Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC - QUAN ĐIỂM CỦA LÊ NIN VỀ NHÀ NƯỚC TƯ SẢN TRONG TP NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG - Ý NGHĨA TRONG VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.27 KB, 16 trang )

NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA LÊ NIN VỀ NHÀ NƯỚC TƯ SẢN
TRONG TÁC PHẨM “NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG”. Ý NGHĨA PHƯƠNG
PHÁP LUẬN TRONG VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Vấn đề nhà nước là vấn đề đặc biệt quan trọng trong các cuộc cách
mạng, là một trong những vấn đề trung tâm trong cuộc đấu tranh tư tưởng lý
luận hiện nay. Đối tượng của cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận xung quanh vấn
đề nhà nước tập trung vào một số vấn đề: nguồn gốc, bản chất và vai trò của
nhà nước. Những người đại diện cho triết học, kinh tế chính trị học và chính
luận tư sản cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã cố tình làm rối vấn đề nhà nước,
như Lê nin đã chỉ ra: đây là một trong những vấn đề lý luận khó nhất. Họ đưa ra
rất nhiều thứ lý luận về nhà nước nhằm biện hộ cho sự thống trị của các giai cấp
bóc lột, xoá nhoà tính chất giai cấp của nhà nước tư sản, nhằm làm cho nhân dân
lao động sao nhãng những vấn đề cơ bản của đời sống xã hội. Các nhà tư tưởng
tư sản tán dương nhà nước, miêu tả nó như một nhà nước “siêu giai cấp”, nhà
nước “phồn vinh chung”, phủ nhận tính chất phản động của nhà nước tư sản
trong đời sống xã hội.
Một trong những thời điểm mà các lý luận gia tư sản, những đại biểu
của chủ nghĩa cơ hội ra sức chống phá lý luận về nhà nước là vào cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX, khi mà nhà nước Xô Viết – nhà nước chủ nghĩa xã hội
đầu tiên có xu hướng được hình thành ở Liên Xô. Giai đoạn này, chủ nghĩa tư
bản phát triển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, sự can thiệp của hệ thống quân
sự vào các cơ quan nhà nước rất sâu sắc và toàn diện đã làm cho bộ máy nhà
nước trở nên quan liêu, quân phiệt, từ đó làm cho mâu thuẫn vốn có của chủ
nghĩa đế quốc phát triển cao độ. Các nước đế quốc chủ trương đẩy mâu thuẫn
ra ngoài biên giới quốc gia, vì vậy đã gây nên cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất
(1914 – 1918), ảnh hưởng của nó càng làm sâu sắc cuộc khủng hoảng toàn diện


2



2

trong lòng xã hội tư bản, từ đó tạo ra điều kiện chín muồi cho cách mạng vô
sản. Lê nin coi đây là “đêm trước” của cách mạng vô sản. Cũng chính trong
giai đoạn này, Lê nin đã phát hiện ra quy luật phát triển không đều trong giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa, từ đó khẳng định cách mạng vô sản có thể nổ ra và
giành thắng lợi ở một số nước – khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ
nghĩa đế quốc
Về lý luận tư tưởng: Trong giai đoạn này, các quan điểm phi Mác xít
nổi lên nhằm xét lại chủ nghĩa Mác, hệ thống các quan điểm này chia thành hai
phái: phái hòa bình chủ nghĩa và phái vô chính phủ. Quan điểm của phái hòa
bình chủ nghĩa (đại diện là Becxtanh, Cauxky) phủ nhận phương pháp cách
mạng bạo lực, coi Mác, Ăngghen là những người say sưa bạo lực, theo họ thì
không cần sử dụng bạo lực, chỉ cần đấu tranh trên nghị trường (tuyệt đối hóa
phương pháp hòa bình). Phái vô chính phủ (đại biểu là Bukharin) phản đối sự
thiết lập nhà nước, chủ trương giải tán nhà nước trong 24 giờ. Thực chất các
quan điểm trên là chống lại các nguyên lý của chủ nghĩa Mác, chống lại các
quan điểm lý luận về cách mạng xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản;
chống lại bất kỳ một nhà nước nào, kể cả nền chuyên chính vô sản.
Ở nước Nga lúc này, tập trung các mâu thuẫn của thời đại, nước Nga
trở thành mắt khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa tư bản, trung
tâm cách mạng chuyển từ Đức sang Nga. Bên cạnh đó, tình trạng hai chính
quyền song song tồn tại từ sau cách mạng tháng hai đòi hỏi cần được chấm dứt
và tất cả chính quyền phải được về tay Xô viết. Để thực hiện khẩu hiệu “Toàn
bộ chính quyền về tay Xô viết”, vấn đề khởi nghĩa, vũ trang giành chính quyền
được đặt ra trực tiếp đối với những người cộng sản và nhân dân lao động Nga.
Như vậy, cả về lý luận và thực tiễn của thế giới cũng như ở nước Nga
đặt ra yêu cầu khách quan, cấp thiết là phải bảo vệ và phát triển tư tưởng của
Mác, Ăngghen về vấn đề nhà nước và cách mạng xã hội. Nhiệm vụ đặt ra là

cần phải tổng kết một cách sáng tạo kinh nghiệm cách mạng mới cuộc đấu


3

3

tranh của giai cấp vô sản và trên cơ sở đó phát triển hơn nữa lý luận Mác-xít về
cách mạng xã hội chủ nghĩa, học thuyết về nhà nước. Một trong những vấn đề
đặc biệt quan trọng là đấu tranh khôi phục, bảo vệ và phát triển quan điểm của
Mác và Ăngghen về nguồn gốc, bản chất của nhà nước phù hợp với hoàn cảnh
lịch sử mới. Lê nin nhấn mạnh: “Vấn đề thái độ của cách mạng xã hội chủ
nghĩa của giai cấp vô sản đối với nhà nước không những chỉ có ý nghĩa chính
trị, thực tiễn mà còn có tính chất nóng hổi nhất nữa – vì đây là vấn đề làm cho
quần chúng thấy rõ những việc họ sẽ phải làm trong một tương lai gần đây, để
tự giải phóng khỏi ách tư bản”1.
Từ yêu cầu đó, Lê nin đã viết tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” vào
khoảng tháng tám – tháng chín năm 1917, tác phẩm đã được xuất bản thành
sách riêng vào năm 1918. Đúng như quan điểm của Viện nghiên cứu chủ nghĩa
Mác - Lê nin trực thuộc Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô
viết trong lời tựa trong lần xuất bản cuốn “Nhà nước và cách mạng” “Thời đại
chủ nghĩa đế quốc đã đặt ra trước giai cấp vô sản và các đảng mác xít của nó
nhiệm vụ lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản và giành chính quyền về tay
giai cấp công nhân”
Những nhiệm vụ của các nhà lý luận tư tưởng được Lê nin thực hiện
xuất sắc trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”: “Tác phẩm của Lê nin, mà trong đó lần đầu tiên học thuyết Mác xít về nhà nước được trình bày có hệ
thống và đầy đủ nhất, - là lời giải thích khoa học hoàn thiện nhất, về chiều sâu
và về tính chất nhiều mặt; lý luận về nhà nước, là mẫu mực sáng chói về tính
đảng trong cuộc đấu tranh với kẻ thù của chủ nghĩa Mác”2 .
Kết cấu của tác phẩm gồm 6 chương, trong lần xuất bản thứ hai, Lê nin

thêm vào chương II một tiết mới (tiết 3) nói về chuyên chính vô sản. Nội dung
cơ bản của tác phẩm là: Lê nin đấu tranh bảo vệ, khôi phục và phát triển quan
V.I.Lê Nin. Toàn tập, Tập 33. NXB Tiến bộ Mátxcơva, 1974, Tr 4.5.
Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lê nin trực thuộc Ban Chấp hành Đảng Cộng sản Liên
Xô, Lời tựa xuất bản tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”.
1
2


4

4

điểm của Mác và Ăngghen về nguồn gốc, bản chất của nhà nước; quan điểm về
bản chất của nhà nước tư sản và tính tất yếu đập tan nhà nước tư sản; quan
điểm về nhà nước chuyên chính vô sản và vấn đề nhà nước tự tiêu vong.
Đối với vấn đề về nhà nước, trong tác phẩm, Lê nin đã chỉ rõ các quan
điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về nhà nước được xây dựng như thế nào và
nhấn mạnh rằng vấn đề nhà nước là một trong những vấn đề cơ bản của chủ
nghĩa Mác. Lê nin đã phân tích làm rõ hai đặc trưng cơ bản của nhà nước mà
Ăngghen đã trình bày trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, sở hữu tư nhân
và của nhà nước”; nguồn gốc xuất hiện của nhà nước; tính lịch sử, tính giai cấp
của nhà nước; bản chất của nhà nước; mối liên hệ của nhà nước với tính chất
giai cấp của xã hội; chứng minh tính quy luật và tính tất yếu của cách mạng xã
hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản, vạch ra thực chất, nhiệm vụ của nhà
nước vô sản và nền dân chủ vô sản ...
Trong phạm vi của thu hoạch tác phẩm này, tác giả đi sâu làm rõ quan
điểm của Lê nin về nguồn gốc, bản chất của nhà nước tư sản và tính tất yếu
đập tan nhà nước tư sản, rút ra ý nghĩa phương pháp luận trong việc xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

Quan điểm về nhà nước tư sản được Lê nin đề cập trong tác phẩm một
cách khái quát, bao gồm: nguồn gốc hình thành nhà nước tư sản, các hình thức
tồn tại, bản chất của nhà nước tư sản, đồng thời Lê nin đã vạch rõ tính tất yếu
phải đập tan nhà nước tư sản và chỉ ra con đường, biện pháp đập tan nhà nước
tư sản. Trình bày hệ thống các quan điểm về nhà nước tư sản cần phải có
phương pháp khái quát toàn diện bản chất các vấn đề, song để làm sâu sắc từng
nội dung, tác giả đi sâu phân tích một số vấn đề cụ thể:
Một là, về nguồn gốc sâu xa để hình thành nhà nước tư bản chủ
nghĩa và bản chất của nhà nước tư bản chủ nghĩa.
Bằng cách tiếp cận lịch sử phát triển của xã hội loài người là một quá
trình lịch sử tự nhiên bắt nguồn từ những quy luật kinh tế khách quan. Từ cơ sở


5

5

kinh tế, từ lý luận về những quy luật kinh tế, Lê nin khẳng định nguồn gốc sâu
xa để hình thành nhà nước tư bản chủ nghĩa xuất phát từ nguyên nhân kinh tế,
nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể
điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà về mặt khách quan,
những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được thì nhà nước xuất hiện. Là
một tổ chức chính trị mang tính giai cấp, nhà nước bóc lột sử dụng các công cụ
quyền lực, nhờ đó giai cấp thống trị bắt quần chúng nhân dân lao động – bộ
phận chiếm đa số trong dân cư phải phục tùng mình.
Nguồn gốc ra đời của nhà nước quy định tính lịch sử, tính giai cấp của
nhà nước, cũng như quy định tính lịch sử, tính giai cấp của nhà nước tư sản. Từ
sự luận giải một cách khoa học, sáng tạo của C.Mác, Ph.Ăngghen, Lê nin tiếp
tục khẳng định “giai cấp vô sản cần đến nhà nước không phải là vì tự do, mà là
để trấn áp kẻ địch của mình, và ngày nào có thể nói đến tự do thì nhà nước

không còn nữa”3. Như vậy, nhà nước là một phạm trù lịch sử, nó chỉ gắn với xã
hội có giai cấp. Tính giai cấp của nhà nước biểu hiện nhà nước là công cụ của
một giai cấp cho nên chỉ có giai cấp thống trị bóc lột mới cần đến nó. Còn giai
cấp bị thống trị, bị bóc lột là còn nhà nước, chỉ đến khi giai cấp vô sản nắm
quyền lãnh đạo, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì không còn cần đến
nhà nước và lúc đó nhà nước tự mất đi - Mác và Ăngghen gọi đó là nhà nước
“tự tiêu vong”
Về vấn đề bản chất của nhà nước tư sản. Lê nin khẳng định nhà nước
tư sản thực chất là công cụ để duy trì sự thống trị của giai cấp tư sản, là công
cụ để duy trì sự bóc lột của giai cấp tư sản.
Kế thừa, phát triển tư tưởng của Mác và Ăngghen về bản chất của nhà
nước, trong tác phẩm Lê nin đề cập: “Nhà nước – công cụ bóc lột giai cấp bị áp
bức”4 có nghĩa là muốn duy trì quyền lực xã hội đặc biệt, đặt lên trên xã hội thì
phải có thuế và quốc trái, muốn có được điều đó, những quan lại với tư cách là
3 Lê nin, Toàn tập, Tập 33. Sđd. Tr.109
4 Lê nin, Toàn tập, Tập 33. Sđd. Tr.15


6

6

những cơ quan của xã hội đã đặt ra những đạo luật đặc biệt về tính thần thánh
và tính bất khả xâm phạm nhằm duy trì sự thống trị bóc lột và bảo vệ địa vị của
chúng, chính sự bóc lột và bảo vệ địa vị của riêng giai cáp tư sản đã làm nảy
sinh mâu thuẫn, xung đột giữa các giai cấp, vì vậy nhà nước là công cụ bóc lột
của giai cấp thống trị về mặt kinh tế và do đó nhà nước giai cấp này cũng trở
thành giai cấp thống trị về mặt chính trị.
Theo Mác, Ăngghen thì “chẳng những nhà nước thời cổ và nhà nước
phong kiến là những cơ quan bóc lột nô lệ và nông nô mà cả nhà nước đại nghị

hiện đại cũng là công cụ để tư bản bóc lột lao động làm thuê” 5. Như vậy, nhà
nước tư sản là công cụ trấn áp bóc lột của giai cấp tư sản, điều đó đã được Lê
nin tiếp tục khẳng định nhà nước là một “lực lượng đặc biệt để trấn áp” 6. Điều
đó cũng có nghĩa là: nhà nước là lực lượng đặc biệt của giai cấp tư sản để trấn
áp giai cấp vô sản, nhà nước là của một nhóm người giàu có đối với hàng triệu
người làm thuê. Rõ ràng, giai cấp tư sản luôn cần đến nhà nước để duy trì địa vị
thống trị bóc lột của chúng đối với quần chúng nhân dân lao động. Tiếp tục
nghiên cứu, phân tích những tư tưởng của Mác qua thực tiễn của công xã Pari,
Lê nin đã chứng minh một cách khoa học các cuộc cách mạng trong lịch sử có
sự tiến bộ nhất định nhưng bản chất thống trị bóc lột của nhà nước ngày càng
bọc lộ ... do đó, khi giai cấp tư sản nắm quyền thống trị xã hội thì bản chất
thống trị bóc lột tàn bạo của nó ngày càng thể hiện rõ hơn và Mác còn chỉ rõ
sau cách mạng 1848 – 1849, chính quyền nhà nước biến thành “vũ khí dân tộc
trong cuộc đấu tranh của tư bản chống lao động”.
Hai là, trong tác phẩm Lê nin đã phân tích một cách sâu sắc các
hình thức nhà nước tư sản.
Để duy trì sự thống trị bóc lột, giai cấp tư sản tổ chức ra nhà nước của
chúng với nhiều hình thức khác nhau. Lê nin viết “Cứ mấy năm lại một lần quyết
định xem người nào trong giai cấp thống trị sẽ chà đạp và đè nén nhân dân trong
5 Lê nin,
6 Lê nin,

Toàn tập, Tập 33. Sđd. Tr.16
Toàn tập, Tập 33. Sđd. Tr.23


7

7


nghị viện, đó là thực chất của chế độ đại nghị tư sản, không những chỉ trong các
nước quân chủ lập hiến - đại nghị mà cả trong những nước cộng hoà dân chủ nhất
nữa”7.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, các hình thức của nhà nước tư sản được
biểu hiện ở những nước khác nhau. Tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng nước
mà giai cấp tư sản tổ chức ra bộ máy nhà nước của chúng cho phù hợp để duy
trì sự thống trị. Cho dù, các hình thức đó có khác nhau nhưng bản chất của nhà
nước tư sản vẫn không thay đổi: “Những hình thức của các nhà nước tư sản thì
hết sức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một: chung quy lại thì tất cả những
nhà nước ấy, vô luận thế nào, cũng tất nhiên phải là nền chuyên chính tư sản” 8.
Thực ra, dù ở hình thức quân chủ hay hình thức cộng hoà thì vẫn vậy, nhưng
chính sự khác nhau này dẫn đến quần chúng nhân dân lao động sẽ lầm tưởng
chế độ cộng hoà có bước tiến hơn chế độ quân chủ. Điều này chính bọn cơ hội
xét lại, bọn vô chính phủ thường khoa trương, lừa bịp để thực hiện sự liên hiệp
“để duy trì nhà nước thống trị của chúng”. C.Mác, Ph.Ăngghen và Lê nin đã
chỉ ra vấn đề này và khẳng định rõ: “Nhưng kỳ thật, nhà nước không phải là cái
gì khác hơn là một bộ máy áp bức của một giai cấp này đối với một giai cấp
khác, và trong một nước cộng hoà dân chủ cũng hệt như trong một nước quân
chủ, nhà nước vẫn chỉ là như vậy thôi”9.
Như vậy, dù bất kỳ dưới hình thức nào thì bản chất nhà nước tư sản vẫn
không thay đổi. Nhà nước tư sản là công cụ, là tổ chức bạo lực của giai cấp tư
sản nhằm trấn áp quần chúng nhân dân lao động và bảo vệ địa vị lợi ích của
giai cấp tư sản. Lê nin chỉ rõ: “Ăngghen luôn nhấn mạnh rằng không những
dưới chế độ quân chủ, mà cả chế độ cộng hoà dân chủ nhà nước vẫn là nhà
nước, nghĩa là vẫn giữ nguyên đặc tính chủ yếu của nó là: biến những viên
chức “công bộc của xã hội” những cơ quan của mình thành những ông chủ
7Lê nin, Toàn tập, Tập 33. Sđd. Tr.56,57
8 Lê nin, Toàn tập, Tập 33. Sđd. Tr.44
9 Lê nin, Toàn tập, Tập 33. Sđd. Tr.98



8

8

đứng trên đầu xã hội”10, cho nên, không có nhà nước chung chung đại diện cho
lợi ích của mọi giai cấp trong xã hội, dù nhà nước tư sản có thể tiến bộ vượt bậc
so với nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến nhưng nó vẫn là nhà
nước thống trị bóc lột của giai cấp tư sản. Thực chất, nó chỉ thay thế bộ máy
thống trị này bằng bộ máy thống trị khác hoàn bị hơn, cũng như những nhà
nước khác nhà nước tư sản “tất cả các đảng tư sản, ngay cả những đảng dân chủ
nhất, kể cả các đảng “dân chủ cách mạng” tất phải tăng cường đàn áp giai cấp
vô sản cách mạng, củng cố bộ máy đàn áp, nghĩa là củng cố chính bộ máy nhà
nước ấy”11. Rõ ràng, không có nhà nước - một tổ chức bạo lực chuyên được
dùng để trấn áp thì giai cấp tư sản không thể duy trì được ách áp bức, bóc lột
của nó đối với giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động. Do vậy, nhà
nước tư sản là một bộ máy áp bức của giai cấp tư sản bảo vệ quyền lợi địa vị
thống trị của giai cấp tư sản đối với xã hội.
Ba là, Trên cơ sở làm rõ bản chất của nhà nước tư sản, Lê nin đồng
thời luận chứng tính tất yếu phải đập tan nhà nước tư sản và thay vào đó là
nhà nước chuyên chính vô sản.
Lê nin chỉ ra rằng nhà nước tư sản ngày càng trở thành gánh nặng ăn
bám xã hội. Nó không còn là bộ máy làm “dịu” xung đột giai cấp. Trong thực
hiện chức năng, nhà nước tư sản ít coi trọng chức năng xã hội, chúng coi trọng
chức năng chính trị của giai cấp, do vậy nhà nước tư sản ngày càng vơ vét bóc
lột của cải trong xã hội. Lê nin viết: “Tổ chức quan lại và quân đội thường trực
là những “vật ký sinh” sống trên thân thể của xã hội tư sản, những vật ký sinh
do những mâu thuẫn bên trong đang xé nát xã hội đó sinh ra, chính lại là những
vật ký sinh đang “bịt kín” tất cả những lỗ chân lông của xã hội ấy”12.
Theo Lê nin, nhà nước tư sản là những thứ rác rưởi vô dụng đối với xã

hội. Mặt khác, trong quá trình tồn tại, nhà nước tư sản ngày càng trở nên quan
10 Lê nin, Toàn tập, Tập 33 .Sđd. Tr.95
11 Lê nin, Toàn tập, Tập 33. Sđd. Tr.38
12 Lê nin, Toàn tập, Tập 33. Sđd. Tr.37


9

9

liêu, không phải là cơ quan hành động, mà trở thành bộ máy ăn bám lừa bịp. Lê
nin viết: “Trong các nghị viện người ta chỉ chuyên nói suông với mục đích duy
nhất là lừa bịp “dân thường’ thôi”13. Như vậy, nhà nước tư sản trở thành những
kẻ đứng trên xã hội, vì vậy cần phải đập tan nó đi và thay vào đó nền chuyên
chính vô sản, nhằm xây dựng một xã hội mới công bằng và tốt đẹp hơn. Mác đã
dạy chúng ta rằng: “phá huỷ bộ máy quân phiệt, quan liêu của nhà nước là “điều
kiện tiên quyết của bất cứ cuộc cách mạng nhân dân thật sự nào” 14. Đây là kinh
nghiệm quý báu, bởi vì thực tiễn đã chỉ rõ: tất cả các cuộc cách mạng trước kia
đã làm cho bộ máy nhà nước thêm hoàn bị, cho nên C.Mác và Ph.Ăngghen và
V.I.Lê nin đều khẳng định: giai cấp công nhân phải phá huỷ, phải đập tan bộ
máy nhà nước có sẵn và không thể chỉ đơn giản chiếm lấy bộ máy của giai cấp
tư sản. Đây là điểm khác cơ bản của cuộc cách mạng vô sản với các cuộc cách
mạng khác trong lịch sử. Chỉ có cuộc cách mạng vô sản mới phá huỷ, đập tan bộ
máy của nhà nước, còn các cuộc cách mạng trong lịch sử chỉ đơn thuần là thay
thế bộ máy thống trị bóc lột của giai cấp này bằng bộ máy thống trị bóc lột của
giai cấp khác.
Theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa cộng sản khoa học thì
giai cấp vô sản không thể lật đổ được giai cấp tư sản, nếu trước hết không
giành lấy chính quyền, không thiết lập được sự thống trị về chính trị của mình,
không biến nhà nước thành giai cấp vô sản được tổ chức thành giai cấp thống

trị. Như vậy, giai cấp vô sản tất yếu phải đập tan nhà nước tư sản để thiết lập
nên chuyên chính vô sản.
Về vấn đề con đường, biện pháp thủ tiêu nhà nước tư sản.
Lê nin đã chỉ ra con đường, biện pháp để thủ tiêu nhà nước tư sản. Trên
cơ sở quan điểm của các nhà Mác xít cùng với kinh nghiệm hoạt động thực
tiễn, Lê nin khẳng định: “Nhà nước tư sản bị thay thế bởi nhà nước vô sản
(chuyên chính vô sản) không thể bằng con đường “tiêu vong” được mà chỉ có
13
14

Lê nin, Toàn tập, Tập 33. Sđd. Tr.57
Lê nin, Toàn tập, Tập 33. Sđd. Tr.48


10

10

thể theo quy luật chung bằng một cuộc cách mạng bạo lực thôi” 15. Xuất phát từ
bản chất của giai cấp tư sản là không thể nhường quyền thống trị cho giai cấp
vô sản. Mặt khác, để duy trì địa vị thống trị của mình, giai cấp tư sản phải tổ
chức ra nhà nước với những công cụ như quân đội, cảnh sát, nhà tù để bắt giai
cấp vô sản và các tầng lớp nhân dân khác phải phục tùng và phục vụ cho lợi ích
của mình. Do vậy, chỉ có con đường cách mạng bạo lực mới lật đổ được địa vị
thống trị của giai cấp tư sản, của nhà nước tư sản. Mặt khác, bạo lực như Mác
nói còn là bà đỡ cho xã hội cũ đương thai nghén một xã hội mới. Lê nin tiếp tục
khẳng định vai trò của của cách mạng bạo lực “Không có cách mạng bạo lực
thì không thể thay nhà nước tư sản bằng nhà nước vô sản được. Việc thủ tiêu
nhà nước vô sản, nghĩa là việc thủ tiêu mọi nhà nước chỉ có thể thực hiện được
bằng con đường “tiêu vong” thôi”16. Như vậy, kinh nghiệm thực tiễn cách mạng

đã làm phong phú lý luận cách mạng: việc xóa bỏ nhà nước tư sản phải bằng
con đường cách mạng bạo lực, chỉ có cách mạng bạo lực mới thực hiện được,
chính tư tưởng cách mạng bạo lực là nền móng của toàn bộ học thuyết của
C.Mác và Ph.Ăngghen.
Nghiên cứu thực tiễn cách mạng từ công xã Pari, nội chiến ở Pháp đến
phong trào cách mạng ở Nga, Lê nin chứng minh rằng chưa bao giờ kẻ thù từ
bỏ địa vị thống trị của mình, chỉ có thông qua cách mạng bạo lực giai cấp vô
sản mới lật đổ được địa vị thống trị của giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản luôn
dùng mọi âm mưu thủ đoạn để đàn áp quần chúng nhân dân lao động cho nên
chỉ có cách mạng bạo lực mới đánh đổ được chúng. Tuy nhiên, các nhà kinh
điển cũng khẳng định: bạo lực cách mạng không phải là phương pháp duy nhất,
nhưng trong lịch sử đấu tranh cách mạng hiếm có khi nào xảy ra việc lật đổ giai
cấp thống trị mà không tiến hành bằng con đường bạo lực. Mác và Ăngghen
cũng như Lê nin “luôn lấy những kinh nghiệm cụ thể của phong trào quần
chúng của giai cấp vô sản và cố gắng rút ra trong đó những bài học thực tiễn.
15
16

Lê nin, Toàn tập, Tập 33. Sđd. Tr.27
Lê nin, Toàn tập, Tập 33. Sđd. Tr.28


11

11

Lê nin viết: “Mác “học tập” công xã cũng như tất cả các nhà tư tưởng cách
mạng vĩ đại không ngần ngại học tập kinh nghiệm những phong trào lớn của
giai cấp bị áp bức nhưng không bao giờ theo lối “giáo huấn” thông thái rởm
(như Plêkhanốp, kẻ đã nói: “đáng lẽ không nên cầm vũ khí” hay như Txêrêtêli

kẻ đã nói: “giai cấp phải biết tự kiềm chế những nguyện vọng của mình” 17. Như
vậy, tư tưởng cách mạng bạo lực không phải là ý muốn chủ quan của Mác mà
chính là những tổng kết kinh nghiệm thực tiễn quý báu của phong trào cách
mạng để Mác, Ăngghen và Lê nin khẳng định con đường cách mạng bạo lực.
Tuy nhiên, khẳng định con đường cách mạng bạo lực là không thể
tránh khỏi, nhưng các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lê nin chưa bao giờ
tuyệt đối hoá cách mạng bạo lực, không phải các ông là những người “say mê”
bạo lực. Cần khẳng định rằng, đây cũng không phải là những lời nói khoa
trương trống rỗng hay là mánh khoé, bút chiến, mà là sự cần thiết phải giáo dục
một cách có hệ thống cho quần chúng nhận thức được tư tưởng ấy. Như vậy
con đường cách mạng bạo lực là không thể tránh khỏi và chỉ có cách mạng bạo
lực mới đập tan nhà nước tư sản, thiết lập nền chuyên chính vô sản.
Bằng tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” với những nội dung sâu sắc
về cách mạng và về vấn đề nhà nước nói chung, nhà nước tư sản nói riêng,
quan điểm, lý luận của Lê nin đã đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi bức thiết của
cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận, của thực tiễn cách mạng, góp phần to lớn vào
thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại. Đây là tác phẩm xuất sắc của
chủ nghĩa Mác – Lê nin. Lần đầu tiên, học thuyết Mác xít về nhà nước được
trình bày có hệ thống và đầy đủ nhất, là lời giải thích khoa học hoàn thiện nhất
về chiều sâu và về tính chất nhiều mặt, lý luận về nhà nước là mẫu mực sáng
chói về tính Đảng trong cuộc đấu tranh với kẻ thù của chủ nghĩa Mác.
Lê nin đã đấu tranh kiên quyết, bền bỉ không khoan nhượng, trên cơ sở
trích dẫn, phân tích, khẳng định và phát triển sáng tạo những tư tưởng cơ bản
17

Lê nin, Toàn tập, Tập 33. Sđd. Tr.60


12


12

của Mác và Ăngghen về nhà nước, chỉ rõ nguồn gốc, bản chất của nhà nước,
luận giải sâu sắc nhà nước tư sản, tính tất yếu diệt vong của nó. Đặc biệt, Lê
nin chú trọng phân tích luận điểm nhà nước “tự tiêu vong”. Trên cơ sở phân
tích, làm rõ những nội dung về nhà nước, Lê nin vạch ra tính quy luật cơ bản
của sự phát triển xã hội, chỉ rõ vấn đề cơ bản của bất kỳ một cuộc cách mạng
nào là vấn đề chính quyền nhà nước. Thông qua việc trình bày các quan điểm
lý luận, Lê nin chỉ rõ tính chất phản động, phản khoa học, vạch ra âm mưu, thủ
đoạn của chủ nghĩa cơ hội xét lại của bọn vô chính phủ, bảo vệ sự trong sáng
của chủ nghĩa Mác. Đồng thời đã phát triển học thuyết của Mác và Ăngghen,
tổng kết kinh nghiệm lịch sử mới cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản
trong thời đại chủ nghĩa đế quốc.
Tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” hiện nay vẫn còn nguyên giá trị
đặc biệt đối với cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung và cách mạng Việt nam
nói riêng. Phương pháp luận từ việc nghiên cứu vấn đề nhà nước tư sản trong
tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” của Lê nin có giá trị to lớn trong việc nhận
thức chủ nghĩa tư bản hiện đại và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay.
Vấn đề nhà nước hiện nay luôn có một ý nghĩa quan trọng cả về
phương diện lý luận cũng như về phương diện chính trị – thực tiễn. Thế kỷ
XIX, C.Mác và Ăngghen đã nghiên cứu, khảo sát từ những năm 40, chủ nghĩa
tư bản đã phát triển thành chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh; cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX, Lê nin đã nghiên cứu chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn chủ
nghĩa tư bản độc quyền và giờ đây chủ nghĩa tư bản đã thích nghi, điều chỉnh
và ở vào thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Tất cả những thể chế
tư sản, nền dân chủ và pháp quyền tư sản, nhà nước tư sản với luật pháp của nó,
với đội ngũ công chức tinh thông nghiệp vụ và thành thạo trong quản lý của nó
được phát triển trên cái giá đỡ vật chất là lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Lẽ dĩ nhiên, toàn bộ quá trình



13

13

phát triển tư bản chủ nghĩa này đi liền với những hậu quả xã hội là áp bức, bóc
lột, nô dịch người lao động, làm lao động bị tha hóa và tha hóa bản chất con
người. Nó cũng tạo ra lực lượng xã hội phủ định nó một cách ngoài ý muốn là
giai cấp vô sản và công nhân cách mạng - đúng như quan điểm của các nhà
kinh điển Mác xít đã khẳng định.
Ngày nay, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ với bộ máy
khổng lồ đang ngày càng mở rộng âm mưu bá chủ thế giới. Chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước ngày càng lũng đoạn, sự liên kết giữa nhà nước với các tập
đoàn tư bản làm cho chúng ngày càng có quyền lực “vô hại”. Những thảm họa
và những thiên tai chưa từng thấy của các cuộc chiến tranh dai dẳng làm cho
đời sống của quần chúng nhân dân lao động ngày càng khốn khổ. Bên cạnh đó,
sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào thập niên
80, 90 của thế kỷ XX đã làm cho tình hình thế giới hiện nay biến đổi hết sức
phức tạp.
Đối với cách mạng Việt nam, vấn đề xây dựng, củng cố bộ máy Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là vấn đề cần thiết, không chỉ về mặt lý luận
mà cả về mặt thực tiễn. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một nội dung
trong mục tiêu xây dựng của chúng ta. Đó vẫn là nhà nước giai cấp, nhưng
nhấn mạnh phương pháp, cách thức quản lý xã hội bằng pháp quyền, theo pháp
luật; nêu cao vai trò của pháp chế, yêu cầu mọi tổ chức, mọi công dân đều phải
tôn trọng và tuân thủ luật pháp đi đôi với phát huy các giá trị đạo đức và văn
hoá dân tộc. Đương nhiên pháp luật nào cũng mang tính giai cấp sâu sắc.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do nhân dân ta xây dựng là nhà
nuớc pháp quyền của dân, do dân và vì dân, có bản chất khác hẳn với bản chất

của nhà nước bóc lột. Điều này được quy định một cách khách quan từ cơ sở
kinh tế và chế độ chính trị của chủ nghĩa xã hội. Sự khác biệt đó biểu hiện bản
chất giai cấp, tính dân tộc, tính nhân dân của nhà nước, chúng hoà quyện vào
nhau.


14

14

Theo quan điểm của các nhà kinh điển và của Lê nin trong tác phẩm
“Nhà nước và cách mạng” thì bất cứ nhà nước nào cũng là nền chuyên chính
của giai cấp thống trị. Giai cấp nắm quyền thống trị về kinh tế sẽ nắm quyền
thống trị về chính trị, thông qua bộ máy nhà nước của mình. Trong chế độ xã
hội ta, giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo xã hội, vì vậy nhà nước ta mang
bản chất giai cấp công nhân. Lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, của nhân
dân lao động và của dân tộc là thống nhất. Sự thống nhất này bắt nguồn từ bản
chất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân muốn tự giải
phóng mình thì đồng thời phải giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Vì vậy,
nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân, đồng thời cũng gắn bó chặt chẽ
với tính dân tộc, tính nhân dân. Đây là điểm khác nhau căn bản về bản chất
giữa nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với nhà nước tư sản.
Trong tình hình thực tiễn hiện nay, chúng ta xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy vấn đề đặt ra là xây dựng nhà nước
như thế nào để đáp ứng thời kỳ mới vừa bảo đảm an ninh chính trị trong nước,
vừa mở rộng quan hệ quốc tế, vừa đảm bảo quyền lực quản lý mọi mặt toàn xã
hội. Để thực hiện tốt các chức năng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội thì vấn đề đổi mới, nâng cao hiệu
lực của nhà nước, tăng cường pháp chế, dân chủ luôn là vấn đề nóng hổi mang
tính cấp bách sâu sắc. Đặc biệt, cần phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,

chống quan liêu hoá bộ máy nhà nước.
Hiện tượng bộ máy nhà nước cồng kềnh kém hiệu quá, tệ cửa quyền,
sách nhiễu nhân dân, nạn tham nhũng là những vấn đề nóng bỏng, nổi cộm
trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Những vấn đề đó đang thực sự là những nguy cơ hiển hiện đe doạ sự
sống còn của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để đảm bảo
xây dựng thành công và nâng cao hiệu lực của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay, chúng ta cần tập trung hướng vào thực hiện tốt các


15

15

chủ trương, biện pháp chủ yếu sau: tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
đối với Nhà nước, nhất là trong việc xây dựng bản chất giai cấp công nhân gắn
với tính nhân dân và tính dân tộc cho nhà nước; tăng cường cải cách thể chế và
hoạt động của nhà nước, xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong
sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá; phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật,
kỷ cương, tăng cường pháp chế; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
trong sạch, có năng lực; tăng cường hiệu quả cuộc đấu tranh chống tham
những, chống các tệ nạn tiêu cực: quan liêu, mệnh lệnh hành chính, sách nhiễu
nhân dân.....
Quân đội nhân dân Việt nam là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, của
Nhà nước cần thiết phải luôn quán triệt sâu sắc đường lối quân sự của Đảng,
đường lối quốc phòng toàn dân, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị,
tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhà nước, sẵn sàng bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quá trình phát triển, trưởng thành của Quân
đội nhân dân Việt Nam đều dựa chắc trên nền tảng chính trị xã hội của xã hội
ta, từng bước được xây dựng, phát triển cùng với chính quyền nhân dân, các

đoàn thể chính trị trong hệ thống chính trị của đất nước. Được xây dựng trên
nền tảng chính trị vững chắc, khi đất nước ta lâm vào tình trạng hủng hoảng
kinh tế xã hội, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, lòng tin giảm sút, đặc biệt
là khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, một số thế lực
thù địch đẩy mạnh hoạt động hòng gây mất ổn định chính trị, phá rối an ninh
quốc gia, làm phương hại đến độc lập, chủ quyền của đất nước; Quân đội nhân
dân Việt Nam vẫn một mực tuyệt đối trung thành với sự lãnh đạo của Đảng,
giữ vững lòng tin, tỏ rõ là lực lượng chính trị vững vàng, thể hiện sự kiên định
với con đường xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn chức
năng là công cụ vũ trang sắc bén của Đảng và của Nhà nước ta.
Hiện nay, bên cạnh việc thực hiện chức năng là công cụ sắc bén của
Đảng, của nhà nước; Quân đội nhân dân Việt Nam còn thực hiện nhiều chức


16

16

năng khác, một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng mà Quân đội phải
thực hiện là phải đấu tranh không khoan nhượng chống những quan điểm, tư
tưởng thù địch, sai trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lê nin, bảo vệ hệ thống chính
trị của nước ta. Làm tròn vai trò, sứ mệnh đó, quân đội nhân dân phải xây dựng
mình vững mạnh toàn diện theo yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, tạo nên sức
mạnh răn đe các lực lượng các lực lượng cơ hội, thù địch, góp phần quan trọng
vào việc giữ vững định hướng chính trị, tăng cường bản chất cách mạng của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Để xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây
dựng Quân đội nhân dân Việt Nam xứng đáng là công cụ bạo lực sắc bén của
Đảng và Nhà nước cần phải dựa chắc trên cơ sở hệ thống các quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lê nin về nhà nước, đồng thời trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí

Minh và điều kiện cụ thể cách mạng Việt Nam để có nội dung, biện pháp phù
hợp. Không ngừng đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái của các thế lực
phản động xuyên tạc nguồn gốc, bản chất, chức năng của nhà nước và xuyên
tạc Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.



×