Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.19 KB, 22 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại (NHTM)
1.1.1. Khái niệm NHTM
Tất cả các tài liệu nghiên cứu đều khẳng định, ngân hàng là một trong những tổ
chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Có nhiều cách thể hiện khác nhau về các
định nghĩa về ngân hàng thương mại, nhưng nhìn chung, các ngân hàng thương mại
được định nghĩa thông qua chức năng dịch vụ mà chúng thực hiện trong nền kinh tế.
[Rose P.S. (2004), Quản trị Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản thống kê, trang 4
chương 1].
Theo điều 201, Luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam có nêu: “Tổ chức tín dụng
là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của
pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận
tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Theo
Wikipedia, NHTM là những trung gian tài chính, nhận tiền gửi của các hộ gia đình (cá
nhân) và cho các doanh nghiệp và cá nhân khác vay, cung cấp các dịch vụ về trao đổi
ngoại tệ, chuyển tiền, các dịch vụ liên quan đến thư tín dụng, dịch vụ két an toàn, v.v...
Vai trò quan trọng của ngân hàng được hình thành từ các hoạt động phong phú của
mình. Các hoạt động của NHTM có thể được phân chia thành một số hoạt động chính
sau đây.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn.
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức
kinh tế và cá nhân trong xã hội. Vốn huy động bao gồm 2 loại chủ yếu là tiền gửi và
nguồn huy động khác, bao gồm chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu [TS Tô Ngoc Hưng,
Giáo trình nghiệp vụ kinh doanh hoạt động ngân hàng].
Tiền gửi là nguồn tài nguyên quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn tiền của
NHTM. Ngân hàng huy động tiền gửi thông qua việc cung cấp các loại hình tiền gửi
khác nhau.
-Tiền gửi thanh toán: Là loại tiền gửi trong ngân hàng với mục đích tạo một nguồn
tiền sẵn có cho mục đích thanh toán, chi trả thông qua hoạt động ngân hàng, do đó


không có thời hạn cụ thể và lãi suất thấp.
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Nguồn tiền gửi này cũng có thể được rút ra bất
cứ lúc nào, do đó cũng có lãi suất thấp. Tuy nhiên, không giống tiền gửi thanh toán,
nguồn tiền gửi này không được dùng để thanh toán.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn:Đây là nguồn tiền gửi mà người gửi chỉ được rút ra
sau một khoảng thời gian nhất định đã được thỏa thuận ban đầu với mức lãi suất đã
thỏa thuận. Nếu người gửi phá vỡ thoản thuận bằng cách rút tiền trước hạn thì ngân
hàng sẽ đưa ra hình phạt, cụ thể là lãi suất.
Ngân hàng còn có thể huy động vốn bằng cách phát hành chứng chỉ tiền gửi ngắn
hạn và trái phiếu dài hạn. Hai loại phiếu nợ này được các ngân hàng phát hành theo
từng đợt, tùy theo mục đích sử dụng và sự chấp thuận của NHTW hoặc Hội động chứng
khoán quốc gia.
1.1.2.2. Hoạt động tín dụng.
Theo Giáo trình Nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng, TS Tô Ngọc Hưng, tín dụng là
việc ngân hàng chuyển nhượng tạm thời một lượng vốn cho khách hàng trên nguyên tắc
hoàn trả cả gốc và lãi sau một khoảng thời gian thỏa thuận. Quan hệ tín dụng dựa trên
cơ sở lòng tin giữa ngân hàng và khách hàng.
Hoạt động tín dụng về cơ bản được chia ra thành các loại sau:
 Theo thời gian, có 3 loại tín dụng:
- Tín dụng ngắn hạn: Loại hình tín dụng này bao gồm các khoản vay có kỳ hạn
dưới một năm, do đó hạn chế được rủi ro do thời gian thu hồi và quay vòn vốn nhanh.
- Tín dụng trung hạn: Tín dụng trung hạn thường có thời hạn từ 1 đến 5 năm, dùng
cho các mục đích mua sắm tài sản cố định, đổi mới kĩ thuật, mở rộng sản xuất, xây
dựng các công trình nhỏ có khả năng thu hồi vốn nhanh.
- TÍn dụng dài hạn: có thời hạn trên 5 năm, được cấp cho các hoạt động xây dựng
cơ bản, xây dựng mới, cải tiến mở rộng với quy mô lớn. Loại tín dụng này có thời gian
thu hồi vốn lâu, khả năng kiểm soát vốn bị hạn chế và tốc độ quay vòng vốn chậm.
 Xét theo mục đích sử dụng, có 2 loại tín dụng:
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: được cấp cho các doanh nghiệp để tiến
hành kinh doanh lưu thông hàng hóa.

- Tín dụng tiêu dùng: được cấp phục vụ cho mục đích tiêu dùng cá nhân của các
hộ gia đình.
 Xét theo đối tượng cấp tín dụng, tín dụng được chia làm 2 loại:
- Tín dụng vốn lưu động: đươc sử dụng để tài trợ cho nguồn vốn lưu động tạm
thời bị thiếu hụt của các tổ chức kinh tế.
- Tín dụng vốn cố định: được sử dụng để hình thành tài sản cố định, thường có
thời hạn trung và dài.
 Tín dụng xét theo xuất xứ được chia làm 2 loại:
- Tín dụng gián tiếp: là hình thức tín dụng thông qua một trung gian tài chính, một
ngân hàng thương mại khác.
- Tín dụng trực tiếp: là hình thức mà tín dụng được cấp trực tiếp giữa ngân hàng
và người đi vay, không qua một tổ chức trung gian nào khác.
1.1.2.3. Hoạt động đầu tư tài chính.
Ngoài nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ mang lại nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng,
khoản mục được đánh giá là nguồn quan trọng thứ hai, có liên quan và hỗ trợ, bổ sung
cho khả năng sinh lời của các nghiệp vụ cho vay là khoản mục chứng khoán. Ngân hàng
tham gia vào thị trường chứng khoán dưới nhiều hình thức, thực hiện hoạt động đầu tư
tài chính với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, nâng cao khả năng thanh toán và đa dạng hóa
tài sản, hoạt động kinh doanh nhằm phân tán rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
Các NHTM tiến hành nghiệp vụ đầu tư tài chính dưới 2 hình thức cơ bản: đầu tư
chứng khoán và liên doanh liên kết.
- Nghiệp vụ đầu tư chứng khoán: Thị trường chứng khoán có rất nhiều chủ thể
tham gia, trong đó NHTM với vai trò trung gian tài chính hoặc chủ thể phát hành đóng
vai trò hết sức quan trọng. Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện nghiệp vụ đầu tư chứng
khoán với tư cách là một nhà đầu tư chuyên nghiệp, mua đi bán lại các chứng khoán để
kiếm lời.
NHTM thường đầu tư vào 2 loại chứng khoán chủ yếu có kỳ hạn dài là chứng
khoán do chính phủ hay chính quyền địa phương phát hành và chứng khoán do các
công ty, xí nghiệp phát hành. Chứng khoán do Nhà nước phát hành có lợi nhuận thấp,
song hầu như không có rủi ro do Nhà nước luôn có nguồn đảm bảo khả năng thanh toán

lớn nhất là thuế và quyền lực phát hành tiền. Trong khi đó, chứng khoán công ty cho lợi
nhuận cao hơn nhưng độ an toàn thấp hơn. Các ngân hàng thường giữ chứng khoán
công ty để hưởng thu nhập hàng năm.
- Liên kết liên doanh: Trên thị trường tài chính, các ngân hàng còn thực hiện các
mục tiêu chung của mình thông qua hình thức liên doanh liên kết vốn với các xí nghiệp,
công ty. Với tư cách là thành viên hùn vốn, NHTM có thể đứng ra mua cổ phiếu cho
mình, từ đó trở thành thành viên sáng lập hay góp vốn kinh doanh, đồng thời có thể cử
người vào ban quản trị công ty.
1.1.2.4. Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ.
Ngoài các nghiệp vụ kinh doanh truyền thống, trong môi trường cạnh tranh gay
gắt, các ngân hàng luôn cố gắng mở rộng và ngày càng chú trọng và các dịch vụ tiện ích
nhằm thu hút khách hàng. Trong đó, dịch vụ thanh toán và ngân quỹ là những lĩnh vực
dịch vụ ngày càng được các ngân hàng chú trọng cả về quy mô và số lượng, chất lượng.
Dịch vụ thanh toán do ngân hàng cung cấp nhanh gọn và an toàn. Ngân hàng đã
không ngừng cải tiến và ngày càng đưa ra nhiều hình thức thanh toán thuận tiện cho
khách hàng như séc, thư tín dụng, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thanh toán qua thẻ,…
Không chỉ ngừng lại ở việc cung cấp dịch vụ trong nước, ngày nay ngân hàng đã
mở rộng liên kết với các ngân hàng nước ngoài để đáp ứng nhu cầu thanh toán nước
ngoài của khách hàng với các phương tiện thanh toán đa dạng và tiện lợi.
Dịch vụ ngân quỹ cũng đang được các ngân hàng chú trọng phát triển. Dịch vụ
ngân quỹ của ngân hàng bao gồm dịch vụ thu tiền và phát tiền, nhằm đảm bảo tính
thanh khoản và lưu thông tiền trong ngân quỹ của ngân hàng. Dịch vụ thu tiền thực hiện
trên cơ sở khách hàng nộp tiền vào ngân hàng, thông thường là khách hàng gửi tiền, trả
nợ tiền vay, lãi vay hoặc nộp tiền nhờ thanh toán. Dịch vụ phát tiền ứng với việc lĩnh
tiền của khách hàng, thường là các trường hợp rút vốn tiền gửi, lĩnh lãi tiền gửi, nhận
tiền vay,…
1.1.2.5. Các hoạt động khác.
Bên cạnh các hoạt động chính, ngân hàng còn cung cấp cho khách hàng một số
dịch vụ khác đi kèm nhằm làm đa dạng hóa các hoạt động của mình và đáp ứng được
mọt yêu cầu cần thiết của khách hàng. Một số dịch vụ được ngân hàng cung cấp như:

- Dịch vụ ủy thác: là dịch vụ quản lý tài sản được thực hiện dưới nhiều hình thức
và cách sắp xếp khác nhau. Dịch vụ ủy thác có thể được chia làm 3 lĩnh vực chính: việc
ấn định tài sản, điều hành dịch vụ ủy thác, giám hộ tài sản và hoạt động của các cơ quan
đại diện.
- Dịch vụ tư vấn: là việc ngân hàng dựa vào kinh nghiệm và hiểu biết của mình mà
tư vấn cho khách hàng những lời khuyên tốt nhất, những hiểu biết sâu sắc nhất về các
lĩnh vực mà khách hàng yêu cầu.
- Dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ bảo quản lý gửi, nghiệp vụ ngân hàng trên thị trường
chứng khoán: đây là những hoạt động phức tạp và đòi hỏi chuyên môn, vì vậy các ngân
hàng thường lập các công ty con hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực này đảm trách.
1.1.3. Hoạt động tín dụng
Tín dụng là hoạt động quan trọng hàng đầu của các ngân hàng để tài trợ cho chi
tiêu của các doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan chính phủ. Hoạt động cho vay của
ngân hàng phục vụ, bởi vì cho vay thúc đẩy sự tăng trưởng của các doanh nghiệp, tạo
ra sức sống cho nền kinh tế. [Rose P.S. (2004), Quản trị Ngân hàng thương mại, Nhà
xuất bản tài chính, Hà Nội]
Theo luật các tổ chức tín dụng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều 49
có ghi: “Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức cho
vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh cho thuê tài chính và
các hình thức khác theo quy định của ngân hàng Nhà nước.”
Các hình thức cấp tín dụng truyền thống mà ngân hàng cung cấp bao gồm:
1.1.3.1. Hoạt động chiết khấu thương phiếu
Thương phiếu là công cụ của tín dụng thương mại, là một giấy nợ phát sinh trong
quan hệ thương mại, dùng để xác nhận cho người cầm nó một trái quyền ngắn hạn về
tiền đối với người thụ lệnh khi giấy nợ đến hạn. Thương phiếu có khả năng chuyển
nhượng dễ dàng, có tính đảm bảo cao và khả năng thanh toán tương đối chắc chắn.
Chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn của ngân hàng,
trong đó khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu những thương phiếu chưa đến hạn
thanh toán cho ngân hàng để nhận về một khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi lợi tức và
phí hoa hồng.[ TS. Tô Ngọc Hưng, Giáo trình Nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng, Nhà

xuất bản thống kê].
Số tiền ngân hàng trả cho khách hàng được tính như sau:
T =M – [M*i*t + H1 +H2 ]
Trong đó: M: Mệnh giá của thương phiếu
I : Lãi suất chiết khấu
T: Thời hạn chiết khấu
H1: Hoa hồng phí phụ thuộc theo thời gian
H2: Hoa hồng cố định
Ngân hàng đưa ra một số điều kiện đối với thương phiếu như còn thời hạn thanh
toán theo qui định của ngân hàng Nhà nước, hợp lệ về mặt hình thức và nội dung, khách
hàng phải chuyển nhượng quyền sở hữu cho ngân hàng dưới hình thức kí hậu.
Nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu có nhiều ưu điểm:
- Nghiệp vụ chiết khấu ít rủi ro, khả năng thu hồi nợ khá chắc chắn vì đã có
thương phiếu đảm bảo.
- Là hình thức tín dụng khá đơn giản, ít phiền phức đối với ngân hàng
- Chiết khấu không làm đóng băng vốn của ngân hàng vì thời hạn chiết khấu
thường ngắn, dưới 90 ngày và ngân hàng có thể dễ dàng xin tái chiết khấu thương phiếu
ở ngân hàng Trung ương.
- Tiền của khách hàng khi chiết khấu thường được chuyển vào tài khoản tiền gửi
của khách hàng bởi vậy nó tạo ra nguồn vốn cho ngân hàng.
1.1.3.2. Hoạt động cho vay
Theo Rose P.S, Quản trị ngân hàng thương mại, NXB tài chính, “cho vay là chức
năng kinh tế hàng đầu của các ngân hàng, để tài trợ cho chi tiêu của các doanh nghiệp,
cá nhân và cơ quan chính phủ”. Ngân hàng cung cấp nhiều hình thức cho vay đa dạng,
phù hợp với mọi đối tượng khách hàng.
- Cho vay thấu chi. Theo qui chế cho vay 1627 do NHNN Việt Nam ban hành, cho
vay theo hạn mức thấu chi là “việc cho vay mà tổ chức tín dụng thỏa thuận bằng văn
bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách
hàng phù hợp với các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về
hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.”

Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi.
Số tiền lãi mà khách hàng phải trả =lãi suất thấu chi*thời gian thấu chi*số tiền
Đây là hình thức vay tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, chủ động và kịp thời,
đồng thời có thủ tục đơn giản, linh hoạt không gây phiền hà nhiều cho khách hàng.
Tuy nhiên, hình thức vay này không có đảm bảo và ngân hàng không kiểm soát
được mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng, vì vậy hình thức này chỉ được áp dụng
cho những khách hàng quen thuộc và có uy tín.
- Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay tương đối phổ biến đối với các
khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên.
Mỗi lần vay, khách hàng và ngân hàng phải làm những thủ tục vay vốn cần thiết
và ký kết hợp đồng tín dụng. Nghiệp vụ này tương đối đơn giản và ngân hàng có thể dễ
dàng kiểm soát mục đích sử dụng vốn vay và hạn chế rủi ro do khách hàng phải làm
đơn và trình phương án vay.
- Cho vay theo hạn mức: Với hình thức này, tổ chức tín dụng và khách hàng xác
định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
Hạn mức tín dụng có thể được tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ và là số dư tối đa tại thời
điểm tính.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách
hàng. Đây là hình thức cho vay thuận tiện với những khách hàng có quan hệ vay mượn
thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh và tốc
độ lưu chuyển vốn tín dụng nhanh.
- Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa,
ngân hàng cho vay khi doanh nghiệp thiếu vốn khi mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh
nghiệp bán hàng. Ngân hàng sẽ yêu cầu doanh nghiệp cam kết sử dụng mọi khoản thu
bán hàng để trả nợ trước khi thanh toán cho nhà cung cấp và các khoản phải thu cùng
hàng hóa trong kho đều trở thành tài sản đảm bảo cho khoản vay.
- Cho vay trả góp: Là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng
trả nợ gốc làm nhiều lần trong thời hạn thỏa thuận. Hình thức này nhằm tài trợ khuyến
khích tiêu thụ hàng hóa và áp dụng tài trợ cho tài sản cố định và các hàng hóa lâu bền.
- Cho vay gián tiếp: Là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân

hàng cho vay thông qua các nhóm sản xuất, hợp tác xã,… Các tổ chức trung gian này
đứng ra tín chấp cho các thành viên vay vốn hoặc bảo lãnh cho các thành viên, điều này
tạo thuận tiện cho những người vay khi họ không có hoặc không đủ tài sản thế chấp.
1.1.3.3. Hoạt động cho thuê tài chính
Cho thuê tài chính thường là hình thức tín dụng trung và dài hạn, trong đó ngân
hàng mua tài sản và cho khách hàng thuê với thời hạn nhất định, sao cho ngân hàng
phải thu được gần đủ giá trị của tài sản cho thuê cộng thêm một khoản lãi. Theo phương
thức này, người thuê được sử dụng tài sản mà mình cần trên cơ sở đi thuê, giúp công ty
giảm bớt được chi phí mua mà thay vào đó là chi tiền thuê tài sản hàng kỳ cho ngân
hàng.
Cho thuê tài chính có những điểm giống và điểm khác với cho vay truyền thống.
Trước hết, ngân hàng xuất tiền với kỳ vọng thu về cả gốc và lãi sau một thời hạn nhất
định, cũng như phải đối đầu với rủi ro khi khách hàng kinh doanh không hiệu quả,
không trả tiền thuê đầy đủ và đúng hạn. Tuy nhiên, với hình thức này, tài sản cho thuê
vẫn thuộc sở hữu của ngân hàng, do đó ngân hàng có quyền thu hồi nếu việc sử dụng
không đúng mục đích. Cho thuê tài chính cũng không có tài sản đảm bảo, đồng thời có
những tài sản cho thuê đặc thù đòi hỏi chi phí cao nên rủi ro đối với ngân hàng là khá
cao.
1.1.3.4. Hoạt động bảo lãnh
Theo PGS.TS Phan Thị Thu Hà, Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB Đại học
KTQD, “bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh
về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng
không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết.”
Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín, trong đó ngân hàng chỉ phải xuất
tiền khi khách hàng không thực hiện được cam kết. Bảo lãnh được coi như tài sản ngoại
bảng và khi ngân hàng đứng ra trả nợ thay cho khách hàng, khoản chi trả này được
chuyển vào nội bảng, cấu thành nợ quá hạn. Vì vậy, bảo lãnh cũng chứa đựng rủi ro như
một khoản vay truyền thống và ngân hàng cần phải phân tích khách hàng như khi thực
hiện các khoản vay khác.
Bảo lãnh được thực hiện dưới nhiều hình thức, nhưng chủ yếu bao gồm:

×