công ấy- tức là sự phân
chia của xã hội thành giai cấp- phá tan. Nó đã bị nhà nước thay thế”5.
Về nguồn gốc trực tiếp: biểu hiện về mặt chính trị xã hội, dẫn đến sự phân
công xã hội thành giai cấp và mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được dẫn
đến sự ra đời của nhà nước để duy trì xã hội trong một “trật tự” nhất định. Từ
mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được đã dẫn tới giai cấp thống trị đã
buộc các cơ quan đứng đầu thị tộc, bộ lạc dần dần xa rời nhân dân đối lập với lợi
ích của nhân dân và trở thành cơ quan áp bức nhân dân. Ăngghen viết: “Nhà
nước là sản phẩm của một xã hội đã phát triển tới một giai đoạn nhất định; nó
là sự thú nhận rằng xã hội đó bị lúng túng trong một mối mâu thuẫn với bản

thân mà không sao giải quyết được, rằng xã hội đó đã bị phân thành những mặt
đối lập không thể điều hoà mà xã hội đó bất lực không sao loại bỏ được. Nhưng
muốn cho những mặt đối lập đó, những giai cấp có quyền lợi kinh tế mâu thuẫn
nhau đó, không đi đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội trong một
cuộc đấu tranh vô ích, thì cần phải có một lực lượng cần thiết, một lực lượng rõ
ràng là đứng trên xã hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung
đột đó nằm trong vòng “trật tự”. Và lực lượng đó, nẩy sinh ra từ xã hội, nhưng
lại đứng trên xã hội và ngày càng tách khỏi xã hội, chính là nhà nước”6.
Sau này khi nghiên cứu quan điểm trên đây của Ăngghen, Lênin đã nhấn
mạnh rằng Nhà nước là sản phẩm của những mâu thuẫn giai cấp không thể
điều hoà được. Và chỉ rõ tư tưởng của Ăngghen về việc Nhà nước có thể “làm
dịu” mâu thuẫn, xung đột trong xã hội không có nghĩa Nhà nước là cơ quan điều
hoà mâu thuẫn giai cấp. Rõ ràng nhà nước không phải là một quyền lực từ bên
ngoài áp đặt vào xã hội, không phải là “hiện thực của ý niệm đạo đức” là “hình
ảnh và hiện thực của lý tính” như Hêghen khẳng định.
1.3. Về đặc trưng của nhà nước
Ăngghen đã chỉ ra hai đặc trưng cơ bản của nhà nước, để phân biệt nhà
nước với các tổ chức trong xã hội. Đặc trưng của nhà nước được Ăngghen phân
tích một cách sâu sắc, ông cho rằng nhà nước có đặc trưng phân chia dân cư
theo địa vực và thiết lập quyền lực công cộng.
Đặc trưng thứ nhất của nhà nước được Ăngghen phân tích và ông cho rằng
nhà nước có đặc trưng phân chia dân cư theo địa vực cư trú tức là phân chia
theo lãnh thổ; nhà nước quản lý thần dân theo lãnh thổ chứ không theo huyết
thống. Ăngghen viết: “So với tổ chức hệ tộc trước kia thì đặc trưng thứ nhất của
5 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 251.
6 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 252- tr 253.

4

4



5

5

nhà nước là ở chỗ nó phân chia thần dân của nó theo địa vực...Cách tổ chức
những công dân của nhà nước theo địa vực họ cư trú như thế, là một đặc điểm
chung của tất cả các nhà nước” 7. Ăngghen cũng chỉ ra đó là kết quả của sự đấu
tranh gay go và lâu dài mới xác lập được, Ông viết: “Cho nên chúng ta thấy tổ
chức đó hình như là điều tự nhiên; nhưng chúng ta đã thấy rằng cần phải trải
qua một cuộc đấu tranh gay go và lâu dài như thế nào thì tổ chức đó mới được
xác lập, ở Aten và ở La Mã, thay cho tổ chức cũ theo thị tộc”8.
Đặc trưng thứ hai của nhà nước là sự thiết lập một quyền lực công cộng
đặc biệt, bản thân nhà nước là một bộ máy là cơ quan quyền lực chính trị, gắn
với nó là công cụ đặc biệt- tổ chức ra lực lượng vũ trang, nhà tù... và không còn
trực tiếp là dân cư tự tổ chức thành lực lượng vũ trang nữa. Ăngghen viết: “Đặc
trưng thứ hai của nhà nước là sự thiết lập một quyền lực công cộng, không còn
trực tiếp là dân cư tự tổ chức thành lực lượng vũ trang nữa. Quyền lực công
cộng đặc biệt đó là cần thiết, vì từ khi có phân chia xã hội thành giai cấp thì
không thể có tổ chức vũ trang tự hoạt động của dân cư được nữa...Quyền lực
công cộng đó đều tồn tại trong mỗi nhà nước”9.
Để duy trì quyền lực công cộng đó, nhà nước cần phải huy động sự đóng
góp của công dân đó là thuế. Ăngghen viết tiếp: “Để duy trì quyền lực công cộng
đó, cần phải có sự đóng góp của công dân đó là thuế má...Nắm được quyền lực
công cộng và quyền thu thuế, bọn quan lại, với tư cách là những cơ quan của xã
hội, được đặt lên trên xã hội” 10. Sau này quyền thu thuế được tách ra thành đặc
trưng riêng của nhà nước.
1.4. Về bản chất của nhà nước
Một điểm đặc biệt quan trọng mà trong tác phẩm “nguồn gốc các gia đình

của chế độ tư hữu và của nhà nước”, Ăngghen đã chỉ ra, đó là về bản chất giai
cấp của nhà nước. Đi từ nguồn gốc ra đời của nhà nước và những đặc trưng cơ
bản của nhà nước trong xã hội có đối kháng giai cấp, ông đã chỉ rõ nhà nước
mang bản chất của một giai cấp, không có nhà nước phi giai cấp. Nhà nước là công
cụ áp bức của giai cấp này với giai cấp khác và nhà nước bao giờ cũng của một giai
cấp nhất định- giai cấp đó thống trị xã hội bằng kinh tế- quyền lực kinh tế. Vì vậy nhà
nước mang bản chất của một giai cấp tổ chức ra nó, không thể có một nhà nước
chung chung phi giai cấp. Ăngghen viết: “Vì nhà nước nảy sinh từ nhu cầu phải
kiềm chế những sự đối lập giai cấp; vì nhà nước đồng thời cũng nảy sinh ra giữa
cuộc xung đột của các giai cấp ấy, cho nên theo lệ thường, nhà nước là nhà nước
của giai cấp có thế lực nhất, của cái giai cấp thống trị về mặt kinh tế và nhờ có
7 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 253.
8 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 253
9 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 253- tr 254.
10 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 254.

5

5


6

6

nhà nước mà cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị và do đó có thêm
được những phương tiện mới để đàn áp và bóc lột giai cấp bị áp bức”11.
Theo quan điểm của Ăngghen thì khi phân tích cơ cấu xã hội- giai cấp của
một xã hội cụ thể, chúng ta có thể chỉ ra được nhà nước trong xã hội ấy là của
giai cấp nào. Trong xã hội cũ dựa trên sự đối kháng giai cấp, chỉ có các nhà nước

của giai cấp chủ nô, giai cấp phong kiến, giai cấp tư sản. Không có cái gọi là nhà
nước phi giai cấp, nhà nước điều hoà mâu thuẫn giai cấp như những kẻ xuyên
tạc chủ nghĩa Mác tuyên truyền. Ăngghen còn khẳng định thêm: “Nhà
nước là một tổ chức của giai cấp hữu sản, dùng để bảo vệ giai cấp này,
chống lại giai cấp không có của” 12 .
Tuy nhiên, theo Ăngghen có những trường hợp ngoại lệ, trong chừng mực
nào đó nhà nước ở vị trí trung lập, đại diện cho một số giai cấp nhất định, nó
phản ánh thế cân bằng tạm thời giữa các giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp sẽ
phá vỡ thế cân bằng đó. Theo Ăngghen nhà nước tựa hồ như của hai giai cấp cơ
bản, đó là nhà nước của thời kỳ mà trong đó cuộc đấu tranh của những giai cấp
ấy đang ở thế “bình quân”, cân bằng tạm thời. Song những trường hợp này
không tồn tại lâu dài. Chẳng hạn như chế độ quân chủ chuyên chế ở thế kỷ XVII
và XVIII, chế độ Bônapáctơ của đế chế I, II, đế chế dân tộc Giécmanh mới thời
Bixmác. Ăngghen viết: “Cũng có trường hợp ngoại lệ là có những thời kỳ trong
đó những giai cấp đang đấu tranh lẫn nhau lại gần đạt được một thế bình quân
khiến cho chính quyền nhà nước, tựa hồ một kẻ trung gian giữa các bên, lại tạm
thời có được một mức độ độc lập nào đó đối với cả hai giai cấp. Chẳng hạn như
chế độ quân chủ chuyên chế ở thế kỷ XVII và XVIII đã giữ thế thăng bằng giữa
bọn quý tộc và giai cấp tư sản; như chế độ Bônapáctơ của Đế chế I và đặc biệt là
của Đế chế II ở Pháp, đã đẩy giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, rồi lại đẩy
giai cấp tư sản chống lại giai cấp vô sản”13.
Ví dụ như nhà nước Cămpuchia hiện nay cũng là biểu hiện của thế cân
bằng đó, theo quy luật nó sẽ bị phá vỡ thế cân bằng ấy khi đấu tranh về lợi ích
của các giai cấp nổ ra.
Tư tưởng của Ăngghen về bản chất của Nhà nước đã được Lênin trình bày
rất chi tiết và sâu sắc trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”.
Trong quá trình phân tích về nguồn gốc, bản chất giai cấp của nhà nước,
Ăngghen luôn gắn những vấn đề đó với giai cấp và đấu tranh giai cấp. Theo lôgíc
trình bày của mình, Ăngghen xác định giai cấp là một phạm trù lịch sử gắn liền
11 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 255.

12 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 256.
13 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 255.

6

6


7

7

với giai đoạn phát triển kinh tế nhất định và theo đó thì nhà nước- sản phẩm
trực tiếp của đấu tranh giữa các giai cấp- cũng là có tính lịch sử.
1.3. Về vấn đề nhà nước tiêu vong
Về tư tưởng nhà nước tiêu vong, nhà nước không tồn tại vĩnh viễn mà khi
không còn giai cấp thì nhà nước cũng tự tiêu vong. Theo Ăngghen, nhà nước là
một phạm trù lịch sử, quá trình ra đời, tồn tại của nó gắn với những điều kiện
nhất định, khi những điều kiện đó mất đi thì nhà nước cũng tiêu vong. Ăngghen
viết: “Giai cấp tiêu vong thì nhà nước cũng không tránh khỏi tiêu vong theo. Xã
hội sẽ tổ chức lại nền sản xuất trên cơ sở liên hiệp tự do và bình đẳng giữa
những người sản xuất, sẽ đem toàn thể bộ máy nhà nước xếp vào cái vị trí thật
sự của nó lúc bấy giờ: vào viện bảo tàng đồ cổ, bên cạnh cái xa kéo sợi và cái rìu
bằng đồng”14.
Tuy nhiên, Ăngghen chưa bàn về vấn đề nhà nước tự tiêu vong mà sau
này trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, Lênin đã bảo vệ và phát triển
tư tưởng của Ăngghen về vấn đề nhà nước tiêu vong, Lênin chỉ ra rằng chỉ có
nhà nước vô sản mới tự tiêu vong được và để nó tự tiêu vong thì phải có đầy
đủ những điều kiện cần thiết.
Mặc dù trong tác phẩm “nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của

nhà nước”, Ăngghen chưa có điều kiện đi vào phân tích quá trình tiêu vong của
nhà nước nhưng ông đã vạch ra những mâu thuẫn vốn có trong các chế độ xã
hội cũ, khiến nó không thể tồn tại mà phải thay thế bằng chế độ xã hội cao hơn.
Kết thúc tác phẩm của mình, Ăngghen đã chỉ ra những điều mà xã hội có giai cấp
trong thời đại văn minh đã làm được và những mâu thuẫn giai cấp sâu sắc của
nó và để kết luận, Ăngghen đã trích ra một xét đoán của Moócgan: “Sự diệt vong
của xã hội đang đứng sừng sững trước mặt chúng ta một cách đe doạ như là sự
kết thúc của một quá trình lịch sử mà của cải là mục đích cuối cùng và duy nhất.
Vì một quá trình phát triển như vậy đang chứa đựng những yếu tố làm cho
chính nó bị tiêu diệt... Đó sẽ là một sự hồi sinh- nhưng dưới một hình thức cao
hơn- của tự do, bình đẳng và hữu ái của những thị tộc thời cổ”15.
2. Quan điểm của Ăngghen về một số nội dung của chủ nghĩa duy vật
lịch sử trong tác phẩm.
2.1. Về giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Ăng ghen đã nghiên cứu phân tích trên lập trường duy vật về sự hình thành
giai cấp trong xã hội, đã chỉ ra những điều kiện kinh tế đã phá vỡ tổ chức hệ tộc,
bộ lạc ngay từ giai đoạn cao các thời đại dã man và sự loại bỏ hoàn toàn các tổ
14 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 258.
15 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 265.

7

7


8

8

chức đó khi xuất hiện thời đại văn minh. Ăng ghen đã luận chứng một cách khoa

học về sự hình thành giai cấp gắn liền với sự phát triển các lực lượng sản xuất,
của những cuộc phân công lao động xã hội lớn. Trong tác phẩm nguồn gốc của
gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”, Ăngghen đã trình bày rõ ba lần
phân công lao động xã hội lớn dẫn tới sự hình thành các giai cấp khác nhau
trong xã hội văn minh.
Sự phân công xã hội lớn đầu tiên là chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, việc
chăn nuôi và coi giữ gia súc là ngành lao động chủ yếu của một số bộ lạc tiên
tiến. Những bộ lạc du mục tách rời khỏi bộ phận còn lại của những người dã
man. Vật phẩm chủ yếu mà các bộ lạc du mục trao đổi với những bộ lạc lân cận
là gia súc, gia súc trở thành hàng hoá. Ăngghen viết: “Những bộ lạc du mục tách
rời khỏi bộ phận còn lại của những người dã man: Đó là sự phân công xã hội lớn
đầu tiên. Những bộ lạc du mục không những sản xuất nhiều thức ăn hơn những
người dã man khác, mà những thức ăn do họ sản xuất ra cũng có nhiều loại hơn.
Không những họ có nhiều sữa, nhiều sản phẩm làm bằng sữa và nhiều thịt hơn,
mà còn có da thú, len, lông dê cũng như có một số lượng sợi và hàng diệt ngày
càng tăng, vì khối lượng nguyên liệu đã tăng lên. Vì vậy mà lần đầu tiên, đã có
thể có sự trao đổi đều đặn”16.
Về thành tựu các công nghiệp trong giai đoạn này, Ăngghen chỉ ra có 2
thành tựu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đó là khung dệt và nấu quặng, chế tạo
đồ kim loại (nhưng chưa biết khai thác sắt). Từ sự phân công xã hội lớn đầu tiên
đã làm cho sản xuất tăng lên trong tất cả các ngành, sức lao động của con người
“có khả năng sản xuất được nhiều sản phẩm hơn số sản phẩm cần thết cho sinh
hoạt của họ”. Sự phát triển của sản xuất đẻ ra nhu cầu phải thu hút những sức
lao động mới và chiến tranh đã cung cấp những sức lao động mới, đó là tù binh
bắt được trong chiến tranh bị biến thành nô lệ. Ăngghen đi đến khẳng định:
“Trong những điều kiện lịch sử lúc đó, sự phân công lao động xã hội lớn đầu tiên,
do tăng năng xuất lao động, tức là tăng của cải và do mở rộng lĩnh vực hoạt
động sản xuất, nhất định phải đưa đến chế độ nô lệ. Từ sự phân công xã hội lớn
đầu tiên, đã nẩy sinh sự phân chia lớn đầu tiên trong xã hội thành 2 giai cấp: chủ
nô và nô lệ, kẻ bóc lột và người bị bóc lột”17.

Sự phân công xã hội lớn đầu tiên đã làm thay đổi sự phân lao động trong
gia đình. Việc tìm kiếm thức ăn cho những đàn gia súc của gia đình cá thể được
trao cho người đàn ông, người đàn ông đảm nhiệm việc sản xuất ra công cụ và
sử dụng công cụ để tìm kiếm thức ăn cho gia súc. Theo đó, sự thống trị của
người đàn ông trong gia đình trở nên tất yếu.
16 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 237- tr 238.
17 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 240.

8

8


9

9

Phân tích tiếp sự phát triển của thời đại dã man, Ăngghen đã chỉ ra sự phân
công lớn lần thứ hai, đó là: thủ công nghiệp đã tách khỏi nông nghiệp, từ đó xuất
hiện nền sản xuất hàng hoá. Vào giai đoạn cao của thời đại dã man, con người
biết sử dụng sắt và chỉnh những công cụ bằng sắt đã làm cho của cả tăng nhanh
và các ngành nghề phát triển theo hướng ngày càng chuyên môn hoá. Ăngghen
viết: “Của cải tăng lên nhanh chóng nhưng với tư cách là của cải các cá nhân,
nghề dệt, nghề chế tạo đồ kim loại và những nghề thủ công khác ngày càng
chuyên môn hoá, đã làm cho sản phẩm của chúng ngày càng có nhiều loại và
ngày càng thêm hoàn hảo về mặt nghệ thuật... Một hoạt động nhiều mặt như thế
không thể chỉ do độc một cá nhân tiến hành được nữa, sự phân công lớn thứ 2
đã diễn ra: thủ công nghiệp đã tách khỏi nông nghiệp”18. Và “Sự phân biệt giữa
kẻ giầu và người nghèo đã xuất hiệu bên cạnh sự phân biệt giữa người tự do và
người nô lệ: cùng với sự phân công mới là sự phân chia mới xã hội thành các

giai cấp”19.
Theo Ăngghen thì sự phân công lao động xã hội lớn lần thứ nhất và lần thứ hai
gắn liền với giai đoạn giữa và giai đoạn cao của thời đại dã man. Đến thời đại văn
minh đã củng cố và phát triển các hình thức phân công đã có trước nó và “bổ sung vào
đó một sự phân công thứ 3, một sự phân công chỉ đặc trưng cho nó, có một ý nghĩa
quyết định: Sự phân công này sản sinh ra một giai cấp không còn tham gia sản xuất
nữa, mà chỉ làm công việc trao đổi sản phẩm, đó là những thương nhân”20.
Sự phân tích quá trình hình thành giai cấp gắn với sự phát triển của lực
lượng sản xuất, của phân công lao động xã hội trên đây của Ăngghen là sự phân
tích hoàn toàn khoa học, thể hiện lập trường duy vật triệt để của ông. Theo
Ăngghen thì nguyên nhân xét đến cùng của sự hình thành ra các giai cấp là sự
phát triển của lực lượng sản xuất mà sự phát triển này là mang tính khách
quan, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người và của cộng đồng người:
sự phát triển của lực lượng sản xuất tạo ra sản phẩm vượt hơn nhu cầu tối thiểu
để tồn tại, tạo khả năng cho những người này chiếm đoạt lao động của người
khác, và dẫn tới thay thế chế độ công hữu nguyên thuỷ về tư liệu sản xuất bằng
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Chế độ tư hữu này là cơ sở trực tiếp của sự
hình thành các giai cấp.
Tóm lại, là sự phân chia xã hội thành các giai cấp bắt nguồn từ nguyên
nhân kinh tế và gắn liền với sản xuất vật chất, chứ không phải từ nguyên nhân
chính trị, tư tưởng... Sự xuất hiện giai cấp là một tất yếu lịch sử, là biểu hiện sự
phát triển của xã hội bước sang “thời đại văn minh”. Ăngghen cũng đã chỉ rõ sự
phân chia tiếp tục tồn tại trong suốt thời đại văn minh, “chế độ nô lệ là hình thức
18 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 242.
19 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 243.
20 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 246.

9

9



10

10

bóc lột đầu tiên, mà chỉ riêng thế giới thời cổ mới có; kế tiếp nó là chế độ nông nô
trong thời trung cổ, và chế độ lao động làm thuê trong thời hiện đại. Đó là ba
hình thức nô dịch lớn đặc trưng cho 3 thời kỳ lớn của thời đại văn minh”21.
Theo tư tưởng của Ăngghen, khi nghiên cứu sự phân chia giai cấp trong xã
hội cần phải đi từ nền sản xuất vật chất, từ sự phát triển của lực lượng sản xuất
được biểu hiện qua phân công lao động xã hội, nhưng cũng cần phải tính tới các
yếu tố khác ảnh hưởng tới sự hình thành các giai cấp. Đó là các cuộc chiến tranh,
những thủ đoạn cướp bóc, những hành vi bạo lực đã góp phần thúc đẩy nhanh
quá trình phân hoá giai cấp. Song bao lực không phải là nhân tố tạo ra chế độ tư
hữu và giai cấp; sự ra đời và mất đi của giai cấp đều dựa trên tính tất yếu kinh
tế.
Từ khi xã hội phân chia thành giai cấp thì đấu tranh giữa các các giai cấp
với nhau là tất yếu và không thể điều hoà được. Ăngghen viết: “Một xã hội do
toàn bộ những điều kiện kinh tế của sự tồn tại của nó mà phải chia ra thành
những người tự do và nô lệ, thành những kẻ giầu có đi bóc lột và những người
nghèo khổ bị bóc lột, một xã hội không những không thể lại điều hoà một lần
nữa những mặt đối lập đó, mà còn buộc phải đẩy chúng đi đến chỗ ngày
càng gay gắt. Một xã hội như vậy chỉ có thể tồn tại trong cuộc đấu tranh
không ngừng và công khai giữa các giai cấp đó với nhau”22.
Trong lời tựa viết cho lần xuất bản thứ nhất năm 1844, Ăngghen đã chỉ rõ
sự khác nhau giữa xã hội cũ “dựa trên quan hệ dòng máu” với xã hội có sự phân
chia giai cấp bị quan hệ sở hữu chi phối là ở đấu tranh giai cấp. Và “Mâu thuẫn
giai cấp cùng với đấu tranh giai cấp, cấu thành nội dung của toàn bộ lịch sử
thành văn từ trước đến nay”23.

Đấu tranh giai cấp phát triển dần tới cách mạng xã hội. Và theo Ăngghen
thì tất cả mọi cuộc cách mạng đều nhằm bảo hộ loại sở hữu này chống lại một
loại sở hữu khác. Ăngghen đã chứng minh điều đó qua cách mạng Pháp. Người
viết: “Trong cuộc đại cách mạng Pháp người ta đã hy sinh sở hữu phong kiến để
cứu sở hữu tư sản”24.
2.2. Về vai trò của sản xuất vật chất và tái sản xuất ra đời sống hiện
thực .
Ăng ghen đã khẳng định một nguyên lý căn bản của chủ nghĩa duy vật
lịch sử về vai trò xét đến cùng quyết định sự tồn tại, phát triển xã hội là sản
suất và tái sản suất ra đời sống, bao gồm sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt
21 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 261.
22 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 251.
23 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 44.- tr 45
24 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 173.

10

10


11

11

và sản xuất ra con người. Trong lời tựa cho xuất bản lần thứ nhất, Ăng ghen
viết: “Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử, quy đến cùng,
là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự sản xuất
đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực phẩm, quần
áo, nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác
là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống ” 25.

Trong sản xuất ra đời sống xã hội bao gồm có sản xuất của cải vật chất,
sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Sản xuất vật chất, xét
đến cùng quyết định các hình thức sản xuất khác. Bởi vì sản xuất vật chất trực
tiếp tạo ra của cải, tư liệu sinh hoạt đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của
con người và xã hội. Song nền sản xuất vất chất chỉ có thể được tiến hành bởi
những con người nhất định. Muốn có những con người để sản xuất vật chất
và duy trì nòi giống thì cần phải có hoạt động sản xuất ra bản thân con người.
Tư tưởng này của Ăng ghen đã được thực tiễn chứng minh là hoàn toàn đúng
đắn. Tuy nhiên, không được tuyệt đối hoá, coi sản xuất và tái sản xuất ra đời
sống trực tiếp là hoạt động duy nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã
hội.
Theo Ăngghen, thì sản xuất vật chất và sản xuất ra con người quyết định
trật tự xã hội của thời đại và của mỗi quốc gia. Hai loại sản xuất này do trình
độ phát triển của lao động và trình độ phát triển của gia đình quy định. Trong
đó sự phát triển của lao động quy định trình độ phát triển của gia đình. Dựa
theo nguyên lý về vai trò xét đến cùng quyết định của sản xuất và tái sản xuất
ra đời sống hiện thực mà trong quá trình nghiên cứu các mặt, các lĩnh vực
của đời sống xã hội, Ăngghen đều xem xét chúng với sự phát triển của nền sản
xuất vật chất. Quá trình nghiên cứu lịch sử gia đình, sự hình thành giai cấp
cùng các thiết chế xã hội khác nhất là nhà nước đều được Ăngghen đi từ sự
vận động phát triển của nền sản xuất vật chất. Đây chính là biểu hiện quan
điểm nhất nguyên duy vật của Ăngghen, hoàn toàn đối lập với các quan điểm
duy tâm dưới mọi màu sắc.
2.3. Về sự hình thành phát triển của các hình thức gia đình và hôn
nhân.
Ăng ghen đã khái quát cách phân chia thời đại của Moócgan trong xã hội
cộng sản nguyên thuỷ thành: thời đại mông muội, thời đại dã man, thời đại văn
minh. Đặc trưng chủ yếu của thời đại mông muội là việc chiếm hữu các sản vật
trong tự nhiên. Tương ứng với thời đại này có chế độ quần hôn. Thời đại dã man
là thời đại trong đó con người học được cách chăn nuôi súc vật và làm ruộng,

học được những phương pháp thông qua hoạt động của con người để tăng việc
25 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 44.

11

11


12

12

sản xuất các sản vật tự nhiên. Phù hợp với thời đại này là chế độ hôn nhân cặp
đôi. Khi con người học được cách tinh chế thêm được những sản vật tự nhiên, có
công nghiệp và nghệ thuật, đó là thời đại văn minh. Thời đại này, có chế độ một
vợ một chồng được bổ sung bằng tệ ngoại tình và mại dâm. Theo Ăngghen,
thắng lợi cuối cùng của chế độ một vợ một chồng là một trong những
dấu hiệu của buổi đầu của thời đại văn minh.
Như vậy, Ăngghen đã nghiên cứu quan hệ gia đình gắn liền với sự phát
triển của sản xuất vật chất trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ qua các giai
đoạn của nó. Từ việc nghiên cứu lịch sử gia đình trong xã hội cộng sản nguyên
thuỷ, Ăngghen tiếp tục đi vào phân tích hôn nhân tư sản và đề cập tới hôn
nhân của xã hội tương lai- xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trên lập trường duy vật
triệt để, Ăngghen đã phân tích và đi đến kết luận: muốn có được hôn nhân
hoàn toàn tự do, bình đẳng thì vấn đề đặt ra là phải xoá bỏ nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa cùng các quan hệ tài sản do nền sản xuất ấy tạo ra. Những vấn
đề này được Ăngghen trình bày tập trung trong chương 2 của tác phẩm.
2. 4. Về các hình thức cộng đồng người trước khi có dân tộc.
Khi con người thoát ra khỏi trạng thái “bầy người nguyên thuỷ'', thì tổ
chức xã hội đầu tiên, đồng thời là tổ chức cộng đồng người đầu tiên ra đời đó

là thị tộc. Ăngghen chỉ rõ “thị tộc trong chừng mực những tài liệu hiện có cho
phép chúng ta phán đoán là một thiết chế chung cho tất cả các dân dã man,
cho đến tận khi họ bước vào thời đại văn minh, và thậm chí còn lâu hơn
nữa”26.
Ăng ghen đã nghiên cứu thị tộc I-rô-qua, HyLạp, thị tộc của người Kentơ
và của người Giécmanh, từ đó chỉ ra những đặc trưng của thị tộc, trong đó
quan hệ cộng đồng thân tộc- huyết tộc là đặc trưng chủ yếu. Đồng thời, thị tộc
còn có những những mối liên hệ cộng đồng sau đây:
Các thành viên trong thị tộc có một thổ ngữ riêng.
Mỗi thị tộc có những tục lệ, tập quán và nghi thức tín ngưỡng riêng của
mình.
Trong mỗi thị tộc hình thành những yếu tố văn hoá nguyên thuỷ mang
sắc thái của cộng đồng sản sinh ra chúng.
Mỗi thị tộc có tên gọi riêng.
Thị tộc bầu ra tù trưởng, thủ lĩnh quân sự và có thể bãi miễn họ khi thấy
không xứng đáng.
Nhiều thị tộc hợp lại thành một bào tộc, nhiều bào tộc hợp lại thành bộ
lạc. Ăngghen viết: “Một thị tộc đã được coi là một đơn vị cơ sở của xã hội, thì
toàn bộ chế độ thị tộc, bào tộc và bộ lạc đều phát triển từ đơn vị ấy với một sự
26 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 130.

12

12


13

13


tất yếu hầu như không thể ngăn cản nổi - bởi vì đó là điều hoàn toàn tự nhiên:
Cả ba tổ chức ấy là những mức độ khác nhau của quan hệ họ hàng, hơn nữa,
mỗi tổ chức đó là một thể hoàn chỉnh và tự quản lấy công việc của mình,
nhưng cũng lại bổ sung cho nhau”27.
Cả ba tổ chức là thị tộc, bào tộc, bộ lạc đều có cơ sở chung từ chế độ thị
tộc. Và “Với tất cả tính ngây thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc đó quả là một
tổ chức tốt đẹp biết bao! Không có quân đội, hiến binh và cảnh sát, không có
quý tộc, vua chúa, tổng đốc, trưởng quan và quan toà, không có nhà tù, không
có những vụ xử án, thế mà mọi việc đều trôi chảy” 28. Ăng ghen chỉ rõ: “Con
người và xã hội loài người trước khi có sự phân chia thành những giai cấp
khác nhau là như vậy đấy”29.
Ăng ghen cho rằng các hình thức cộng đồng người trước khi có giai cấp
đều gắn với một nền sản xuất còn manh nha hoàn toàn, một dân cư hết sức
thưa thớt, con người hoàn toàn phụ thuộc vào giới tự nhiên. Những con
người của chế độ thị tộc không khác nhau và như Mác nói, họ vẫn chưa tách
rời ra khỏi cái cuống nhau của cộng đồng nguyên thuỷ. Ăngghen khẳng định
quyền lực của cộng đồng nguyên thuỷ, của xã hội không giai cấp nhất định bị
thay thế cho sự ra đời của chế độ văn minh mới - chế độ xã hội có giai cấp.
Ăngghen đã chỉ ra sự hình thành hình thức cộng đồng người gắn liền với sự
phân chia giai cấp, đó là bộ tộc. Sự ra đời của bộ tộc phản ánh sự phát triển hơn
của lực lượng sản xuất nhưng chưa có sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Ăng
ghen viết: “Do việc mua bán ruộng đất, do sự phát triển hơn nữa của phân công
lao động giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp, giữa thương nghiệp và hàng hải,
và những thành viên của các thị tộc, bào tộc và bộ lạc chẳng bao lâu đã phải
sống lẫn lộn với nhau; và lãnh thổ của bào tộc và của bộ lạc đã phải thu nhận
những người tuy cũng là đồng bào, nhưng lại không thuộc những tập đoàn ấy,
tức là những người lạ xét về nơi ở”30.
IV- Ý NGHĨA CỦA TÁC PHẨM ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY


Trong khoảng thời gian rất ngắn, chỉ có hơn hai tháng, Ăngghen đã soạn
thảo xong một tác phẩm lớn bàn về quá trình hình thành phát triển của xã hội
loài người từ khi hình thành cho đến khi bước vào thời đại văn minh. Ăngghen
đã tập trung phân tích các vấn đề theo lập trường duy vật, đặc biệt là các vấn đề
về giai cấp, nhà nước đã được trình bày hết sức sáng tỏ. Tác phẩm đã bổ sung và
phát triển những tư tưởng quan trọng về chủ nghĩa duy vật lịch sử nói chung, về
27 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 146- tr 147.
28 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 147.
29 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 149.
30 C.Mác vàPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Sự thật Hà Nội 1995, tr 166.

13

13


14

14

vấn đề nhà nước nói riêng. Các quan điểm Ăngghen đưa ra có chỗ dựa tin cậy từ
các tài liệu lịch sử, khoa học và được phát triển lên một trình độ cao, mang tính
khoa học và cách mạng. Do giá trị to lớn của tác phẩm cả về phương diện lý luận
và thực tiễn mà sau này khi viết tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, Lênin đã
trích dẫn sử dụng những tư tưởng cơ bản trong tác phẩm của Ăngghen, coi đó là
nguồn tài liệu cơ sở chủ yếu. Những phần tử cơ hội xét lại, không chấp nhận
được những tư tưởng quan trọng trong tác phẩm của Ăngghen khi bàn về giai
cấp, nhà nước, đã tìm mọi cách xuyên tạc những tư tưởng ấy. Thực tế điều này
cũng cho chúng ta thấy giá trị lâu bền của tác phẩm.
Tác phẩm “nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”

được viết sau khi Mác qua đời (1883). Đây là một việc làm mà sau này được
Lênin đánh giá như là việc Ăngghen đã xây dựng cho C.Mác “một đài kỷ niệm vĩ
đại” và trên đó Ăngghen không ngờ đã khắc luôn tên tuổi của mình. Tác phẩm ra
đời cách đây đã hơn một trăm năm nhưng các vấn đề Ăngghen phân tích, kết
luận nó vẫn còn nguyên giá trị, nó đã và đang tỏ rõ sức sống mãnh liệt và giá trị
bền vững của một tác phẩm kinh điển đánh dấu sự phát triển, hoàn thiện quan
điểm duy vật biện chứng về lịch sử của Ăngghen. Sự phân tích lập luận của
Ăngghen về lịch sử xã hội nguyên thuỷ và quá trình chuyển biến từ xã hội không
giai cấp sang xã hội có giai cấp; về xác định đấu tranh giai cấp như là nội dung
của lịch sử xã hội có giai cấp; về sự hình thành và tất yếu bị xoá bỏ của nhà nước,
đây là những nội dung căn bản đang thể hiện tính đúng đắn trong điều kiện mới.
Tuy nhiên, những nội dung này chưa phải là hoàn tất mà nhiều điểm cần phải bổ
sung, phát triển và cần phải nghiên cứu ở trong những tác phẩm kinh điển khác
của Mác và Ăngghen.
Tác phẩm “nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”,
đây là cơ sở lý luận quan trọng để chúng ta nghiên cứu tiếp cận lý luận cơ bản
của chủ nghĩa duy vật lịch sử về vấn đề giai cấp và nhà nước. Tính cách mạng và
khoa học của nó vẫn là cơ sở lý luận, phương pháp luận để đấu tranh với các
quan điểm sai trái về các vấn đề nêu trên.
Hiện nay, đất nước chúng ta đang tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng xã
hội ở đó có dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực
hiện thắng lợi các mục tiêu của cách mạng, có rất nhiều việc phải làm đồng thời,
trong đó vấn đề quan trọng là phải xây dựng được Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa thật sự trong sạch vững mạnh, làm việc có hiệu quả, phải kiên trì và
mềm dẻo linh hoạt trong tiến hành đấu tranh giai cấp. Những công việc này
đang rất cần phải được dẫn đường bởi một lý luận khoa học, cách mạng của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó, chúng ta không thể không
nghiên cứu nắm vững thực chất các nội dung cơ bản của tác phẩm “nguồn gốc

14


14


15

15

của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” và bảo vệ phát triển nó một
cách sáng tạo cho xứng với tầm vóc, giá trị lớn của tác phẩm này.
Hiện nay, trong quá trình đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế do đó chúng
ta phải xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một
việc làm tất yếu và càng trở nên cấp bách. Do vậy, chúng ta cần phải thực hiện
tốt các nội dung như sau:
Thứ nhất, phải xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành
của bộ máy nhà nước; hệ thống cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của bộ máy
nhà nước từ trung ương đến địa phương hoạt động phải có hiệu quả, hoạt động
theo hiến pháp và pháp luật. Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ X của Đảng đã
chỉ rõ: “Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong
việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp
luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây
dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến và hợp pháp trong
các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”31.
Kiên quyết xoá bỏ và khắc phục sự trùng lặp, chồng chéo về chức năng,
nhiệm vụ giữa các bộ, các ngành, các cấp ...Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ X
của Đảng đã xác định: “Phân định rõ chức năng, mối quan hệ giữa Quốc hội,
Chính phủ và các bộ, ngành, uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương trong quản lý nhà nước về kinh tế và xã hội”32.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa đáp ứng yêu cầu quản lý
nhà nước và quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội.
Đồng thời Nhà nước phải tập trung làm tốt các chức năng của mình. Trong
phương hướng nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý Nhà nước, Nghị quyết Đại
hội làn thứ X của Đảng cũng đã xác định: “Nhà nước làm tốt các chức năng: định
hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế chính
sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường. Đổi mới căn bản công
tác quy hoạch, kế hoạch phù hợp yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, phát huy tối đa mọi lợi thế
so sánh của quốc gia, vùng và địa phương, thu hút mọi nguồn lực tham gia phát
triển kinh tế- xã hội. Tạo môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi để
phát huy các nguồn lực của xã hội cho phát triển, các chủ thể hoạt động kinh
doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, có trật tự, kỷ
31Đảng cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của BCHTW Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X của Đảng, Hà Nội 2006, tr 44.
32 Đảng cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của BCHTW Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X của Đảng, Hà Nội 2006, tr 17- tr 18.

15

15


16

16

cương. Hỗ trợ phát triển, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội quan
trọng, hệ thống an sinh xã hội. Bảo đảm tính bền vững và tích cực của các cân
đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.

Tác động đến thị trường chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ
kinh tế; đồng thời sử dụng kịp thời có hiệu quả một số biện pháp cần thiết khi thị
trường trong nước hoạt động không có hiệu quả hoặc thị trường khu vực và thế
giới có biến động lớn. Thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật, giảm tối đa
sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp. Tách
chức năng quản lý hành chính của Nhà nước khỏi chức năng quản lý kinh doanh
của doanh nghiệp, xoá bỏ “chế độ chủ quản”; phân biệt rõ hệ thống cơ quan hành
chính công và hệ thống cơ quan sự nghiệp dịch vụ công cộng; phát triển mạnh
các dịch vụ công cộng. Tiếp tục đổi mới chính sách tài chính và tiền tệ, bảo đảm
tính ổn định và sự phát triển bền vững của nền tài chính quốc gia”33.
Thứ hai, tích cực đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước; tập trung
cải cách thủ tục hành chính theo hướng tinh giản, gọn nhẹ, thuận lợi, công khai
hoá, tránh các quy định tạo đặc quyền, đặc lợi, bảo đảm hoạt động có hiệu quả.
Kiên quyết xoá bỏ những thủ tục hành chính rườm rà, không còn phù hợp.
Thứ ba, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế, thực hiện “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong các lĩnh vực của đời sống chính trịxã hội; đó phải trở thành phương châm chủ đạo để xây dựng, hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân, vì dân. Cung cấp thông tin
đầy đủ, chính xác, kịp thời để nhân dân lựa chọn, quyết định các vấn đề quan
trọng của nhà nước, thực hiện tốt dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
Thứ tư, xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên có đủ
phẩm chất, năng lực: cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư, thực sự là “công bộc”
của dân. Xét đến cùng Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đều phải
thông qua đội ngũ cán bộ, tổ chức thực hiện, mọi cơ chế chính sách cũng do đội
ngũ cán bộ đề xuất... do đó, đội ngũ cán bộ, công chức không có đủ trí tuệ, phẩm
chất và năng lực thì không hoàn thành nhiệm vụ.
Việc xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên cần phải tập trung vào
đổi mới quy trình đào tạo; công khai dân chủ trong tuyển dụng, đề bạt cán bộ,
nhất là cán bộ chủ chốt. Nhà nước cần có cơ chế kiểm tra, kiểm soát, giám sát
đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước một cách hết sức cụ thể đặc biệt là chế độ
trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan nhà nước. Đồng thời kiên quyết xử

lý đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước vi phạm bảo đảm công khai,
33 Đảng cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của BCHTW Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X của Đảng, Hà Nội 2006, tr 17.

16

16


17

17

chính xác, đúng người, đúng tội, không bao che, hoặc xử lý theo kiểu “nhẹ trên,
nặng dưới”, có như vậy mới tạo lòng tin cho nhân dân.
Thứ năm, phải xây dựng cơ chế chính sách đãi ngộ hợp lý, theo nguyên tắc
làm công ăn lương; tiền lương phải bảo đảm theo nguyên tắc: tính đúng, tính
đủ: bảo đảm đồng lương và chính sách đãi ngộ phải thực sự là nguồn thu nhập
nuôi sống bản thân và gia đình, đáp ứng ngày càng tốt hơn như cầu chính đáng
của cán bộ, công chức nhà nước; tiền lương phải thực sự là động lực trực tiếp
của cán bộ, công chức và của người lao động. Có như vậy đội ngũ cán bộ, công
chức nhà nước mới công tâm, không bị tha hoá, không tham ô, tham nhũng, để
họ tận tuỵ với công việc, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Đối với lực lượng vũ trang nhân dân phải nghiên cứu và vận dụng đúng
đắn những quan điểm về nhà nước của Ăngghen trong tác phẩm, có thái độ
đúng đắn trong xử lý các vấn đề thuộc về phạm vị, trách nhiệm của mình, đúng
chức năng nhiệm vụ với quan điểm đứt khoát quân đội là công cụ bạo lực sắc
bén của nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không thể có một quân
đội đứng ngoài giai cấp, ngoài nhà nước, một quân đội phi giai cấp. Kiên quyết
đấu tranh chống lại các thế lực thù địch đòi phi chính trị hoá quân đội để quân

đội đứng ở vị trí “trung lập”, điều đó trái với các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác- Lênin, vì vậy các lực lượng vũ trang nhân dân ta cần hết sức cảnh giác,
tránh mơ hồ giai cấp. Đồng thời phải có trách nhiệm xây dựng quân đội cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, lấy xây dựng quân đội về
chính trị làm cơ sở nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của quân đội đáp ứng với
mọi tình huống của cách mạng Việt Nam hiện nay.

17

17



×