Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản Việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 54 trang )

Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN
----------Chuyên Đề Học Phần
Kinh Tế Chính Sách Và Phát Triển Vùng
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU

NHÓM 06

SẢN TẠI VIỆT NAM

Giáo viên hướng dẫn:Đào Duy Minh

1.Nguyễn Lê Mỹ Hằng (Nhóm trưởng)
2.Võ Viết Tầng
3. Hà Khánh Linh
4. Hồ Thị Tuyết Nga
5. Nguyễn Thị Kiều Oanh
6. Nguyễn Xuân An
7. Trương Vũ Hoàng Anh
8. Huỳnh Thị Lệ
9. Nguyễn Đức Sang
10. Trần Thị Hoài Nhi
11. Ngô Thị Thùy Phương
12. Võ Thị Hồng Phương
13. Huỳnh Thị Ngọc Loan
14.Lê Quí Minh Trang
Huế, tháng 11 năm 2015



Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam


Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội
XTTM: Xúc tiến thương mại
PTNT: Phát triển nông thôn
ĐBSCL: Đồng Bằng Sông Cửu Long
VASEP : Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam
ASEAN: Hiệp hội các nước Đông Nam Á
XK: Xuất khẩu
NK: Nhập khẩu
i


Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam

ii


Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ VÀ ĐỒ THỊ

iii


Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam
DANH MỤC CÁC BẢNG


iv


Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Sau gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, từ cơ chế quản lý kinh tế từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc. Cùng với
chiến lược kinh tế hội nhập và phát triển của Đảng, thương mại quốc tế trở
thành một bộ phận quan trọng có vai trò quyết định đến sự phát triển của quốc
gia. Đối với một nước đang phát triển, có sự khan hiếm về vốn để tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước như Việt Nam thì việc phát triển các
ngành kinh tế tận dụng được lợi thế vốn có của quốc gia là một điều vô cùng
quan trọng.
Đất nước ta được thiên nhiên ưu đãi có một mạng lưới sông ngòi dày đặc và bờ
biển dài với những loài thuỷ sản phong phú và có giá trị cao.Tiềm năng nguồn
lợi tài nguyên sinh vật biển và vùng nước nội địa Việt Nam rất phong phú và có
giá trị kinh tế cao, phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Sự giàu có về
tài nguyên, khí hậu, đa dạng về sinh thái đã khiến cho ngành thuỷ sản nước ta
có nhiều ưu thế phát triển. Trải qua những bước thăng trầm, ngành thuỷ sản, từ
một lĩnh vực kinh tế nhỏ bé thuộc khối nông nghiệp, đã vươn lên trở thành một
ngành kinh tế quan trọng, mũi nhọn của đất nước. Với việc đòi hỏi vốn đầu tư
không lớn, tận dụng được điều kiện tự nhiên xã hội đất nước, ngành thuỷ sản đã
có sự phát triển vượt bậc, mỗi năm đem về cho đất nước một nguồn ngoại tệ lớn
phục vụ tái đầu tư thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong
những năm qua, xuất khẩu thuỷ sản đã có những đóng góp hết sức to lớn, trở
thành động lực thúc đẩy kinh tế thuỷ sản phát triển nói riêng và sự tăng trưởng
kinh tế Việt Nam nói chung. Do đó, thị trường xuất khẩu là một vấn đề rất quan

trọng, ảnh hưởng rất lớn tới kim ngạch xuất khẩu của ngành. Xuất khẩu thúc
đẩy sự phát triển của lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế biến và các dịch vụ hậu
cần khác của ngành.Tuy nhiên bên cạnh đó ngành xuất khẩu thủy sản ở Việt
Nam vẫn còn nhiều hạn chế như vệ sinh an toàn thực phẩm, ý thức của người
kinh doanh,giá cả nguyên liệu đầu vào không ổn định,các chế tài bảo vệ người
sản xuất thủy sản. Bên cạnh việc tăng số lượng xuất khẩu cũng cần quan tâm
đến chất lượng và thị hiếu người tiêu dùng mỗi quốc gia, mỗi khu vực. Để hiểu
rõ hơn về xuất khẩu thuỷ sản cùng với những cơ hội và thách thức của ngành,
chúng em đã chọn đề tài “Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản taij Việt Nam”
làm đề tài nghiên cứu để thấy được thực trạng của ngành từ đó có những giải
pháp nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả của xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
trong bổi cảnh hiện nay, có sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường thế giới đặc
biệt khi nước ta gia nhập vào tổ chức thương mại quốc tế WTO.
2. Mục đích nghiên cứu
GVHD: Đào Duy Minh

Page 1


Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam
Mỗi đề tài nghiên cứu khi được tiến hành luôn chứa đựng những mục đích cụ
thể cần đạt được. Tiến hành nghiên cứu đề tại này, chúng tôi đã hướng tới mục
đích sau:
- Khái quát và tổng hợp một cách có hệ thống về xuất khẩu thủy sản.
- Phân tích để hiểu rõ thực trạng xuất khẩu thủy sản ở Việt Nam, vai trò và tiềm
năng phát triển trong tương lai.
- Tình hình sản xuất, chế biến, xuất khẩu thủy sản trong những năm qua, cơ cấu
thị trường và khả năng cạnh tranh từ đó rút ra bài học, đưa biện pháp kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu mặt hàng thủy sản trong thời gian sắp đến.
3. Phương pháp nghiên cứu

- Nghiên cứu, quan sát, thu thập số liệu, phân tích thống kê, xử lý số liệu, phân
tích tổng hợp.
- Nguồn dữ liệu sử dụng là nguồn thông tin thứ cấp, thông tin chủ yếu từ mạng
internet, sách báo,…
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tại Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu tình hình xuất khẩu thủy sản ở Việt Nam
giai đoạn 2010-2014
5. Nội dung nghiên cứu
Bài báo cáo nêu tổng quan về vấn đề xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam từ đó
đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản và đưa ra phương hướng, một số giải
pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản của việt nam trong thời gian tới.

PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
GVHD: Đào Duy Minh

Page 2


Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN TẠI VIỆT
NAM
1.1. Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu
1.1.1. Khái niệm
-

Xuất khẩu là hoạt động trao đổi hàng hoá và dịch vụ của một quốc gia với
phần còn lại của thế giới dưới hình thức mua bán thông qua quan hệ thị trường
nhằm mục đích khai thác lợi thế của quốc gia trong phân công lao động quốc
tế.


-

Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của hoạt động ngoại thương, đã xuất
hiện từ rất lâu đời và ngày càng phát triển. Tuy hình thức đầu tiên chỉ là hàng
đổi hàng, song ngày nay hình thức xuất khẩu đã được thể hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau.

-

Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện kinh tế, từ
xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng cho đến tư liệu sản xuất, máy móc thiết bị, công
nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động trao đổi đó đều nhằm đem lại lợi ích

cho quốc gia
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu
1.1.2.1. Yếu tố kinh tế
Tình hình phát triển kinh tế của thị trưòng xuất khẩu có ảnh hưởng tới nhu cầu và
khả năng thanh toán của khách hàng, do đó có ảnh hưởng đến hoạt đông xuất khẩu
của doanh nghiệp. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế của thị trường
xuất khẩu là tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thu nhập của dân cư, tình hình lạm
phát, tình hình lãi suất.
1.1.2.2. Yếu tố môi trường văn hóa – xã hội
Đặc điểm và sự thay đổi của văn hoá - xã hội của thị trường xuất khẩu có ảnh
hưởng lớn đến nhu cầu của khách hàng, do đó ảnh hưởng đến các quyết định mua
hàng của khách hàng và ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
1.1.2.3. Yếu tố môi trường chính trị - pháp luật
Tình hình chính trị hợp tác quốc tế được biểu hiện ở xu thế hợp tác giữa các quốc
gia. Điều này sẽ dẫn đến sự hình thành các khối kinh tế, chính trị của một nhóm
các quốc gia do đó sẽ ảnh hưởng đến tình hình thị trường xuất khẩu của doanh

nghiệp.
1.1.2.4. Yếu tố cạnh tranh
Mức độ cạnh tranh quốc tế biểu hiện ở sức ép từ phía các doanh nghiệp, các công
ty quốc tế đối với doanh nghiệp, khi cùng tham gia vào một thị trường xuất khẩu
nhất định. Sức ép ngày càng lớn thì ngày càng khó khăn cho doanh nghiệp muốn
thâm nhập, duy trì, mở rộng thị trường xuất khẩu cho mình.
1.2. Vai trò và tiềm năm xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
1.2.1. Vai trò của xuất khẩu thủy sản trong nền kinh tế
GVHD: Đào Duy Minh

Page 3


Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam
Trong nền kinh tế nước ta, thủy sản là một trong những ngành có nhiều khả năng
và tiềm lực huy động để phát triển, có thể đạt được tốc độ tăng trưởng cao vào
những năm tới và tiến kịp các nước trong khu vực nếu có các chính sách thích hợp
và được đầu tư thỏa đáng. Sự giàu về tài nguyên, khí hậu thuận lợi, đa dạng sinh
thái đã khiến cho ngành thủy sản nước ta có nhiều ưu thế phát triển quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngành thủy sản từ một lĩnh vực nhỏ bé thuộc
một khối nông nghiệp đã vươn lên thành một ngành kinh tế quan trọng, mũi nhọn
của đất nước.
Xuất khẩu thủy sản đã có những đóng góp hết sức to lớn, trở thành động lực thúc
đẩy kinh tế thủy sản phát triển nói riêng và sự tăng trưởng kinh tế tế Việt Nam nói
chung. Hằng năm, xuất khẩu thủy sản đã đem lại nguồn ngoại tệ rất lớn cho đất
nước và trỏ thành một trong bốn ngành dẫn đầu về kim gạch xuất khẩu. Như vậy
cùng với các mặt hàng xuất khẩu khác, thủy sản đã góp phần rất lớn trong việc tạo
ra nguồn vốn cho sự công nghiêp hóa – hiện đại hóa.
Từ một lĩnh vực còn yếu về kĩ thuật, ngành thủy sản đã vươn lên, đóng góp tích
cực vào quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, mở rộng thị trường trong và

ngoài nước, sản xuất hàng hóa phát triển, lấy xuất khẩu làm mũi nhọn. Trong khai
thác hải sản, nghề cá nhân dân đã được tổ chức quản lý và hợp tác theo đơn vị
truyền nghề, khuyến khích trang bị tàu thuyền có công suất lớn, có khả năng đánh
bắt ở vùng biển khơi. Do đó không chỉ đảm bảo hiệu quả kinh tế mà còn mang ý
nghĩa chính trị và bảo vệ an ninh đất nước. Bên cạnh đó, phong trào nuôi trồng
thủy sản đã phát triển mạnh mẽ trong phạm vi cả nước, các hình thức nuôi thâm
canh, nuôi xen canh tôm – lúa, tôm – cá được thực hiện rộng rãi. Mạng lưới sản
xuất giống cũng đã được hình thành ở hầu hết các tỉnh ven biển, đáp ứng yêu cầu
sản xuất của dân. Như vậy, nuôi trồng thủy sản đã trở thành một ngành sản xuất
chính, có vị trí quan trọng trọng tạo ra việc làm, sản xuất mặt hàng xuất khẩu.
Thêm vào đó, công nghiệp chế biến thủy sản với 172 cơ sở đã đóng vai trò to lớn
hàng đầu về công nghiệp chế biến thực phẩm trong cả nước và thu hút nguyên
liệu sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Sự ra đời hàng loạt nhà máy chế biến thế hệ mới
bên cạnh các nhà máy được nâng cấp với quy mô lớn, công nghệ hiện đại đã góp
phần đưa công nghệ chế biến thủy sản Việt Nam lên thứ hạn cao trên thế giới.
Ngoài ra, do yêu cầu của thị trường thế giới và cũng do cạnh tranh khốc liệt mà
các đơn vị hàng thủy sản luôn tìm tòi, cải tiến mẫu mã, chất lượng sản phẩm nhằm
đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của thị trường. Từ đó góp phần đáp ứng tốt hơn
nhu cầu thị trường nội địa, đóng góp sự tăng trưởng GDP của đất nước.
1.2.2. Tiềm năm xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
GVHD: Đào Duy Minh

Page 4


Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam
1.2.2.1. Tiềm năng về điều kiện tự nhiên
Nằm trong khu vực Biển Đông, Việt Nam đã sớm là một quốc gia biển, đánh bắt
hải sản, vận tải biển và buôn bán trên biển là một bộ phận cấu thành của nền văn
hóa ngay từ thuở khai sinh. Biển Việt Nam có tính chất như một vùng biển kín.

Vịnh Bắc Bộ tương đối nông, mức sâu không quá 90 mét, đây là biển bằng phẳng
nằm trong khu vực Biển Đông. Bờ biển dài 3260km, có vùng đặc quyền kinh tế
biển khoảng 1 triệu km2 cùng hàng nghìn đảo lớn nhỏ.
Nhờ đặc điểm địa hình, biển nước ta thuộc loại giàu hải sản. Riêng vùng biển đặc
quyền kinh tế với độ rộng hơn 200 hải lý và có khoảng hơn 2000 loài cá biển,
trong đó có hơn 100 loài tôm biển, 53 loài mực, 650 loài rong biển, 12 loài rắn
biển và có 4 loài rùa biển, ngoài ra còn có nhiều loại đặc sản quý hiếm khác: yến
sào, sò huyết, ngọc trai, san hô đỏ. Hàng năm cung cấp khoảng 1.7 triệu tấn hải
sản các loại chưa kể hàng răm ngàn tấn nhuyển thể vỏ cứng. Theo tài liệu điều tra
nguồn lợi thủy sản của viện nghiên cứu Hải Phòng, thì tổng trữ lượng thủy sản từ
các nguồn rong biển trong vùng nước thuộc quyền tài sản của Việt Nam hiện ước
tính khoảng 1.2 đến 1.5 triệu tấn/ năm. Về môi trường, nếu biết tận dụng mặt nước
của các ao, vịnh, biển, các vùng đất nhiễm mặn ven biển và đất hoang hóa cao
triều để mở rộng thêm diện tích nuôi kết hợp với đầu tư chuyển đổi công nghệ,
nâng cao năng suất nuôi trồng thì trong những năm về sau ta sẽ thu được nguồn
sản lượng lớn.
Việt Nam có vị trí địa lý mà ở đó có điều kiện tự nhiên rất thuận lợi để các loại
thủy sinh vật quy tụ, sinh sôi, nẩy nở. Mặc dù có đôi nét khác biệt giữa ba vùng
Bắc, Trung, Nam nhưng nhìn chưng cả nước mang sắc thái 2 mùa mưa khô rất rõ
nét. Mỗi vùng lại tập trung nhiều loại hải sản khác nhau làm cho nguồn hải sản
nước ta ngày càng đa dạng và phong phú hơn chẳng hạn: Trung Bộ có rất nhiều
cá, tôm hùm…Bắc Bộ có tôm he, cá…Nam Bộ có nhiều mực. Tuy vậy nguồn lợi
biển không phải là vô tận, do đó nếu chúng ta không chính sách và biện pháp khai
thác hợp lý, đúng đắn thì nguồn lợi hải sản sẽ bị cạn kiệt nhanh chóng.
1.2.2.2. Tiềm năng về nguồn nhân lực
Về nhân lực, chúng ta có lao động nghề cá lên đến 4 triệu người sống tập trung tại
các vùng có tiềm năng về thủy sản. Số doanh nghiệp chế biến thủy sản ngày một
tăng dã thu hút nhiều hơn nữa số lao động vào trong ngành .Có thể nói Việt Nam
là quốc gia có lợi thế về nguồn nhân lực so với nhiều nước khác. Chi phí lao động
cho nông dân nuôi cá ở Việt nam chỉ bằng 1/10 chi phí lao động cho nông dân

nuôi cá ở Mỹ. Lợi dụng được lợi thế này, Việt nam đã giảm thiểu được chi phí đầu
vào cho sản xuất, chế biến thủy sản, nhờ đó có thể giảm giá thành, đẩy mạnh xuất
khẩu và nâng cao kim ngạch hàng năm như đã thấy.Tuy nhiên cũng phải lưu ý
GVHD: Đào Duy Minh

Page 5


Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam
một điểm, lao động của ta chủ yếu chỉ là lao động phổ thông,trình độ nhận thức
còn kém, cho nên việc nâng cao
Trình độ cho lao động nghề cá cũng là yêu cầu bức thiết trong điều kiện cạnh
tranh gay gắt . Bộ thủy sản đang có những biện pháp đẩy mạnh và khuyến khích
người dân đánh bắt xa bờ, từ đó tăng sản lương và qui mô khai thác lâu dài.
1.3. Kinh nghiệm xuất khẩu thủy sản của một số nước
1. Những bất cập trong hoạt động XTTM thủy sản Việt Nam
 Trước đây, hoạt động XTTM thủy sản chủ yếu tập trung vào các thị trường
quan trọng như Nhật Bản, Mỹ, EU và các thị trường mới (như: Nga, Hàn Quốc,
Canada, Úc) khiến thị phần xuất khẩu của những quốc gia này tăng vọt. Tuy
nhiên, sau sự kiện tôm Việt Nam bị kiện chống bán phá giá, Nhà nước đã tạo
hành lang thuận lợi cho các doanh nghiệp tự chủ động thực hiện XTTM, trong
đó có việc tìm hiểu thông tin thương mại, quảng bá sản phẩm, lập trung tâm dữ
liệu (hỗ trợ doanh nghiệp), tư vấn xuất khẩu, phát triển thương mại điện tử.
 Tại thị trường nội địa, các mặt hàng thủy sản đa dạng và phong phú hơn, nhưng
chủ yếu tập trung ở các khu đô thị lớn và cung cấp cho tầng lớp trung lưu trở
lên. Trong khi đa số người dân Việt Nam sống ở vùng nông thôn (chiếm gần
70%) và có thu nhập không cao. Nhìn chung, hoạt động XTTM ở thị trường
trong nước còn nhiều hạn chế: chủ yếu đang dựa vào hệ thống các siêu thị, chưa
có chương trình XTTM cho thị trường nội địa, thông tin chưa đến được với đa
số người tiêu dùng.

 Về bộ máy quản lý thương mại thủy sản hiện nay đang do nhiều Bộ ngành thực
hiện: Bộ Công Thương chủ trì việc ban hành chính sách thương mại, quản lý
cạnh tranh, hạn ngạch xuất nhập khẩu, thị trường; Bộ Khoa học và Công nghệ
chủ trì việc quản lý và xử lý các vấn đề về rào cản thương mại, rào cản kỹ thuật;
Bộ Nông nghiệp và PTNT chủ trì và phối hợp thực hiện trong phạm vi quản lý
của mình (Cục Chế biến nông lâm thủy sản và Nghề muối thực hiện quản lý
Nhà nước về chế biến và thương mại thủy sản). Sở Công thương quản lý các cơ
sở chế biến, thương mại thủy sản ở địa phương.
2. Bài học kinh nghiệm từ các nước quốc tế
-

Nhằm tăng cường quan hệ thương mại song phương và đa phương, hầu hết các
quốc gia trên thế giới đều thành lập các Tổ chức XTTM (thường là các cơ quan
của Chính phủ). Kinh phí hoạt động của Tổ chức được lấy từ ngân sách Nhà
nước và huy động một phần đóng góp từ các doanh nghiệp. Theo đó, phần lớn
hoạt động XTTM được các doanh nghiệp thực hiện trực tiếp, trong khi Tổ chức
XTTM chỉ đóng vai trò hỗ trợ.
 Bài học kinh nghiệm từ Thái Lan: Thái Lan trở thành một trong những
quốc gia có công nghệ XTTM mạnh nhất trong khu vực.Bên cạnh đó,
công tác XTTM thủy sản của Thái Lan được tiến hành với sự tham gia
của các công ty tiếp thị đa quốc gia, thực hiện việc nghiên cứu thị
trường, quảng bá sản phẩm và đặc biệt là kiểm soát chặt chẽ toàn bộ các

GVHD: Đào Duy Minh

Page 6


Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam
khâu trong chuỗi sản xuất. Ví dụ: với sản phẩm tôm nuôi, Thái Lan đã tổ

chức liên kết chuỗi nhằm phát triển đồng bộ ngành công nghiệp nuôi
tôm. Một số công ty thương mại lớn của Thái cũng đóng vai trò quan
trọng trong việc cung cấp tài chính cho các hoạt động nghiên cứu, xây
dựng chiến lược XTTM.
 Các nước khác trên thế giới: cũng có chương trình và hoạt động
XTTM thủy sản hiệu quả, phù hợp với đặc thù sản phẩm của mỗi quốc
gia. Nhờ đó, từng bước tạo được thương hiệu chung cho các sản phẩm
chủ lực của quốc gia và dần chiếm lĩnh được các thị trường khó tính
nhất. Điển hình là bài học kinh nghiệm của Na-Uy với chiến lược phối
hợp Nhà nước và cộng đồng trong việc xây dựng, phát triển thương hiệu
chung cho các sản phẩm thủy sản của Na-Uy và thương hiệu quốc gia
cho sản phẩm cá hồi; đồng thời, tiến hành tiếp cận thị trường Nhật Bản.
Đối với mặt hàng vẹm thì Tây Ban Nha và Hiệp hội Vẹm (Bắc Mỹ) đã
sử dụng chiến lược hướng dẫn người tiêu dùng và các đầu bếp ở nhà
hàng cách thức chế biến và thưởng thức những món ăn ngon làm từ vẹm.
Nhờ đó, làm giảm sự e ngại cho các đối tượng sử dụng khi phải xử lí
thủy sản có vỏ, còn sống.
3. Một số kết quả đạt được khi tiếp thu học hỏi ý kiến các nước quốc tế
-

-

-

Với những kinh nghiệm đúc rút được từ thực tiễn áp dụng của các nước trên thế
giới, Việt Nam đã có những định hướng hoàn thiện chính sách XTTM thủy sản
(nhằm khuyến khích hoạt động này phát triển mạnh tại Việt Nam) trên nguyên
tắc: Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thủy sản là chủ thể thực hiện hoạt
động XTTM; Nhà nước sẽ đóng vai trò hỗ trợ thông qua việc xây dựng và thực
hiện các chính sách khuyến khích, đầu tư cho hoạt động XTTM; Và giữ vững

các thị trường truyền thống (trước khi mở rộng ra các thị trường mới). Bên cạnh
đó, hình thành Quỹ Phát triển thị trường xuất khẩu - sao cho tương xứng với
yêu cầu thực tế. Xây dựng hệ thống thông tin đầy đủ về các sản phẩm thủy sản
Việt Nam, đồng thời, cung cấp thông tin cập nhật về các thị trường nhập khẩu.
Việt Nam cần xây dựng, phát triển năng lực nghiên cứu thị trường, thành lập
các cơ sở dữ liệu chính thống để cung cấp thông tin kịp thời cho các doanh
nghiệp trong nước, và thực hiện nghiêm việc kiểm soát chất lượng nguồn
nguyên liệu theo chuỗi, đẩy mạnh đầu tư công nghệ, tích cực áp dụng các tiêu
chuẩn Quốc gia, Quốc tế để nâng cao khả năng cạnh tranh và khả năng thâm
nhập thị trường cho các mặt hàng thủy sản Việt Nam. Ngoài ra, cần đặc biệt lưu
ý việc quảng bá hình ảnh của sản phẩm thủy sản - gắn với đặc tính "an toàn" và
"thân thiện môi trường" trong tất cả các khâu của chuỗi sản xuất đến tiêu dùng.
Nhanh chóng cải tiến chiến lược XTTM, đẩy mạnh năng lực cạnh tranh cho các
sản phẩm thủy sản của Việt Nam (tôm và cá tra ở ĐBSCL, cá ngừ ở miền
Trung, nhuyễn thể ở Đồng bằng sông Hồng). Chỉ như vậy mới đảm bảo tính
bền vững cho các sản phẩm thủy sản Việt Nam bước vào thị trường Quốc tế,
đối chọi được với sự lớn mạnh không ngừng của rất nhiều đối thủ tiềm năng
trên thế giới.

GVHD: Đào Duy Minh

Page 7


Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam

CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU THỦY SẢN TẠI VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2010- 2014
2.1. Tình hình sản xuất thủy sản ở nước ta
Trong giai đoạn 2010-2014, sản lượng sản xuất thủy sản nhìn chung tăng qua các năm,

đóng góp rất lớn vào GDP cả nước. Tuy việc khai thác nuôi trồng gặp không ít khó
khăn do điều kiện thời tiết, dịch bệnh, vốn và áp lực thị trường thế giới nhưng đã kịp
thời khắc phục, ngành thủy sản đã có nhiều khởi sắc:
Bảng 1: Tổng sản lượng thủy sản giai đoạn 2010-2014

Đơn vị: ngàn tấn

Năm

2010

2011

2012

2013

2014

Tổng sản
lượng
Sản lượng

5.142,7

5.447,4

5.820,7

6.019,7


6.332,5

2.414,4

2.514,3

2.705,4

2.803,8

2.919,2

GVHD: Đào Duy Minh

Page 8


Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam
khai thác
Sản lượng
nuôi trồng

2.728,3

2.933,1

3.115,3

3.215,9


3.413,3

Nguồn: Tổng cục Thống Kê

Biểu đồ 1: Sản lượng thủy sản giai đoạn 2010 - 2014
- Năm 2010:
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, sản lượng thủy sản năm 2010 ước đạt
5.157,6 ngàn tấn, tăng 6,4% so với năm 2009; trong đó, sản lượng khai thác đạt
2.450,8 ngàn tấn, tăng 7,6% so với cùng kỳ và đạt 102,1% kế hoạch năm; sản lượng
nuôi trồng đạt 2.706,8 ngàn tấn, tăng 5,4% so với cùng kỳ và đạt 102,1% kế hoạch
năm.
- Năm 2011
+ Về khai thác thủy sản
Theo báo cáo tổng hợp của các địa phương, 10 tháng đầu năm 2011, sản lượng khai
thác thủy sản ước đạt gần 2.165 nghìn tấn. Trong đó, sản lượng khai thác hải sản ước
đạt 2013 nghìn tấn, tăng 6% so với cùng kỳ. Sản lượng cá Ngừ đại dương đạt gần 12,8
nghìn tấn.
+ Về nuôi trồng thủy sản
Tháng 10/2011, sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 250 nghìn tấn, đưa tổng sản
lượng nuôi trồng thủy sản 10 tháng đầu năm lên trên 2,4 triệu tấn, tăng 10% so với
cùng kỳ năm 2010. Sản lượng nuôi trồng nước mặn, lợ tăng 7% trong khi sản lượng
nuôi trồng nước ngọt có mức tăng cao hơn, đạt 12,3%, trong đó cá tra tăng 10%
-

Năm 2012

GVHD: Đào Duy Minh

Page 9



Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam
Năm 2012, tình hình sản xuất thủy sản gặp nhiều khó khăn nhưng ngành thủy sản vẫn
duy trì được mức tăng trưởng cao hơn so với năm 2011. Theo số liệu tổng hợp từ các
địa phương, năm 2012, tổng sản lượng thuỷ sản đạt 5,92 triệu tấn, tăng 7,9% so với
năm 2011 và tăng 2,9% so với kế hoạch. Tổng sản lượng khai thác thủy sản đạt hơn
2,65 triệu tấn (tăng 6,0% so với cùng kỳ), trong đó, khai thác hải sản đạt 2,44 triệu tấn,
tăng gần 6,1% so với năm 2011. Sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt hơn 3,27 triệu tấn,
tăng 8,99% so với cùng kỳ năm trước, tăng 2,3% so với kế hoạch đề ra.
- Năm 2013
Theo Tổng cục Thống kê, ước tính giá trị sản xuất thủy sản 9 tháng đầu năm 2013
(tính theo giá so sánh 2010) ước đạt 131.350,3 tỷ đồng, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm
ngoái. Trong đó giá trị nuôi trồng thủy sản ước đạt 80.068,6 tỷ đồng và giá trị khai
thác thủy sản ước đạt 51.281,8 tỷ đồng.
Bảng 2: Ước giá trị sản xuất thủy sản 9 tháng đầu năm 2013
(theo giá so sánh 2010)
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Tổng giá trị
SXTS
1. Nuôi trồng TS
2. Khai thác TS
+ KT hải sản
+ KT nội địa

9 tháng 2012 Ước 9 tháng 2013
126.997,7

131.350,3


So sánh
cùng kỳ
103,4

77.152.4
80.068,6 103,8
49.845,3
51.281,8 102,9
46.052,3
47.113,4 102,3
3.793
4.168,4 109,9
Nguồn: Tổng cục Thống kê

Bảng 3: Ước sản lượng thủy sản 9 tháng đầu năm 2013
GVHD: Đào Duy Minh

Page 10


Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam
TT Chỉ tiêu
I Tổng sản lượng thủy sản
1 Sản lượng khai thác
SL khai thác hải sản
SL khai thác nội địa
2 Sản lượng nuôi trồng
a Thủy sản mặn, lợ
Trong đó:

Tôm sú
Tôm thẻ
b Thủy sản nước ngọt
Trong đó: Cá tra

ĐV tính
KH nămSản lượng So sánh cùng kỳ
1.000 tấn
5.700
4.493,5
102,66
1.000 tấn
2.400
2.140,5
103,30
1.000 tấn
2.200
1.997,0
103,10
1.000 tấn
200
145,0
107,33
1.000 tấn
3.300
2.353,0
102,08
1.000 tấn
1.050
111,6

1.000 tấn
340
150
95,7
1.000 tấn
190
110
148
1.000 tấn
2.250
1.000 tấn
1.200
810
95,1
Nguồn: Trung tâm Thông tin Thủy sản, Vụ NTTS

+ Khai thác thủy sản

9 tháng đầu năm 2013, ngành khai thác biển diễn ra thuận lợi, sản lượng tăng
cao so với năm trước. Thời tiết nhìn chung diễn biến thuận lợi cho khai thác hải sản.
Mặc dù có đến 8 cơn bão ảnh hưởng đến vùng biển nước ta nhưng không có cơn bão
nào gây ảnh hưởng nghiêm trọng. Sản xuất cá ngừ thuận lợi về đầu năm nhưng sau đó
gặp phải khó khăn do giá mua nguyên liệu giảm. Sản lượng cá ngừ tăng cao trong
những tháng đầu năm nhưng chững lại và có xu hướng giảm vào tháng 5, tháng 6 do
giá liên tục ở mức thấp.
+ Nuôi trồng thủy sản
Hoạt động nuôi trồng thủy sản 9 tháng đầu năm đối mặt với nhiều khó
khăn. Thời tiết không thực sự thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản.Rét đậm đầu năm tại
miền Bắc làm chết nhiều cá nuôi tại các địa phương. Nắng nóng và thay đổi nhiệt độ
bất thường vào giữa năm cũng làm tăng dịch bệnh và gây thiệt hại cho nhiều mặt hàng

như ngao, tôm. Trong quý III, ảnh hưởng những con bão lớn số 6 và số 7 khiến nhiều
địa phương bị thiệt hại nặng. Ngoài ra, những bất ổn và rào cản từ thị trường xuất khẩu
như thuế chống bán phá giá áp với mặt hàng cá tra vào Mỹ, thay đổi chính sách nhập
khẩu ngao của Trung quốc… cũng gây khó khăn đáng kể cho hoạt động sản xuất nuôi
trồng thủy sản.
- Năm 2014
Theo Tổng cục Thống kê, ước tính giá trị sản xuất thủy sản năm 2014 (tính theo
giá so sánh 2010) ước đạt gần 188 nghìn tỷ đồng, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm
ngoái. Trong đó, giá trị nuôi trồng thủy sản ước đạt hơn 115 nghìn tỷ đồng và giá trị
khai thác thủy sản ước đạt hơn 73 nghìn tỷ đồng.
Bảng 4: Giá trị sản xuất thủy sản năm 2014 theo giá so sánh 2010
Đơn vị: tỷ đồng

GVHD: Đào Duy Minh

Page 11


Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam
So
sánh
2014/2013
Giá trị sản xuất thủy sản
176.548,0
188.083,9 106,5
- Nuôi trồng thủy sản
106.570,1
115.060,6 108,0
- Khai thác thủy sản
69.977,9

73.023,3 104,4
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Năm 2014 được đánh giá là năm thuận lợi cho hoạt động sản xuất và nuôi trồng
thủy sản. Tổng sản lượng thủy sản năm 2014 ước đạt 6,3 triệu tấn, tăng 4,4% so với
năm 2013 và tăng 1,7% so với kế hoạch đề ra, trong đó, sản lượng khai thác thủy sản
đạt 2,68 triệu tấn, tăng 3,9% và nuôi trồng thủy sản đạt 3,62 triệu tấn, tăng 4,8% so với
cùng kỳ.
2.2. Tình hình chế biến thủy sản xuất khẩu ở nước ta
Chỉ tiêu

Năm 2013

Năm 2014

Những năm 80 của thế kỷ trước, chế biến thủy sản chủ yếu là thủ công và bán cơ giới,
thì nay công nghiệp chế biến thuỷ sản của Việt Nam đã tiếp cận với trình độ công nghệ
tiên tiến của khu vực. Vì vậy nhiều loại sản phẩm thuỷ sản chế biến đã đủ tiêu chuẩn
vào các thị trường lớn là EU, Mỹ, Nhật Bản. Đến hết năm 2012, cả nước có 564 cơ sở
chế biến thủy sản xuất khẩu đạt các điều kiện an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn Việt
Nam . Trong đó, 91 cơ sở là doanh nghiệp nhà nước, 292 cơ sở là doanh nghiệp tư
nhân, 159 cơ sở là công ty cổ phần, 9 cơ sở liên doanh và 13 cơ sở 100% vốn nước
ngoài, 153 doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản được công nhận vào danh sách xuất khẩu
vào thị trường EU; 255 cơ sở đạt tiêu chuẩn vào Thuỵ Sỹ và Ca na đa; 222 cơ sở đạt
tiêu chuẩn vào Hàn Quốc… Ngoài doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp chế biến
tư nhân cũng phát triển khá mạnh, trong đó một số doanh nghiệp có kim ngạch xuất
khẩu đạt tới 100 triệu USD mỗi năm. Các cơ sở tập trung chủ yếu ở Bắc Trung Bộ,
duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long - là những nơi có
điều kiện thuận lợi về nguồn nguyên liệu khai thác, nuôi trồng thủy sản.
Bên cạnh những thế mạnh về năng lực chế biến, hiện nay, ngành chế biến thủy sản
đang phải đối mặt với vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, khi người dân và một số

doanh nghiệp thủy sản đang lạm dụng hóa chất trong hoạt động nuôi trồng và bảo
quản sản phẩm. Ngoài ra, các sản phẩm chế biến còn đơn điệu, chủ yếu là xuất khẩu
nguyên liệu thô. Máy móc, thiết bị chế biến cũ kỹ, lạc hậu cũng là trở ngại cho việc
phát triển ngành chế biến thủy sản. Công tác dự báo thị trường tiêu thụ còn yếu, thiếu
kiến thức thương mại, dẫn tới việc doanh nghiệp không chủ động được thị trường.
Nhìn chung, việc phát triển chế biến thủy sản thời gian qua gặp nhiều khó khăn, chưa
được đầu tư chiều sâu để phát triển công nghệ chế biến sản phẩm giá trị gia tăng; giá
thành sản phẩm cao làm giảm sức cạnh tranh trên thị trường
Hiện nay, thủy sản sau thu hoạch thường được bảo quản bằng phương pháp ướp đá với
một trong hai cách truyền thống: dùng đá xay (phủ lần lượt một lớp thủy sản, một lớp
đá); hoặc cho thủy sản vào túi nilon rồi ướp đá. Điểm hạn chế của phương pháp bảo
GVHD: Đào Duy Minh

Page 12


Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam
quản bằng ướp đá chính là: các dụng cụ dùng để bảo quản thường là vật liệu gỗ, nhựa,
xốp rất khó làm vệ sinh. Vì thế, các dụng cụ bảo quản vô tình trở thành môi trường lí
tưởng cho vi sinh vật có hại phát triển, gây thối nguyên liệu. Trong lĩnh vực nuôi
trồng, việc nuôi tự phát, nhỏ lẻ, thiếu quy hoạch cũng là nguyên nhân dẫn tới việc bảo
quản sau thu hoạch gặp nhiều hạn chế. Hầu hết các dụng cụ bảo quản không đảm bảo
vệ sinh, cách thức bảo quản không đúng, thiết bị vận chuyển không đáp ứng được yêu
cầu về nhiệt độ trong suốt quá trình vận chuyển; Thêm vào đó, người dân sử dụng tùy
tiện các chất bảo quản, không tuân theo quy định của Nhà nước là những thách thức
lớn đối với các nhà chế biến, nhất là khi sản phẩm được xuất khẩu sang các thị trường
khó tính như Nhật Bản, Mỹ, EU.
Việc bảo quản nguyên liệu sau thu hoạch không tốt dẫn tới chất lượng sản phẩm thấp,
không thể sử dụng cho việc chế biến xuất khẩu; Tình trạng thiếu nguyên liệu trầm
trọng khiến một số doanh nghiệp xoay sang nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài, làm

tăng chi phí sản xuất, giảm hiệu quả kinh tế. Đây chính là một vòng luẩn quẩn, gây
thiệt hại không nhỏ cho ngành sản xuất thủy sản của Việt Nam.
2.3.1. Kim ngạch, khối lượng thủy sản xuất khẩu
Bảng 5: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản giai đoạn từ 2010- 2014
Năm
2010
2011
2012
2013
2014

GVHD: Đào Duy Minh

Kim ngạch xuất
khẩu (tỷ $)
5.03
6.11
6.13
6.7
7.84

Mức tăng trưởng
Mức (+) (-)
1.08
0.02
0.57
1.14

%
21.47

0.33
9.3
17.01

Page 13


Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam

Biểu đồ2: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam giai đoạn 2010-2014
 Trong nhiều năm qua, mặt hàng thủy sản luôn là một trong những mặt
hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam ra thị trường thế giới. Giai đoạn
2010-2014, kim ngạch xuất khẩu của nước ta tăng dần qua các năm
nhưng không đồng đều.
-

-

Năm 2011, kim ngạch xuất khẩu của nước ta là 6.11 tỷ $ tăng 1.08 Tỷ $
so với với năm 2010 chiếm 21.47%. Năm 2012, kim ngạch xuất khẩu
của nước ta là 6.13 tỷ $ tăng 0.02 Tỷ $ so với với năm 2011 chiếm
0.33%. Năm 2013, kim ngạch xuất khẩu của nước ta là 6.7 tỷ $ tăng
0.57 Tỷ $ so với với năm 2012 chiếm 9.3%. Năm 2014, kim ngạch xuất
khẩu của nước ta là 7.84 tỷ $ tăng 1.14Tỷ $ so với với năm 2013 chiếm
17.01%. Năm 2011, ngành thủy sản đã trải qua nhiều biến động, trong
đó mặt hàng được dư luận quan tâm nhiều là con tôm. Là mặt hàng xuất
khẩu chủ lực, tôm đã đem về có đóng góp quan trọng trong giá trị xuất
khẩu năm 2011. Mặc dù đối mặt với tình trạng thiếu nguyên liệu kéo
dài, tổn thất do dịch bệnh gây ra, các rào cản thương mại khi các thị
trường nhập khẩu tăng cường kiểm soát chất lượng hay các vấn đề gây

tranh cãi về đối tượng nuôi và những mối nguy hại… xuất khẩu tôm
vẫn đạt những thành quả ngoạn mục. Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất
khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), trong 6 tháng đầu năm, cả nước
đã xuất khẩu 101.872 tấn tôm, trị giá 971,109 triệu USD, tăng 16,9%
về khối lượng và 35,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2010 và là
nhóm hàng có mức tăng trưởng cao nhất trong các nhóm hàng thủy
sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Năm 2012 là một năm “vận hạn” đối với ngành tôm Việt Nam. Cả nuôi
trồng, sản xuất lẫn xuất khẩu đều đối diện với nhiều thách thức. Người
nuôi thì lao đao với dịch bệnh xảy ra tại nhiều vùng nuôi ngay từ đầu

GVHD: Đào Duy Minh

Page 14


Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam

-

-

năm khiến nguồn tôm nguyên liệu giảm, giá cả lên xuống thất thường.
Còn doanh nghiệp thì đối mặt với thiếu vốn, thiếu nguyên liệu, hoạt
động sản xuất cầm chừng, thậm chí còn đối diện với nguy cơ phá sản.
Không chỉ gặp khó trên sân nhà, xuất khẩu tôm nước ta còn phải hứng
chịu những “cơn sóng giữ” trên thị trường quốc tế, điển hình là rào cản
Ethoxyquin tại thị trường Nhật Bản. Ngay sau khi Nhật Bản áp dụng
kiểm tra 100% tôm Việt Nam nhập khẩu vào Nhật Bản đối với
Ethoxyquin, xuất khẩu tôm sang Nhật Bản giảm rõ rệt, từ 1,5% (tháng

7/2012) lên đến 16,6% (tháng 11/2012), tính chung cả năm chỉ tăng 5%.
Bên cạnh đó, xuất khẩu tôm Việt Nam còn phải chịu sự cạnh tranh gay
gắt với các nhà cung cấp khác như Indonesia, Ấn Độ hay Ecuador bởi
giá bán cao hơn từ 15 – 20% bởi giá thành sản xuất tăng cao do chi phí
đầu vào liên tục tăng.Mặc dù có rất nhiều khó khăn nhưng năm 2012,
xuất khẩu tôm Việt Nam vẫn có mặt trên 92 thị trường trên thế giới, với
kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 2,25 tỷ USD, giảm 6,3% so với năm
2011. Tuy không đạt mục tiêu 2,4 tỷ USD, nhưng đây là nỗ lực rất lớn
của các công ty chế biến và xuất khẩu tôm.Vượt qua bao thăng trầm,
ngành công nghiệp cá tra Việt Nam vẫn chứng tỏ được sức mạnh và bản
lĩnh của mình khi “vươn ra biển lớn”. Tuy còn nhiều khó khăn liên tiếp
xảy ra như thiếu vốn, thiếu nguyên liệu trầm trọng, giá thức ăn, con
giống, giá cá nguyên liệu bất ổn… thì cá tra Việt Nam vẫn khẳng định
được vị trí của mình khi đạt 1,8 tỷ USD, tương đương với năm 201. Số
liệu của VASEP cho thấy, xuất khẩu cá ngừ Việt Nam trong năm 2012
ước đạt gần 600 triệu USD, tăng 57% so với cùng kỳ năm ngoái. Theo
đó, có thể thấy, cá ngừ là mặt hàng xuất khẩu có sức tăng trưởng nổi bật
nhất năm 2012. Nối tiếp bộn bề khó khăn từ năm 2012, cộng đồng DN
XK thủy sản Việt Nam đã bước qua một năm nhiều cố gắng và nỗ
lực.Thành tích trên 6,7 tỷ USD của năm qua có sự đóng góp lớn của
ngành tôm với doanh số trên 3 tỷ USD, chiếm 46% tổng XK.
Năm 2013, Hội chứng tôm chết sớm (EMS) tiếp tục ảnh hưởng nghiêm
trọng đến nguồn cung tôm chiếm đến 12,5% tổng sản lượng tôm thế
giới - Thái Lan. Sản lượng tôm của nước này ước giảm 50% so với sản
lượng 500.000 tấn năm ngoái. Sự thiếu hụt từ Thái Lan đã đẩy giá tôm
thế giới liên tục tăng cao. Tại Nhật Bản giá tôm sú HLSO cỡ 16/20 từ 3
nguồn cung cấp chính là Việt Nam, Ấn Độ và Indonesia tăng lần lượt
5,5 USD/kg, 4,5 USD/kg và 3 USD/kg trong 10 tháng đầu năm. Tại Mỹ,
cả giá tôm sú và tôm chân trắng cũng tăng từ 3-4 USD/kg. Nhờ cơ hội
này, các DN tôm Việt Nam đã gia tăng được kim ngạch. Sau hơn 2

năm VASEP liên tục kiến nghị, ngày 12/11/2013, Bộ NN và PTNT đã
ban hành Thông tư số 48/2013/TT-BNNPTNT quy định về kiểm tra,
chứng nhận an toàn thực phẩm thủy sản XK. TT48 thay thế Thông tư số
55/2011 và có hiệu lực kể từ ngày 26/12/2013. Thông tư này đã tháo gỡ
cơ bản những khó khăn trong hoạt động XK của DN thủy sản.
Theo Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam, trong năm
2014, xuất khẩu thủy sản của nước ta đạt 7,84 tỷ USD là nhờ sự đóng

GVHD: Đào Duy Minh

Page 15


Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam
góp nhiều nhất của mặt hàng tôm với kim ngạch xuất khẩu trên 4 tỷ
USD, tăng 25% so với năm 2013. Các doanh nghiệp thủy sản vùng
ĐBSCL cho biết, đạt được con số kỷ lục nói trên, một phần là nhờ vào
nguồn cung nguyên liệu của nước ta trong năm 2014 được đảm bảo.Bên
cạnh đó, Ông Đinh Vũ Hải, Giám đốc Công ty Hải Nguyên - Bạc Liêu
cho biết: "Có được thành công trên là do chúng ta khắc phục được bệnh
EMS - bệnh gây thiệt hại rất lớn trên tôm ở các năm trước. Vì thế, năm
2014 sản lượng tôm của nước ta khá cao".Với kim ngạch xuất khẩu đạt
gần 8 tỷ USD, 2014 là năm ngành thủy sản nước ta có tốc độ tăng
trưởng cao nhất và liên tiếp trong vòng 3 năm trở lại đây. Không chỉ đạt
được những con số ấn tượng về kim ngạch xuất khẩu, mà 2014 còn là
năm thắng lợi về mở rộng thị trường xuất khẩu với các doanh nghiệp
xuất khẩu. Đây là tín hiệu lạc quan cho lĩnh vực chế biến và xuất khẩu
thủy sản năm 2015.Điểm sáng dễ thấy nhất về việc mở rộng thị trường
xuất khẩu là vào tháng 8/2014, Nga - một trong những thị trường lớn đã
dỡ bỏ lệnh cấm và cho phép nhập khẩu sản phẩm thủy sản của Việt

Nam. Tận dụng được cơ hội này, đã giúp nhiều doanh nghiệp thủy sản
gia tăng được kim ngạch xuất khẩu trong năm 2014. Thống kê từ Tổng
cục Hải quản cho thấy, năm 2014, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
sang Nga đạt khoảng 1,5 tỷ USD

Biểu đồ 3: So sánh giá trị xuất khẩu thủy sản theo mặt hàng của 15/11/2013 so với
15/11/2014

2.3.2. Cơ cấu mặt hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam
Xét trong giai đoạn 5 năm từ 2010-2014 nhìn chung thì giá trị xuất khẩu của các mặt
hàng đều tăng trong đó chiếm tỷ trọng lớn nhất vẫn là 2 mặt hàng thủy sản chủ lực của
việt nam từ trước đến nay đó là tôm và cá tra. Ngoài ra thì cũng đánh dấu sự phát triển
GVHD: Đào Duy Minh

Page 16


Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam
của nghề khai thác cá ngừ đại dương của nước ta dẫn đến giá trị xuất khẩu mặt hàng
này cũng tăng đáng kể.

Bảng 6: Giá trị xuất khẩu của các mặt hàng thủy sản
Chỉ tiêu
tôm
Cá tra
Cá ngừ đại dương
Nhuyễn thể chân
đầu
khác


đơn vị: tỷ USD

2010
2.44
1.4
0.293
0.400

2011
2.39
1.80
0.379
0.520

2012
2,24
1,74
0.569
0.502

2013
2,8
1.66
0.531
0.448

2014
3.95
1.77
0.484

0.483

0.497

1.021

1.061

1.261

1.153

Nguồn: Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP)
2.3.2.1. Cá đông lạnh
a) Cá tra, cá basa: Là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của việt nam và
cũng là sản phẩm thủy sản được nhiều thị trường trên thế giới ưa chuộng. thị trường
xuất khẩu không ngừng được mở rộng.
Hiện nay Cá tra đang được xuất khẩu sang 163 nước và chiếm khoảng 95% thị phần cá
da trơn phile trên thế giới với sản lượng 1,5 triệu tấn mỗi năm.các mặt hàng xuất khẩu
chủ yếu của cá tra là cá da trơn phile đông lạnh, cá đông lạnh, ca hộp và hàng giá trị
gia tăng khác.
Nhìn chung giá trị xuất khẩu cá tra trong 5 năm trở lại đây tương đối ổn định.
Năm 2010, sản phẩm cá tra xuất khẩu đã đạt 621.955 tấn tương đương khoảng 1,4 tỷ
đô la Mỹ. Xuất khẩu Cá tra chiếm 49% về khối lượng và 28% về giá trị xuất khẩu thủy
sản của Việt Nam. Năm 2011, tỷ trọng cá tra xuất khẩu đạt 29,5% trong tổng kim
nghạch xuất khẩu thủy sản ,giá trị xuất khẩu đạt 1.8 tỷ USD, tăng 26,5% so với năm
2010. năm 2012 những khó khăn trong sản xuất cá tra nguyên liệu trong đã ảnh
hưởng tới kết quả xuất khẩu cá tra tuy nhiên cá tra vẫn tiếp tục giữ vị trí thứ 2 với kim
ngạch xuất khẩu 1,74 tỷ USD năm 2012, giảm nhẹ 3,4% so với năm 2011. năm 2013
với những khó khăn trong gía nguyên liệ cũng như những yêu cầu cao hơn về an toàn

thực phẩm ở những thị trường lớn nên gía trị xuất khẩu cá tra giảm mạnh xuống còn
1.66 tỷUSD. Năm 2014 xuất khẩu cá tra tăng nhẹ (+ 0.4%) so với năm 2013, đạt 1.77
tỷUSD.
Ba thị trường nhập khẩu cá tra việt nam lớn nhất trong 5 năm qua phải kể đến đó là
EU, Mỹ và Asean. Ngoài ra thì có các thị trường khác nhưmexico. Brazin, hồng kông,
Trung Quốc.
GVHD: Đào Duy Minh

Page 17


Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam

Bảng 7: Giá trị xuất khẩu cá tra đến 3 thị trường lớn giai đoạn năm 2010- 2014
Đơn vị: triệu USD
Chỉ tiêu

2010

2011

2012

2013

2014

EU

567.4


526

426

385,5

344.3

MỸ

179.6

336.9

359

380.6

336.8

ASEAN

90.8

111

110

124.9


136.6

Nguồn: Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP)
Qua bản số liệu ta có thể thấy thị trường nhập khẩu cá tra của việt nam đang có xu
hướng thu hẹp lại ở các thị trường khó tính như mỹ và eu. Đang có xu hướng mở rộng
thị trường ở khu vực đông á và đông nam á.
b) Cá ngừ đại dương
Cá ngừ đại dương là một trong những mặt hàng mang lại giá trị kinh tế cao nhưng
cũng đòi hỏi kỹ thuật đánh bắt hiện đại để có thể tiếp cận được với những thị trường
cao cấp. các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của cs ngừ đại dương là cá ngừ tươi, đông
lạnh, các mặt hàng cá chế biên như cá ngừ hộp,…,
Trong giai đoạn 5 năm từ 2010- 2014 nhìn chung thì giá trị xuất khẩu cá ngừ tăng cho
thấy nước ta ngày càng chú trọng đến việc đánh bắt những sản phẩm chất lượng cao.
giai đoạn từ 2010- 2012 xuất khẩu cá ngừ đại dương đề tăng mạnh qua các năm, cụ
thể: năm 2010 giá trị xuất khẩu cá ngừ đại dương đạt 293.7 triệu usd, năm 2011 tăng
nhẹ lên 379 triệu usd tăng 29%. Xuất khẩu cá ngừ đạt kết quả khả quan nhất trong năm
2012 với kim ngạch đạt 569 triệu USD, tăng 50,1% so với 2011. Tuy nhiên giá trị xuất
khẩu cá ngừ đại dương lại giảm xuống còn 484.2 triệuUSD vào năm 2014 giảm 8.1%
so với năm 2013 nguyên nhân được xác định là do việc khai thác cá ngừ tại các tình
trọng điểm đang có xu hướng chạy theo sản lượng, mặt khác cơ quan chưa có giải
pháp hiệu quả để nâng cao chất lượng nên đa phần cs ngừ sau khi khai thác không đủ
tiêu chuẩn để xuất khẩu giá trị cao dứi dạng tươi nguyên con mà chỉ có thể xuất khẩu
các sản phẩm thông qua khâu chế biến đóng hộp.
Tính đến cuối năm 2014 việt nam đã xuất khẩu sản phẩm cá ngừ đại dương qua hơn
100 quốc gia trên thế giới trong đó 4 thị trường nhập khẩu cá ngừ đại dương của việt
nam lớn nhất trong 5 năm qua vẫn là những thị trường quen thuộc dó là mỹ, eu, nhật
bản, asean. Ngoài ra còn có các thị trường khác như canada, hàn quốc, iran, mexico,...
GVHD: Đào Duy Minh


Page 18


Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam

Bảng 8: Giá trị xuất khẩu cá ngừ đại dương qua 3 thị trường lớn
Đơn vị: triệu usd
Chỉ tiêu

2010

2011

2012

2013

2014

MỸ

120

171.7

244.9

168.1

157.2


EU

57

80.3

114.2

140.7

135.2

NHẬT
BẢN

20.8

43.7

53.8

42.1

22.6

Nguồn: Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP)
Giá trị xuất khẩu cá ngừ từ năm 2010- 2014 ở 3 thị trường lớn đang có xu hướng giảm
Năm 2014 giá trị xuất khẩu cá ngừ giảm ở cả 3 thị trường, tuy nhiên Mỹ vẫn tiếp tục
giữ vị trí dẫn đầu về nhập khẩu cá ngừ Việt Nam, chiếm 36,18% tỷ trọng giá trị xuất

khẩu cá ngừ, đạt 175,2 triệu USD, giảm 6,5% so với cùng kỳ năm trước. Đứng thứ hai
là thị trường EU chiếm 27,92% tỷ trọng với giá trị xuất khẩu đạt 135,2 triệu USD,
giảm 3,9% so với cùng kỳ năm 2013. Tiếp theo là ASEAN và Nhật Bản chiếm 7,22%
và 4,66% tỷ trọng, giá trị xuất khẩu sang hai thị trường này lần lượt là 35 triệu
USD (giảm 1,5%) và 22,6 triệu USD (giảm mạnh 46,3%).

2.3.2.2. Tôm đông lạnh
Tôm là sản phẩn thủy sản có giá trị xuất khẩu lớn nhất với ba dạng sản phẩm chính
bao gồm tôm đông lạnh, tôm đóng hộp và tôm tươi sống.
Giai đoạn 5 năm từ năm 2010- 2014 do các yếu tố khách quan từ các chính sách
thương mại đến môi trường nuôi trồng khai thác tôm cùng với những biến động của
thị trường thủy sản thế giới theo hướng trái chiều mà giá trị xuất khẩu của mat hàng
tôm giảm từ 2,4 tỷ USD( năm 2010) còn 2,24 tỷ ( năm 2012) giảm 8,2%. Xuất khẩu
tôm năm 2012 đạt 2,24 tỷ USD, giảm 6,6% so với cùng kỳ năm 2011. năm 2013 cùng
với những khắc phục về chihs sách xuất khẩu của chính phủ và những biến động lớn
của thị trường thế giới như hội chứng tôm chết sớm (EMS) tiếp tục ảnh hưởng đến thái
lan nguồn cung tôm chiếm đến 12,5% tổng sản lượng tôm thế giới đấy giá mặt hàng
GVHD: Đào Duy Minh

Page 19


×