Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Việt hóa các chương trình thiếu nhi trên kênh truyền hình HTV3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.05 MB, 112 trang )

Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
__________________________________________________________________________

NGUYỄN THỊ HỒNG YẾN

“VIỆT HÓA” CÁC CHƯƠNG TRÌNH THIẾU NHI
TRÊN KÊNH TRUYỀN HÌNH HTV3

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: BÁO CHÍ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013

Trang 1


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
__________________________________________________________________________

NGUYỄN THỊ HỒNG YẾN

“VIỆT HÓA” CÁC CHƯƠNG TRÌNH THIẾU NHI
TRÊN KÊNH TRUYỀN HÌNH HTV3

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH: BÁO CHÍ HỌC
MÃ SỐ: 60.32.01

Người hướng dẫn khoa học: TS.Trần Ngọc Châu

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013

Trang 2


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

0.1. Lý do chọn đề tài........................................................................................................................... 7
0.2. Lịch sử nghiên cứu đề tài .............................................................................................................. 8
0.3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................................. 11
0.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................................................. 12
0.5. Phương pháp lý luận và phương pháp nghiên cứu .................................................................... 13
0.6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn ............................................................................... 14
0.7. Bố cục của luận văn .................................................................................................................... 15

Chương 1
“VIỆT HÓA” CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH DÀNH CHO THIẾU NHI
– MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN
1.1. Vấn đề “Việt hóa” chương trình truyền hình ............................................................................. 16
1.1.1. Khái niệm “Việt hóa” ........................................................................................................... 16
1.1.2. “Việt hóa” chương trình truyền hình .................................................................................. 17
1.1.3. Những khía cạnh kỹ thuật của vấn đề “Việt hoá” chương trình truyền hình ..................... 21
1.1.4. Các mức độ “Việt hoá” ........................................................................................................ 23
1.2. Những khía cạnh đặc thù về đối tượng thiếu nhi trong xã hội truyền hình ............................... 25
1.3. Chương trình truyền hình dành cho thiếu nhi ở Việt Nam......................................................... 35
1.4. Chương trình mua bản quyền nước ngoài ................................................................................. 38
1.5. Vấn đề chất lượng chương trình truyền hình ............................................................................. 39
1.6. Tiểu kết ....................................................................................................................................... 42

Chương 2
KHẢO SÁT NỘI DUNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH “VIỆT HÓA”
DÀNH CHO THIẾU NHI TRÊN KÊNH HTV3
2.1. Tổng quan về kênh HTV3........................................................................................................... 44
2.1.1. Giới thiệu Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (HTV).................................................. 44
2.1.2. Các thể loại chương trình chính trên kênh HTV3 ................................................................ 45

Trang 5



Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
2.1.3. Hợp tác giữa HTV và TVM để phát triển chương trình trên kênh HTV3 ............................. 46
2.2. Các hình thức “Việt hóa” chương trình truyền hình ................................................................. 50
2.2.1.Các chương trình “Việt hóa” đơn giản................................................................................. 50
2.2.2. Các chương trình “Việt hoá” một phần............................................................................... 65
2.2.3.Các chương trình “Việt hoá” toàn phần............................................................................... 74
2.3. Tiểu kết ....................................................................................................................................... 81

Chương 3
ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHƯƠNG TRÌNH “VIỆT HÓA”
DÀNH CHO THIẾU NHI TRÊN KÊNH HTV3
3.1. Đề xuất nâng cao chất lượng chương trình ................................................................................ 85
3.1.1. Xây dựng chiến lược phát triển kênh trên quan điểm hội nhập quốc tế ............................ 85
3.1.2. Tiếp nhận văn hoá có chọn lọc ............................................................................................ 88
3.1.3. Định hướng phát triển chương trình theo hướng giáo dục kết hợp giải trí ....................... 89
3.1.4. Đa dạng hóa nội dung ......................................................................................................... 90
3.1.5. Tăng cường đào tạo đội ngũ sản xuất chương trình .......................................................... 92
3.1.6. Nghiên cứu điều chỉnh lịch phát sóng phù hợp với công chúng thiếu nhi .......................... 93
3.1.7. Xây dựng và áp dụng định dạng về phong cách ngôn ngữ phù hợp với công chúng mục
tiêu ...................................................................................................................................... 96
3.1.8. Tổ chức nghiên cứu đối thủ để học hỏi và cạnh tranh ........................................................ 97
3.2. Kiến nghị ..................................................................................................................................... 98

3.2.1. Kiến nghị đối với nhà sản xuất truyền hình......................................................................... 98
3.2.2. Kiến nghị đối với xã hội ..................................................................................................... 101
3.2.3. Kiến nghị đối với các bậc cha mẹ ...................................................................................... 105
3.3. Tiểu kết ..................................................................................................................................... 108

KẾT LUẬN....................................................................................................................... 109

TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................... 112

Trang 6


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

MỞ ĐẦU
0.1. Lý do chọn đề tài
Thời gian qua, trong xu thế phát triển chung của xã hội truyền hình Việt
Nam, số lượng kênh truyền hình và chương trình truyền hình dành cho thiếu
nhi ở nước ta nói chung và ở HTV nói riêng cũng đã tăng lên rõ rệt. Đối tượng
công chúng truyền hình là thiếu nhi chiếm giữ một góc quan trọng trong xã
hội truyền hình và đòi hỏi những chương trình có tính chuyên biệt rất cao. Để
đáp ứng được yêu cầu đó, một bộ phận không nhỏ các chương trình truyền
hình dành cho thiếu nhi ở Việt Nam là những chương trình mua bản quyền
nước ngoài. Thực tế này giúp các đài truyền hình có thể nhanh chóng đa dạng

hóa về thể loại, nội dung lẫn hình thức thể hiện cho các chương trình truyền
hình dành cho thiếu nhi để đáp ứng nhu cầu thực tế trong khi chờ đợi sự
trưởng thành về kinh nghiệm thiết kế chương trình truyền hình thiếu nhi của
đội ngũ làm truyền hình trong nước. HTV3 - kênh truyền hình dành cho thiếu
nhi duy nhất của HTV cũng không ngoại lệ.
Các chương trình nước ngoài nổi tiếng phát sóng trên kênh HTV3 được
mua bản quyền từ nhiều nước trên thế giới như Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật
Bản, Mỹ… nhằm tạo thêm nhiều sự lựa chọn, nhiều sản phẩm tinh thần đáp
ứng nhu cầu thưởng thức của trẻ em Việt Nam. HTV cũng như nhiều đơn vị
sản xuất chương trình truyền hình khác đã chọn lựa, nhập khẩu nhiều chương
trình truyền hình hay, nổi tiếng với đủ các thể loại: phim hoạt hình (Đôrêmon–
Chú mèo máy đến từ tương lai, Ben 10, Thám tử lừng danh Conan, Thủ lĩnh
thẻ bài,…), trò chơi truyền hình, Phim truyền hình (Tuổi ô mai, Tây du ký,
Cẩm nang của Ned,…), phim điện ảnh (Kỷ băng hà, Mèo siêu quậy Garfield,
Garfield ở thế giới thực, Horton và thế giới tí hon, Barbie – Công chúa thiên

Trang 7


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
nga,…) các chương trình giải trí dành cho thiếu nhi (Vui cùng Giggles, Các
em bé Teletubbies, Vũ điệu hồn nhiên, Yoga cho bé, Học làm giàu, Giới trẻ
vào bếp,…), chương trình giải trí truyền hình thực tế (Con đã lớn khôn)… Các
chương trình được chọn mang tính giải trí lành mạnh, có đặc điểm, màu sắc

văn hóa phù hợp với Việt Nam. Hơn nữa, vì là những sản phẩm hướng tới đối
tượng khán giả nhỏ tuổi nên quá trình “Việt hóa” được thực hiện rất cẩn trọng
về ngôn từ và được biên tập một cách kỹ lưỡng, đảm bảo về mặt nội dung
mang tính giáo dục cũng như giữ gìn được sự trong sáng của tiếng Việt, đồng
thời giúp trẻ em dễ tiếp thu, phù hợp với khả năng nắm bắt và thấu hiểu của
trẻ em.
Chính vì vậy, nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu cách chọn chương trình, xử
lý chuyển đổi ngôn ngữ gốc sang tiếng Việt một số chương trình nước ngoài
(đa số đã được quốc tế hoá sang tiếng Anh) dành cho thiếu nhi càng cần thiết
hơn. Được sự đồng ý của cán bộ hướng dẫn là Tiến sĩ Trần Ngọc Châu, người
viết đã thống nhất chọn đề tài “Việt hóa các chƣơng trình thiếu nhi trên
kênh truyền hình HTV3” để tìm hiểu, phân tích về sự hấp dẫn cũng như tác
động của các chương trình dành cho đối tượng khán giả là thiếu nhi. Trước
khi quyết định thực hiện đề tài, chúng tôi đã tìm hiểu tài liệu lưu trữ về những
đề tài, công trình nghiên cứu đã thực hiện trước đây với đề tài tương tự.
0.2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Để thực hiện đề tài chúng tôi đã tham khảo, nghiên cứu một số luận án,
luận văn, sách, dự án, công trình nghiên cứu,… liên quan đến vấn đề ở các
khía cạnh: các thể loại chương trình dành cho thiếu nhi hiện nay, tâm lý khán
giả, nhất là khán giả trẻ em và cả những người cùng xem với các em, văn hóa
xem truyền hình,…
Trong giới hạn tìm hiểu của tác giả, đã có khá nhiều công trình nghiên
cứu về vấn đề “Việt hoá” mảng tin tức. Việc chuyển dịch tin quốc tế vào tiếng

Trang 8


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai

tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
Việt đã được Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN), cơ quan thông tấn duy nhất và
chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam (Đảng) và Nhà nước Việt Nam, thực
hiện ngay từ những năm đầu thành lập. Có thể nói, cơ quan này đã đạt được
những thành công to lớn về thực hành chuyển dịch tin quốc tế sang tiếng Việt
phục vụ cho nhiều cơ quan truyền thông đại chúng khác và đặc biệt là phục vụ
công chúng báo chí Việt Nam trong suốt mấy chục năm qua. Gần đây, một số
cơ quan truyền thông như Đài tiếng nói Việt Nam (Đài TNVN), Đài truyền
hình Việt Nam (Đài THVN), Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội (Đài PTTH Hà Nội), báo Nhân dân và một số tờ báo khác, ngoài việc sử dụng tin quốc
tế đối nội của TTXVN, đã tự tổ chức chuyển dịch tin quốc tế theo nhu cầu
riêng.
Bắt đầu từ năm 1995, PGS. TS. Vũ Quang Hào đã có ý tưởng nghiên
cứu quá trình chuyển dịch sản phẩm báo chí từ nước ngoài sang tiếng Việt. Ý
tưởng này đã được thể hiện thông qua việc hướng dẫn một số luận văn cử
nhân ngành báo chí học. Và trong khuôn khổ lúc bấy giờ, PGS. TS. Vũ Quang
Hào mới chỉ tập trung hướng dẫn sinh viên nghiên cứu về chuyển dịch tin thế
giới chứ chưa mở rộng ra các loại sản phẩm báo chí khác.
Đầu tiên phải kể đến luận văn của Hồ Hương Giang, Quá trình xử lí tin
quốc tế vào Việt Nam và sự thể hiện trên mặt báo của tin quốc tế, Khoa báo
chí, Đại học tổng hợp Hà Nội, 1995; Trần Long Hải, Dịch tin – Tin dịch,
Khoa Báo chí, Đại học tổng hợp Hà Nội, 1996; Mai Thị Thanh Hà, Vấn đề thể
hiện tin quốc tế bằng tiếng Việt trên Đài truyền hình Việt nam, Khoa Báo chí,
Đại học KHXH và NV, 1998; Cai Ánh Nguyệt, Vấn đề biên tập tin quốc tế
tiếng Việt ở Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội, Khoa Báo chí, Đại học
KHXH và NV, 1998; Nguyễn Phương Anh, Sự tương đồng và khác biệt giữa
ngôn ngữ tin quốc tế và ngôn ngữ tin trong nước, Khoa Báo chí, Đại học
KHXH và NV, 2000; Nguyễn Thị Thu Hường, Chuyển dịch tin quốc tế và sự


Trang 9


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
thể hiện tin quốc tế bằng tiếng Việt trên báo Nhân Dân, Khoa Báo chí, Đại
học KHXH và NV, 2000.
Những công trình nói trên tuy đã nói đến quá trình “Việt hóa” nhưng
vẫn xem xét trên phương diện “Việt hóa” tin tức. Phải chờ đến khóa luận tốt
nghiệp của Nguyễn Thị Thanh Hằng thực hiện vào năm 2011 đề tài Cách xử
lý Tạp chí Công chúa sang tiếng Việt từ bản gốc tiếng Anh Princess, Khóa
luận tốt nghiệp ngành báo chí, Đại học KHXH&NV Hà Nội, do PGS. TS. Vũ
Quang Hào hướng dẫn, một loại sản phẩm báo chí khác ngoài tin mới được
nghiên cứu xem cách thức chuyển dịch và “Việt hóa” như thế nào để phù hợp
với đối tượng công chúng Việt Nam. Tuy nhiên đây là đề tài về “Việt hoá”
trên báo in, tác giả đã đưa ra được một số kết luận về nội dung, cách trình bày
cũng như mức độ, thể loại bài được “Việt hoá” sao cho phù hợp với độc giả là
thiếu nhi ở Việt Nam.
Tuy nhiên vấn đề mà Thanh Hằng nghiên cứu ở đây vẫn là sản phẩm
báo in. Về sản phẩm truyền hình (ngoài tin quốc tế bằng hình) hiện chưa có
công trình nghiên cứu nào đề cập đến. Luận văn của chứng tôi là tài liệu đầu
tiên xem xét vấn đề “Việt hóa” sản phẩm truyền hình từ nước ngoài vào Việt
Nam.
Một số đề tài về truyền hình đã được tác giả tham khảo:

- Khóa luận tốt nghiệp ngành báo chí Các chương trình thiếu nhi trên
HTV hiện nay của tác giả Nguyễn Viên An, thực hiện năm 2007, Đại
học KHXH&NV TPHCM đã đề cập đến một số chương trình dành
cho thiếu nhi trên HTV, những điểm mạnh và chưa đạt được của một
số chương trình dành cho thiếu nhi.
- Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Báo chí, Đại học
KHXH&VN Hà Nội của tác giả Trần Thị Hồng Vân năm 2011 với
đề tài Xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình qua sản phẩm
Trang 10


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
của các công ty truyền thông: Cát Tiên Sa, LASTA, Hoa Hồng Vàng
từ năm 2008 đến năm 2010 trên sóng Đài Truyền hình Thành phố
Hồ Chí Minh cũng là một tài liệu tham khảo chi tiết về vấn đề hợp
tác sản xuất chương trình truyền hình để phát triển các kênh của
HTV trong những năm gần đây.
Như vậy, chưa có đề tài nào nghiên cứu về vấn đề “Việt hóa” các
chương trình truyền hình, nhất là chương trình dành cho thiếu nhi. Cái mới và
cái không trùng lắp của luận văn này chính là việc phân tích quy trình tổ chức
sản xuất, “Việt hoá” cho đến phát sóng các chương trình truyền hình dành cho
thiếu nhi như thế nào để vừa có ý nghĩa giáo dục vừa mang tính giải trí cao
cho nhóm đối tượng đặc biệt này.
0.3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục tiêu của luận văn là tìm hiểu về “Việt hoá” của các chương trình
thiếu nhi mua bản quyền nước ngoài phát sóng trên kênh HTV3. Không chỉ
tìm hiểu về nội dung các chương trình, tác giả còn tìm hiểu các quy trình đánh
giá, mua bản quyền và những cách thức “Việt hoá” một chương trình truyền
hình hiện nay.
Trên cơ sở đó, tác giả chọn khảo sát, phân tích, đánh giá 5 chương trình
thiếu nhi mua bản quyền nước ngoài đã được “Việt hoá” ở nhiều thể loại, hình
thức thể hiện khác nhau đã phát sóng trên kênh HTV3: 1. Hoạt cảnh:
Teletubbies – Các em bé rối Teletubbies, 2. Phim hoạt hình: Đôrêmon – Chú
mèo máy đến từ tương lai, 3. Chương trình giải trí: Yoga cho trẻ em, 4. Giáo
dục: Dạy từ vựng tiếng Anh, 5. Truyền hình thực tế (Reality): Con đã lớn
khôn.
Sau khi khảo sát, tác giả tiến hành đánh giá chất lượng, hiệu ứng của
từng chương trình đối với khán giả trẻ em, đặc biệt là ý kiến của phụ huynh

Trang 11


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
(có thể là ông bà, cha mẹ, những người cùng xem (co-watchers) với con,
cháu…) về những chương trình “Việt hóa” này.
Trên cơ sở thực tiễn đó tác giả đưa ra một số đề xuất về cách chọn và tổ
chức sản xuất “Việt hóa” và giờ phát sóng các chương trình nước ngoài trên
kênh HTV3 cho phù hợp với lứa tuổi thiếu nhi. Sau cùng là một vài kiến nghị

để các chương trình “Việt hoá” có thể kết hợp hài hòa giữa tính giáo dục và
tính giải trí, kết hợp giữa sự bảo tồn văn hóa dân tộc về bản sắc với sự hội
nhập quốc tế một cách uyển chuyển, phù hợp với đối tượng thiếu nhi Việt
Nam.
0.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề “Việt hoá” các chương
trình truyền hình nước ngoài trên một một nhóm sản phẩm truyền hình dành
cho nhóm công chúng đặc thù là thiếu nhi phát sóng trên kênh HTV3 của Đài
Truyền hình TP.HCM.
Với điều kiện nghiên cứu giới hạn, trong hàng trăm chương trình nước
ngoài đã được “Việt hóa” và phát sóng mới trên kênh HTV3 từ năm 2010 đến
6/2012, chúng tôi chỉ chọn khảo sát chính 5 chương trình nhận được nhiều sự
quan tâm, ảnh hưởng xã hội cũng như phản hồi từ phía khán giả (Qua khảo sát
thực tế và thống kê khán giả xem Đài của HTV) với nhiều thể loại khác nhau
như:
1. Hoạt cảnh: Teletubbies – Các em bé rối Teletubbies
2. Phim hoạt hình: Đôrêmon – Chú mèo máy đến từ tương lai
3. Chương trình giải trí: Yoga cho trẻ em
4. Giáo dục: Dạy từ vựng tiếng Anh
5. Truyền hình thực tế (Reality): Con đã lớn khôn

Trang 12


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi

phi
Công chúng khảo sát của luận văn tập trung chủ yếu vào đối tượng là trẻ
em lứa tuổi mầm non từ 3 - 6 tuổi, phụ huynh và những chương trình thiếu nhi
có yếu tố nước ngoài đã được “Việt hóa” và phát sóng trên kênh truyền hình
HTV3 từ năm 2010 đến 6/2012. Sau khi thống kê chương trình; phỏng vấn
các nhà sản xuất và khán giả; thu thập thông tin từ các trang mạng và xét mức
độ ảnh hưởng của từng chương trình ra toàn xã hội (ảnh hưởng của hình ảnh
các nhân vật trong phim tới mọi sinh hoạt của các em như Siêu nhân, Người
Nhện, Robot trái cây, xe hơi, người máy biến hình, Ben 10, các em bé
Teletubbies, mèo máy Đôrêmon…). Hiện nay chúng ta dễ dàng tìm thấy hình
ảnh của những nhân vật tưởng tượng này trên quần áo, giày dép, cặp sách, vở
học sinh, viết, thước, thú nhồi bông, đồ chơi bằng nhựa… Qua khảo sát chúng
tôi sẽ lấy ý kiến của phụ huynh về ảnh hưởng của các nhân vật trong các
chương trình thiếu nhi hiện nay đến các em.
0.5. Phương pháp lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận báo chí truyền
thông, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển sự nghiệp
thông tin - báo chí; các tài liệu, giáo trình, sách tham khảo, báo và tạp chí
trong và ngoài nước, các tài liệu có liên quan đến nội dung nghiên cứu về
truyền thông đối với trẻ em. Luận văn vận dụng những nghiên cứu thực tế các
chương trình truyền hình “Việt hoá” dành cho thiếu nhi phát sóng trên kênh
HTV3.
Để việc nghiên cứu đề tài có cơ sở và phương pháp luận vững chắc,
luận văn sử dụng 3 phương pháp chủ đạo:
- Phương pháp thống kê (định lượng)
- Phương pháp phỏng vấn. Tác giả đã thực hiện khảo sát bằng bảng hỏi
(an-ket, diary) đối với các em thiếu nhi, phụ huynh và phỏng vấn sâu các
chuyên gia, các nhà quản lý, những người trực tiếp thực hiện chương trình…

Trang 13



Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
- Phương pháp phân tích (đối chiếu, so sánh; định tính)
0.6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Thành công và cũng là kết quả nghiên cứu mới của tác giả chính là ở
chỗ đã tìm ra một số quá trình riêng của HTV3 trong việc “Việt hoá” chương
trình truyền hình cho thiếu nhi, kết hợp hài hòa giữa tính giáo dục và tính giải
trí, kết hợp giữa sự bảo tồn văn hóa dân tộc về bản sắc, với sự hội nhập quốc
tế một cách uyển chuyển, phù hợp với đối tượng thiếu nhi. Và không chỉ với
đối tượng thiếu nhi ở thành phố Hồ Chí Minh mà theo tôi nghĩ còn có thể áp
dụng cho thiếu nhi ở thủ đô Hà Nội và một số thành phố khác. Nhận thấy đây
là một đề tài hay và là vấn đề được nhiều người quan tâm, người viết hy vọng
việc nghiên cứu đề tài sẽ góp phần cho sự tìm hiểu, nghiên cứu về công tác
truyền bá thông tin mà đối tượng nghiên cứu là chương trình nước ngoài đã
được “Việt hóa” trên kênh HTV3. Sau khi nghiên cứu, khảo sát, chúng tôi sẽ
tiến hành đánh giá chất lượng, hiệu ứng đối với khán giả, đặc biệt là phụ
huynh đối với những chương trình nước ngoài dành cho thiếu nhi Việt Nam
hiện nay.
Qua những ưu khuyết điểm của từng chương trình truyền hình được
“Việt hóa” trên kênh HTV3, tác giả tổng kết và đưa ra những đề xuất, kiến
nghị tối ưu nhất đóng góp cho những người trực tiếp tạo ra sản phẩm truyền
hình dành cho thiếu nhi. Từ đó phát huy tính sáng tạo cũng như nâng cao khả
năng tự sản xuất của đội ngũ làm truyền hình cho thiếu nhi Việt Nam, những

người trực tiếp làm ra những sản phẩm thuần Việt cho khán giả nhỏ Việt Nam
bên cạnh các chương trình nước ngoài được “Việt hoá”. Điều này cũng là
hướng phát triển tất yếu của truyền hình dành cho thiếu nhi khi mà ngày càng
có nhiều kênh truyền hình dành cho thiếu nhi trong và ngoài nước ra đời cạnh
tranh như BiBi, Cartoon Network (CN), Disney Chanel, Disney Junior….

Trang 14


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
Trên cơ sở thực tiễn đó chúng tôi sẽ đề cập và kiến nghị về cách chọn và
tổ chức sản xuất “Việt hóa”, các chương trình nước ngoài trên kênh HTV3
cho phù hợp với lứa tuổi thiếu nhi, cập nhật được những tiến bộ về công nghệ
sản xuất chương trình truyền hình của thế giới nhưng vẫn bảo đảm phù hợp
với phong tục tập quán của người Việt Nam.
Chúng tôi cũng hy vọng đề tài sẽ đóng góp được một vài tư liệu, tài liệu
tham khảo cho các cơ quan truyền thông, đặc biệt là những người đang công
tác trong lĩnh vực truyền hình, truyền thông và những ai quan tâm đến lĩnh
vực này.
0.7. Bố cục của luận văn
Ngoài Mở đầu và Kết luận, nội dung luận văn được tổ chức thành 3
chương.
Chương 1 tập trung trình bày một số vấn đề lý thuyết và thuật ngữ liên
quan đến vấn đề “Việt hoá” chương trình truyền hình, đặc biệt là chương trình

truyền hình dành cho lứa tuổi thiếu nhi, làm cơ sở những nội dung phân tích,
khảo sát và đề xuất giải pháp ở những chương tiếp theo.
Chương 2 trình bày kết quả khảo sát cụ thể về nội dung và cách thức tổ
chức “Việt hoá” các chương trình truyền hình thiếu nhi trên kênh HTV3 của
Đài Truyền hình TP.HCM. Cụ thể, chúng tôi trình bày kết quả khảo sát 5
chương trình truyền hình có mức độ “Việt hoá” khác nhau.
Trên cơ sở lý thuyết ở chương 1 và kết quả khảo sát ở chương 2, chương
3 của luận văn trình bày các ý kiến đề xuất và kiến nghị nâng cao chất lượng
các “Việt hoá” các chương trình truyền hình dành cho thiếu nhi trên kênh
HTV3.

Trang 15


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Chương 1

“VIỆT HÓA” CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH DÀNH CHO
THIẾU NHI – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN
1.1. Vấn đề “Việt hóa” chương trình truyền hình
1.1.1. Khái niệm “Việt hóa”
“Việt hóa” thật ra là cách nói thông dụng để chỉ quá trình điều chỉnh,
biến đổi một đối tượng có nguồn gốc nước ngoài sao cho phù hợp với môi

trường ngôn ngữ, xã hội, văn hóa Việt Nam. Quá trình này, trước hết, có liên
quan đến hiện tượng bản địa hóa ngôn ngữ (language localization).
Theo Wikipedia, bản địa hóa ngôn ngữ là giai đoạn tiếp theo của một
quá trình lớn hơn diễn ra trước đó (quá trình quốc tế hóa), bao gồm việc dịch
sản phẩm và giúp sản phẩm đó thích ứng văn hóa (đối với quốc gia, khu vực,
hoặc nhóm cụ thể) cho thị trường riêng biệt. Bản địa hóa ngôn ngữ không chỉ
là một hoạt động dịch thuật thuần túy, mà nó liên quan đến việc nghiên cứu
toàn diện về nền văn hóa bản địa để giúp sản phẩm thích ứng một cách chính
xác với nhu cầu địa phương”.
Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam nhận diện hiện tượng “Việt hóa”
dưới góc độ giao lưu ngôn ngữ, xem đó là mức độ cao nhất (kết quả cuối
cùng) của quá trình nhập hệ các yếu tố ngôn ngữ được vay mượn vào tiếng
Việt. Ví dụ, từ commissaire của tiếng Pháp được “Việt hóa” thành từ “cẩm”,
“cò” (cảnh sát trưởng thời Pháp thuộc), từ chambre “Việt hóa” thành “săm”,
từ enveloppe “Việt hóa” thành “lốp”, từ gare “Việt hóa” thành “ga”, … Bản
thân tiến trình đi từ yếu tố xa lạ tới yếu tố được người Việt chấp nhận, trong
đó vừa có sự đồng hóa yếu tố xa lạ (quá trình thuận), vừa có sự biến đổi các
đặc điểm cấu trúc của bản thân tiếng Việt để đủ tiềm năng vật chất hấp thụ
yếu tố xa lạ (quá trình ngược – tự biến đổi). Trên thực tế, “Việt hóa” không

Trang 16


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

chỉ là quá trình diễn ra ở bình diện giao lưu ngôn ngữ, mà còn diễn ra ở nhiều
lĩnh vực khác, cần được nhận diện như là một quá trình tiếp biến văn hóa
(acculturation). Sự tiếp xúc, giao thoa giữa các nền văn hoá luôn luôn diễn ra
trong quá trình phát triển của nhân loại. Đó là một nhu cầu tất yếu, một quy
luật của phát triển. Trong quá trình giao thoa văn hóa, có thể xảy ra hiện
tượng các yếu tố của nền văn hoá này thâm nhập vào nền văn hoá kia hoặc
nền văn hóa này vay mượn các yếu tố của nền văn hoá kia rồi cải biến điều
chỉnh cho phù hợp dẫn đến sự tiếp biến văn hóa.
Như vậy, “Việt hóa” không chỉ đơn thuần là quá trình chuyển dịch ngôn
ngữ cho một đối tượng nào đó đến từ bên ngoài nền văn hóa – ngôn ngữ Việt
Nam, mà còn là quá trình biến đổi đối tượng ấy sao cho phù hợp với năng lực
thấu cảm văn hóa và nhu cầu của người Việt, phù hợp với môi trường văn hóa
– nhân văn Việt Nam mà vẫn giữ được những nét tiêu biểu của đối tượng gốc.
1.1.2. “Việt hóa” chương trình truyền hình
Để đáp ứng nhu cầu giải trí ngày càng cao của khán giả truyền hình,
nhiều Đài truyền hình cũng như các nhà sản xuất chương trình truyền hình
Việt Nam đã chọn phương án mua bản quyền và nhập khẩu nhiều chương
trình truyền hình hay, nổi tiếng với đủ các thể loại: trò chơi truyền hình, phim
truyện, phim hoạt hình, các chương trình giải trí, truyền hình thực tế,…
Những chương trình truyền hình này thường được thiết kế và sản xuất với
mức độ chuyên nghiệp rất cao và với sự đầu tư công phu về công nghệ tổ
chức, sản xuất. Đây cũng là những chương trình đã giành được sự thành công
trên thị trường truyền hình ở các nước, thu hút được người xem truyền hình
với tỷ lệ theo dõi rất cao. Việc mua bản quyền và nhập khẩu các chương trình
truyền hình nước ngoài có những khía cạnh hấp dẫn về nội dung văn hóa lẫn
về phương diện tài chính đối với các đài truyền hình trong nước vốn chưa theo
kịp trình độ sản xuất truyền hình so với các nước phát triển.

Trang 17



Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
Tuy nhiên, những chương trình “Việt hóa” phải lệ thuộc nhiều vào định
dạng chương trình nên đôi khi những người thực hiện gặp khó khăn trong việc
xử lý sự khác biệt giữa văn hóa Việt Nam với những nền văn hóa khác trên
thế giới. Điều chỉnh chương trình để phù hợp với văn hóa Việt Nam nhưng
vẫn giữ được khung thiết kế (format) của chương trình là một thử thách lớn
đối với người tham gia sản xuất chương trình truyền hình dạng này, vì chắc
chắn những ràng buộc trong cam kết bản quyền với đối tác nước ngoài sẽ
không cho phép có những thay đổi tùy tiện làm biến dạng format chương
trình.
Thông số đầu vào quan trọng cho quá trình cải biến này chắc chắn là
các vấn đề liên quan đến xu thế toàn cầu hóa văn hóa hiện nay – một xu thế
đang hậu thuẫn cho sự phát triển xuyên biên giới của nhiều giá trị văn hóa địa
phương, đưa những giá trị ấy đến nhiều vùng đất mới và nhờ đó mà được biết
đến, được chia sẻ. Các sản phẩm truyền hình cũng không nằm ngoài xu thế
đó. Tuy nhiên, cũng nên nhất trí đôi điều về quan điểm toàn cầu hóa văn hóa
trong bối cảnh hiện nay.
Văn hóa là một thực tế cực kỳ đa dạng của đời sống nhân loại. Bức
tranh văn hóa nhân loại là một bức tranh được ghép nên bổ nhiều mảng màu
sắc, hình ảnh, đường nét đầy khác biệt bản sắc của các nền văn hóa dân tộc,
văn hóa khu vực, văn hóa quốc gia. Nhưng bối cảnh xã hội hiện đại đang tạo
ra những tiền đề về kỹ thuật và xã hội hết sức đặc biệt để các bộ phận văn hóa
ấy tiến nhanh đến tương lai mới của nền văn hóa nhân loại – tương lai toàn

cầu hóa văn hóa.
Toàn cầu hóa tạo điều kiện hiện đại hóa các nền kinh tế và văn hóa lạc
hậu, dân chủ hóa các nền chính trị, thúc đẩy việc trao đổi lao động và tiêu thụ
hàng hóa giữa các quốc gia. Một người dân nước này dùng sản phẩm, ăn món
ăn, uống thức uống, dùng thuốc men, mặc quần áo do những dân tộc khác làm
ra. Cả thế giới đồng thời được xem một chương trình tivi, xem một bộ phim,
Trang 18


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
nghe một bản nhạc… Điều đó cũng có nghĩa là, một sản phẩm có chất lượng
tốt được làm ra ở một dân tộc nào đó sẽ nhanh chóng được tiêu thụ ở nhiều
nước trên toàn thế giới.
Toàn cầu hóa là xu thế phù hợp quy luật phát triển của xã hội loài
người. Trong tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về chủ nghĩa cộng sản đã
hàm chứa quan niệm về toàn cầu hóa như là con đường giải phóng con người
thoát khỏi những ràng buộc địa phương, dân tộc, liên hệ với nền văn minh
toàn thế giới và hưởng thụ tất cả những thành quả vật chất và tinh thần mà
nhân loại sáng tạo ra. Trong Hệ tư tưởng Đức, các ông viết: "Chỉ có như vậy
thì các cá nhân riêng rẽ mới được giải thoát ra khỏi những khuôn khổ dân tộc
và địa phương khác nhau của mình, mới có được những liên hệ thực tiễn với
nền sản xuất (kể cả sản xuất tinh thần) của toàn thế giới và mới có được khả
năng hưởng thụ nền sản xuất của toàn thế giới về mọi lĩnh vực (tất cả những
sáng tạo của con người)".

Về khía cạnh văn hóa, toàn cầu hóa là quá trình xích lại gần nhau giữa
các nền văn hóa vốn trước đây hoàn toàn khác biệt nhau.Toàn cầu hóa văn
hóa không có nghĩa là xóa bỏ văn hóa dân tộc để tiếp thu một nền văn hóa
khác có tính chất "mẫu mực" cho toàn thế giới. Thực ra, không thể có một nền
văn hóa mẫu mực như vậy. Trái lại, toàn cầu hóa là sự mở rộng biên giới văn
hóa từ phạm vi địa phương, dân tộc, quốc gia ra phạm vi toàn thế giới. Toàn
cầu hóa tạo điều kiện giới thiệu những thành tựu, những nét độc đáo của văn
hóa dân tộc, xuất khẩu những sản phẩm văn hóa của dân tộc này cho các dân
tộc khác, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của các dân
tộc khác để làm giàu, làm phong phú nền văn hóa dân tộc mình.
Kết quả của toàn cầu hóa văn hóa là, một mặt, duy trì, củng cố, hiện đại
hóa văn hóa dân tộc, phát huy bản sắc của văn hóa dân tộc, mặt khác, tiếp thu
tất cả những gì quý giá, tiên tiến, hiện đại của các dân tộc khác để làm giàu
cho nền văn hóa của dân tộc mình.
Trang 19


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
Và cũng trong kịch bản mới mẻ ấy của văn hóa nhân loại, vấn đề giữ
gìn và bảo vệ các giá trị bản sắc văn hóa dân tộc cũng được đặt ra như một
thách thức to lớn. Những di sản văn hóa vật chất và tinh thần của một dân tộc
được bảo vệ và tôn vinh không chỉ vì lợi ích của dân tộc đó, mà còn vì lợi ích
của cả nhân loại. Bằng chứng là không ít người, kể cả những nhà chính trị,
khoa học, văn hóa... từ các dân tộc văn minh đã rất quan tâm tìm hiểu, nghiên

cứu, thưởng thức những giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc khác, kể
cả những dân tộc lạc hậu hơn dân tộc mình. Một thế giới đa dạng về văn hóa
mới thực sự là môi trường sống lý tưởng, tốt đẹp của nhân loại.
Trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng
sản Việt Nam (sau đây gọi tắt là Đảng) đã nêu rõ: “Xây dựng nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất
trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm
cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở
thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát
triển. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng
một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá
con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao.
Phát triển, nâng cao chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật; khẳng định và
biểu dương các giá trị chân, thiện, mỹ, phê phán những cái lỗi thời, thấp kém,
đấu tranh chống những biểu hiện phản văn hoá. Bảo đảm quyền được thông
tin, quyền tự do sáng tạo của công dân. Phát triển các phương tiện thông tin
đại chúng đồng bộ, hiện đại, thông tin chân thực, đa dạng, kịp thời, phục vụ có
hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”
Những phân tích vừa nêu cho thấy, trong lĩnh vực truyền thông nói
chung và truyền hình nói riêng, việc du nhập những chương trình truyền hình
nước ngoài vào Việt Nam cũng là một trong những cách giúp khán giả tiếp

Trang 20


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu

lieu mien
mien phi
phi
cận văn hoá các nước khác nhau trên thế giới một cách công khai, có chọn lọc,
kiểm duyệt của các cơ quan, đơn vị chức năng có thẩm quyền.
Như vậy, có thể nói, “Việt hóa” chương trình truyền hình là hoạt động
chuyển dịch ngôn ngữ và cải biến nội dung trong giới hạn cam kết về bản
quyền để vừa phù hợp với môi trường ngôn ngữ - văn hóa Việt Nam vừa
không làm biến dạng format của chương trình truyền hình bản quyền.
1.1.3. Những khía cạnh kỹ thuật của vấn đề “Việt hoá” chương trình truyền
hình
Những chương trình được chọn mua bản quyền thường là những
chương trình có giá trị giáo dục tốt, bổ ích và ít nhiều được biết đến tại nơi sản
xuất chương trình hay kênh phát sóng chính của chương trình. Số lượng
chương trình mới của các Đài, đơn vị sản xuất hàng năm thì rất nhiều nhưng
để chọn mua một chương trình còn phải dựa trên nhiều yếu tố: tiêu chí của
kênh phát sóng, nguồn tài chính, nơi có thể phát sóng chương trình…
Sau khi đã hoàn tất thủ tục mua bản quyền chương trình thì phần chuyển
ngữ, biên tập lại nội dung chương trình đóng vai trò quan trọng không kém.
Đội ngũ biên dịch, biên tập viên chịu trách nhiệm thực hiện phần hậu kỳ của
chương trình phải có kinh nghiệm trong lĩnh vực truyền hình, nắm bắt được
ngôn ngữ truyền hình và đặc biệt là ngôn ngữ phù hợp với trẻ em – đối tượng
chính của kênh.
“Việt hóa” chương trình nước ngoài dễ dàng bộc lộ những yếu kém về
tay nghề, kém chuyên nghiệp cũng như những hạn chế về công nghệ sản xuất
và đôi khi không mang lại hiệu quả cũng như tác động xã hội như mong
muốn. Đặc biệt là khán giả cũng như giới chuyên môn thường trông đợi rất
nhiều với những chương trình đã và đang nổi tiếng, được nhiều người trên thế
giới quan tâm, theo dõi. Đội ngũ thực hiện đôi khi bị hạn chế về khả năng


Trang 21


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
sáng tạo, khả năng diễn đạt ý tưởng cũng như khả năng thao tác kỹ thuật, kỹ
xảo sao cho phù hợp với phong cách và nội dung của chương trình.
Vì vậy, chương trình được chọn để “Việt hóa” thường là chương trình
giải trí, có đặc điểm, văn hóa phù hợp với Việt Nam. Và “Việt hóa” cái gì?
“Việt hóa” như thế nào? Việc này sẽ được quyết định dựa trên nội dung của
chương trình, sự quan tâm của xã hội (độ hot – sức hấp dẫn của chương trình
gốc) ở từng thời điểm. Việc này nhằm giúp khán giả có thể hiểu trọn vẹn ý tứ
của những người thực hiện cũng như tạo thêm sự hấp dẫn của chương trình.
Hiện nay có 3 cấp độ “Việt hóa” đang được thực hiện đối với các chương
trình mua bản quyền nước ngoài tại HTV, người viết tạm gọi là: “Việt hóa”
đơn giản, “Việt hóa” một phần và “Việt hóa” toàn phần.
Về xử lý kỹ thuật, các tệp (tập tin) chương triǹ h cầ n “Viê ̣t hóa” sẽ được
tách riêng thành tệp video (hình ảnh) và audio (âm thanh). Đồng thời được ta ̣o
ra mô ̣t phiên bản đ ộ phân giải thấ p (low-res), có dung lượng nhỏ giúp thuận
tiê ̣n về mặt thời gian cho viê ̣c trao đổ i n ội dung cần “Việt hóa”. Tệp low-res
này được và gửi tới bô ̣ phâ ̣n “Viê ̣t hóa ”. Bô ̣ phâ ̣n “Viê ̣t hóa ” sẽ dựa trên t ệp
này để thực hiện dịch phụ đề hoặc đọc thuyết minh . Tệp phu ̣ đề hoă ̣c tệp tiếng
thuyế t minh sẽ đươ ̣c gửi trả về bô ̣ phâ ̣n kỹ thuâ ̣t và thực hiê ̣n ghép với t

ệp


video gố c để hoàn thành một chương trình “Viê ̣t hóa”.
Quy trin
̀ h k ỹ thuật này có thể đư ợc thực hiện hoàn toàn tự đô ̣ng và có
ưu điể m lớn là hê ̣ thố ng không can thiê ̣p gì vào t ệp video gố c nên chấ t lươ ̣ng
của chương trình được đảm bảo , không bị suy giảm do quy trình xử lý của hệ
thố ng.
Quy trình “Việt hóa” được thực hiện trên dây chuyền sản xuất truyền
hình kỹ thuật số nên cho phép các bộ phận khác nhau có thể tham gia vào quy
trình can thiệp đến file chương trình thông qua các bước trung gian rồi hợp
nhất trên hệ thống lữu trữ NAS trước khi chuyển lên máy chủ. Bô ̣ phâ ̣n kiểm

Trang 22


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
tra nội dung chương trình đươ ̣c trang bi ̣hê ̣ thố ng giám sát v
thanh để đánh giá chấ t lươ ̣ng nô ̣i dung và kỹ thuâ ̣t

ề hình ảnh , âm

(quan trọng nhất là âm

thanh) các chương trình trước khi phát sóng . Bộ phận kiểm tra về kỹ thuật,

chuẩn phát sóng của file đã được lên lịch phát sóng. Mô ̣t chương triǹ h đươ ̣c
đánh giá là đa ̣t sẽ đươ ̣c chuyể n từ hê ̣ thố ng lưu trữ NAS

(Network attached

storage) vào server (máy chủ) phát sóng để sẵn sàng phát sóng theo lịch phát
sóng.

Hình 1: Sơ đồ tổng quát mô tả nguyên lý hoạt động của
trung tâm sản xuất chương trình truyền hình số

1.1.4. Các mức độ “Việt hoá”
a)“Việt hóa” đơn giản
“Việt hóa” ở cấp độ đơn giản nhất là dịch từ ngôn ngữ gốc của chương
trình nước ngoài sang tiếng Việt (bao gồm các hình thức thể hiện: thuyết
minh, lồng tiếng, phụ đề). Vì là mức độ đơn giản nhất nên các chương trình
được “Việt hóa” ở cấp độ này cũng bộc lộ một số hạn chế về diễn đạt ý nghĩa,
về ngôn từ. Đơn giản hơn có thể nói là dịch thuật thuần túy, dịch nguyên bản,
chuyển ngữ trực tiếp từ tác phẩm gốc sang tiếng Việt. Nội dung các chương
Trang 23


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
trình này thường là được giữ nguyên bản gốc, trừ một số hình ảnh nhạy cảm

quá hay không phù hợp để phát sóng ở Việt Nam thì mới cần phải biên tập,
cắt bỏ hoặc dựng lại.
Những chương trình như phim truyện, phim hoạt hình, phim khoa học…
thường sẽ được thực hiện theo dạng này, “Việt hóa” đơn giản. “Việt hoá” cấp
độ này đòi hỏi người dịch phải am hiểu, có kiến thức về lĩnh vực ngôn ngữ
truyền hình, chương trình dành cho thiếu nhi thì ngôn ngữ cần chính xác, càng
ít sử dụng tiếng lóng, ngôn ngữ chuyên ngành càng tốt. Còn phần thuyết minh,
lồng tiếng cũng cần rõ ràng, chuẩn và có phần vui tươi thì mới thu hút được sự
chú ý của các em khi xem chương trình. Thử hình dung một chương trình
thiếu nhi mà giọng đọc thuyết minh trầm trầm, ấm ấm như giọng đọc phim tài
liệu thì chương trình không thể thu hút khán giả trẻ em được. Tuy nhiên, gần
đây một số chương trình thuộc các thể loại phim truyện, phim khoa học, giải
trí còn được thực hiện thêm một số công đoạn nữa để thu hút sự chú ý của
khán giả, đó là “Việt hóa” một phần.
b)“Việt hóa” một phần
Đây là dạng “Việt hóa” phức tạp hơn, bao gồm việc sản xuất các đoạn
tóm lược, giới thiệu ở phần đầu và cuối chương trình bằng tiếng Việt để khán
giả tiện theo dõi. Có thể gọi đây là cấp độ “Việt hóa” một phần. Phần đầu và
cuối chương trình sẽ có người dẫn chương trình dẫn chuyện giúp khán giả
hình dung những nội dung sẽ xem và có thể lồng thêm vào là nội dung những
phần đã xem. Tùy theo thể loại và nội dung chương trình mà chọn người dẫn
chương trình cho phù hợp, hấp dẫn đối tượng sẽ xem chương trình.
Chương trình “Em yêu khoa học” dành cho thiếu nhi thì sẽ có 1 hoặc 2
bạn thiếu nhi dẫn chương trình (ví dụ: bé Quỳnh Như,…); hoạt cảnh Các em
bé rối Teletubbies thì được lồng vào những phóng sự về hoạt động của các em
thiếu nhi Việt Nam như chơi đồ chơi, đi học, đi công viên cùng nhiều chương

Trang 24



Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
trình giáo dục về màu sắc, con số cho các em một cách sinh động (phiên bản
gốc thì những phóng sự này là giới thiệu hoạt động của các em bé nước
ngoài); Chương trình Khám phá thì giới thiệu cho các em về nơi, địa danh sẽ
được xem hay nhân vật giao lưu với các em trong chương trình.
c)“Việt hóa” toàn phần
Cấp độ “Việt hóa” toàn phần hiện nay có thể hiểu là mua định dạng
chương trình nước ngoài, sản xuất trong nước với phiên bản chương trình đã
được nghiên cứu, điều chỉnh cho phù hợp về mặt giáo dục, văn hóa, truyền
thống, thị hiếu thẩm mỹ… của đối tượng khán giả là thiếu nhi Việt Nam. Đây
là cấp độ phức tạp nhất nhưng cũng mang lại hiệu quả cao nhất, chất lượng
chương trình hấp dẫn nhất hiện nay.
Ví dụ như các chương trình Dạy từ vựng tiếng Anh (Anh Quốc), chương
trình truyền hình thực tế Con đã lớn khôn (Nhật Bản), phim truyện Gia đình
phép thuật (Hàn Quốc)… Đây là những chương trình được thực hiện dựa trên
định dạng chương trình được mua từ nước ngoài và thực hiện phần quay, diễn
viên và những người thực hiện đa số là người Việt Nam, có một số ít người là
cố vấn cho chương trình hay chuyên gia giám sát định dạng, cộng tác viên
người nước ngoài cùng tham gia để đảm bảo một số tiêu chí nhất định mà chủ
sở hữu bản quyền mong muốn.
1.2. Những khía cạnh đặc thù về đối tượng thiếu nhi trong xã hội truyền
hình
Trẻ em là đối tượng nhận được sự quan tâm đặc biệt của xã hội. Công
ước về Quyền trẻ em (Luật quốc tế để bảo vệ Quyền trẻ em) quy định trẻ em

là những người dưới 18 tuổi và được định nghĩa một đứa trẻ là "mọi con
người dưới tuổi 18 trừ khi theo luật có thể áp dụng cho trẻ em, tuổi trưởng
thành được quy định sớm hơn." Công ước đề ra các Quyền cơ bản của con
người mà trẻ em trên toàn thế giới đều được hưởng và được Liên Hiệp Quốc
Trang 25


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
thông qua năm 1989. Công ước đã được hầu hết các nước trên thế giới đồng
tình và phê chuẩn. Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai trên
thế giới phê chuẩn công ước của Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em vào ngày
20/2/1990. Từ đó đến nay, mặc dù còn nhiều khó khăn, Việt Nam đã đạt nhiều
tiến bộ trong việc đưa tinh thần và nội dung của Công ước vào chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội và luật pháp quốc gia.
Thiếu niên nhi đồng nước ta đã và đang được Đảng, Nhà nước, các đoàn
thể và toàn xã hội quan tâm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, đã được thể hiện
bằng luật định.
Thấm nhuần tư tưởng của Bác “Chăm sóc và giáo dục tốt các cháu là
nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân”, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã
thường xuyên quan tâm đến công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Năm 1991, Quốc hội đã thông qua “Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em”. Ngày 30-5-1994, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) đã ra Chỉ thị
số 38CT/TW “Về công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em”. Ngày 30-71998, Thường vụ Bộ Chính trị (khóa VIII) đã ra thông tri “Về việc tăng cường
lãnh đạo công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em”. Và, ngày 28/6/2000,

Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 55-CT/TW "Về tăng cường sự lãnh đạo
của các cấp ủy Đảng cơ sở đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em"... Đây là một sự nghiệp lớn lao và hệ trọng, nó đòi hỏi “các Đảng ủy, Ủy
ban thiếu niên nhi đồng, Đoàn thanh niên, ngành Giáo dục và các ngành, các
đoàn thể phải có kế hoạch thật cụ thể chăm sóc các cháu ngày càng khỏe
mạnh và tiến bộ. Các tỉnh ủy, thành ủy cần phải phụ trách, đôn đốc việc này
cho có kết quả tốt…”.
Cùng với một số luật khác như Luật phổ cập giáo dục tiểu học, Luật lao
động, Luật dân sự, Luật tố tụng hình sự….. được ban hành và sửa đổi đều
quan tâm thích đáng đến quyền lợi của trẻ em. Các bộ, ban ngành, Ủy ban

Trang 26


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
nhân dân các cấp có trách nhiệm thực hiện tốt các chương trình liên quan đến
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở các điểm chính:
- Nhà nước và toàn xã hội phải hỗ trợ cha mẹ và người chịu trách nhiệm
nuôi nấng, chăm sóc trẻ để họ làm tròn trách nhiệm của mình.
- Cộng đồng phải đảm bảo các chính sách, chế độ của nhà nước dành
cho trẻ. Tham gia phong trào toàn dân bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, huy
động các nguồn lực, vật chất và tình cảm sẵn có trong cộng đồng chăm lo cho
trẻ em. Phối hợp, đoàn kết bảo vệ trẻ em trước các nguy cơ ảnh hưởng sức
khỏe, tâm lý, nguy cơ bị xâm hại và tệ nạn xã hội.

- Gia đình là môi trường đầu tiên chăm sóc và bảo vệ trẻ em. Không có
cha mẹ và người thân, đứa trẻ sẽ cảm thấy cô đơn và rất dễ bị lôi cuốn vào các
nguy cơ sa ngã, hư hỏng và đi vào con đường phạm tội. Môi trường gia đình
lành mạnh giúp trẻ em phát triển đầy đủ và hài hòa cả về thể chất và tinh thần,
giúp cho việc hình thành nhân cách toàn diện của trẻ.
Bên cạnh đó, tại kỳ họp Hội đồng Nhân dân TP. Hồ Chí Minh lần thứ
19, khóa VII, các đại biểu thống nhất chủ đề hành động trong năm 2011 là
“Năm vì trẻ em”. Để đi đến việc thống nhất chủ đề này, các đại biểu tại kỳ
họp đã biểu quyết thông qua các báo cáo, tờ trình của Uỷ ban Nhân dân Thành
phố về xây dựng các khu vui chơi giải trí phục vụ trẻ em. Thành phố cũng
triển khai thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới và Đề án phổ cập
giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Tăng cường khả năng tiếp cận giáo dục cho
trẻ khuyết tật…
Trẻ em như cây non cần được bảo vệ, chăm sóc và nuôi dưỡng chu đáo.
Chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ khi còn nhỏ có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối
với sự phát triển và trưởng thành của trẻ trong tương lai. Nhiều nghiên cứu
khoa học và thực tế đã chứng minh điều đó. Việc nuôi dạy trẻ ngay từ khi mới
sinh và những năm đầu đời sẽ giúp trẻ phát triển tốt nhất cả về thể chất, trí tuệ,

Trang 27


×