Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Tiểu luận tìm hiểu Vườn quốc gia ba vì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.11 KB, 33 trang )

Mục lục


1. Lịch sử hình thành

Ngày 18-12-1991 Phó chủ tịch hội đồng Bộ trưởng Phan Văn Khải ký quyết định số
407/CT v/v chuyển giao đổi tên rừng cấm quốc gia Ba Vì thành vườn quốc gia Ba Vì và
giao cho Bộ Lâm Nghiệp (nay là Bộ NN&PTNT) quản lý kể từ ngày 01-01-1992.
Vườn quốc gia Ba Vì được thành lập trên cơ sở hợp nhất 8 đơn vị quản lý rừng và đất
rừng xung quanh núi Ba Vì dưới đây:
1- Lâm trường Ba Vì: được thành lập tại quyết định số 386/TCCB tháng 11-1970 do phó
chủ tịch UBND tỉnh Hà Tây Minh Đạt đã ký, diện tích quản lý toàn bộ khu vực núi Ba Vì
và tại quyết định số 63 QĐ/UB tháng 2-1975 của UBND tỉnh Hà Tây do chủ tịch Nguyễn
Hữu thụ đã ký tổng diện tích của lâm trường quản lý là: 7.040ha bao gồm:
- Khu vực núi Ba Vì và 7 xã miền núi huyện Ba Vì là: 6.786ha, số còn lại thuộc các xã
khác ngoài phạm vi núi Ba Vì như: thuần Mỹ, Cẩm Quỳ.... Đến tháng 7-1979 Lâm
trường ba Vì trực thuộc sở Nông nghiệp Hà Nội quản lý. Đến tháng 4-1985 lâm trường
Ba Vì đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của UBND huyện Ba Vì có diện tích là: 1.300ha. Từ
ngày 6-1-1991 lâm trường trực thuộc vườn quốc gia Ba Vì quản lý và đổi tên là trung tam
dịch vụ và chuyển dao KT lâm nông nghiệp Ba Vì, đến tháng 6-2000 trung tâm chuyển
về công ty xuất nhập khẩu nông lâm sản.
2- Xí nghiệp Kanh Ki Na: Được thành lập tháng 3-1979 có diện tích: 250ha khi mới
thành lập xí nghiệp thuộc sở lâm nghiệp tỉnh Hà Tây quản lý, đến tháng 5-1988 do việc
sát nhập tỉnh xí nghiệp trực thuộc sở nông lâm nghiệp Hà Nội tháng 01-1991 sát nhập
vào TTDV&CGKTLN nghiệp Ba Vì trực thuộc vườn quốc gia Ba Vì.
3- Khu K9: Được thành lập năm 1963 có diện tích 250ha là nơi Bác Hồ sống làm việc và
chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam ta, đồng thời là nơi
cất giữ và bảo quản thi hài Bác trong suốt thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Hiện nay Khu K9
trực thuộc Bộ tư lệnh lăng chủ tịch Hồ Chí Minh quản lý và xây dựng.
4- Trung tâm giáo dục hướng nghiệp lâm nghiệp Ba Vì: Được thành lập năm 1984, có
diện tích: 550ha bao gồm phần đất trên cốt400m trở xuống, từ khi thành lập đến năm


1990 trực thuộc sở giáo dục và đào tạo Hà Nội quản lý. Sau khi thành lập vườn quốc gia
tháng 01-1991 trung tâm được chuyển về vườn quốc gia quản lý đến năm 1994 trung tâm
lại chuyển về Bộ giáo dục -đào tạo quản lý, và đến năm 1996 trực thuộc Trường đại học
Quốc Gia Hà Nội quản lý.
5- Núi Mơ Hoóc Cua xã Tản Lĩnh: Có diện tích 120ha và vùng đất xã Ba Vì có diện tích
898ha bao gồm toàn bộ phần đất từ cốt400m trở xuống tháng 4-1985 UBND tỉnh Hà Tây


ra quyết định giao cho 2 xã Tản Lĩnh và ba Vì quản lý đến tháng 01-1991 trực thuộc
vườn quốc gia Ba Vì trưc tiếp quản lý.
6- Xí nghiệp trồng rừng thanh niên Yên Bài: Được thành lập năm 1985, có diện tích:
1.669ha từ ngày thành lập đến năm 1990 xí nghiệp do thành đoàn thanh niên Hà Nội
quản lý đến tháng 01-1991 xí nghiệp được chuyển về vườn quốc gia Ba Vì quản lý và
được đổi tên là đội trồng rừng thanh niên nay là trung tâm dịch vụ kỹ thuật và trồng rừng.
7- Khu rừng cấm Ba Vì: có diện tích: 2.140ha từ độ cao 400m trở lên, khu rừng cấm
được thành lập tháng 06-1977, từ ngày thành lập đến tháng 6-1986 khu rừng cấm trực
thuộc lâm trường Ba Vì. tháng 7-1986 UBND thành phố Hà Nội ra quyết định thành ban
quản lý rừng cấm Ba Vì trực thuộc sở nông lâm nghiệp Hà Nội quản lý, tháng 01-1991
sát nhập về vườn quốc gia Ba Vì.
8- Trạm nghiên cứu lâm sinh: Thuộc viện khoa học Lâm nghiệp Việt nam quản lý có diện
tích: 210ha, được thành lập năm 1988. Trạm có nhiệm vụ nghiên cứu giống cây rừng
phục vụ cho các tỉnh phía bắc Việt Nam, đến nay trạm vẫn đang hoạt động thực hiện
nhiệm vụ của mình.

Trải qua gần 10 năm xây dựng và phát triển vườn quốc gia Ba Vì một số đơn vị nêu trên
ngay từ ngày đầu đã được hợp nhất về vườn quốc gia, để phù hợp với chức năng, nhiệm
vụ của vườn, các đơn vị này dần dần được xoá bỏ về tổ chức và thành lập đơn vị mới trực
thuộc vườn, còn lại một số đơn vị khác được giữ nguyên hay được xát nhập về các đơn vị
khác như:
+ Trung tâm chuyển giao KTLN Nghiệp Ba Vì xát nhập trực thuộc công ty xuất nhập

khẩu nông lâm sản quản lý phần đất dưới cốt100m.
+ Trung tâm hướng nghiệp lâm nghiệp Ba Vì thuộc trường đại học Quốc Gia quản lý
phần đất còn lại dưới cốt100m.
+ Khu K9 trực thuộc Bộ tư lênh lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh quản lý
+ Trạm nghiên cứu giống lâm nghiệp Đá Chông thuộc viện khoa học Lâm Nghiệp Việt
Nam quản lý.
- Hiện nay theo quy hoạch mới tổ chức các đơn vị trực thuộc vườn bao gồm:
+ Văn phòng vườn quốc gia Ba Vì


+ Trung tâm dịch vụ kỹ thuật và trồng rừng.
+ Trung tâm nghiên cứu khoa học Nghĩa Đô Hà Nội.
+ Hạt Kiểm Lâm
+ Ban đón tiếp khách và dịch vị du lịch
vườn quốc gia Ba Vì có 4 nhiệm vụ chính:
1. Bảo tồn nguyên vẹn hệ sinh thái hiện còn
2. Trồng mới, phục hồi, bảo vệ rừng, các nguồn gen động thực vật rừng quý hiếm,
các đặc sản rừng và các di tích văn hoá lịch sử và cảnh quan của rừng.
3. Tổ chức nghiên cứu thực nghiệm, nghiên cứu khoa học cơ bản với mục đích
phục vụ bảo tồn thiên nhiên và môi sinh.
4. Tổ chức các hoạt động dịch vụ khoa học, giáo dục hướng nghiệp và tham quan
du lịch.

2. Hiện trạng rừng

Vườn quốc gia Ba Vì nằm trên khu vực dãy núi Ba Vì thuộc huyện Ba Vì, Hà Nội và hai
huyện Lương Sơn, Kỳ Sơn tỉnh Hòa Bình, cách trung tâm Hà Nội chừng 60 km.
Người ta vẫn thường ví nơi đây là “lá phổi xanh” của Hà Nội. Hiện tại, vườn quốc gia
này có hơn 1.200 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 649 chi và 160 họ, trong số đó có
khoảng 200 loài cây dược liệu, nhiều loài quý như bách xanh, thông, dẻ, lát hoa. Tổng

diện tích rừng của vườn hiện nay là 8.192,5 ha; chiếm 75,98% tổng diện tích tự nhiên
toàn vườn.
Thảm thực vật ở đây rất phong phú với 3 thảm thực vật chính là: loại rừng kín lá rộng một quần thể nguyên sinh với đầy đủ các loại cây bản địa tập trung ở núi Ngọc Hoa, Tản
Viên, Đỉnh Vua với độ cao 1.000 m trở lên (so mực nước biển).
Loại rừng kín xanh hỗn hợp cây lá rộng, cây lá kim của rừng nhiệt đới núi thấp với độ
cao 900 m và loại rừng thưa nhiệt đới phân bổ đều khắp ở vành đai có độ cao 400-700 m
xung quanh sườn núi Ba Vì. Về động vật, nơi đây có 45 loài thú, 115 loài chim, 61 loài
bò sát và 27 loài ếch nhái, trong đó có nhiều loài quý hiếm có tên trong Sách đỏ Việt
Nam và thế giới như gà lôi trắng, khỉ, báo, gấu, sóc bay…


Rừng kín lá rộng rhường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp.
Đây là một quần thể nguyên sinh bị tác động nhẹ nhưng do được bảo vệ trong
thời gian dài, rừng đã trải qua diễn thế hôi nguyên, nên đến nay hình thái và cấu trúc vẫn
mang sắc thái một quần thể nguyên sinh. Kiểu thảm thực vật này phân bố chủ yếu trên cá
hệ thống dông mái núi của các dẫy núi sau đây:
Ngọc Hoa - Tản Viên - Đỉnh Vua
Đỉnh Vua - Đỉnh 1200m - 1189m- 1060m và 969m ( hệ thống dông phía tây của
đỉnh Vua)
Ngọc Hoa - đỉnh 1021m và 765m ( dải dông phía tây và và đông bắc Ngọc hoa).
Kiểu rừng này phát triển trên đất Feralit mùn vàng nhạt trên núi trung bình, tầng đất trung
bình, phát triển trên đá poocphirit, độ dốc trung bình 16-250 có nơi dốc trên 350 tầng mùn
khá dầy đất chua PH= 4-4,5.
hình thái và cấu trúc: Loài câu ưu thế sinh thái là các loài cây thuộc khu hệ thực
vật đệ tam đặc hữu bản địa Nam Trung Hoa và Băc Việt Nam. Những họ tiêu biểu gồm:
họ dẻ (Fagaceae), họ re (Lauraceae), họ trúc đào (Apocynaceae).
Kiểu có cấu trúc đơn giản rừng chỉ có 2 tầng không có tầng vượt tán, quần thu gồm
những cá thể tương đối tròn trịa, rất hiếm thấy cây có bạnh vè kể cả những cây có tầm
vóc to lớn như Dổi ( Michelia sp), Sến ( Madhuca pasquyeri). Tầng ưu thế sinh thái đông
thời cũng là tầng cây cao nhất . Cả 2 tầng rừng gồm những loài với tỷ lệ cá thể như sau:

Giẻ, sồi ( Lithocarpus sp, Quercus conrneys) chiếm 14%.
Re, Bời lời Ba Vì ( Cinamomum, Litsea baviensis ) chiếm 7%
Cồng sữa ( Eberhartia tonkinensis) chiếm 6%
Nóng ( Saurauia tristyla) chiếm 6%
Trâm ( Syzygium sp) chiếm 6%
Những cá thể tầng cây ưu thế có tổ thành từ 5% trở lên chiếm 38% so với tổng số cá thể
của quần thụ.
Tầng dưới tán ( tầng 2) mọc khá liên tục và có chiều cao khác nhau bao gồm
nhiều loài cây chịu bóng, xen lẫn cây con của các loài tầng trên, số cây chịu bóng tiêu


biểu cho tầng 2 gồm các loài thuộc các họ sau: Súm ( theaceae), Nanh chuột
( Lauraceae), Trúc tiết ( Rhyzophoraceae), Đẻn ( Verbenaceae), Nóng ( Saurauiaceae),
Ba đậu ( Euphorbiaceae)...
Tầng cây bụi khá dầy gồm các loài thuộc các họ Rubiaceae, Theaceae, Myrtaceae,
Euphorbiaceae. Đặc biệt trong tầng này còn xuất hiện các loài dương sỉ thân gỗ
( Cyalthea podophylla, Ciboyium barometz dưới tán và Spinunosa ở rìa rừng), ngoài ra
còn thấy nhiều cây thuộc họ Dừa, Cọ (Palmae) như: Cau rừng ( Pinanga baviensis) và các
loài dương sỉ, dây leo ít chủ yếu thuộc các họ dây gắm ( Gnetaceae), họ Nho
(vitaceae) ... Có nhiều phong lan phụ sinh.
Ngoài ra ở đai rừng á nhiệt đới còn có 2 kiểu phụ sinh sau đây:
Rừng rêu. ( Rừng cảnh tiên)
Rừng rêu là một kiểu phụ thổ nhưỡng của đai rừng á nhiệt đới ẩm. Kiểu thảm này
phân bố chủ yếu ở đỉnh Vua và một ít ở đỉnh Tản Viên. Thảm rừng phát triển trên nền đất
Feralit vàng nhạt á nhiệt đới điển hình, tầng đất mỏng phát triển trên đá poocphyrit độ
dốc lớn, có đá nổ, tầng mùn khá dầy (
15-20cm), đất chua (PH = 4- 4,5). Loài cây ưu thế trong quần thụ khá rõ rệt điển hình là
những loài cây thuộc họ Dẻ ( Fagaceae) chiếm tỷ lệ cá thể 66% trong đó Sồi
( Lithocarpus sp) chiếm 21%, Dẻ cau (Quercus platycalyx) 13%, Dẻ gai ( Castanopsis
tonkinnesis) 11%, Dẻ lá đào ( Lithocarpus sp) 8%, rồi đến các loài trong họ Re

( Lauraceae) chiếm 12%, các loài Đỗ quyên ( Enkianthus pieris và Rhododendron) họ
Ericaceae chiếm 11% và các loài trong họ Côm ( Elaeocarpaceae) chiếm 5%.
Các loài có tỷ lệ tổ thành từ 5% trở lên chiếm 79% tổng số cá thể trong tổ thành.
Kiểu thảm thực vật này cũng có 2 tầng:
- Tầng trên ( tầng cây ưu thế sinh thái) gồm các loài cây thuộc họ dẻ (Fagaceae),
họ Re ( Lauraceae), họ Côm ( Elaeocarpaceae), họ Mộc lan (Mangnoliaceae).
- Tầng dưới có các loài: Dung ( Symplocos dubius), chẹo ( Engelhartia
roxburghiana), Cồng sữa ( Ebenrhartia tonkinnesis), nhựa ruồi ( Ilex) và các loài trong họ
đỗ quyên ... mọc xen với tàng này có cả những cây con của tầng trên.
- Tầng cây bụi ít loài trong họ cam, quýt ( Rutaceae), Cà phê (Rubiaceae) .
- Tầng cây cỏ gồm các loài dương sỉ ở các chi Tectaria, Diplazium, Pteris,
Asplenium, Polystichum, Plagiogyria, Bo strychium và một số loài quyển bá


( Selaginella). Đặc biệt ở tầng dưới tán có loài Sặt Ba Vì Arundiaria baviensis) mọc theo
khóm, có chiều cao 3-4m với độ tàn che 0,4, sặt phân bố khá đều dưới tán rừng, những
cây phụ sinh thân gỗ trong loái Schefera, có rất nhiều phong lan thuộc các chi
Dendrobium, Cymbidium, Vanda, Orchis, Luisia, Ngoài ra có nhiều loài dương sỉ, loài
rêu phụ sinh mọc trên cành, trên lá.
Rừng thưa á nhiệt đới.
Quần thể rừng này do hoạt động chặt chọn của con người từ xa xưa đến nay do
được bảo vệ trong thời gian dài nhưng tán rừng vẫn ở tình trạng bị phá vỡ mất hẳn tính
chất liên tục vốn có của nó độ tàn che 0,3-0,4, ở những khoảng tán rừng bị phá vỡ thường
là những đám rừng, những vạt cây trong họ phụ tre nứa ( Bambusaceae) chủ yếu là giang
( Dendrocalamus). Kiểu thảm rừng này phân bố ở các sườn núi, dưới các kiểu rừng
nguyên sinh, nơi có địa hình khá dốc 40-450, trên đát Feralit vàng nhạt trên núi trung
bình, tầng đất mỏng phát triển trên đá Poocphirit, tầng mùn dầy 15-20cm, đất chua Ph =
4-4,5. Tỷ lệ cá thể những loài cây ưu thế cũng không rõ ràng, chủ yếu gồm các loài thuộc
họ sau: Trâm ( Myrtaceae) chiếm 5%, Bời lời Ba Vì, Bời lời lá tròn thuộc họ Lauraceae
chiếm 5%, Sồi thuộc họ Fagaceae chiếm 4%, Cứt ngựa ( Mimosaceae) chiếm 4%...

Kiểu rừng kín thường xanh hỗn hợp cây lá rộng, cây lá kim á nhiệt đới núi thấp.
Đây là kiểu phụ miền thực vật thân thuộc với khu hệ bản địa Nam Trung Hoa Bắc Việt Nam và khu hệ di cư Hymalaya- Vân nam - Quý Châu.
Từ độ cao 900m trở lên ta đã thấy lác đác có những cá thể loài cây Bách xanh
( Calocedrus macrolepis) trong nghành phụ hạt trần ( Gymnospermae) xuất hiện càng lên
cao tần xuất xuật hiện ngày càng tăng, và cuối cùng Bách xanh trở thành một trong
những loài ưu thế của ưu hợp Bách xanh+Dẻ+Re+Giổi+Mỡ. Kiểu rừng này đều phân bố
ở phần đỉnh sườn phía tây của đỉnh Vua, Ngọc Hoa, Tản Viên và Tiểu Đồng, kiểu thảm
này phát triển trên loại đất Feralit vàng nhạt trên núi trung bình tầng đất mỏng, phát triển
trên đá Poocphirit độ dốc >350 có nơi dốc 60-700 và có nhiềi đá tảng. Về cấu trúc kiểu
rừng này cũng có 2 tầng: Tầng trên là loài Bách xanh (Calocedrus macrolepis) xen lẫn
với những loài trong họ re ( Lauraceae), họ Dẻ ( Fagaceae), họ Mộc lan ( Magnoliaceae).
Tầng dưới tán có những loài dương sỉ thân gỗ ( Cyalthea podophylla), những chi thuộc
họ Re ( Lauraceae) như: Phoebe, Lisea, Lindera), những loài thuộc họ Sim
( Myrtaceae) ... Dây leo ít gồm các chi Strychnos, Fissitigma và Desmos. Cây phụ sinh
thấy nhiều trên cành nhánh các thân gỗ đó là các loài trong họ phong lan ( Orchidaceae)
trong đó có loài kim thoa hoàng thảo trong chi Dendrobium.


Rừng kín lá rộng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới núi thấp.
Theo luận điểm quần hệ sinh thái phát sinh thì ở đai khí hậu nhiệt đới này ở thời
kỳ xa xưa vốn là ưu hợp của những loài cây trong các họ ưu thế như: họ Re ( Lauraceae)
+ họ Dẻ ( Fagaceae)+ họ Dâu tằm ( Moraceae) + họ Mộc lan ( Magnoliaceae)+ họ Đậu
( Leguminoceae)+ họ Xoài ( Anacardiaceae)+họ Trám ( Burceraceae)+ họ Bồ hòn
( Sabindaceae)+ họ Sến (Sapotaceae). Nhưng trải qua quá trình chặt chọn những cây gỗ
tốt làm vật liệu xây dựng của người dân địa phương và chặt phá làm nương rẫy bởi thế
đai rừng nhiệt đỡi này đã bị mất hoàn toàn quần thể thành thục mà chỉ còn những kiểu
phụ nhân tác sau đây:
Rừng thưa nhiệt đới.
Kiểu thảm thực vật này phân bố đếu khắp ở vành đai độ cao 400m-800m xung
quanh sườn núi Ba Vì, rừng phát triển trên loại đất Feralit vàng đỏ có mùn trên núi thấp,

tầng đất mỏng có nơi tầng đất trung bình phát triển trên đá Poocphirit độ dốc cao bình
quân 26-350, tầng mùn mỏng xói mòn mạnh tỷ lệ đa lẫn cao độ chua lớn.
Hình thái và cấu trúc: Mặc dù đã được bảo vệ trong thời gian dài, song đến nay
kiểu thảm này vẫn chỉ là một kiẻu rừng thưa, tầng tán đã bị phá vỡ, mất hẳn tính liên tục
vốn có của nó với độ tàn che 0,4-0,5 khái niệm về tầng của rừng gỗ chỉ được biểu hiện ở
những đám, những vạt lâm phần gỗ mọc tập chung. Dưới tán cây gỗ có những loài dây
leo thân gỗ, cây phụ sinh thắt ngẹt khá nhiều thuộc nhiều họ khác nhau, những cây dương
sỉ phụ sinh, những loài phong lan phụ sinh, những cây họ môn, ráy bán phụ sinh, nhiều
loài khác nhau thường mọc dầy trên cành nhánh, trên thân già những cây cổ thụ, những
loài trong các chi của họ dừa ( Pamaceae) mọc dưới tán rừng. Ngoài ra dưới tán rừng còn
có những loài cây thuộc họ phụ tre nứa ( Bambusaceae) chủ yếu là giang
( Dendrocalamus) mọc thành bụi hay đám hạn chế sự tái sinh của các loài cây gỗ.
Do điều kiện khí hậu nhiệt đới thuận lợi cho điều kiện sinh trưởng phát triển của
nhiều loài, nhiều họ nên tổ thành cây gỗ ở kiểu thảm rừng này rất phức tạp không thể
hiện rõ tính chất ưu thế như ở vành đai á nhiệt đới, tỷ lệ % cá thể từ lớn đến nhỏ có các
loài trong các họ sau:
Trâm Syzygium sp chiếm 7,1%
Đa Ficus sp chiếm 5,3%
Cà lồ Ba Vì Caryodaphnopsis baviensis chiếm 5%
Nóng- Saurauia trystyla chiếm 4,4%


Bời lời Ba Vì- Lisea baviensis chiếm 4,3%
Kháo lá lớn - Phoebe cuneata chiếm 4%
Thừng mực - Wrightia annamensis chiếm 4,1%
Sồi - Lithocarpus sp chiếm 3,5%
Những loài cây có giá trị kinh tế ở kiểu thảm này phải kể đến: Trương vân, Gội, Sến...
nhưng số cá thể xuất hiện khôngnhiều
Rừng tre nứa.
Sự hiện diện của quần thể rừng giang là do hậu quả của quá trình khai thác lạm

dụng quá mức hoặc quá trình đốt phấ rừng gỗ để làm nương rẫy của người dân sống xung
quanh núi. Giang thường phát triển thành bụi dầy đặc xếp chồng lên nhau tạo thành một
tán kín và thấp hạn chế khả năng tái sinh của mọi loài cây gỗ.
Rừng phục hồi.
Đây là một quần thể xuất hiện sau nương rẫy đã bỏ hoá đất vẫn còn tốt, loại thảm
này phân bố khá tập trung ở quanh khu cốt400m và trên đường từ cốt400m sang cốt600.
Quần thể này với hình thái cấu trúc đơn giản với một tầng tán cây gỗ khá đồng đều một
loại rừng đồng tuối và gồm những loài cây tiên phong như ba soi ( Macaranga
denticulata), Hu đay ( Trema angustifolia), Ba bét ( mallotus apella), quần thể có đường
kính nhỏ 8-10cm chiều cao thấp 8-10m mật độ tương đối dầy, ngoìa ra còn gặp những
loài cây sau: Muối ( Rhus chinensis), màng tang ( Litsea citrata), Ngoã lông ( Ficus
julva), cò ke ( Grewia paniculata), Thôi ba ( Alangium sinesis). Đây là một kiểu thảm
rừng đang diễn thế, nếu được bảo vệ tốt có thể hồi nguyên trở về kiểu phụ miền hay kiểu
phụ thổ nhưỡng nguyên sinh.
Rừng trồng.
Các loài cây chủ yếu gồm: Keo, Thông, Long não, Giổi, Muồng đen, Trám, Xấu,
Nhội, Sến... Cây sinh trưởng tốt chủ yếu trồng ở sườn và chân dẫy núi Ba Vì.


3. Vị trí địa lý

Cách 1
Tên Vườn quốc gia
Quyết định thành lập

Quyết định thay đổi, mở rộng
Địa điểm
Tọa độ địa lý
Diện tích
Phân khu bảo vệ NN

Phục hồi sinh thái
Dịch vụ hành chính
Vùng đệm
Cơ cấu tổ chức

Nhiệm vụ

Địa lý, thủy văn

Vườn quốc gia Ba Vì
Quyết định 17-CT ngày 16/01/1991 của Chủ
tịch hội đồng Bộ trưởng về việc thành lập và
phê chuyển luận chứng kinh tế - kỹ thuật rừng
cấm quốc gia Ba Vì. Quyết định 407-CT ngày
18/12/1991 của Chủ tịch hội đồng bộ trưởng
về đổi tên thành Vườn quốc gia Ba Vì
Quyết định số 510/QĐ-TTg, ngày 12/5/2003
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch
mở rộng Vườn quốc gia Ba Vì
Nằm trên địa phận huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây
và huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình
20056' - 21000' vĩ độ Bắc; 105023' - 105028'
kinh độ Đông
11.462 ha
2.752 ha
8.590 ha
120 ha
79.461 ha
Trực thuộc Cục Kiểm lâm gồm: Ban giám đốc;
Phòng Tổ chức- hành chính; Phòng kế hoạch

và tài chính; Phòng khoa học kỹ thuật; Hạt
kiểm lâm; Trung tâm dịch vụ Du lịch sinh thái
và GDMT.
Bảo tồn nguyên vẹn các hệ sinh thái rừng tự
nhiên, các nguồn gen động, thực vật quý hiếm,
các đặc sản rừng và các di tích lịch sử, cảnh
quan tự nhiên trong vùng.
Tạo môi trường hài hòa cho các công trình văn
hóa, kinh tế vung Tây Bắc thủ đô với hệ sinh
thái rừng.
Thực hiện công tác nghiên cứu thực nghiệm
khoa học với mục đích phục vụ, bảo tồn thiên
nhiên và môi trường, hệ sinh thái.
Vườn quốc gia Ba Vì nằm ở trung tâm núi
Ba Vì, cách Hà Nội 50 km về phía tây. Núi Ba
Vì nổi lên và tách biệt với vùng đồng bằng có
độ cao dưới 30 m bao quanh. Nhìn chung,
sườn phía tây của núi Ba Vì có độ dốc trung
bình 25o, dốc hơn sườn phía đông. ở Trên 400
m ở phía tây độ dốc có thể đạt tới 35o với sự
hiện diện của các vách đá. Núi Ba Vì có 3 đỉnh
chính: đỉnh Vua có độ cao 1.296m, tiếp theo
đó là đỉnh Tản Viên cao 1.226m và đỉnh Ngọc


Hoa cao 1.120m. Do đây là vùng địa hình đồi
núi nên khí hậu Ba Vì thay đổi theo độ cao.
Trên 500m, luôn có sương mù bao phủ đỉnh
núi.
Loại trừ sông Đà ở về phía tây của vườn

quốc gia, Ba Vì không có nhiều các sông suối
hoạt động thường xuyên. Các suối trong vườn
quốc gia nhỏ, dốc và chảy nhanh. Trong mùa
mưa, khối lượng nước chảy qua các suối nhỏ
này và chảy qua bề mặt đôi khi tạo ra sự lở
đất. Tuy nhiên, trong mùa khô, có nhiều suối
bị cạn.
Tài nguyên đa dạng sinh học

Trong Vườn Quốc gia Ba Vì, rừng tự nhiên
chủ yếu phân bố ở các đai độ cao trên 600m.
Các kiểu rừng tự nhiên gặp ở Ba Vì là rừng
thường xanh đất thấp, rừng thường xanh núi
thấp và rừng thường xanh núi thấp hỗn giao
cây lá rộng lá kim. Trong năm 1998, vườn
quốc gia có 4.701 ha rừng, bao gồm 1.710 ha
rừng tự nhiên và 2.991 ha rừng trồng. Tuy
nhiên, rừng trồng chỉ ở giai đoạn mới phát
triển và đường

Cách 2
Quyết định thành lập: Quyết định số 17-CT ngày 16/01/1991 của Chủ tịch hội đồng bộ
trưởng về việc thành lập và phê chuẩn luận chứng kinh tế - kỹ thuật Rừng cấm quốc gia
Ba Vì. Quyết định số 407-CT ngày 18/12/1991 của Chủ tịch hội đồng bộ trưởng về việc
đổi tên thành Vườn quốc gia Ba Vì và giao Bộ Lâm nghiệp quản lý.
Vườn quốc gia Ba Vì là một trong 10 vườn quốc gia của Việt Nam ở phía tây thủ
đô hà Nội cách trung tâm thành phố 50km theo đường quốc lộ 11A và đường 87 có toạ
độ địa lý:
210 01' đến 210 07' vĩ độ bắc
1050 18' đến 1050 25' kinh độ đông

với tổng diện tích quy hoạch là: 7.377ha hiện nay theo quy hoạch mới chỉ còn là:
6.786ha
Vườn quốc gia Ba Vì:


+ Phía bắc giáp các xã: Ba Trại, Ba Vì, Tản Lĩnh.
+ Phía tây giáp các xã: Khánh Thượng, Minh Quang.
+ Phía Đông giáp các xã Vân hoà, Yên bài
+ Phía nam giáp huyện Kỳ Sơn tỉnh Hoà Bình
Vườn quốc gia Ba Vì được chia thành 2 phân khu chức năng sau:
- Phân khu bảo tồn nguyên vẹn: 2.140ha từ độ cao cốt 400m trở lên
- Phân khu phục hồi sinh thái: 4.646ha từ cốt100m đến cốt400m
- Ngoài ra còn có khu vùng đệm dưới cốt100m với tổng diện tích: 14.144ha bao
gồm 7 xã vùng đệm trực thuộc tỉnh Hà Tây quản lý.


Địa hình địa thế
Ba vì là một vùng núi trung bình, núi thấp và đồi tiếp giáp với vùng bán sơn địa.
Vùng núi gồm các dãy núi liên tiếp nổi lên giữa vùng đồng bằng, có 3 đỉnh cao nhất là:
Đỉnh vua cao 1296m, đỉnh Tản Viên cao 1227m, đỉnh Ngọc Hoa cao 1131m vì thế có tên
gọi là núi Ba Vì. Ngoài ra còn có các đỉnh thấp hơn như đỉnh Tiểu Đồng cao 1100m,
Hang Hùm hay còn gọi là đỉnh chàng rể ( 800m), Gia Dê ( 714m).


- Dãy núi Ba Vì gồm 2 dải dông chính:
+ Dải dông theo hướng đông tây, từ suối ổi đến cầu Lặt qua đỉnh Tản Viên đến
Hang Hùm dài 9km.
+ Dải dông theo hướng Tây Bắc - Đông Nam từ Yên Sơn qua đỉnh Tản Viên đến
núi Đế Vương dài 11km.
Nói chung Ba Vì là một vùng núi khá dốc, sườn phía Tây đổ xuống sông Đà dốc

hơn sườn phía Tây Bắc và Đông Nam. Độ dốc của khu vực trung bình 250, từ cốt400m
trở lên dốc hơn, độ dốc trung bình 350 có nhiều chỗ vách đã dốc dựng đứng, xung quanh
núi Ba Vì là dải đồi thấp, lượn sóng xen kẽ đồng ruộng.
Dải phía Tây nằm giữa núi Ba Vì và sông Đà hẹp gồm các đồi thấp và ruộng
nước.
Dải phía Bắc và phía Đông gồm các đồi lượn sóng, địa thế thấp, thuận lợi để xây
dựng các hồ nhân tạo như: Suối Hai, Đồng Mô- Ngải Sơn.
Nhìn chung Ba Vì là một vùng có phong cảnh đẹp, nên thơ, kết hợp được cả cảnh
hùng vĩ của núi non, sông suối, ao hồ và xen vào đó là cảnh trung du đồng bằng với
những làng quê sinh đẹp.
4. Mục tiêu, nhiệm vụ:

Rừng quốc gia Ba Vì là đơn vị kinh tế và sự nghiệp khoa học, có chức năng là trồng, bảo
tồn và phục hồi tài nguyên thiên nhiên, di tích lịc sử, nghiên cứu khoa học kết hợp với
tham quan, học tập và du lịch:
Bảo tồn toàn bộ hệ sinh thái tự nhiên còn nguyên vẹn của rừng cấm. Trồng mới, phục
hồi, bảo vệ rừng, các nguồn gen động, thực vật quý hiếm, các đặc sản rừng và các di tích
lịch sử văn hoá, cảnh quan. Tổ chức nghiên cứu thực nghiệm, nghiên cứu cơ bản với mục
đích phục vụ bảo tồn. Tổ chức các hoạt động dịch vụ khoa học, giáo dục hướng nghiệp
và tham quan du lịch.
Cơ quan / cấp quản lý: Vườn quốc gia Ba Vì trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn quản lý. Ban quản lý: Ban quản lý gồm: Ban giám đốc, Hạt kiểm lâm, Trung
tâm dịch vụ kỹ thuật và trồng rừng, Trung tâm nghiên cứu khoa học.
Hoạt động du lịch: Vườn quốc gia Ba Vì có nhiều cảnh quan thiên nhiên ngoạn mục với
nhiều con suối bắt nguồn từ núi rừng Ba Vì quanh năm nước chảy, nhiều hồ tự nhiên và
nhân tạo (Suối Hai, Đồng Mô, Ao Vua..) gắn liền với nhiều di tích lịch sử như: đền
Thượng, đền thờ Bác Hồ. Chính những điều kiện trên đã hình thành các điểm du lịch nổi


tiếng Ao vua, Khoang xanh, suối mơ, Thác đa. Trong tháng 6/2003 Bộ Nông nghịêp và

Phát triển nông thôn đã phê duyệt mô hình thí điểm du lịch sinh thái kết hớp với giáo dục
hướng nghiệp tại Vườn quốc gia Ba Vì.
Các giá trị đa dạng sinh học: Vườn quốc gia Ba Vì với 3 kiểu rừng: Rừng kín thường
xanh mưa ẩm á nhiệt đới; rừng kín thường xanh hỗn giao cây lá rộng và cây lá kim á
nhiệt đới và kiểu rừng lá rộng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới trên núi thấp. Núi Ba Vì với
2 đai cao nên hệ thực vật nơi đây khá phong phú và đa dạng, đã ghi nhận 812 loài thực
vật bậc cao thuộc 99 họ, 472 chi. Nhiều loài cây quý hiếm như: Bách xanh (Calocedrus
marcrolepis), Thông tre (Podocarpus nerrifolius) Sến mật, giổi lá bạc, quyết thân gỗ, bát
giác liên. Ở Vườn quốc gia cũng đã thống kê được 169 loài cây thuốc, đến năm 1992 đã
ghi nhận 250 loài cây thuốc chữa nhiều bệnh.
Theo kết quả điều tra bổ sung mới nhất, Khu hệ động vật có xương sống (ĐVCXS) ở
VQG Ba Vì thống kê được 342 loài. Trong đó, có 3 loài đặc hữu và 66 loài ĐVR quí
hiếm. Trong 342 loài đã ghi nhận, có 23 loài có mẫu được sưu tầm hoặc đang được lưu
trữ ở địa phương, 141 loài được quan sát ngoài thực địa và 183 loài theo phỏng vấn thợ
săn hoặc tập hợp qua tài liệu đã có. Trong số động vật gặp ở Ba Vì, có 70 loài cho thịt,
da, lông và làm cảnh. Yếu tố đặc hữu của khu hệ ĐVCXS ở Ba Vì ở 2 lớp Bò sát và
Lưỡng thê. Đó là các loài Thằn lằn tai Ba Vì (Tropidophous baviensis), Ếch vạch
(Chaparana delacouri).
Nhóm động vật quí hiếm ở VQG Ba Vì có 66 loài, phần lớn là loài ĐVR nhỏ, hoặc trung
bình. Các loài quý hiếm như Cầy vằn (Chrotogale owstoni), Cầy mực (Artictis
binturong), Cầy gấm (Prionodon pardicolor); Beo lửa (Felis temmincki), Sơn Dương
(Capricornis sumatraensis), Sóc bay (Petaurista petaurista)… Gà lôi trắng (Lophura
nycthemera), Yểng quạ (Eurystomus orientalis), Khướu bạc má (Garrulax
chinensis)...và các loài đặc hữu hẹp hiện có ở VQG Ba Vì.
Thực trạng bảo vệ động vật rừng: do địa hình vùng Ba Vì độc lập nên việc di cư của các
thú rừng từ nơi khác tới là rất hạn chế, dễ bị săn bắt. Có loài bị tiêu diệt hoàn toàn như
Hươu sao, Gấu chó…Hiện tại, nhiều loài đang có nguy cơ bị tiêu diệt như Sơn dương,
Sóc bay, Gà lôi trắng…Do vậy, cần phải kiểm soát chặt chẽ việc săn bắt, đồng thời tạo
môi trường tốt để gây dựng và phát triển số chim thú. Nên quy hoạch các đồng cỏ để bảo
vệ các loài móng guốc và tạo không gian cho các loài chim thú di thực (chi tiết xem phần

báo cáo động vật, tập báo cáo chuyên đề).
Theo kết quả điều tra chuyên đề của Vườn quốc gia về côn trùng, đã phát hiện được 552
loài côn trùng thuộc 364 giống, 65 họ, 14 bộ. Trong đó có 7 loài được ghi trong sách đỏ
Việt nam như Bọ ngựa xanh thường (Mantis religiosa); Cà cuống (Lethocerus
indicus); Bướm khế (Attacus atlas); Ngài mặt trăng (Actias selene); Bướm rồng đuôi


trắng (Lamproptera curius); Bướm phượng Hêlen (Troides helena), Bướm đuôi kiếm
(Graphium antiphates). Hệ côn trùng ở Vườn đã tạo nên sự phong phú, đa dạng loài và
làm nổi trội giá trị thiên nhiên của Vườn.
5. Khí hậu

Khu vực Ba vì nằm ở khoảng vĩ tuyến 21o Bắc, chịu tác động của cơ chế gió mùa. Tác
động phối hợp của vĩ độ và gió mùa tạo nên loại khí hậu nhiệt đới ẩm có 2 mùa rõ rệt
mùa đông lạnh và khô- mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều. mùa hè từ tháng 4 đến tháng 10,
mùa đông lạnh từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, từ cote 400m trở lên không có mùa khô.
Về khí hậu vùng núi Ba Vì phân bố không đều, địa hình và độ cao là 2 nhân tố chủ yếu
dẫn đến sự phân hoá khí hậu, thể hiện rõ biên độ ngày và đêm của chế độ nhiệt và mưa ở
các độ cao khác nhau, chế độ nhiệt ở đây mang đầy đủ tính chất nhiệt đới nội chí tuyến,
tạo ra đai nội chí tuyến từ khô đến ẩm trên núi. Càng lên cao nhiệt độ không khí càng
giảm, độ ẩm càng tăng phát sinh đai á nhiệt đới hơi ẩm đến ẩm ướt trên núi, có thể nhận
biết đai á nhiệt đới ở độ cao từ 900m trở lên với sự xuất hiện các loài cây trong nghành
hạt trần, họ đỗ quyên và thực vật phụ sinh dày đặc trên các cây gỗ.
Địa hình nhô
cao, đón gió từ nhiều phía nhất là gió hướng đông nên lượng mưa khá phong phú và phân
bố không đều trên khu vực.
Chế độ nhiệt
Trị số trung bình khí hậu tại chân núi Ba vì.
+ Nhiệt độ trung bình năm là 23,39oC, tháng lạnh nhất là tháng 1 (16,52oC), tháng
nóng nhất là tháng 7 (28,69oC).

+ Mùa nóng từ tháng 4 cho đến tháng 11, nhiệt độ trung bình mùa nóng là 26,1oC,
ngày nóng nhất trong mùa có thể lên tới 38,2oC.
+ Mùa lạnh từ tháng 12 cho đến tháng 3 năm sau, nhiệt độ trung bình mùa lạnh là
17,9 , nhiệt độ thấp nhất có thể tới 6,5oC.
o

Các yếu tố khí tượng tại cote 400m.
+ Nhiệt độ trung bình năm 20,6oC
+ Độ ẩm không khí trung bình năm 86,1%
+ Lượng mưa trung bình năm 2.587,2mm
+ Lượng bốc hơi trung bình năm 759,5mm sấp xỉ bằng 30% tổng lượng mưa.


+ Tổng số giờ nắng trung bình năm 1.326,7 giờ.
Các yếu tố khí tượng tại cote 1000m.
- Nhiệt độ không khí trung bình năm 16,1oC
- Độ ẩm không khí năm 92,0oC
Phân bố nhiệt độ trung bình năm
Ở các vùng thấp dưới cote 100m nhiệt độ trung bình năm 23,39oC. Nhiệt độ giảm
dần theo độ cao. Tính bình quân cứ lên cao 100m nhiệt độ giảm 0,55oC, ở độ cao cote
400m nhiệt độ giảm xuống còn 20,6oC, và ở độ cao 1000m nhiệt độ trung bình năm là
16,1oC.
Biến đổi nhiệt độ theo mùa
Ở khu vực Ba vì biên độ nhiệt năm khá cao là 8,2oC, ít biến đổi theo độ cao, sự
chênh lệch nhiệt theo mùa ảnh hưởng rất lớn đến nhịp điệu sinh trưởng phát triển thảm
thực vật. Trong nghiên cứu khí tượng nông nghiệp và cảnh quan nhiệt đới, mùa lạnh
thường được qui định là thời kỳ nhiệt độ thấp hơn < 20oC, theo tiêu chuẩn này ở chân núi
mùa lạnh dài 4 tháng (từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau), tháng lạnh nhất là tháng giêng
16,52oC, mùa nóng kéo dài 8 tháng (từ tháng 4 đến tháng 11), các tháng giữa mùa nóng
nhiệt độ lên cao 28,7oC.

Ở độ cao cote 400m mùa lạnh dài 5 tháng (từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau),
tháng lạnh nhất là tháng giêng 13,3oC mùa nóng kéo dài 7 tháng (từ tháng 4 đến tháng
10), các tháng giữa mùa nóng nhiệt độ là 26,3oC.
Nhiệt độ giảm theo độ cao và mùa lạnh kéo dài hơn. Ở vùng đỉnh núi tại cote
1000m thời kỳ có nhiệt độ > 20oC chỉ có 4 tháng và không có tháng nào lên quá 22oC.
Sự biến đổi về nhiệt kéo theo sự biến đổi tương ứng trong cảnh quan thiên nhiên: Cảnh
quan nóng - ẩm vùng thấp chuyển dần sang cảnh quan lạnh - ẩm vùng cao, dải chuyển
tiếp nằm ở độ cao 500m.
Dao động nhiệt độ ngày đêm
Biên độ nhiệt ngày đêm có ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng cuả thực vật. Biên độ nhiệt
ngày đêm tương đối lớn, có giá trị trung bình trong khoảng 8oC, tăng lên đến 9oC trong
nửa đầu mùa đông (tháng 11 đến tháng giêng) và đầu mùa hè (tháng 5, 6, 7)


Vào thời kỳ mưa phùn (tháng 2,3) và thời kỳ mưa ngâu (tháng 8) biên độ nhiệt
ngày đêm giảm xuống 7oC.

Chế độ ẩm
- Điều kiện ẩm ướt được quyết định bởi tương quan giữa hai quá trình ngược
nhau: lượng mưa và lượng bốc hơi.
Nhìn vào biểu đồ vũ nhiệt Gaussen - Walter ta thấy: Tại chân núi Ba vì có 2 mùa
rõ rệt đó là mùa nóng ẩm (khoảng từ giữa tháng 3 cho đến giữa tháng 11), mùa lạnh khô
(khoảng từ giữa tháng 11 cho đến giữa tháng 3 năm sau).
Tại độ cao cote 400m ở đây hầu như không có mùa khô vì lượng bốc hơi luôn
thấp hơn lượng mưa.
Căn cứ vào cấp phân loại chế độ ẩm - nhiệt (Thái Văn Trừng đề xuất) Ba vì được
xếp vào loại hơi ẩm đến ẩm.
Chế độ mưa
Lượng mưa hàng năm tương đối lớn, phân bố không đồng đều giữa các khu vực.
Vùng núi cao và sườn phía Đông mưa rất nhiều 2587,6mm/năm, vùng xung

quanh chân núi có lượng mưa thấp hơn 1.731,4mm/năm, sườn Đông mưa nhiều hơn sườn
Tây. Số ngày mưa tại chân núi Ba vì từ 130 - 150 ngày/năm, tại cote 400m từ 169 - 201
ngày/năm, bình quân là 189 ngày/năm.
+ Phân phối mưa theo mùa:
Phân phối mưa theo mùa trong năm không đều, hàng năm diễn ra sự luân phiên
của một mùa mưa lớn và một thời kỳ ít mưa.
Mùa mưa, với lượng mưa hàng tháng > 100mm kéo dài 6 tháng từ tháng 5 cho
đến tháng 10 tại chân núi và 8 tháng từ tháng 3 cho đến tháng 10 từ cote 400m trở lên.
Lượng mưa này chiếm hơn 90% tại chân núi và 89% tại cote 400 lượng mưa cả năm.
Mưa lớn từ 300 - 400mm/tháng tập trung trong các tháng 6, 7, 8 (chân núi) và các tháng
6, 7, 8, 9 (tại cote 400m). Thời kỳ ít mưa kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau (chân
núi) và từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau (cote 400m), hàng tháng có từ 5 đến 10 ngày
mưa.
Khả năng bốc thoát hơi


Lượng bốc thoát hơi ở khu vực Ba vì từ 861,9 mm/năm đến 759,5mm/năm, ít biến
động trong không gian so với mưa. Khả năng bốc thoát hơi tăng lên vào mùa nóng từ
80mm/tháng và giảm xuống vào mùa lạnh 57mm/tháng.
Chỉ số khô hạn được xác định theo công thức
X : S , A , D (Theo Tiến sĩ Thái Văn Trừng )
- S : Số tháng khô có lượng mưa Ps £ 2t
- A: Số tháng hạn có lượng mưa Pt £ t
- D: Số tháng hạn kiệt có mưa Ps ˜ 0
- t,Ps : Nhiệt độ, lượng mưa trung bình tháng.
* Tại chân núi Ba Vì: X : 3,0,0
+ S = 3 giữa các tháng 12, 1, 2. Trong đó các tháng đều có Ps £ 2t có thể coi như
là tháng khô.
+ A = 0 không có tháng hạn
+ D = 0 không có tháng kiệt

- Tổng lượng các tháng khô

S Ps = 79, 49

- Lượng mưa trung bình năm

P = 1731,39 mm

- Độ khô kiệt của kỳ khô hạn là : K1 = S Ps . 100 = 4,6 %
P
* Tại cote 400m: X : 0 , 0 , 0

Tiềm năng ẩm
+ Tương quan giữa lượng mưa (P) và khả năng bốc hơi (Bh) thường được biểu thị
dưới dạng tỉ số K = P/ 0.1 * Bh (Chỉ số ẩm ướt). Chỉ số ẩm ướt tại chân núi Ba vì K = 2,0
và tại cote 400m K = 3,4.
- Chỉ số khô hạn = 1/K = 0,5 tại chân núi và = 0,29 tại cote 400m.


Tiềm năng ẩm được phản ánh qua chỉ số ẩm ướt tính cho cả năm. Chỉ số ẩm ướt
khu vực Ba vì biến thiên từ 2,0 (chân núi) đến 3,4 (sườn núi), nghĩa là lượng mưa lớn hơn
khả năng bốc thoát hơi từ 2,0 đến 3,4 lần.

Các yếu tố khác
+ Tổng lượng bức xạ mặt trời hàng năm từ 120 - 130 Kcalo/cm2 tương đối thấp so
với các vĩ độ nhiệt đới.
Thời kỳ hè thu tổng lượng bức xạ tương đối cao, lớn nhất trong các tháng 5, 6,
7 đạt 13 - 14 Kcalo/cm2 tháng, ngược lại thời kỳ Đông - xuân giảm rõ rệt, đặc biệt trong
các tháng giêng, 2, 3 chỉ có 6 - 8 Kcalo/cm2 tháng.
+ Tốc độ gió:

Vùng thấp khuất núi sức gió tương đối yếu, tính trung bình chỉ khoảng 1,0 2,0m/s. Trên đỉnh và sườn núi sức gió tăng lên có thể đến 3 - 4 m/s.
Những cơn gió mạnh thường liên quan đến bão (các tháng 7,8,9) gió mùa Đông
bắc (từ tháng 11 - tháng 4), và đặc biệt mạnh liên quan với giông (tháng 4,5,6,7) Có thể
lên đến 20 - 30m/s.
+ Độ ẩm không khí
Độ ẩm không khí tăng dần theo độ cao và đặc biệt trên độ cao 1.000m, độ ẩm
không khí hầu như ẩm ướt quanh năm 92,0% cao nhất vào đầu mùa hè (tháng 3,4)
và cuối đông tháng (12,1,2) liên quan đến gió mùa đông bắc.
Các hiện tượng thời tiết đáng lưu ý
+ Gió tây khô và nóng.
Hàng năm vào các tháng 5,6,7 thường xẩy ra các đợt gió tây khô và nóng, kèm
nắng trảng ảnh hưởng rất lớn đến cây con trong vườn ươm, tính trung bình cho cả 3 tháng
từ 15 - 18 ngày khô nóng với nhiệt độ cao vượt quá 35oC và độ ẩm tương đối xuống thấp
dưới 50%.
+ Sương muối:


Vào những đêm đông giá rét, nhiệt độ không khí vùng Ba vì có thể xuống đến
0 C trong khi nhiệt độ bề mặt thường hạ thấp dưới 0oC, xuất hiện sương muối, làm cho
cây con ở vườn ươm dễ bị chết hàng loạt.
o

Tình hình sương muối ở vùng núi Ba Vì có thể đánh giá là “nhẹ” so với miềm núi
và trung du bắc bộ, tuy nhiên cần được nghiên cứu và đánh giá đầy đủ hơn.
+ Dông tố và mưa đá:
Do ảnh hưởng của khối núi Ba Vì nhô cao tạo ra một “trung tâm sét” vào mùa
mưa, hàng năm có khoảng 70 ngày dông trên từng khu vực, hoạt động dông sét diễn ra
mạnh nhất trong các tháng 5,6,7.
Gắn liền với dông là những cơn gió mạnh gọi là tố chỉ kéo dài 15 - 20 phút dông
tố thể gây ra mưa đá.

Thuỷ văn
Sông Đà chẩy dọc phía tây núi Ba Vì - mực nước năm cao nhất dưới 20m và năm
thấp nhất là 7,7 m (1971) so với mực nước biển.
Ngoài sông Đà khu vực Ba Vì không có sông và suối lớn, hầu hết các suối đều
nhỏ, dốc. Mùa mưa lượng nước lớn, chẩy xiết làm xô đất đá lấp nhiều thửa ruộng ven
chân núi, phá vỡ nhiều phai đập các trạm thuỷ điện nhỏ, ngược lại mùa khô nước rất ít
lòng suối khô cạn.
- Suối Ao vua bắt nguồn từ độ cao 800m chẩy về ao vua dài 8,2km
- Suối Hoóc Cua bắt nguồn từ độ cao 400m chẩy về phía đông dài 1,5km.
- Suối Hương bắt nguồn từ độ cao 400m chẩy về phía cánh đồng xóm xoan dài
2,5km
- Suối ổi bắt nguồn từ độ cao 1.100m chảy về cánh đòng xóm Muồng dài 8km
Một số suối về mùa mưa có lượng nước lớn nước chẩy mạnh từ trên cao đổ xuống tạo
nên các thác nước rất ngoạn mục: thác ao vua, thác hương, thác ngà voi, thác khoang
xanh....
Trong vùng có hồ nhân tạo như: Đồng mô - Ngải Sơn, Hồ Hooc Cua (Tản Lĩnh) Hồ Suối
hai, Hồ Xuân Khanh, Đá chông, Minh Quang, Chẹ. Một số suối có lượng nước đã tạo nên
những thác nước rất đẹp như thác Ao Vua, thác Hương, thác Ngà Voi, thác suối Tiên....


Xét về tiềm năng ẩm nêu trên, về cơ bản vùng này mang tính chất nóng ẩm,
nhưng có một mùa đông khô lạnh nên khí hậu không mang tính nhiệt đới điển hình, mà
mang tính chất pha tạp, do đó đã tạo điều kiện cho sự phát triển phong phú, đa dạng hệ
thực vật, vừa có các loài thực vật nhiệt đới, vừa có các loài thực vật á nhiệt đới, trong đó
có nhiều loài quí hiếm, đặc hữu được nhà nước qui định bảo vệ. Vì vậy nhiều nhà thực
vật cho rằng Ba vì vẫn được coi như một “phòng tiêu bản sống” với nhiều mẫu
chuẩn (typus) của hệ thực vật Việt nam.
Vị trí Vườn Quốc gia Ba vì lại gần trung tâm thủ đô Hà nội với khoảng cách
50km đường ô tô, không phải qua cầu phà, rất thuận tiện cho công việc xây dựng, nghiên
cứu khoa học, và phục vụ tham quan du lịch nghỉ ngơi.

Thành phần các loài cây : Theo tài liệu tư "Thực vật chí Đông Dương" của nhà thực
vật Lecomte người Pháp (1886-1891) Và sau năm 1954. Theo danh mục của nhiều nhà
thực vật trong và nước ngoài đã thu thập mẫu , nghiên cứu hệ thực vật khu vực Ba Vì thì
ở đây có khoảng 812 loài thực vật bậc cao thuộc 472 chi , 99 họ.
Thành phần của hệ thực vật:
Qua điều tra nghiên cưú ở đai cao ( 800m ) trở lên ) Vườn Quốc gia Ba Vì đã phát hiện
và giám định được tên cho : 483 loài thuộc 323 chi , 136 họ thực vật bậc cao có mạch
trong đó :
Ngành thông đất : 2 họ 2 chi 4loài.
Ngành Dương xỉ : 15f họ 23 chi 31 loài .
Ngành hạt trần : 5 họ 5chi 5 loài.
Ngành hạt kín : 114 họ 293 chi 377 loài.
Các loài cây phân bố không đều trong các họ . Một số họ chỉ có một chi có một loài như :
Họ tuế

(Thiên Tuế)

Họ Bách (Loài Bách Xanh)
Họ phỉ

(Phỉ Ba mũi )

Họ mộc hương

(Hoa tiên)

Họ Sơn liễu ( Sơn liễu )
Họ Ngũ Mạc

(Ngũ Mạc )



Các họ có nhiều chi loài là :
Họ Re

11 chi

29 loài .

Họ Cà Phê 14 chi 26 loài .
Họ Dẻ 3 chi

19 loài .

Họ ba mảnh vỏ 13 chi 17 loài.
Họ dâu tằm 5 chi 15 loài.
Các chi có nhiều loài là : Ficus ( 10 loài ) ,Lithocarpus (8loài ), Castanopsis (7 loài)
,Ardisia (6loài ), Elacocarpus (5loài ).
Từ số liệu trên cho thấy:
Trên diện tích không lớn gần 1000 ha của đai cao rừng Ba Vì có thành phần loài khá
phong phú .
Nét riêng của vùng cao Ba Vì là tuy cùng nằm trong vùng có hệ thực vật bản địa của Việt
Nam - Nam Trung Hoa như một số nơi khác nhưng ảnh hưởng của độ cao, số loài thuộc
các họ phân bố chủ yếu ở á nhiệt đới và ôn đới nhiều hơn . Đáng chú ý là ở đây đã có tới
5 chi 5 loài thuộc họ Đỗ quyên (ercaceae),6 loài thuộc họ Chè (Theacae), 3 chi 19 loài
thuộc họ Dẻ (Fagaceae) nhiều hơn số chi cùng họ ở Vườn Quốc gia Cúc Phương ( Nơi có
diện tíchlớn gấp gần 25 lần ( Xem biểu 02) .Ngược lại số chi có loài thuộc các họ phân
bố chủ yếu ở nhiệt đới như họ Dầu (Dipterocapaceae) lại tồn tại tương đối ít ở vùng cao
Ba Vì (Xem biểu 03).
Nhiều loài phân bố phổ biến ở đây như : Giổi Nhung ( Michelia faveolata), Giổi lá bạc

(Michelia cavalcria), các loài họ Đỗ Quyên ( ericaceae), chè thơm (Annesla fragrans) ,
Hoa tiên (asarum maximum), Mắc niễng bạc (Eberbardtia aurata), Dẻ lá tre (Quercus
bambusaefolia) Dẻ đấu nứt (Castanopsis fissa), Chẹo lông (Engelbardtia spicata)... chỉ
gặp ở các vùng cao Tam Đảo (Vĩnh Phú ) , SaPa ( Lào Cai) , Bạch Mã (Thừa Thiên
Huế ), Sốp Cộp (Sơn La) , Hoàng Su Phì ( Hà Giang) , trong khi các loài phổ bién trong
các kiểu rừng kín ẩm nhiệt đới như :Chò xanh thuộc họ Bàng ( Combretaceae) , Chò
chỉ ,Chò nâu, Táu ruối ,Táu nước , thuộc họ dầu (Dipteracacrpaceae) lại không tồn tại
mặc dầu có thể gặp chúng ở đai thấp 600m trở xuống :Những đặc điểm trên đã phản ánh
rõ nét rừng đai cao Ba Vì gồm nhiều thực vật thuộc đai á nhiệt đơí núi thấp.
Tham gia vào thành phần thực vật ở đây còn có một loài thực vật tàn di (Hoá thạch sống)
của Kỷ Đệ Tam, qua thời kỳ băng hà còn sót lại như : Các loài Quyết thân gỗ : Cibotium


barometz(L).J.Sm ; Gymnosphaera gigantea(Wall. ex Hook) và các loài thực vật hạt trần
Calocedrus macrolepis, Podocarpus neriifolius D. Don, Cepbalotaxus mannii Hooker,
Amentotaxus ... làm tăng thêm tính đa dạng và phong phú của hệ thực vật .

Biểu 01

Số Taxon thực vật bậc cao có mạch ở một số Vườn Quốc gia.

Stt Địa điểm

Số họ

Số
chi

Số
loài


Ghi chú

1

198

807

2032

Danh lục
thực vật
1992

109

304

445

Dẫn liệu
bước đầu
về hệ
TV .
1985- Võ
Văn Chi

93


274

354

Luận
chứng
kinh tế kỹ
thuật
1990

323

483

Cúc Phương
(S: 22.500 ha)

2

Nam Bãi Cát
Tiên
(S: 37.900ha)

3

Ba Bể
(S: 7661ha)

4


Vùng cao Ba Vì 136
(S: gần 1000ha)

Biểu 03: Số chi , số loài có ở Việt Nam thuộc một số họ thực vật phân bố chủ yếu ở
nhiệt đơí.

Họ thực vật

Địa điểm

Số

Số


chi
Họ Dầu

Việt Nam

40

Dipterocarpacea
e

Cúc Phương

4

Vùng núi cao

Ba Vì

0

Họ Dâu Tằm

Việt Nam

140

Moraceae

Cúc Phương

52

Vùng núi cao
Ba Vì

15

Họ Cà Fê

Việt Nam

450

Rubiaceae

Cúc Phương


78

Vùng núi cao
Ba Vì

26

Họ Cau Dừa

Việt Nam

75

Arecaceae

Cúc Phương

20

Vùng núi cao
Ba Vì

04

loài

Biểu 02: Số chi và loài có ở Việt Nam thuộc một số họ
thực vật phân bố chủ yếu ở á nhiệt đới


Stt

Họ thực vật

Địa điểm

Số
chi

Số
loài

1

Họ Thích

Việt Nam

1

10

Ghi chú


×