Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Trình bày về rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.64 KB, 28 trang )

Họ và tên: Hoàng Thị Thu Hương
Mã học viên: CH210419
Lớp: CH21R
BÀI KIỂM TRA
MÔN: NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
PHẦN 1: LÝ THUYẾT
Câu 26: Trình bày về rủi ro tín dụng của NHTM – bài học kinh
nghiệm đối với NHTM VN về vấn đề quản lý rủi ro tín dụng từ cuộc
khủng hoảng nợ dưới chuẩn.
Bài làm
1.

Khái niệm rủi ro tín dụng.

Rủi ro là vấn đề không được mong đợi trong tất cả các lĩnh vực
trong đời sống xã hội. Rủi ro có thể được hiểu một cách khái quát đó
là khả năng xảy ra các biến cố không lường trước, khi xảy ra sẽ làm
cho kết quả thực tế khác kết quả kỳ vọng theo kế hoạch. Rủi ro luôn
xuất hiện bất ngờ và đe dọa sự sống còn của doanh nghiệp, tuy nhiên
muốn có lợi nhuận thì phải chấp nhận nó, không được né tránh nó. Vì
vậy, để tồn tại và phát triển, để đứng vững trong cạnh tranh các doanh
nghiệp phải đương đầu với rủi ro có thể xảy ra bằng cách tiên liệu
phán đoán các rủi ro có thể xảy ra để tìm biện pháp phòng ngừa, hạn
chế nhằm giảm thiểu thiệt hại do rủi ro gây ra
Rủi ro tín dụng là một trong những loại rủi ro phổ biến nhất trong
hoạt động ngân hàng thương mại thị trường tài chính. rủi ro tín dụng
Page 1


cũng là loại rủi ro lớn nhất, thường xuyên xảy ra và gây hậu quả nặng
nề nhất đối với hoạt động của ngân hàng vì các khoản cho vay thường


chiếm quá nửa giá trị tổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu
của ngân hàng. hoạt động tín dụng tạo ra phần lớn nguồn thu cho ngân
hàng song cũng mang lại những thiệt hại nặng nề, có khi dẫn đến phá
sản ngân hàng. Rủi ro tín dụng là rủi ro phức tạp nhất, quản lý và
phòng ngừa khó khăn nhất. Nó đòi hỏi ngân hàng phải có những giải
pháp đồng bộ, hữu hiệu mới có thể hạn chế, ngăn ngừa bớt rủi ro,
giảm tối thiểu những thiệt hại có thể xảy ra.
Rủi ro tín dụng cũng đã được rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu và
cũng đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau:
- Rủi ro tín dụng được hiểu là những tổn thất do khách hàng không
trả được nợ hoặc sự giảm sút chất lượng tín dụng của những khoản
vay.
- Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu
được đầy đủ gốc và lãi của khoản vay hoặc là việc thanh toán nợ gốc
và lãi không đúng kỳ hạn.
- Rủi ro tín dụng được định nghĩa là nguy cơ mà người đi vay
không thể chi trả tiền lãi, hoặc hoàn trả vốn gốc so với thời gian đã ấn
định trong hợp đồng tín dụng. Đây là thuộc tính vốn có của hoạt động
ngân hàng. Rủi ro tín dụng tức là việc chi trả bị trì hoãn, hoặc tồi tệ
hơn là không hoàn trả được toàn bộ. Điều này gây ra sự cố đối với
dòng chu chuyển tiền tệ, và gây ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản
của ngân hàng.
Page 2


Nếu coi tín dụng là việc "tin tưởng" mà đưa cho khách hàng sử
dụng giá trị hiện tại với mong muốn nhận được giá trị tương lai trong
1 thời gian nhất định thì rủi ro tín dụng chính là khả năng mong muốn
đó không được đáp ứng hay nói một cách khác đó là khả năng xảy ra
sự khác biệt không mong muốn giữa kết quả thực tế và kết quả kỳ

vọng theo kế hoạch - đúng hạn nhận được đầy đủ gốc và lãi.
Với mục tiêu là đúng hạn theo hợp đồng tín dụng nhận được đầy
đủ gốc và lãi như đã nêu ở trên, thì rủi ro tín dụng có thể được hiểu là
những tổn thất tiềm năng có thể xảy ra do các bên đối tác trong hợp
đồng tín dụng không có khả năng hoặc không có đủ năng lực thực
hiện nghĩa vụ của họ một cách đầy đủ hoặc đúng hạn theo cam kết.
Như vậy rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng không trả, hoặc
không trả đầy đủ, hoặc không trả đúng hạn gốc và lãi cho ngân hàng.
Nói một cách khác rủi ro tín dụng là rủi ro mà bên vay trong một giao
dịch không thực hiện được theo thời hạn và điều kiện của hợp đồng
làm cho người cho vay phải gánh chịu tổn thất tài chính.
Như trên đã phân tích, rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan
trọng nhất của ngân hàng thương mại - hoạt động tín dụng. Các khoản
cho vay thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản có của ngân
hàng thương mại, mang lại phần lớn thu nhập cho ngân hàng, song
cũng tiềm ẩn rủi ro lớn, có khi dẫn đến phá sản ngân hàng. Trước khi
cho vay, ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao
cho độ an toàn là cao nhất. Nhìn chung ngân hàng chỉ quyết định cho
vay khi thấy rằng rủi ro tín dụng sẽ không xảy ra. Tuy nhiên không
Page 3


phải bao giờ ngân hàng cũng dự tính chính xác các vấn đề sẽ xảy ra.
Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều
nguyên nhân. Hơn nữa nhiều cán bộ tín dụng ngân hàng không có khả
năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Do vậy trên quan điểm
quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là
khách quan. Nhiều quan điểm nhất trí rằng, rủi ro tín dụng là bạn
đường trong kinh doanh, có thể đề phòng, hạn chế, chứ không thể loại
trừ.

2.

Các chỉ tiêu đánh giá rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng thương mại
2.1. Chỉ tiêu định tính

Chúng ta có thể chia chỉ tiêu định tính thành các nhóm sau:
* Nhóm 1: Các chỉ tiêu liên quan tới mối quan hệ với ngân hàng,
cụ thể:
Mức độ vay thường xuyên gia tăng, chậm thanh toán các khoản nợ
gốc và lãi, thường xuyên yêu cầu ngân hàng cơ cấu nợ, yêu cầu các
khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến.
Xu hướng của các tài khoản của khách hàng: Khó khăn trong thanh
toán lương, giảm sút số dư tài khoản tiền gửi, thường xuyên yêu cầu
hỗ trợ vốn lưu động, gia tăng khoản nợ thương mại, …
Khách hàng thường xuyên sử dụng các khoản tài trợ ngắn hạn cho
các hoạt động dài hạn, chấp nhận sử dụng các nguồn tài trợ đắt nhất,
đồng thời là dấu hiệu về việc vốn điều lệ của khách hàng đang có xu
hướng giảm sút, …
Page 4


* Nhóm 2: Các dữ liệu sử lý thông tin về tài chính kế toán.
Biểu hiện đầu tiên là việc khách hàng cố tình giả mạo các số liệu
kế toán nhằm làm đẹp cho các báo cáo tài chính trình ngân hàng, làm
gia tăng giá trị thực của các tài sản khác. Hoặc trì hoãn việc trình các
chứng từ tài chính liên quan theo yêu cầu của ngân hàng. Bên cạnh đó
còn có các dấu hiệu phi tài chính khác như sự suy giảm uy tín, đạo
đức của các bộ phận trong bộ máy của khách hàng.
*Nhóm 3: Các chỉ tiêu liên quan đến quản lý khách hàng.

Thể hiện đầu tiên là việc thay đổi thường xuyên chính sách quản lý
khách hàng, thay đổi cán bộ quản lý một cách bất hợp lý, các chi phí
phát sinh trong quá trình quản lý không chính xác, các cán bộ có trình
độ yếu kém không theo kịp sự phát triển của khách hàng, …chính từ
những thay đổi và sự bất hợp lý trong quản lý khách hàng là một dấu
hiệu khá rõ ràng trong việc làm phát sinh các rủi ro tín dụng trong
hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.
* Nhóm 4: Các chỉ tiêu về ưu tiên trong kinh doanh.
Do ngân hàng quá chú trọng về các hợp đồng lớn mà bỏ qua các
bước cần thiết trong thẩm định hay xem xét kỹ lưỡng trong quá trình
ký hợp đồng tín dụng, hoặc rút ngắn thời gian thẩm định một cách quá
bất cẩn, …đây chính là mối đe doạ lớn nhất thể hiện khả năng rủi ro
tín dụng rất cao của ngân hàng.
* Nhóm 5: Các chỉ tiêu kỹ thuật và thương mại
Biểu hiện cụ thể như : Sự thay đổi lãi suất, tỷ giá, thị hiếu trên thị
trường, sự bất ổn định trên thị trường trong thời gian gần đây, việc Việt
Page 5


Nam gia nhập vào tổ chức WTO làm tăng tính cạnh tranh, xuất hiện
nhiều đối thủ lớn,… hoặc có thể thấy sự ảnh hưởng rõ rệt từ những
thay đổi chính sách của Nhà Nước mà đặc biệt là chính sách thuế, sự
không ổn định trong hệ thống pháp luật cũng dẫn đến rủi ro cho cả
khách hàng và cho cả ngân hàng thương mại.
2.2.

Các chỉ tiêu định lượng.

* Tỷ lệ nợ quá hạn.
Nợ quá hạn được hiểu là các khoản nợ mà người vay không có khả

năng thanh toán đầy đủ và đúng hạn như hợp đồng tín dụng. Khi đáo
hạn món nợ này sẽ được chuyển sang nợ quá hạn.
* Tỷ lệ nợ xấu.
Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 24/4/2005 của Thống
đốc NHNN “ v/v ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của
TCTD” đã đánh giá chính xác hơn chất lượng tín dụng của các TCTD
qua chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu.
Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ càng cao thì chất lượng tín dụng càng
kém và ngược lại. Nếu tỷ lệ nợ xấu nhỏ hơn 5% thì chấp nhận được và
tỷ lệ này càng nhỏ hơn 5% càng tốt.
Theo quyết định 493 thì dư nợ trong ngân hàng thương mại được
chia làm 5 nhóm và chỉ có nhóm nợ 3,4 và 5 được đưa vào nợ xấu.
Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn:

Page 6


Các khoản nợ trong hạn, có khả năng thu hồi đủ cả gốc và lãi đúng
thời hạn. Các khoản nợ của khách hàng trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo
kỳ hạn đã được cơ cấu lại tối thiểu trong vòng 1 năm đối với các
khoản nợ trung và dài hạn, 3 tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn và
các kỳ hạn tiếp theo được đánh giá là có khả nâng trả đầy đủ nợ gốc,
lãi đúng hạn theo thời hạn đã được cơ cấu lại thì phân loại vào nợ
nhóm 1.
Nhóm 2: Nợ cần chú ý:
Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời
hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn trả nợ đã cơ cấu lại được đánh giá
là có khả năng trả nợ đầy đủ, đúng hạn.
Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn.

Các khoản nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày; các khoản nợ cơ
cấu lại có thời hạn trả nợ quá hạn dưói 90 ngày theo thời hạn đã cơ
cấu lại
Nhóm 4: Nợ nghi ngờ.
Nợ qúa hạn từ 181 ngày đến 360 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại
thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày.
Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn:
Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; các khoản nợ chờ xử lý; các
khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời
hạn đã cơ cấu lại.
Công thức tính:
Page 7


Tỷ lệ nợ

Tổng dư nợ nhóm

xấu =

x

3,4 và 5

100%

Tổng dư nợ

* Tỷ lệ nợ mất vốn.
Đây là tỷ lệ của nhưng khoản nợ có khả năng mất vốn vì vậy để

đảm bảo cho hoạt động ngân hàng thì cần phải trích lập quĩ dự phòng
tín dụng cho những khoản vay thuộc nhóm này và phải luôn chú ý để
tỷ lệ này ở mức thấp nhất có thể để tránh rrtd. công thức tính:
Tỷ lệ nợ mất
vốn =

Dư nợ mất
vốn
Tổng dư nợ

x
100%

* Tỷ lệ trích lập dự phòng RRTD.
Dự phòng rủi ro tín dụng là khoản tiền đã trích lập để dự phòng
cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng hoặc đối tác của
ngân hàng thương mại không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Tỷ lệ
này càng cao chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng không tốt và
rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải càng cao. Công thức:
Tỷ lệ DPRR đã
trích lập =

Dự phòng rủi ro đã
trích lập

x 100%

Tổng dư nợ

NHTM thực hiện trích lập và duy trì dự phòng chung bằng 0,75%

tổng giá trị các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 qui định tại điều 6

Page 8


hoặc điều 7 quyết định 493 để đảm bảo an toàn trong hoạt động tín
dụng của ngân hàng.
* Tỷ lệ bù đắp rủi ro.
Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN trích lập và sử dụng dự
phòng để xử lý RRTD trong hoạt động ngân hàng thì các trường hợp
sau được sử dụng quỹ dự phòng để xử lý RRTD:
- Khách hàng vay là tổ chức, doanh nghiệp bị giải thể, phá sản theo
qui định của pháp luật, cá nhân bị chết hoặc mất tích.
- Các khoản nợ thuộc nhóm 5 được qui định tại điều 6 và điều 7
quyết định 493.
Công thức tính:
Tỷ lệ bù đắp rủi
ro =
3.

Dự phòng rủi ro đã
bù đắp

x 100%

Tổng dư nợ

Nguyên nhân của rủi ro tín dụng
3.1. Nguyên nhân khách quan.


Các cán bộ tín dụng ngân hàng phải được đặt vào một tình trạng
phân tích người vay tương lai theo các điều kiện hiện tại và quá khứ:
Phân tích các kỹ năng quản lý, tình hình sản xuất kinh doanh và tình
hình tài chính, quá khứ của việc hoàn trả nợ, uy tín, mức độ cạnh tranh
trên thị trường và thị phần...những nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín
dụng. Tuy nhiên tình huống ở tương lai là một điều chưa được biết,
tương lai có thể mang đến các khó khăn bất ngờ, điều này sẽ dẫn đến
những khả năng có thể xảy ra rủi ro tín dụng trong tương lai.
Page 9


Sự tác động của môi trường bên ngoài thường khó dự đoán, vượt
quá tầm kiểm soát gây ra những thiện hại lớn cho người vay và ngân
hàng, bao gồm các loại sau:
- Sự thay đổi chính sách của chính phủ ảnh hưởng đến tình hình tài
chính và khả năng trả nợ của khách hàng.
Hoạt động của ngân hàng và khách hàng đều chịu tác động của
môi trường kinh tế - xã hội. chính sách kinh tế vĩ mô ổn định sẽ giúp
cho hoạt động của khách hàng ít bị biến động, do vậy mà việc dự báo
về tình hình tài chính, kinh doanh của khách hàng cũng thuận lợi hơn.
Ngược lại, chính sách kinh tế vĩ mô không ổn định thì ngân hàng rất
khó có thể phân tích, dự báo chính xác hoạt động kinh doanh, tài
chính của khách hàng trong tương lai cũng như khó có thể lường trước
được những rủi ro khách hàng phải đối mặt, do vậy mà ngân hàng
không thể đánh giá đúng khả năng trả năng trả nợ của khách hàng
trong tương lai, khi đó chất lượng tín dụng của ngân hàng không đạt
yêu cầu.
Chính sách của Chính Phủ ảnh hưởng tới hoạt động của các doanh
nghiệp, qua đó tác động đến hoạt động của ngân hàng trên các phương
diện sau:

Chính sách thuế: Chính sách thuế ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí
của doanh nghiệp. Khi chính phủ có những thay đổi về chính sách
thuế, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ bị tác động và có thể
ảnh hưởng đến nguồn thu của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến
nguồn trả nợ ngân hàng.
Page 10


Chính sách xuất- nhập khẩu vật tư thiết bị: Khi có bất kỳ sự thay
đổi nào về chính sách xuất nhập khẩu vật tư thiết bị sẽ ảnh hưởng tức
thời và trực tiếp đến chi phí và doanh thu của doanh nghiệp, gây khó
khăn cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh và làm
giảm doanh thu, từ đó gây khó khăn cho việc trả nợ ngân hàng và vì
vậy rủi ro tín dụng của ngân hàng tăng lên.
Chính sách chung về các yếu tố đầu vào: Chính sách này cũng gây
tác động trực tiếp đến chi phí của doanh nghiệp, có thể đẩy doanh
nghiệp vào khó khăn và dẫn đến mất khả năng trả nợ ngân hàng.
- Môi trường tự nhiên.
Những biến động lớn về thời tiết, khí hậu gây ảnh hưởng tới hoạt
động sản xuất kinh doanh đặc biệt là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp,
điều kiện tự nhiên là yếu tố khó dự đoán, nó thường xảy ra bất ngờ với
thiệt hại lớn nằm ngoài tầm kiểm soát của con người. Vì vậy khi có
thiên tai, địch hoạ xảy ra khách hàng cùng ngân hàng sẽ có nguy cơ
tổn thất lớn, phương án kinh doanh không có nguồn thu… điều đó
đồng nghĩa với ngân hàng phải cùng chia sẻ rủi ro với khách hàng của
mình. Ảnh hưởng của môi trường tự nhiên, đặc biệt là những thảm
hoạ tự nhiên là khó dự đoán, khó phòng ngừa và khi rủi ro xảy ra thì
ngân hàng và khách hàng phải gánh chịu tổn thất
- Môi trường kinh tế xã hội.
Môi trường kinh tế xã hội trong nước biến động chịu ảnh hưởng

của những biến động từ nền kinh tế thế giới, đó là nguyên nhân làm
phát sinh rủi ro trong hoạt động kinh doanh của nền kinh tế, từ đó ảnh
Page 11


hưởng tới các lĩnh vực của nền kinh tế trong đó ngân hàng là ngành
chứa đựng nguy cơ rủi ro lớn nhất. Môi trường kinh tế có ảnh hưởng
rất lớn đến sức mạnh tài chính của người vay và thiệt hại hay thành
công của người vay. Trong giai đoạn kinh tế phát triển, người vay hoạt
động hiệu quả nhưng trong giai đoạn khủng hoảng khả năng trả nợ của
người vay sẽ bị giảm sút. Thông thường, các khoản cho vay khó được
thu hồi trong trường hợp khủng hoảng kinh tế xảy ra.
Bên cạnh đó hoạt động kinh doanh tín dụng phụ thuộc rất nhiều
vào thói quen, truyền thống, tập quán của người dân. Những yếu tố đó
nhiều khi gây khó khăn và hạn chế việc mở rộng hoạt động kinh
doanh của ngân hàng.
Những tác động của môi trường bên ngoài tới người vay làm cho
họ bị tổn thất tài chính dẫn đến việc không thực hiện được đầy đủ
hoặc đúng hạn cam kết trả nợ gốc và lãi đối với ngân hàng thậm chí là
mất khả năng thanh toán đi đến phá sản hoặc giải thể.
3.2.

Nguyên nhân từ phía khách hàng vay vốn.

Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh
doanh, yếu kém trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng,
chây ì,… là các nguyên nhân gây rủi ro tín dụng.
* Khách hàng vay vốn không có khả năng trả nợ ngân hàng.
- Khách hàng yếu kém trong quản lý, đặc biệt là quản lý tài chính:
Trường hợp người vay có trình độ yếu kém về quản lý, không tính

toán kỹ lưỡng hoặc không có khả năng tính toán kỹ lưỡng những bất
trắc có thể xảy ra, không có khả năng thích ứng và khắc phục khó
Page 12


khăn trong kinh doanh sẽ dẫn tới vốn vay không được sử dụng hiệu
quả. Ngoài ra, việc yếu kém trong quản lý tài chính có thể dẫn tới
trường hợp dù dự án hay quá trình sản xuất kinh doanh có hiệu quả
song nguồn trả nợ ngân hàng sẽ không được đảm bảo. Như vậy doanh
nghiệp không có khả năng hoàn trả nợ gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn cho
ngân hàng
- Khách hàng gặp rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh: Khi
người vay gặp những rủi ro từ thị trường (ví dụ nhu cầu về loại sản
phẩm của doanh nghiệp bất ngờ giảm sút do một số thông tin bất lợi),
từ bạn hàng (ví dụ doanh nghiệp bị bạn hàng chiếm dụng vốn và
không hoàn trả đúng thời hạn quy định) hoặc từ những rủi ro không
dự kiến được tác động đến nguồn thu của doanh nghiệp và khả năng
trả nợ ngân hàng.
* Khách hàng chủ định lừa đảo ngân hàng.
Trường hợp này người vay kinh doanh có lãi song vẫn không trả
nợ cho ngân hàng đúng hạn hoặc không muốn trả nợ ngân hàng. Họ
chây ì với hy vọng có thể quỵt nợ hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng
tốt.
Rủi ro đạo đức là một vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra
sau khi cuộc giao dịch diễn ra. Rủi ro đạo đức phát sinh do các hành
động có tác động đến hiệu quả nhưng lại không dễ dàng quan sát được
và vì thế những người thực hiện các hành động này có thể chọn theo
đuổi những lợi ích cá nhân của mình trên cơ sở gây tổn hại cho người
khác. Rủi ro đạo đức trong lĩnh vực tài chính xảy ra sau khi cấp tín
Page 13



dụng, những người được cấp tín dụng luôn có xu hướng muốn thực
hiện các đầu tư rủi ro hơn những người cho vay mong đợi, vì chủ đầu
tư sẽ có được những khoản lợi nhuận rất lớn nếu dự án thành công,
trong khi những người cấp tín dụng chỉ nhận được một khoản lợi ích
cố định. Ngược lại, nếu dự án thất bại thì bên cho vay sẽ bị mất một
phần hoặc toàn bộ vốn do không được hoàn trả đầy đủ.
3.3.

Nguyên nhân từ phía bản thân ngân hàng.

* Quan điểm của lãnh đạo điều hành.
Ban lãnh đạo ngân hàng thường đề ra mức rủi ro tối đa có thể chấp
nhận được trong mỗi thời kỳ (khẩu vị rủi ro). Do rủi ro càng cao thì
lợi nhuận kỳ vọng càng lớn, nên có một số ngân hàng chấp nhận cho
vay những dự án mạo hiểm để thu về lợi nhuận cao. Nếu ngân hàng
thương mại có quan điểm đặt mục tiêu lợi nhuận lên trên nhất thì cơ
chế quản lý sẽ khuyến khích và tạo điều kiện để bộ phận có liên quan
tìm kiếm, quyết định những khoản cho vay, đầu tư có thu nhập kỳ
vọng cao nhưng tiềm ẩn rủi ro lớn; đồng thời các quy định về kiểm
tra, kiểm soát, đặc biệt là tiêu chuẩn để xem xét, đánh giá khi quyết
định cho vay cũng sẽ thấp hơn trong khi tiêu chí về khả năng sinh lời
rất được coi trọng. Trường hợp ngược lại nếu quan điểm kinh doanh
lấy an toàn làm chính thì các quy định về cơ chế quản lý tài sản trong
việc thẩm định, xem xét trước khi ra quyết định cho vay, đầu tư sẽ
chặt chẽ hơn, cụ thể hơn, các tiêu chuẩn để phục vụ cho việc ra quyết
định, việc kiểm tra, giám sát cũng được đặt ở mức cao hơn. các ngân
hàng thương mại phải biết lựa sức mình để xác định lợi nhuận hợp lý.
Page 14



* Sự yếu kém về công nghệ của ngân hàng.
Ngày nay trình độ công nghệ là yếu tố quan trọng trong tổ chức
kinh doanh ngân hàng, đặc biệt là đối với quản lý rủi ro tín dụng. Vì
trình độ công nghệ càng cao càng trợ giúp cho ngân hàng sàng lọc
những khách hàng, ngành nghề đang có mức độ rủi ro cao cũng như
các cơ sở dữ liệu thông tin về từng khách hàng. Ở các nước phát triển,
công nghệ ngân hàng cũng rất phát triển, đặc biệt là trong điều kiện có
sự hỗ trợ hết sức hiệu quả của công nghệ thông tin như ngày nay.
Công nghệ ngân hàng thể hiện ở mức độ tập trung thông tin, ở khả
năng phân tích, xử lý thông tin, từ đó rút các kết luận, nhận định phục
vụ cho quản trị ngân hàng như các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng,
tình hình phân bổ tài sản, mức độ tập trung rủi ro.... công nghệ của
ngân hàng còn thể hiện khả năng chi phối, kiểm soát đối với hoạt động
của các bộ phận tác nghiệp. Ở mỗi trình độ công nghệ khác nhau đều
phải đòi hỏi một cơ chế quản lý khác nhau.
* Trình độ của cán bộ ngân hàng.
Chất lượng cán bộ tín dụng đóng vai trò then chốt trong việc sàng
lọc được các khách hàng tốt, dự án tốt. Cán bộ tín dụng phải tiếp xúc
với nhiều khách hàng ở nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau, nhiều
vùng, lãnh thổ, thậm chí nhiều quốc gia khác nhau, để đánh giá tốt
khách hàng họ phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng kinh
doanh, môi trường mà khách hàng sống. Cán bộ tín dụng phải có khả
năng dự báo các vấn đề liên quan đến khách hàng vay. Như vậy, cán
bộ tín dụng phải được đào tạo và tự đào tạo kỹ lưỡng và toàn diện.
Page 15


Khi cán bộ tín dụng cho vay đối với khách hàng mà họ chưa đủ trình

độ để hiểu kỹ lưỡng rủi ro tín dụng luôn rình rập họ. Nguyên nhân rủi
ro từ sự yếu kém của đội ngũ nhân viên ngân hàng có thể từ việc:
Không phân tích đầy đủ khả năng quản lý kinh doanh của doanh
nghiệp. Trong doanh nghiệp vai trò của người lãnh đạo rất quan trọng,
sự thành bại trong hoạt động phụ thuộc rất nhiều vào định hướng và ra
quyết định của người lãnh đạo doanh nghiệp đó. Nếu cho vay mà
không đánh giá đúng khả năng của người quản lý sẽ dễ dẫn đến tổn
thất.
Phân tích báo cáo tài chính không chính xác, không biết đánh giá
món vay có hiệu quả thật hay sẽ có nhiều rủi ro. Với doanh nghiệp nào
đó đang trong tình trạng suy thoái mà nhân viên ngân hàng yếu kém
trong việc đánh giá phân tích cho vay thì món vay đó sẽ khó thu hồi
được.
Kiến thức về mặt kinh tế xã hội luật pháp của nhân viên ngân hàng
hạn chế, không nắm vững được quy chế thể lệ tín dụng cũng dẫn đến
rủi ro. Khi người đi vay không lường hết rủi ro mà nhân viên ngân
hàng cũng không hiểu biết để tư vấn cho khách hàng thì khi doanh
nghiệp bị thua lỗ sẽ không thể trả nợ ngân hàng.
Việc định kỳ hạn trả nợ không chính xác, sau khi cho vay ngân
hàng thiếu sự giám sát theo dõi để người vay sử dụng vốn sai mục
đích, không có biện pháp xử lý kịp thời cũng dẫn đến rủi ro tín dụng.
* Đạo đức của cán bộ tín dụng.
Với các khoản vay càng nhiều rủi ro và không đảm bảo những điều
Page 16


kiện tín dụng đặt ra, khách hàng vay thường bỏ ra những khoản “hoa
hồng” rất lớn để có thể vay được tiền. Điều này dẫn tới tình trạng một
số cán bộ tín dụng cố ý làm sai quy trình tín dụng hay bỏ sót một vài
bước trong quy trình để nhằm nhận được những khoản "hoa hồng" từ

khách hàng. Bởi vậy, chất lượng cán bộ tín dụng bao gồm trình độ và
đạo đức nghề nghiệp không đảm bảo cũng sẽ dẫn đến rủi ro tín dụng.
* Yếu kém trong việc phối hợp tác nghiệp.
Rủi ro tín dụng có thể xuất phát từ tất cả các khâu của quá trình
cấp tín dụng của ngân hàng thương mại bao gồm: Trong giai đoạn
trước khi cho vay, trong giai đoạn giải ngân và trong giai đoạn quản lý
khoản vay của khách hàng.
Ở giai đoạn trước khi cho vay việc không chấp hành nghiêm túc
chế độ tín dụng, điều kiện cho vay; xem xét, đánh giá khách hàng,
khoản vay không kỹ, không tốt sẽ dẫn đến khả năng xảy ra rủi ro tín
dụng trong tương lai.
Ở giai đoạn giải ngân và giai đoạn quản lý khoản vay: Giải ngân
không tuân thủ theo điều kiện; yếu kém trong kiểm soát, theo dõi
(không kiểm soát mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng, việc
kiểm tra tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của
khách hàng bị buông lỏng, việc kiểm soát, theo dõi danh mục khoản
vay không được thực thi một cách có hiệu quả) sẽ dẫn đến khả năng
xảy ra rủi ro tín dụng trong tương lai.
4.

Hậu quả của rủi ro tín dụng.
4.1. Đối với ngân hàng
Page 17


- Rủi ro làm giảm uy tín của ngân hàng.
Một khi một ngân hàng có mức độ rủi ro của các tài sản có là cao
thì ngân hàng đó thường đứng trước nguy cơ mất uy tín của mình trên
thị trường. Không một ai muốn gửi tiền vào một ngân hàng mà ngân
hàng đó có tỷ lệ nợ quá hạn và nợ xấu vượt quá mức cho phép, có chất

lượng tín dụng không tốt và gây ra nhiều vụ thất thoát lớn. Thông tin
về việc một ngân hàng có mức độ rủi ro cao thường được báo chí nêu
lên và lan truyền trong dân chúng, điều này sẽ khiến cho việc huy
động vốn của ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, việc
giảm uy tín còn ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của ngân hàng đó,
càng làm cho hoạt động của ngân hàng gặp nhiều khó khăn hơn.
- Rủi ro làm ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của ngân hàng.
Hoạt động chủ yếu của ngân hàng là nhận tiền gửi và cho vay, nếu
các khoản tín dụng gặp rủi ro thì việc thu hồi nợ vay sẽ gặp nhiều khó
khăn trong khi đó các khoản tiền gửi vẫn phải thanh toán đúng hạn.
trong lúc không huy động được vốn do mất uy tín, người rút tiền ngày
càng tăng lên kết quả là ngân hàng gặp khó khăn trong khâu thanh
toán.
- Rủi ro làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
Rủi ro tín dụng xảy ra làm cho ngân hàng không thu được gốc và
lãi theo đúng thời hạn trong hợp đồng tín dụng, thậm chí còn làm mất
vốn của ngân hàng. Từ đó, rủi ro tín dụng sẽ làm giảm tốc độ quay
vòng vốn của ngân hàng dẫn tới làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, giảm
khả năng thanh toán của ngân hàng. Hoạt động tín dụng có liên quan
Page 18


mật thiết với nhiều hoạt động khác, ví dụ như các dịch vụ của ngân
hàng, do đó rủi ro tín dụng xảy ra không chỉ làm giảm thu nhập của
ngân hàng từ hoạt động tín dụng, mà còn làm giảm thu nhập từ các
hoạt động khác. Bên cạnh đó, rủi ro tín dụng cao dẫn đến ngân hàng
phải tăng trích lập dự phòng rủi ro và điều này khiến cho lợi nhuận
còn lại càng thấp
- Rủi ro có thể làm phá sản ngân hàng.
Rủi ro tín dụng xảy ra thường tạo cho ngân hàng những tổn thất về

tài chính, nhưng những thiệt hại về uy tín, về mất lòng tin của xã hội
là những tổn thất còn lớn hơn nhiều. Vấn đề giữ uy tín là điều tối quan
trọng, chỉ cần mất niềm tin vào ngân hàng thì người gửi tiền sẽ có thể
kéo đến ngân hàng rút tiền. nếu rủi ro xảy ra ở mức độ ngân hàng
không có khả năng ứng phó thì sẽ gây phản ứng dây chuyền trong dân
chúng, dân chúng sẽ đổ xô đến ngân hàng rút tiền gửi. Đối với những
khoản cho vay dài hạn ngân hàng không thể thu hồi vốn ngay, đồng
thời rủi ro tín dụng đã làm mất một phần vốn của ngân hàng, như vậy
ngân hàng không còn khả năng thanh toán và sẽ đi đến phá sản.
4.2.

Đối với khách hàng.

Rủi ro tín dụng không chỉ gây hậu quả nghiêm trọng đối với ngân
hàng mà nó còn có tác động xấu đối với khách hàng.
Đối với người gửi tiền: Khi ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng, tức
là ngân hàng không thu hồi được gốc và lãi của những khoản đã cho
vay. Vốn để ngân hàng tài trợ các doanh nghiệp lại chính là từ nguồn
tiền gửi của người gửi tiền. Bên cạnh đó, khi rủi ro tín dụng xảy ra sẽ
Page 19


ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng dẫn đến khách hàng kéo đến rút
tiền ồ ạt, vì vậy ngân hàng sẽ mất khả năng thanh toán. Khách hàng
cũng phải đối mặt với rủi ro là họ không thể thu hồi lại khoản tiền đã
gửi ngân hàng.
Đối với người vay tiền: Khi ngân hàng có rủi ro tín dụng ở mức độ
cao ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng, người gửi tiền tới ngân hàng
sẽ ít đi và ngân hàng sẽ phải trả cho họ một lãi suất cao đồng thời
ngân hàng áp dụng chính sách thận trọng hơn khi cho vay. Như vậy,

ngân hàng sẽ hạn chế cho vay và áp dụng các điều khoản cho vay chặt
chẽ hơn, đồng thời phải áp dụng với lãi suất cao hơn để đủ bù đắp lãi
suất cao từ các khoản tiền gửi. Do đó, người đi vay sẽ gặp khó khăn
trong việc huy động vốn và phải huy động vốn với lãi suất cao hơn,
ảnh hưởng đến chi phí và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với người khách hàng gây ra nợ xấu, nợ quá hạn đối với ngân
hàng: Khách hàng sẽ bị áp dụng một mức lãi suất phạt cao hơn đồng
thời cơ hội để khách hàng tìm các nguồn tài trợ sẽ giảm đi rất nhiều.
4.3.

Đối với nền kinh tế.

Hoạt động của ngân hàng có tính chất xã hội hoá cao, nó liên quan
đến nhiều ngành nghề. Ngân hàng thương mại được coi là trung gian
tài chính quan trọng của nền kinh tế có quan hệ trực tiếp và thường
xuyên với tất cả các tổ chức kinh tế và mọi thành phần trong nền kinh
tế. Do đó khi rủi ro tín dụng xảy ra có thể gây tổn thất lan truyền đến
mọi tổ chức kinh tế và cá nhân khác. người gửi tiền sẽ bị mất tiền,
người vay tiền sẽ gặp khó khăn trong việc huy động vốn dẫn tới tăng
Page 20


chi phí huy động vốn hoặc thiếu vốn cho quá trình sản xuất kinh
doanh. các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, khó có thể thanh toán
nợ vay sẽ ảnh hưởng tới cả nền kinh tế cũng như với các ngân hàng
khác mà doanh nghiệp đó vay vốn. Như vậy, sự đổ vỡ của một ngân
hàng có thể kéo theo sự sụp đổ của toàn bộ hệ thống ngân hàng, gây
mất lòng tin ở dân chúng và có thể dẫn tới khủng hoảng của cả nền
kinh tế. Có thể thấy rủi ro tín dụng và đầu mối của nhiều cuộc khủng
hoảng tài chính hoặc khủng hoảng kinh tế- xã hội. Sự tác động này

không chỉ ảnh hưởng đến nền kinh tế của các nước có liên quan mà
còn ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn thế giới.
5.

Bài học kinh nghiệm cho các ngân hàng thương mại Việt
Nam.

Cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn tại Mỹ đã kéo theo khủng hoảng
tài chính toàn cầu và Việt Nam cũng chịu tác động mạnh từ cuộc
khủng hoảng đó. Nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng đã chỉ ra
những khuyết điểm cần khắc phục trong việc quản lý rủi ro tín dụng
tại các ngân hàng thương mại. Từ những kinh nghiệm quản lý rủi ro
tín dụng của các ngân hàng trên thế giới có thể rút ra một số bài học
đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam.
5.1.

Chất lượng tín dụng quan trọng hơn là tìm những cơ hội
mới.

Ngân hàng không phải là nơi kinh doanh bằng việc cung cấp
những khoản vốn rủi ro. Phần lớn nguồn vốn của ngân hàng là những
khoản tiền gửi ngắn hạn của dân cư. Vào những thời điểm mở rộng tín
Page 21


dụng cho vay, người ta dễ bỏ qua những quy chế cho vay về chất
lượng tín dụng và thường mở rộng cho vay trung dài hạn. Như vậy khi
có rủi ro xảy ra, những khoản cho vay dài hạn sẽ khó lòng thu được về
để trả cho những khoản tiền gửi ngắn hạn. Theo đuổi chính sách mở
rộng tín dụng bằng cách nới lỏng những quy định về đảm bảo an toàn,

chất lượng tín dụng sẽ mang lại cho ngân hàng nhiều tổn thất hơn là
lợi nhuận.
5.2.

Tuân thủ nghiêm ngặt các vấn đề mang tính nguyên tắc
trong tín dụng.

Các ngân hàng phải quan tâm và thực hiện triệt để các nguyên tắc
tín dụng, đặc biệt là các thông tin về khách hàng. Cụ thể khi khách
hàng đến vay vốn, các bộ phận liên quan trong ngân hàng phải giải
đáp các vấn đề như: Tư cách của người vay, hiệu quả hoạt động kinh
doanh của khách hàng, mục đích khoản vay, nguồn trả nợ, khả năng
kiểm soát khoản vay của ngân hàng, năng lực quản trị điều hành của
khách hàng, thực trạng tài chính khách hàng trước khi quyết định cho
vay.
Để giải đáp các câu hỏi trên, ngân hàng phải phân tích tài chính,
trong đó coi trọng đến dòng tiền và vòng thu hồi vốn đầu tư của khách
hàng. Việc phân tích tài chính phải kết hợp với nguyên nhân khách
hàng vay, đánh giá được các phương diện rủi ro ngành, rủi ro trong
kinh doanh
5.3.

Xây dựng các mô hình đánh giá khách hàng.

Các mô hình đánh giá khách hàng là công cụ quyết định tự động
Page 22


đôố với các khoản cho vay tiêu dùng, cho vay cá nhân đồng thời cũng
là công cụ để nhận biết, định lượng những rủi ro có thể xảy ra đối với

khách hàng và có biện pháp ứng xử kịp thời để giảm thiểu rủi ro cho
ngân hàng. Việc xếp hạng khách hàng được thực hiện định kỳ sẽ trợ
giúp cho ngân hàng quản lý hiệu quả chất lượng tín dụng của mình.
5.4.

Xây dựng mô hình quản lý rủi ro tập trung và phân tách giữa
các bộ phận.

Quy trình tác nghiệp trong các hoạt động ngân hàng nói chung và
hoạt động tín dụng nói riêng thông thường được tách bạch thành 3
chức năng:
- Front office: Cán bộ tín dụng tìm kiếm khách hàng, đề xuất khởi
tạo giao dịch với khách hàng và chuyển đến bộ phận tiếp theo
- Middle office: Là bộ phận phân tích độc lập, phê duyệt giao dịch
theo thẩm quyền hoặc trình cấp trên phê duyệt
- Back office: Hỗ trợ các giao dịch front office, lưu trữ hồ sơ tài
liệu giao dịch, theo dõi, báo cáo.
Nếu áp dụng mô hình quản lý rủi ro phân tán, tức là từng bộ phận
kinh doanh tự thực hiện nhiệm vụ quản lý rủi ro theo quy trình, hay
nói cách khác các bộ phận kinh doanh đồng thời thực hiện các chức
năng trên thì công tác quản lý rủi ro chưa thực sự phát huy hiệu quả,
đây được xem như một sự vi phạm nguyên tắc quản lý rủi ro của một
ngân hàng hiện đại.
Hoạt động quản lý rủi ro không đơn thuần chỉ là hoạt động của một bộ
phận nào đó mà phải được nhìn nhận là mô hình hoạt động của toàn ngân
Page 23


hàng.


Page 24


PHẦN 2: BÀI TẬP

Page 25


×