Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

HIỆN TRẠNG SUY THOÁI TÀI NGUYÊN NƯỚC Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (976.8 KB, 36 trang )

MỤC LỤC


DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình ảnh

Nội Dung

1

Vòng tuần hoàn của nước trong tự nhiên

2

Vai trò của nước đối với cơ thể con người

3

Nước phục vụ cho thủy điện

4

Hệ thống phun nước tự động trong nông nghiệp

5

Du lịch sông nước miền tây

6

Vận tải thủy



7

Vai trò của nước đối với sinh vật

8

Trẻ em thiếu nước ở Châu Phi

9

Hai cậu bé đang bơi trong vũng nước đầy bùn và bọt, chất
thải từ các nhà máy công nghiệp, ở New Delhi, Ấn Độ

10

Nước thải ra khỏi nhà máy xử lý tập trung của KCN Lê Minh
Xuân đen ngòm nhưng được báo cáo là đạt tiêu chuẩn

11

Người dân sử dụng nước sạch

12
do

Một đoạn sông Sêrêpôk chảy qua Buôn Đôn đã cạn kiệt nước
Thủy điện Sêrêpôk

13

14

Nguồn thải đầm NTTS chưa được xử lý đúng cách.
Đồng bào Ra Glai ở thôn Gia Hoa, xã Ma Nới, huyện Ninh Sơn
đã có nước sạch để sử dụng trong sinh hoạt hằng ngày

Nhóm 3 – QLTN&MTK55

Trang 2


MỞ ĐẦU
Nước là một nhân tố quan trọng cấu thành nên môi trường, quyết định sự tồn tại
và phát triển của cả hành tinh.Vai trò quan trọng của nước thể hiện rõ nét trong tất
cả mọi mặt của đời sống con người: nước chiếm 99% trọng lượng sinh vật sống
trong môi trường nước và 44% trọng lượng cơ thể con người, ngoài chức năng
tham gia vào chu trình sống trên, nước còn mang năng lượng (hải triều, thuỷ năng,
chất mang vật liệu và là tác nhân quan trọng điều hoà khí hậu, thực hiện các chu
trình tuần hoàn vật chất trong tự nhiên. Có thể nói, sự sống của con người và mọi
sinh vật trên Trái Đất phụ thuộc vào nước.
Tài nguyên nước không phải là một nguồn tài nguyên vô hạn và hiện nay nguồn
tài nguyên thiên nhiên quý hiếm và quan trọng này đang phải đối mặt với nguy cơ ô
nhiễm và suy kiệt. Nguy cơ thiếu nước, đặc biệt là nước ngọt và sạch là một hiểm
họa lớn đối với sự tồn vong của con người cũng như toàn bộ sự sống trên Trái Đất.
Trong những năm qua, sự tăng nhanh về dân số và khai thác quá mức tài nguyên
nước cho các hoạt động sống của con người như hoạt động sản xuất nông nghiệp,
lương thực thực phẩm, hoạt động sản xuất công nghiệp, hoạt động giao thông vận
tải, du lịch, đã làm tăng nguy cơ suy thoái tài nguyên nước.
Và hiện nay trên Thế Giới nói chung cũng như ở Việt Nam nói riêng, sự mất cân
bằng, suy thoái và cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong đó có tài nguyên

nước, đang là hồi chuông cảnh báo con người. Vì vậy con người cần phải sử dụng
hợp lý đồng thời phải có biện pháp phục hồi và tái tạo tài nguyên thiên nhiên theo
hướng phát triển bền vững.
Chính vì sự quan trọng và cần thiết trên nên tôi thực hiện tiểu luận:“Hiện trạng
suy thoái tài nguyên nước ở Việt Nam”.

Nhóm 3 – QLTN&MTK55

Trang 3


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI NGUYÊN NƯỚC VIỆT NAM
1.1 Tài nguyên nước
Nước là một thành phần rất quan trọng và không thể thiếu được trong hệ sinh
thái, để duy trì sự sống, sự trao đổi chất, cân bằng sinh thái trên toàn cầu.
Môi trường nước bao gồm các dạng nước ngọt, nước mặn, nước ao hồ, sông ngòi,
nước đóng băng, tuyết, nước ngầm..
 Vòng tuần hoàn nước

Vòng tuần hoàn nước là sự tồn tại và vận động của nước trên mặt đất, trong lòng
đất và trong bầu khí quyển của Trái Đất. Nước Trái Đất luôn vận động và chuyển từ
trạng thái này sang trạng thái khác, từ thể lỏng sang thể hơi rồi thể rắn và ngược
lại. Vòng tuần hoàn nước đã và đang diễn ra từ hàng tỉ năm và tất cả cuộc sống trên
Trái Đất đều phụ thuộc vào nó, Trái Đất sẽ là một nơi không thể sống được nếu
không có nước.

Hình 1: Vòng tuần hoàn của nước trong tự nhiên
Dưới tác dụng của bức xạ mặt trời, nước bốc hơi từ bề mặt đại dương, hồ đầm,
sông ngòi...Những dòng khí bốc lên đem theo hơi nước vào trong khí quyển, gặp nơi
có nhiệt độ thấp hơn hơi nước bị ngưng tụ thành những đám mây. Những dòng

không khí di chuyển những đám mây, những phân tử mây va chạm vào nhau, kết
hợp với nhau, gia tăng kích cỡ và rơi xuống thành giáng thủy. Giáng thuỷ dưới dạng
tuyết được tích lại thành những núi tuyết và băng hà. Trong những vùng khí hậu
Nhóm 3 – QLTN&MTK55

Trang 4


ấm áp hơn, tuyết tan và chảy thành dòng trên mặt đất, đôi khi tạo thành lũ. Phần
lớn lượng giáng thuỷ rơi trên các đại dương hoặc rơi trên mặt đất và trở thành
dòng chảy mặt. Một phần dòng chảy mặt chảy vào trong sông theo những thung
lũng sông trong khu vực, với dòng chảy chính trong sông chảy ra đại dương. Dòng
chảy mặt, và nước thấm được tích luỹ và được trữ trong những hồ nước ngọt. Mặc
dù vậy, không phải tất cả dòng chảy mặt đều chảy vào các sông. Một lượng lớn nước
thấm xuống dưới đất. Một lượng nhỏ nước được giữ lại ở lớp đất sát mặt và được
thấm ngược trở lại vào nước mặt dưới dạng dòng chảy ngầm. Một phần nước ngầm
chảy ra thành các dòng suối nước ngọt. Nước ngầm tầng nông được rễ cây hấp thụ
rồi thoát hơi qua lá cây. Một lượng nước tiếp tục thấm vào lớp đất dưới sâu hơn và
bổ sung cho tầng nước ngầm sâu để tái tạo nước ngầm, nơi mà một lượng nước
ngọt khổng lồ được trữ lại trong một thời gian dài. Tuy nhiên, lượng nước này vẫn
luân chuyển theo thời gian, có thể quay trở lại đại dương, nơi mà vòng tuần hoàn
nước “kết thúc” … và lại bắt đầu .
1.2 Vai trò tài nguyên nước
1.2.1 Vai trò của nước đối với con người
1.2.1.1. Đối với sức khỏe con người
Nước vận chuyển chất dinh dưỡng và ôxy nuôi dưỡng mọi bộ phận, là dung môi
hòa tan các chất, duy trì nhiệt độ trung bình, tham gia quá trình hấp thu và chuyển
hóa thức ăn thành năng lượng để cung cấp cho mọi hoạt động của cơ thể, thải trừ
các chất cặn bã qua hệ tiết niệu, tiêu hóa, hô hấp, da, bảo vệ các cơ quan tránh bị
tổn thương do chấn thương, là thành phần chính của chất nhờn bảo vệ các khớp

xương, tránh viêm sưng, đau nhức trong mọi vận động, làm ẩm không khí giúp sự
hô hấp nhịp nhàng, phòng chống sự hình thành các cục máu đông ở động mạch của
tim, não, giảm nguy cơ tai biến mạch máu não và nhồi máu cơ tim, cần thiết cho
quá trình sản xuất các chất dẫn truyền thần kinh, các nội tiết tố điều hòa các chức
năng sống và các phản ứng sinh hóa của cơ thể.
Một người có thể nhịn ăn trong vài tuần mà vẫn sống nhưng nếu nhịn uống trong
3 hoặc 4 ngày thì sẽ bị tử vong. Vì trong cơ thể con người, nước chiếm 60 – 70%
trọng lượng cơ thể, phân bố ở mọi cơ quan như não, máu, tim, gan, phổi, thận,
xương khớp, cơ bắp... và có vai trò rất quan trọng trong thành phần cấu tạo nên các
Nhóm 3 – QLTN&MTK55

Trang 5


cơ quan như: trong não nước chiếm 85%, máu 92%, dịch dạ dày 95%, cơ bắp 75%,
xương 22%, răng 10%... Nếu các bộ phận này thiếu nước nhẹ và vừa sẽ làm cho cơ
thể mệt mỏi, buồn ngủ, khóc có ít nước mắt, đi tiểu ít, táo bón, da khô, ngứa, vì các
tế bào da thiếu nước bị bong tróc, nổi mụn trứng cá, chảy máu mũi vì niêm mạc khô,
mạch máu dễ tổn thương, nhức đầu, chóng mặt, cơ bắp mềm yếu, dễ tái phát viêm
tiết niệu vì ít nước tiểu nên không loại trừ được các chất cặn bã và vi khuẩn qua
đường tiểu, sỏi thận cũng dễ hình thành hoặc tái sinh do sự cô đặc các chất khoáng,
tăng nguy cơ viêm nhiễm miệng, họng, đường hô hấp do không khí qua mũi không
được làm ẩm, gây kích thích và làm cho phổi nhạy cảm với khói, bụi, các hóa chất,
viêm mũi dị ứng... Trường hợp thiếu nước trầm trọng sẽ dẫn đến hạ huyết áp, tim
đập nhanh, tiểu tiện ít, miệng khô, rất khát nước, da, niêm mạc khô, không có mồ
hôi, mắt khô và sưng đau, cơ thể mất thăng bằng.[4]

Hình 2: Vai trò của nước đối với cơ thể con người
1.2.1.2 Đối với sản xuất phục vụ cho đời sống con người
a) Vai trò của nước đối với công nghiệp

Nước cho nhu cầu sản xuất công nghiệp rất lớn. Nước tạo ra năng lượng điện để
cung cấp cho hoạt động của nền kinh tế thông qua việc sử dụng động lực hay năng
lượng dòng chảy của các con sông làm quay các tuốc bin nước và máy phát điện,
đây là nguồn năng lượng sạch và chiếm 20% lượng điện của thế giới, đồng thời hạn
chế được giá thành nhiên liệu và chi phí nhân công. Để sản xuất 1 tấn gang cần 300
tấn nước, một tấn xút cần 800 tấn nước. Người ta ước tính rằng 15% sử dụng nước
Nhóm 3 – QLTN&MTK55

Trang 6


trên toàn thế giới công nghiệp như: các nhà máy điện, sử dụng nước để làm mát
hoặc như một nguồn năng lượng, quặng và nhà máy lọc dầu, sử dụng nước trong
quá trình hóa học, và các nhà máy sản xuất, sử dụng nước như một dung môi. Mỗi
ngành công nghiêp, mỗi loại hình sản xuất và mỗi công nghệ yêu cầu một lượng
nước, loại nước khác nhau. Nước góp phần làm động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế. Nếu không có nước thì chắc chắn toàn bộ các hệ thống sản xuất công
nghiệp, nông nghiệp…trên hành tinh này đều ngừng hoạt động và không tồn tại.

Hình 3: Nước phục vụ cho thủy điện
b) Vai trò của nước đối với nông nghiệp
“Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”, trong đó nước là thành phần tối quan
trọng trong nông nghiệp.
Trong tổng số khối lượng nước được khai thác sử dụng trên toàn thế giới hiện
nay là 3.800 tỷ m3, thì việc tưới tiêu nước trong nông nghiệp sử dụng 70% (2.700 tỷ
m3). Gần 95% lượng nước tại các nước đang phát triển được sử dụng để tưới tiêu
cho đất nông nghiệp, nước có ý nghĩa rất quan trọng, nếu không có nước thì các
khoáng chất không được hòa tan, sẽ không có dung dịch đất và rễ cây không hấp
thụ được.
Ngoài ra, hoạt động chăn nuôi gia súc gia cầm trong nông nghiệp cũng cần có

nước, nước để vệ sinh chuồng trại, nước để uống cho gia súc, gia cầm.

Nhóm 3 – QLTN&MTK55

Trang 7


Trong nuôi trồng thủy sản, cũng cần phải có nước, vì các loài cá, tôm, cua,...
không thể sống mà không có môi trường nước.
Bên cạnh đó, trong sản xuất nông nghiệp, thủy lợi luôn là vấn đề được ưu tiên
hàng đầu. Trong công tác thủy lợi, ngoài hệ thống tưới tiêu còn có tác dụng chống
lũ, cải tạo đất…

Hình 4: Hệ thống phun nước tự động trong nông nghiệp
c) Vai trò của nước đối với du lịch.
Du lịch đường sông, du lịch đường biển đang ngày càng phát triển. Đặc biệt ở
một nước nhiệt đới như ở nước ta có nhiều sông hồ và đường bờ biển dài hàng
ngàn kilomet.

Hình 5: Du lịch sông nước miền Tây
d) Vai trò của nước đối với giao thông.
Nhóm 3 – QLTN&MTK55

Trang 8


Là một trong những con đường tiềm năng và chiến lược, giao thông đường thủy
mà cụ thể là đường sông và đường biển có ý nghĩa rất lớn, quyết định nhiều vấn đề
không chỉ là kinh tế mà còn là văn hóa, chính trị, xã hội của một quốc gia.


Hình 6: Vận tải đường thủy
1.2.2 Vai trò của nước đối với sinh vật
Sau nhân tố nhiệt độ, nước (độ ẩm) là một nhân tố sinh thái vô cùng quan trọng.
Trong lịch sử phát triển của sinh giới trên bề mặt Trái Đất luôn luôn gắn liền với
môi trường nước. Các sinh vật đầu tiên xuất hiện trong môi trường nước. Quá trình
đấu tranh lên sống ở cạn, chúng cũng không tách khỏi môi trường nước, nước cần
thiết cho quá trình sinh sản. Sự kết hợp của các giao tử hầu hết được thực hiện
trong môi trường nước, nước cần thiết cho quá trình trao đổi chất.
Nước chứa trong cơ thể sinh vật một hàm lượng rất cao, từ 50 - 90% khối lượng
cơ thể sinh vật là nước, có trường hợp nước chiếm tỷ lệ cao hơn, tới 98% như ở một
số cây mọng nước, ở ruột khoang (ví dụ: thủy tức).
Nước là nguyên liệu cho cây trong quá trình quang hợp tạo ra các chất hữu cơ.
Nước là môi trường hoà tan chất vô cơ và phương tiện vận chuyển chất vô cơ và
hữu cơ trong cây, vận chuyển máu và các chất dinh dưỡng ở động vật.
Nước tham gia vào quá trình trao đổi năng lượng và điều hòa nhiệt độ cơ thể.
Cuối cùng nước giữ vai trò tích cực trong việc phát tán nòi giống của các sinh vật,
nước còn là môi trường sống của nhiều loài sinh vật.

Nhóm 3 – QLTN&MTK55

Trang 9


Hình 7: Vai trò của nước đối với sinh vật
1.3 Các vấn đề môi trường nước
1.3.1 Thực trạng môi trường nước
 Thực trạng môi trường nước trên thế giới

Sự phân bố nguồn nước trên Thế Giới không đều dẫn đến hiện tượng nước này
khô hạn nước kia thoát lũ.


Hình 8: Trẻ em thiếu nước ở Châu Phi
Theo Viện nước Quốc tế Xtốc-khôm (SIWI), tình trạng ô nhiễm nguồn nước đang
gia tăng ở mọi nơi trên Trái Đất, với trung bình mỗi ngày khoảng hai triệu tấn chất
thải sinh hoạt bị đổ ra sông, hồ và biển. Nghiêm trọng nhất là tại các nước đang
phát triển, có đến 70% lượng chất thải công nghiệp không qua xử lý bị trực tiếp đổ
Nhóm 3 – QLTN&MTK55

Trang 10


vào các nguồn nước, khiến nguồn nước cho sinh hoạt con người bị ô nhiễm nghiêm
trọng.
Tại một số nước, có tới một nửa số bệnh nhân phải vào điều trị tại bệnh viện là do
không được tiếp cận những điều kiện vệ sinh phù hợp vì thiếu nước và các bệnh liên
quan đến nước. Thiếu vệ sinh và thiếu nước sạch là nguyên nhân gây tử vong cho
hơn 1,6 triệu trẻ em mỗi năm. Tổ chức Lương Nông LHQ (FAO) cảnh báo trong 15
năm tới sẽ có gần 2 tỷ người phải sống tại các khu vực khan hiếm nguồn nước và
2/3 cư dân trên hành tinh có thể bị thiếu nước.

Hình 9: Hai cậu bé đang bơi trong vũng nước đầy bùn và bọt, chất thải từ các
nhà máy công nghiệp, ở New Delhi, Ấn Độ
Hàng năm, 4.000 trẻ em tử vong vì nước bẩn và vệ sinh kém. Đây là con số được
Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc UNICEF công bố. Giám đốc Điều hành UNICEF, bà Ann
M.Veneman cho biết: “Trên Thế Giới, cứ 15 giây lại có một trẻ em tử vong bởi các
bệnh do nước không sạch gây ra và nước không sạch là thủ phạm của hầu hết các
bệnh và nạn suy dinh dưỡng. Một trẻ em lớn lên trong những điều kiện như thế sẽ
có ít cơ hội để thoát khỏi cảnh đói nghèo”. Ước tính có khoảng 17 triệu (52%) trẻ em
chưa được sử dụng nước sạch và khoảng 20 triệu (59%) chưa có nhà tiêu hợp vệ
sinh. Thống kê của UNICEF tại khu vực Nam Á và Đông Á cho thấy chất lượng nước

ở khu vực này ngày càng trở thành mối đe dọa lớn đối với trẻ em. Tình trạng ô
nhiễm asen (thạch tín) và flo (fluoride) trong nước ngầm đang đe dọa nghiêm trọng
tình trạng sức khỏe của 50 triệu người dân trong khu vực. Các công trình nghiên
cứu mới đây đã cho thấy những bệnh do sử dụng nước bẩn gây ra đã ảnh hưởng
Nhóm 3 – QLTN&MTK55

Trang 11


đến sức khỏe và làm giảm khả năng học hành của các em. Hàng ngày có rất nhiều
em ở các nước đang phát triển không được đến trường vì bị các bệnh như tiêu chảy,
nhiễm trùng đường ruột. Hơn nữa, nhiều học sinh gái không thể đến trường đi học
nếu không có công trình nước và vệ sinh riêng biệt cho các em. Tại diễn đàn của Trẻ
em thế giới về nước tổ chức tại Mehico ngày 21/3, UNICEF cho biết 400 triệu trẻ em
trên thế giới đang phải vật lộn với sự sống vì không có nước sạch. Theo đó, trẻ em là
người phải trả giá cao nhất khi không được sử dụng nước sạch. Kết quả nghiên cứu
cho thấy trẻ em dưới năm tuổi dễ bị mắc tiêu chảy nhất (căn bệnh này gây tử vong
cho 4500 trẻ em mỗi ngày).
Tại các diễn đàn ở Stockholm (Thụy Điển), đại diện nhiều nước châu Phi báo
động về thảm cảnh khan hiếm nước tại lục địa này. Nguồn nước ở đây vừa rất thiếu,
lại rất thừa và bị ô nhiễm nặng nề do rác thải và sử dụng các chất hóa học vô tội vạ.
Nghiên cứu của Tổ chức Nông lương Liên Hợp quốc (FAO) cho biết, đã có 50 nước
trên thế giới sử dụng nước thải qua xử lý để phục vụ sản xuất nông nghiệp, vì nó
vừa giải quyết được nạn ô nhiễm ở các đô thị, vừa giúp nông dân tránh được chi phí
khai thác nước ngầm, còn nguồn chất hữu cơ có trong nước thải có thể giúp giảm
chi phí về phân bón, điển hình là ở Tây Ban Nha và Mexico.
Báo cáo của WB nhấn mạnh, các nguồn nước phục vụ sinh hoạt của con người và
sản xuất nông nghiệp đang bị giảm nghiêm trọng. Hiện có một phần sáu số dân thế
giới không được tiếp cận nguồn nước sạch và 30% không được tiếp cận các điều
kiện vệ sinh cơ bản. Vì vậy, các nước cần thông tin và được thông tin tốt hơn về các

nguồn nước quốc gia và quốc tế để quản lý các nguồn nước tốt hơn trên phạm vi
quốc gia và toàn cầu. Nếu tình hình này không thay đổi, hơn một tỷ người trên thế
giới sẽ lỡ cơ hội được hưởng các lợi ích của các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ.
 Thực trạng môi trường nước ở Việt Nam

Giống như một số nước trên Thế Giới, Việt Nam cũng đang đứng trước thách
thức hết sức lớn về nạn ô nhiễm môi trường nước, đặc biệt là tại các khu công
nghiệp và đô thị.
Tổng trữ lượng nước mặt của nước ta đạt tới 840 tỷ m3, nhưng có hơn 60%
lượng nước được sản sinh từ nước ngoài, chính vì vậy rất khó có thể kiểm soát, đảm
Nhóm 3 – QLTN&MTK55

Trang 12


bảo nguồn nước mặt tránh khỏi ô nhiễm. Thực trạng hiện nay nguồn nước mặt ở
Việt Nam không những bị ô nhiễm trên diện rộng mà còn đang suy kiệt nặng nề.
Cụ thể là sông Cửu Long phụ thuộc đến 95% tổng lượng nước từ nguồn nước
quốc tế, còn sông Hồng-Thái Bình phụ thuộc đến 40%. Vì vậy, tình trạng suy kiệt
trong hệ thống sông, hồ chứa nước của nước ta diễn biến rất phức tạp. Đặc biệt,
hầu hết các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên lượng nước khai thác chiếm trên 50%
lưu lượng của dòng chảy trên địa bàn. Riêng tỉnh Ninh Thuận lên đến 70 - 80%,
trong khi giới hạn nơi đây được phép khai thác chỉ là 30%.
Do đó trong bối cảnh biến đổi khí hậu gia tăng, mà Việt Nam là một trong những
quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất, với thực trạng tài nguyên nước được phân bố
không đồng đều giữa các vùng, miền; giữa các mùa trong năm, nên nguy cơ thiếu
nước vào mùa khô, lũ lụt vào mùa mưa đang ngày càng hiện hữu trong nhiều vùng,
miền của nước ta. Trong khi chất lượng nước mặt lục địa đang suy giảm, có nơi bị ô
nhiễm nặng. Các hồ, ao, kênh, mương trong các thành phố đều bị ô nhiễm nghiêm
trọng, vượt quá mức quy chuẩn cho phép. Nhiều nơi đã biến thành nơi chứa chất

thải. Các đoạn sông chảy qua khu đô thị, khu vực sản xuất công nghiệp, khai khoáng
đã bị ô nhiễm, nhiều chất ô nhiễm trong nước có độ vượt quá quy chuẩn cho phép từ
1,5 đến 3 lần.

Hình 10: Nước thải ra khỏi nhà máy xử lý tập trung của KCN Lê Minh Xuân
đen ngòm nhưng được báo cáo là đạt tiêu chuẩn

Nhóm 3 – QLTN&MTK55

Trang 13


Ngay cả nước biển ven bờ cũng có dấu hiệu bắt đầu bị ô nhiễm. Chẳng hạn như
dải ven biển miền Nam kể từ Nha Trang trở vào đã có dấu hiệu ô nhiễm COD. Các
vùng biển từ Quảng Ninh đến Thanh Hóa - Nghệ An, hàm lượng a-mo-ni (N-NH 4) đã
vượt hoặc xấp xỉ quy chuẩn cho phép. Một số vùng biển ven bờ đã có dấu hiệu bị ô
nhiễm dầu và xya-nua. Đối với nước biển ở ngoài khơi, hàm lượng oxy hòa tan và
hàm lượng dầu mặc dù thấp hơn ở ven bờ, song cũng đều vượt tiêu chuẩn ASEAN
cho vùng nước bảo tồn thủy sinh.
Chưa kể phần lớn nước dưới đất của nước ta đều có chất lượng tốt, nhưng cũng
bị cạn kiệt do khai thác thiếu bền vững và bị ô nhiễm cục bộ ở một số nơi, như ô
nhiễm vi sinh tại TP.Hồ Chí Minh; ô nhiễm phốt-phát tại Hà Nội; ô nhiễm a-sen, amo-ni ở Đồng bằng Bắc Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.
Những hệ lụy về thiếu nước sạch đang ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người
dân. Dưới đây là một vài con số về thực trạng nguồn nước tại Việt Nam
Khoảng 20% dân cư tại Việt Nam chưa được tiếp cận nguồn nước sạch. Theo
thống kê của Viện Y học lao động và Vệ sinh môi trường, hiện có khoảng 17,2 triệu
người Việt Nam (tương đương 21,5% dân số) đang sử dụng nguồn nước sinh hoạt
từ giếng khoan chưa được kiểm nghiệm hay qua xử lý.

Hình 11: Người dân sử dụng nước sạch

Theo thống kê của Bộ Y tế và Bộ Tài nguyên – Môi trường, trung bình mỗi năm
Việt Nam có khoảng 9.000 người tử vong vì nguồn nước và điều kiện vệ sinh kém.
Nhóm 3 – QLTN&MTK55

Trang 14


Hàng năm, có gần 200.000 người mắc bệnh ung thư mới phát hiện, mà một trong
những nguyên nhân chính bắt nguồn từ ô nhiễm môi trường nước.
Lượng nước mặt bình quân đầu người mỗi năm chỉ đạt 3.840m3, thấp hơn chỉ
tiêu 4.000m3/người/năm của Hội Tài nguyên Nước quốc tế (IWRA).
30% người dân chưa nhận thức được tầm quan trọng của nước sạch. Thực trạng
khan hiếm nước sạch cũng như ý thức bảo vệ nguồn tài nguyên nước của người dân
Việt Nam chưa cao.
Theo đánh giá của Tổng cục Môi trường, mỗi ngày cả nước khai thác hàng triệu
m³ nước ngầm cung cấp cho hơn 300 nhà máy nước khai thác thành nước sinh
hoạt. Nhưng đáng lo ngại là nguồn nước ngầm đang đối mặt với vấn đề ô nhiễm, từ
việc bị xâm nhập mặn trên diện rộng, ô nhiễm vi sinh, cho tới ô nhiễm kim loại nặng
nghiêm trọng do việc khai thác tràn lan, thiếu quy hoạch và không có kế hoạch bảo
vệ nguồn nước. Hầu hết đô thị lớn đều bị ô nhiễm nước ngầm do tốc độ đô thị hóa,
đặc biệt là ở Hà Nội, TPHCM. Ngoài ra, tại khu vực đồng bằng Bắc bộ và ĐBSCL,
nguồn nước bị ô nhiễm asen cũng chiếm rất lớn, khoảng 21% dân số đang sử dụng
nguồn nước nhiễm chất này .
1.3.2 Tình hình sử dụng nguồn nước
 Tình hình sử dụng nguồn nước trên thế giới

Tình hình thay đổi nhanh chóng khi cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện và
càng ngày càng phát triển như vũ bão. Hấp dẫn bởi nền công nghiệp mới ra đời,
từng dòng người từ nông thôn đổ xô vào các thành phố và khuynh hướng này vẫn
còn tiếp tục cho đến ngày nay. Ðô thị trở thành những nơi tập trung dân cư quá

đông đúc, tình trạng này tác động trực tiếp đến vấn đề về nước càng ngày càng trở
nên nan giải.
Nhu cầu nước càng ngày càng tăng theo đà phát triển của nền công nghiệp, nông
nghiệp và sự nâng cao mức sống của con người. Theo sự ước tính, bình quân trên
toàn thế giới có chừng khoảng 40% lượng nước cung cấp được sử dụng cho công
nghiệp, 50% cho nông nghiệp và 10% cho sinh hoạt. Tuy nhiên, nhu cầu nước sử
Nhóm 3 – QLTN&MTK55

Trang 15


dụng lại thay đổi tùy thuộc vào sự phát triển của mỗi quốc gia. Thí dụ: Ở Hoa Kỳ,
khoảng 44% nước được sử dụng cho công nghiệp, 47% sử dụng cho nông nghiệp và
9% cho sinh hoạt và giải trí (Chiras, 1991). Ở Trung Quốc thì 7% nước được dùng
cho công nghiệp, 87% cho nông nghiệp, 6% sử dụng cho sinh hoạt và giải trí.
(Chiras, 1991).
Nhu cầu về nước trong công nghiệp: Sự phát triển càng ngày càng cao của nền
công nghiệp trên toàn thế giới càng làm tăng nhu cầu về nước, đặc biệt đối với một
số ngành sản xuất như chế biến thực phẩm, dầu mỏ, giấy, luyện kim, hóa chất..., chỉ
5 ngành sản xuất này đã tiêu thụ ngót 90% tổng lượng nước sử dụng cho công
nghiệp. Thí dụ: cần 1.700 lít nước để sản xuất một thùng bia chừng 120 lít, cần
3.000 lít nước để lọc một thùng dầu mỏ chừng 160 lít, cần 300.000 lít nước để sản
xuất 1 tấn giấy hoặc 1,5 tấn thép, cần 2.000.000 lít nước để sản xuất 1 tấn nhựa
tổng hợp. Theo đà phát triển của nền công nghiệp hiện nay trên thế giới có thể dự
đoán đến năm 2000 nhu cầu nước sử dụng cho công nghiệp tăng 1.900 km3/năm có
nghĩa là tăng hơn 60 lần so với năm 1900. Phần nước tiêu hao không hoàn lại do
sản xuất công nghiệp chiếm khoảng từ 1 - 2% tổng lượng nước tiêu hao không hoàn
lại và lượng nước còn lại sau khi đã sử dụng được quay về sông hồ dưới dạng nước
thải chứa đầy những chất gây ô nhiễm ( Cao Liêm, Trần đức Viên - 1990 ).
Nhu cầu về nước trong nông nghiệp: Sự phát triển trong sản xuất nông nghiệp

như sự thâm canh tăng vụ và mở rộng diện tích đất canh tác cũng đòi hỏi một
lượng nước ngày càng cao. Theo M.I.Lvovits (1974), trong tương lai do thâm canh
nông nghiệp mà dòng chảy cả năm của các con sông trên toàn thế giới có thể giảm
đi khoảng 700 km3/năm. Phần lớn nhu cầu về nước được thỏa mãn nhờ mưa ở
vùng có khí hậu ẩm, nhưng cũng thường được bổ sung bởi nước sông hoặc nước
ngầm bằng biện pháp thủy lợi nhất là vào mùa khô. Người ta ước tính được mối
quan hệ giữa lượng nước sử dụng với lượng sản phẩm thu được trong quá trình
canh tác như sau: để sản xuất 1 tấn lúa mì cần đến 1.500 tấn nước, 1 tấn gạo cần
đến 4.000 tấn nước và 1 tấn bông vải cần đến 10.000 tấn nước. Sở dĩ cần số lượng
lớn nước như vậy chủ yếu là do sự đòi hỏi của quá trình thoát hơi nước của cây, sự
bốc hơi nước của lớp nước mặt trên đồng ruộng, và phần nhỏ tích tụ lại trong các

Nhóm 3 – QLTN&MTK55

Trang 16


sản phẩm nông nghiệp. Dự báo nhu cầu về nước trong nông nghiệp đến năm 2000
sẽ lên tới 3.400 km3/năm, chiếm 58% tổng nhu cầu về nước trên toàn thế giới.
Nhu cầu về nước sinh hoạt và giải trí: Theo sự ước tính thì các cư dân sinh sống
kiểu nguyên thủy chỉ cần 5-10 lít nước/người/ngày. Ngày nay, do sự phát triển của
xã hội loài người ngày càng cao nên nhu cầu về nước sinh hoạt và giải trí ngày cũng
càng tăng theo nhất là ở các thị trấn và ở các đô thị lớn, nước sinh hoạt tăng gấp
hàng chục đến hàng trăm lần nhiều hơn. Theo sự ước tính đó thì đến năm 2000, nhu
cầu về nước sinh hoạt và giải trí sẽ tăng gần 20 lần so với năm 1900, tức là chiếm
7% tổng nhu cầu nước trên thế giới (Cao Liêm, Trần đức Viên - 1990).
 Tình hình sử dụng nước ở Việt Nam

Việt Nam là nước ĐNA có chi phí nhiều nhất cho thủy lợi. Cả nước hiện nay có 75
hệ thống thủy nông với 659 hồ, đập lớn và vừa, trên 3500 hồ đập nhỏ 1000 cống

tiêu, trên 2000 trạm bơm lớn nhỏ, trên 10000 máy bơm các loại có khả năng cung
cấp 60-70 tỷ m3/năm. Tuy nhiên, hệ thống thủy nông đã xuống cấp nghiêm trọng,
chỉ đáp ứng 50-60% công suất thiêt kế.
Lượng nước sử dụng hằng năm cho nông nghiệp khoảng 93 tỷ m 3, cho công
nghiệp khoảng 17,3 tỷ m3, cho dịch vụ là 2 tỷ m 3, cho sinh hoạt là 3,09 tỷ m 3. Tính
đến năm 2030 cơ cấu dùng nước sẽ thay đổi theo xu hướng Nông nghiệp 75%, Công
nghiệp 16%, tiêu dùng 9%. Nhu cầu dùng nước sẽ tăng gấp đôi, chiếm khoảng 1/10
lượng nước sông ngòi, 1/3 lượng nước nội địa, 1/3 lượng nước chảy ổn định.
Do lượng mưa lớn, địa hình dốc, nước ta là một trong 14 nước có tiềm năng thuỷ
điện lớn. Các nhà máy thủy điện hiện nay sản xuất khoảng 11 tỷ kWh, chiếm 72%
đến 75% sản lượng điện cả nước. Với tồng chiều dài các sông và kênh khoảng 40000
km, đã đưa và khai thác vận tải 1500 km, trong đó quản lý trên 800 km. Có những
sông suối tự nhiên, thác nước,… được sử dụng làm các điểm tham quan du lịch.

Nhóm 3 – QLTN&MTK55

Trang 17


Hình 12: Một đoạn sông Sêrêpôk chảy qua Buôn Đôn đã cạn kiệt nước do
Thủy điện Sêrêpôk
Về nuôi trồng thủy hải sản, nước ta có 1 triệu ha mặt nước ngọt, 400000 ha mặt
nước lợ và 1470000 ha mặt nước sông ngòi có hơn 14 triệu ha mặt nước nội thủy
và lãnh hải. Tuy nhiên cho đến nay mới sử dụng 12,5% diện tích mặt nước lợ, nước
mặn và 31% diện tích mặt nước ngọt. Nhiều hồ và đập nhỏ hơn trên khắp toàn quốc
phục vụ tưới tiêu như Cấm Sơn (Bắc Giang), Bến En và Cửa Đạt (Thanh Hóa), Đô
Lương (Nghệ An)… Theo số liệu thống kê, Việt Nam hiện có hơn 3500 hồ chứa nhỏ
và khoảng 650 hồ chứa cỡ lớn và trung bình dùng để sản xuất thủy điện, kiểm soát
lũ lụt, giao thông đường thủy thủy lợi và nuôi trồng thủy sản(FAO, 1999).


Hình 13: Nguồn thải đầm NTTS chưa được xử lý đúng cách
Tình hình khai thác sử dụng nước trong đời sống sinh hoạt hằng ngày của con
người sử dụng rất nhiều nước sinh hoạt. Về mặt sinh lý mỗi người cần 1-2 lít nước/
Nhóm 3 – QLTN&MTK55

Trang 18


ngày. Và trung bình nhu cầu sử dụng nước sinh hoạt của một người trong một ngày
10-15 lít cho vệ sinh cá nhân, 20-200 lít cho tắm, 20-50 lít cho làm cơm, 40-80 lít
cho giặt bằng máy….

Hình 14: Đồng bào Ra Glai ở thôn Gia Hoa, xã Ma Nới, huyện Ninh Sơn đã có
nước sạch để sử dụng trong sinh hoạt hằng ngày

CHƯƠNG 2: HIỆN TRẠNG SUY THOÁI TÀI NGUYÊN NƯỚC Ở VIỆT NAM
2.1 Khái niệm
Suy thoái môi trường: là sự làm thay đổi chất lượng và số lượng của thành phần
môi trường, gây ảnh hưởng xấu cho đời sống của con người và thiên nhiên.
Theo “Thuật ngữ thủy văn và môi trường nước”, tài nguyên nước là lượng nước
trên một vùng đã cho hoặc lưu vực, biểu diễn ở dạng nước có thể khai thác (nước
mặt và nước ngầm).
Suy thoái nguồn nước: là sự suy giảm về số lượng, chất lượng nguồn nước so với
trạng thái tự nhiên hoặc so với trạng thái của nguồn nước đã được quan trắc trong
các thời kỳ trước đó.
2.2 Hiện trạng suy thoái TNN và biểu hiện
Nước ta có khoảng 830 tỷ m 3 nước mặt trong đó chỉ có 310 tỷ m 3 được tạo ra do
mưa rơi trong lãnh thổ Việt Nam chiếm 37% còn 63% do lượng mưa ngoài lãnh thổ
Nhóm 3 – QLTN&MTK55


Trang 19


chảy vào. Tổng trữ lượng tiềm tàng khả năng khai thác nước dưới đất chưa kể
phần hải đảo ước tính khoảng 60 tỷ m 3/năm. Trữ lượng nước ở giai đoạn tìm kiếm
thăm dò sơ bộ mới đạt khoảng 8 tỷ m3/năm (khoảng 13% tổng trữ lượng).
Nếu kể cả nước mặt và nước dưới đất trên phạm vi lãnh thổ thì bình quân đầu
người đạt 4400 m3/người, năm (Thế giới 7400m 3/người, năm). Theo chỉ tiêu đánh
giá của Hội Tài nguyên nước Quốc tế IWRA thì quốc gia nào dưới 4000m 3/người,
năm là quốc gia thiếu nước. Như vậy, nước ta là một trong những nước đang và sẽ
thiếu nước trong một tương lai rất gần (Thực tế nếu kể cả lượng nước từ các lãnh
thổ nước ngoài chảy vào thì Việt Nam trung bình đạt khoảng 10.600m 3/người,
năm).
Lượng nước sản sinh từ ngoài lãnh thổ chiếm xấp xỉ 2/3 tổng lượng nước có
được, rất khó chủ động, thậm chí không sử dụng được. Sự phân bố của cả nước mặt
lẫn nước dưới đất rất không đều. Theo không gian, nơi có lượng mưa nhất là Bạch
Mã 8000mm/năm, Bắc Quang, Bà Nà đạt khoảng 5000mm/năm, trong khi Cửa
Phan Rí chỉ đạt xấp xỉ 400mm/năm. Theo thời gian, mùa lũ chỉ kéo dài từ 3- 5 tháng
nhưng chiếm tới 70- 85% lượng nước cả năm. Mùa lũ, lượng mưa một ngày lớn
nhất đạt trên 1500mm/ngày song mùa cạn tồn tại hàng nhiều tháng không có giọt
mưa nào. Mưa, lũ đạt kỷ lục trong vùng Đông Nam Á là ven biển Miền Trung. Hạn
hán xảy ra nghiêm trọng. Điều đó cần phải tích nước trong mùa lũ để điều tiết bổ
sung mùa cạn là giải pháp tích cực nhất, quan trọng nhất. Nước ta có khoảng 2360
con sông có chiều dài lớn hơn 10 km. Trong số 13 lưu vực sông chính và nhánh có
diện tích lớn hơn 10.000 km2 thì có đến 10/13 sông có quan hệ với các nước láng
giềng, trong đó có 3/13 sông thượng nguồn ở Việt Nam, hạ nguồn chảy sang nước
láng giềng, 7 sông thường nguồn ở nước láng giềng, hạ nguồn ở Việt Nam. Điều này
Việt Nam không những bị ràng buộc nguồn lợi về nước của quốc gia thứ hai, thứ
ba... chia sẻ, đồng thuận.Tổng lượng nước năm ứng với p = 75% khoảng 720 tỷ m 3,
tổng lượng nước mùa cạn có khoảng 170 tỷ m 3 (kể cả 30 tỷ m3 điều tiết từ các hồ

chứa tính đến năm 2010). Tổng nhu cầu nước năm 2010 là 110 tỷ m 3, trong mùa
cạn khoảng 85 tỷ m3 (chưa kể đến lưu lượng nước đảm bảo môi trường sinh thái hạ
lưu). Nếu quản lý không tốt thì đến năm 2010 khả năng thiếu nước đã rõ ràng vào

Nhóm 3 – QLTN&MTK55

Trang 20


từng nơi, từng thời kỳ, đặc biệt là các vùng Ninh Thuận, Bình Thuận, Daklak,
Daknông, ĐBSCL, Trung du Sông Thái Bình và sông Hồng và dải ven biển.
Không những nguồn nước mặt mà nguồn nước ngầm cũng đang ở trong tình
trạng bị suy thoái nghiêm trọng. Đặc biệt là hàm lượng asen trong các mẫu nước
ngầm điển hình như khu vực đồng bằng Bắc bộ nói chung đều cao hơn nhiều so với
tiêu chuẩn cho phép. Trong khi đó việc khai thác nước ngầm cũng chưa có quy
hoạch hoàn chỉnh, tình trạng người dân tự khoan giếng diễn ra khắp nơi nên tình
trạng ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng.
Dân số tăng, chỉ số lượng nước trên đầu người giảm. Năm 1943 là 16.641
m3/người, nếu dân số nước ta tăng lên 150 triệu người thì chỉ còn đạt 2467
m3/người, năm xấp xỉ với những quốc gia hiếm nước.Theo Cục Bảo vệ môi trường,
chất lượng nước 3 lưu vực sông cầu, Nhuệ - Đáy, Đồng Nai - Sài Gòn đang bị ô
nhiễm nghiêm trọng. Thậm chí có những đoạn sông thuộc 3 LVS trên đã "chết" hoàn
toàn, nhất là ở các vùng hạ lưu. Trên LVS Nhuệ - Đáy, các sông ở nội thành Hà Nội,
sông Nhuệ từ thị xã Hà Đông đến thị xã Phủ Lý bị ô nhiễm rất nghiêm trọng. Trên
LVS Đồng Nai- Sài Gòn, đoạn hạ lưu sông Đồng Nai, sông Sài Gòn, sông Thị Vải tồn
tại nhiều đoạn sông "chết". Các LVS bị ô nhiễm nặng chủ yếu là do nước thải từ sinh
hoạt, sản xuất công nghiệp, các làng nghề, bệnh viện, sản xuất nông nghiệp và thủy
sản, chất thải rắn, khai thác khoáng sản,...Theo Cục Thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và
PTNT), tài nguyên nước trên LVS Hồng cũng đang suy giảm về số lượng, bởi vì mực
nước sông Hồng đang ngày càng hạ thấp hơn vào mùa kiệt. Mùa khô 2004 - 2005

mực nước sông Hồng xuống tới mức l,36m - thấp nhất trong vòng 100 năm qua
Mùa khô 2006 - 2007, mực nước sông Hồng xuống tới 1,12m - mức thấp nhất kể từ
khi có trạm quan trắc trên sông Hồng.
2.3 Nguyên nhân suy thoái TNN
2.3.1 Tác động của biến đổi khí hậu
- Nhiệt độ không khí có xu thế ngày một tăng lên đã được khẳng định. Kịch bản có
thể chấp nhận là đến năm 2070, ở các vùng ven biển có khả năng tăng thêm 1,5ºC,
vùng nội địa thêm 2,5ºC. Chúng kéo theo lượng tăng bốc thoát hơi lên khoảng 7,7-

Nhóm 3 – QLTN&MTK55

Trang 21


8,4%, nhu cầu nước tưới tăng lên, lượng dòng chảy nước mặt sẽ giảm đi tương ứng
khi lượng mưa không đổi.
- ElNino gắn liền với việc gây hạn hán rất nặng nề ở nước ta. Những năm có
ElNino lượng mưa và lượng dòng chảy trong sông đặc biệt là trong mùa cạn
thường bị giảm mạnh, thậm chí không có dòng chảy như sông LrongBuk (DakLak ),
sông Hà Thanh (Bình Định)...
- Mặn xâm nhập sâu do mực nước biển dâng lên trung bình 20mm/năm ảnh
hưởng lớn đến việc cấp nước và thoát nước, suy thoái nước.
-Do hạn hán lượng nước trong sông cạn kiệt không đủ khả năng pha loãng làm
nước trong sông ngày càng bị ô nhiễm, suy thoái.
2.3.2 Sự gia tăng dân số
Sự gia tăng dân số và sự phát triển kinh tế xã hội trong thế kỉ 21 sẽ làm gia tăng
nhu cầu sử dụng nước và đồng thời tác động mạnh mẽ đến tài nguyên nước. Nhu
cầu nước sử dụng cho ăn uống, sinh hoạt và các hoạt động khác của con người gia
tăng, dẫn đến tình trạng khai thác nước dưới đất tràn lan gây cạn kiệt nguồn nước
và ảnh hưởng đến môi trường như sụp lún, nhiễm mặn…

Sự gia tăng dân số và hoạt động của con người sẽ ngày ngày càng tác động mạnh
mẽ đến môi trường tự nhiên nói chung và môi trường nước nói riêng. Những hoạt
động tự phát không có quy hoạch của con người như chặt phá rừng bừa bãi, canh
tác nông lâm nghiệp, thủy sản không hợp lí và thải chất bừa bãi (thuốc bảo vệ thực
vật hay các loại phân bón, thức ăn thừa...) vào các thủy vực... đã và sẽ gây nên hậu
quả rất nghiêm trọng, làm cho nguồn nước bị cạn kiệt, bị ô nhiễm, hạn hán có khả
năng càng khốc liệt. Nguy cơ thiếu nước sạch càng trầm trọng nhất là vào mùa cạn
ở các vùng mưa ít không có nguồn nước tại chỗ để cung cấp cho sinh hoạt, sản xuất.
Ô nhiễm nước ngày càng trầm trọng do tốc độ đô thị hóa ngày một tăng nhanh
trong khi nước thải rác thải chưa được kiểm soát chặt chẽ. Những năm gần đây,
dân số ở các đô thị tăng nhanh khiến hệ thống cấp thoát nước không đáp ứng nổi và
xuống cấp nhanh chóng.

Nhóm 3 – QLTN&MTK55

Trang 22


2.3.3 Diện tích rừng ngày càng suy giảm
Năm 1943 độ che phủ là 43%, đến nay độ che phủ rừng còn đạt khoảng 35% song
chất lượng rừng bị giảm nặng nề phần lớn là rừng thứ sinh, rừng thoái hoá, rừng
trồng.
Đối với tài nguyên nước, mất rừng gây biến động thủy chế sông ngòi, giảm sự
điều hòa của dòng chảy, dẫn đến lũ lụt khô hạn, làm tăng quá trình bốc hơi giảm
lượng nước ngầm.
Diện tích rừng suy giảm ảnh hưởng đến vòng tuần hoàn nước. Cây hút nước
trong lòng đất và giải phóng vào không khí. Khi rừng bị phá bỏ, cây không còn làm
bay hơi lượng nước này, làm giảm lượng nước trong đất, lượng nước ngầm và độ
ẩm của không khí.
Diện tích rừng suy giảm ảnh hưởng sẽ làm giảm khả năng giữ và bay hơi nước

mưa của đất. Thay vì giữ nước mưa được thấm xuống tầng nước ngầm, mất rừng
làm tăng quá trình rửa trôi nước bề mặt, sự di chuyển của nước bề mặt có thể dẫn
đến lũ quét và gây nhiều lũ lụt hơn khi có rừng bảo vệ. Quá trình làm giảm thoát hơi
nước, từ đó làm giảm độ ẩm không khí, trong một vài trường hợp có thể làm giảm
lượng mưa theo hướng gió từ khu vực bị mất rừng, vì nước không được tuần hoàn
trở lại rừng do bị mất trong quá trình rửa trôi và đổ thẳng ra biển.
2.3.4 Ảnh hưởng do các hoạt động kinh tế
2.3.4.1 Nông nghiệp
Việc chăn nuôi gia súc gia cầm ở hộ gia đình vùng nông thôn còn chưa có ý thức
tiết kiệm nguồn nước trong việc vệ sinh, vệ sinh chuồng trại, chưa có hệ thống xử lý
chất thải nước thải, phần lớn cho vào ao hồ, bể tự hoại để thấm vào đất dễ gây ô
nhiệm môi trường đặt biệt là nguồn nước ngầm.
Việc nuôi các bè cá, bè tôm trực tiếp trên các dòng nước mặt sông rạch đã làm ô
nhiễm nguồn nước do một số nguyên nhân: thức ăn của cá dư thừa, sự khuấy động
nguồn nước, sự cản trở lưu thông dòng mặt.

Nhóm 3 – QLTN&MTK55

Trang 23


Với tình trạng sử dụng bừa bãi, tùy tiện các loại hóa chất trong phân bón, thuốc
trừ sâu, các loại thuốc kích hoạt phát triển cây… Nhiều hệ thống kênh mương tưới
tiêu nội đồng đã bị ô nhiễm nguồn nước và phát tán rộng.
Hệ thống tưới tiêu và hình thức tưới tiêu không hợp lý là nguyên nhân gây thất
thoát lưu lượng nước lớn trong ngành trồng trọt.
2.3.4.2 Công nghiệp
Việc gia tăng nhiều nhà máy, xí nghiệp từ quy mô nhỏ hộ gia đình đến quy mô lớn
dẫn đến nhu cầu về nguồn nước tăng, không những nước phục vụ cho sản xuất mà
còn phục vụ sinh hoạt cho một số lượng lớn công nhân từ nhiều vùng khác nhau tập

trung về. Đặc biệt ở các khu vực chưa có hệ thống cấp nước, mật độ khai thác nước
dưới đất sẽ gia tăng nhanh, từ đó dẫn đến tình trạng cạn kiệt nguồn nước và sụp
lún đất. Việc xả nước thải sản xuất từ các nhà máy, khu chế xuất khu công nghiệp
chưa được xử lý vào sông rạch, ao hồ gây ô nhiễm nước mặt, nước dưới đất.
Khai thác khoáng sản hay xây dựng các hồ chứa, hồ thủy điện là các hoạt động
điển hình làm suy thoái tài nguyên nước.
- Khai thác khoáng sản
+ Tác động cơ học: tác động đến địa hình tự nhiên làm địa hình thay đổi, thay đổi
cán cân chứa nước trong lưu vực.
Quá trình khai thác sâu trong lòng đất: bơm, hút đã làm suy thoái, cạn kiệt và hạ
thấp mực nước ngầm gây ô nhiễm các tầng chứa nước ngọt và thấu kính nước ngọt.
Khai thác gần sông làm thay đổi dòng chảy.
+ Tác động hóa học: Từ dòng thải bùn cát trên các khai trường, nước ngầm trong
các lò, giếng, nước khoan mang các chất độc hại như chất rắn lơ lửng, các loại muối
hòa tan,các kim loại nặng, dầu mỡ và các hóa chất sử dụng trong quá trình khai
thác làm thay đổi thành phần, tính chất, ô nhiễm nước.
- Xây dựng thủy điện

Nhóm 3 – QLTN&MTK55

Trang 24


Các quốc gia ở thượng nguồn khai thác nước các sông ngày càng nhiều và có
nhiều hướng bất lợi. Ví dụ: Trung quốc đã và đang xây dựng hơn 10 hồ chứa lớn
trên sông Mê Kông; Lào đã và đang xây dựng 35 công trình thủy lợi-thủy điện trong
đó có 27 hồ chứa trên sông nhánh và 8 đập dâng trên sông chính. Ở Thái Lan, đã có
hơn 10 hồ chứa vừa và lớn và đang có kế hoạch xây thêm. Ở Campuchia có dự kiến
giữ mực nước biển hồ với một cao trình nhất định để phát triển tưới...
Công trình thủy điện, thủy lợi đều gây thay đổi lớn chế độ nguồn nước, chất

lượng nước và các hệ thủy sinh ở cả thượng và hạ lưu dòng sông. Về nguyên tắc, hồ
chứa tạo điều kiện để điều hòa dòng chảy, trữ nước trong mùa lũ và bổ sung nước
vào mùa cạn, nhưng thực tế hoàn tòan khác: do bảo đảm phát điện hoặc nước tưới
nên việc vận hành nhiều hồ chứa chưa phân phối, điều hòa nguồn nước cho các nhu
cầu sử dụng một cách hợp lý; chưa có cơ chế cần thiết để bảo đảm hài hòa giữa các
lợi ích chính, giữa chống lũ và phát điện, giữa phát điện hoặc tưới và cấp nước cho
hạ du, cấp nước sinh hoạt, duy trì dòng chảy môi trường, đẩy mặn ở vùng cửa sông
ven biển...
Đa số các công trình hồ chứa thủy lợi và thủy điện chưa có quy trình vận hành
hoặc có nhưng chưa hợp lý, chậm được cập nhật sau hàng chục năm, có khi sau 20 40 năm hoạt động trong khi điều kiện tài nguyên nước và mục tiêu, nhiệm vụ hoạt
động của công trình cùng một số đặc trưng đã có những thay đổi lớn. Ở nhiều hồ
chứa, việc tích nước, xả nước vào những thời kỳ nhất định thường chưa tuân thủ
đúng quy trình vận hành đã được phê duyệt, chưa theo đúng thiết kế, thậm chí vi
phạm nghiêm trọng việc vận hành bảo đảm nguồn nước tối thiểu cho hạ lưu, không
bảo đảm dòng chảy môi trường, không bảo đảm đời sống bình thường của một
dòng sông. Tình trạng cạn kiệt nguồn nước ở hạ lưu sông Hồng cuối những năm
gần đây là những ví dụ rõ nhất về vấn đề này.
2.3.5 Những bất cập trong quản lý TNN và việc khai thác, sử dụng TNN
thiếu hợp lý.
- Những bất cập chính trong quản lý tài nguyên nước
Những bất cập chính trong quản lý tài nguyên nước hiện nay là: Chưa thực sự
theo phương pháp quản lý tổng hợp và bền vững theo lưu vực sông mà vẫn theo địa
Nhóm 3 – QLTN&MTK55

Trang 25


×