Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.93 KB, 22 trang )

CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm rủi ro tín dụng và bản chất rủi ro tín dụng:
Có rất nhiều khái niệm về rủi ro như là: “Rủi ro là sự không chắc chắn mang
tính khách quan về khả năng xẩy ra một sự kiện không mong muốn”. Như vậy,
dù con người có nhận biết được rủi ro hay không thì nó vẫn tồn tại. Hay một
khái niệm khác là: “Rủi ro là sự không chắc chắn về tổn thất”. ở Việt Nam trong
từ điển kinh tế học hiện đại, rủi ro được định nghĩa: “Rủi ro là hoàn cảnh trong
đó một sự kiện xẩy ra với một xác suất nhất định hoặc trong trường hợp quy mô
của sự kiện đó có một phân phối xác suất”.
Khái niệm về rủi ro tín dụng:
Theo Timothy W-Koch: Khi một ngân hàng nắm giữ tài sản sinh lời, rủi ro
xảy ra khi khách hàng sai hẹn - có nghĩa là khách hàng không thanh toán vốn
gốc và lãi theo thoả thuận. Rủi ro tín dụng có sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập
thuần và thị giá của vốn xuất phát từ việc khách hàng không thanh toán hoặc
thanh toán trễ hạn (Bank management, University of South Carolina, The
Dryden Press, 1995, pay 107).
Rủi ro tín dụng là thiệt hại kinh tế của ngân hàng do một khách hàng hoặc
một nhóm khách hàng không hoàn trả được nợ vay cho ngân hàng.
Từ các khái niệm trên, chúng ta có thể rút ra các nội dung cơ bản về rủi ro tín
dụng như sau:
- Rủi ro tín dụng khi người đi vay sai hẹn (default) trong thực hiện nghĩa vụ
trả nợ theo hợp đồng bao gồm vốn gốc và/ hoặc lãi. Sự sai hẹn có thể là trễ hẹn
(delayed paymet) hoặc không thanh toán (non-payment).
- Rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến tổn thất về tài chính, tức làm giảm thu nhập
ròng. Trong trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến thua lỗ hoặc ở mức độ cao
hơn có thể dẫn đến phá sản.
Những biểu hiện của rủi ro tín dụng được thể hiện ở mô hình sau:
2. Đặc điểm của rủi ro tín dụng:
- Rủi ro tín dụng mang tính gián tiếp: Đặc điểm này xuất phát từ trong
quan hệ tín dụng, có sự chuyển giao vốn giữa ngân hàng và khách hàng và có sự


tách rời giữa quyền sử dụng vốn và quyền sở hữu vốn trong một khoảng thời
gian nhất định. Do đó, nếu khách hàng mà làm ăn thua lỗ, sử dụng vốn không
hiệu quả, năng lực tài chính khách hàng kém... sẽ gây rủi ro cho khách hàng và
dẫn đến rủi ro cho ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng, phức tạp: Do mỗi quan hệ tín dụng
có những đặc điểm riêng, do đó rủi ro trong mỗi trường hợp cụ thể cũng khác
nhau.
RỦI RO TÍN DỤNG
Không thu được
vốn đúng hạn
Không thu đủ
vốn cho vay
Không thu
đủ lãi
Không thu được
lãi đúng hạn
Phát sinh nợ quá
hạn
Phát sinh nợ khó
đòi
Phát sinh lãi treo
đóng băng
Phát sinh lãi treo
Khả năng thanh toán giảm, Hiệu quả kinh doanh giảm, Thất thoát
vốn, Phá sản.
- Rủi ro tín dụng luôn gắn liền với hoạt động kinh doanh ngân hàng:
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, hoạt động tín dụng luôn đi liền với rủi
ro. Khi một khoản tín dụng được thiết lập thì đồng thời với nó là một mức rủi ro
tiềm ẩn. Vì không có sự cân xứng thông tin giữa ngân hàng và khách hàng:
Ngân hàng thì muốn tìm hiểu toàn bộ thông tin về khách hàng một cách chính

xác, còn khách hàng luôn muốn làm đẹp các thông tin trước khi cung cấp cho
ngân hàng. Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh của khách hàng còn bị tác động
bởi nhiều yếu tố khách quan như kinh tế - xã hội, pháp luật... và các yếu tố chủ
quan như năng lực quản lý của các nhà lãnh đạo... Vì vậy khoản tín dụng đó
luôn tiềm ẩn rủi ro.
3. Tác động của RRTD
3.1. Tác động rủi ro tín dụng đối với ngân hàng:
- Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín của ngân hàng: Đối với mỗi ngân hàng,
uy tín giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong hoạt động kinh doanh. Với hoạt
động cơ bản là huy động vốn, các ngân hàng luôn mong muốn tạo dựng uy tín
để huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế, các cá nhân. Trong trường hợp xảy
ra rủi ro tín dụng sẽ tác động xấu đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng, dẫn
đến khả năng không thu hồi được gốc và lãi, lợi nhuận giảm, nợ xấu tăng lên.
Đây là nguyên nhân trực tiếp làm giảm sút uy tín của ngân hàng
- Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng: Ngân
hàng luôn luôn phải duy trì khả năng thanh toán của mình trong mọi trường
hợp. Bất cứ khi nào người gửi tiền đến rút khoản tiền mà họ gửi tại ngân hàng
thì ngân hàng đều phải chi trả đầy đủ cả gốc và lãi. Với vai trò là trung gian huy
động nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức, cá nhân để cho vay nhằm tìm kiếm
lợi nhuận, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán nguồn vốn mà ngân
hàng đã huy động được khi xảy ra rủi ro tín dụng. Khi đó, ngân hàng bị tổn thất
về nguồn vốn nhưng vẫn phải thanh toán đầy đủ cho các khoản nợ và khoản vay
của ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận của ngân hàng: Với mỗi ngân hàng,
lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay chiếm tỷ lệ rất lớn, từ 40-80% tổng lợi
nhuận. Rủi ro tín dụng làm cho ngân hàng mất một phần lợi nhuận do không thu
được lãi cho vay, đồng thời, ngân hàng phải bù đắp phần gốc vay không thu hồi
được từ quỹ dự phòng rủi ro tín dụng. Điều này làm cho lợi nhuận của ngân
hàng còn lại càng bị thấp.
- Rủi ro tín dụng có thể dẫn tới phá sản ngân hàng: Khi rủi ro tín dụng xảy

ra sẽ làm giảm uy tín, giảm khả năng thanh toán, giảm lợi nhuận và hậu quả xấu
nhất là dẫn đến phá sản ngân hàng. Đó là khi mà tổn thất tín dụng xảy ra với
quy mô lớn mà ngân hàng không thể chống đỡ được
3.2. Tác động của rủi ro tín dụng đối với nền kinh tế:
Ngân hàng - tài chính là lĩnh vực có ảnh hưởng sâu sắc đối với nền kinh
tế. Hoạt động ngân hàng có liên quan chặt chẽ đến tất cả các tổ chức kinh tế,
chính trị, xã hội và cá nhân, hộ gia đình... Khi nền kinh tế càng phát triển thì
ngân hàng càng giữ vai trò quan trọng. Rủi ro tín dụng gây ra những hậu quả
xấu cho chính ngân hàng như: giảm khả năng thanh toán, giảm uy tín, giảm lợi
nhuận, đồng thời cũng gây ra những tác động xấu cho nền kinh tế. Sự sụp đổ
của các ngân hàng sẽ kéo theo sự xáo trộn rất lớn đối với kinh tế, xã hội. Người
gửi tiền bị mất vốn, có thể bị khánh kiệt; các doanh nghiệp không có vốn để tiếp
tục duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, sản xuất bị đình trệ, hàng hóa sản
xuất ra không tiêu thụ được... Như vậy hậu quả tất yếu là dẫn đến suy thoái kinh
tế. Rủi ro tín dụng không chỉ ảnh hưởng đến kinh tế của một nước mà ảnh
hưởng sâu rộng đến nền kinh tế khu vực và thế giới. Bởi vì hiện nay, quan hệ tín
dụng không chỉ hạn chế trong phạm vi một nước mà còn tồn tại quan hệ tín
dụng toàn cầu, cho vay giữa các quốc gia với nhau. Do đó khi rủi ro tín dụng
xảy ra có thể tác động đến nền kinh tế.
4. Nguyên nhân rủi ro tín dụng
4.1. Nguyên nhân khách quan
 Môi trường kinh tế không ổn định:
- Kinh tế Việt Nam còn phụ thuộc quá nhiều vào nông nghiệp, các ngành
công nghiệp phục vụ nông nghiệp vốn chịu sự chi phối lớn của yếu tố thời tiết
và giá cả thị trường thế giới. Giá nguyên liệu đầu vào,giá xăng dầu tăng…ảnh
hưởng không nhỏ đến hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất- kinh doanh mặt
hàng phải nhập khẩu, trong khi đó các doanh nghiệp xuất khẩu cũng chịu các
tác động do sự biến động bất lợi của tỷ giá, sự khống chế hạn ngạch của nước
nhập khẩu, các vụ kiện bán phá giá, các tiêu chuẩn chất lượng ngày càng khắt
khe… Khi các doanh nghiệp Việt Nam - đối tác chủ yếu của các ngân hàng gặp

rủi ro trong kinh doanh sẽ kéo theo rủi ro thanh toán, trả nợ cho chính ngân
hàng.

 Bất cập do môi trường pháp lý: chưa có cơ chế cho phép các ngân
hàng thực hiện việc thu hồi và thanh lý nhanh chóng thuận lợi tài sản đảm bảo
của các tổ chức cá nhân khi vỡ nợ ngân hàng. Các văn bản pháp luật có quy
định: Trong những hợp khách hàng không trả được nợ, NHTM có quyền xử lý
tài sản đảm bảo nợ vay. Trên thực tế, các NHTM không làm được điều này vì
ngân hàng là một tổ chức kinh tế, không phải là cơ quan quyền lực nhà nước,
không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng bàn giao tài sản đảm bảo cho
ngân hàng để xử lý hoặc việc chuyển tài sản đảm bảo nợ vay để Tòa án xử lý
qua con đường tố tụng… cùng nhiều các quy định khác dẫn đến tình trạng
NHTM không thể giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn đọng.
 Từ phía khách hàng: rủi ro đạo đức xuất phát từ phía người vay chia
làm 2 loại: không thực hiện nghĩa vụ và không có khả năng thực hiện nghĩa vụ
như cam kết. Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương
án kinh doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục
đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên lại
có tính chất nguy hiểm mà ngân hàng sẽ khó dự báo hơn. Nhóm thứ hai trên
thực tế cũng xảy ra khá nhiều nhưng ngân hàng có thể xét gia hạn trả nợ nếu
cảm đánh giá thấy khả năng trả nợ trong tương lai của khách hàng.
4.2. Nguyên nhân chủ quan
Rủi ro từ phía ngân hàng:
- Từ phía nhà quản lý: Sự thành công của một ngân hàng phải kể đến trước
hết là vai trò của nhà lãnh đạo. Công tác đánh giá trình độ đạo đức, bố trí sử
dụng cán bộ không tốt có thể gây ra những rủi ro kinh doanh cho ngân hàng.
Hiện nay trước sự phát triển mạnh của các ngân hàng cổ phần, việc cạnh tranh
nguồn lực đang xảy ra rất gay gắt, nên vai trò của nhà quản lý càng cần fải được
thấy rõ và đề cao. Hơn nữa ở một số ngân hàng thẩm quyền phán quyết khoản
tín dụng lớn tập trung vào giám đốc hay một số người cũng hàm chứa rủi ro lớn

nếu như người có quyền phán quyết thiếu năng lực đánh giá hoặc cố ý làm trái
đạo đức vì mục đích cá nhân…
- Từ phía các cán bộ tín dụng: Cần nhấn mạnh rủi ro trong hoạt động ngân
hàng là khó tránh khỏi hoàn toàn xong có thể hạn chế nếu các cán bộ tín dụng
tuân thủ đúng quy trình từ xét duyệt, cho vay kiểm tra,giám sát sử dụng tiền
vay, thu hồi nợ, xử lý nợ nghi ngờ… Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố
tối quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về
năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại
giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác
tín dụng.
5. Các chỉ tiêu đánh giá và nhận biết rủi ro tín dụng
5.1. Tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá
hạn. Đây là một chỉ tiêu rất quan trọng đánh giá rủi ro tín dụng của một ngân
hàng. Để xem xét mức độ rủi ro tín dụng thông qua nợ quá hạn, ta dùng chỉ tiêu
“tỷ lệ nợ quá hạn”.
Tổng nợ quá hạn
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100%
Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN: Nợ quá hạn bao gồm nợ nhóm 2,
nhóm 3, nhóm 4, nhóm 5 quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7.
Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng càng
cao. Việc nợ quá hạn tăng chứng tỏ dư nợ khách hàng đang gặp khó khăn trong
việc trả nợ cao, do đó xác suất sau này khách hàng trả nợ cho ngân hàng là thấp.
Mặt khác, ngân hàng còn phải tăng chi phí trong việc giám sát, đôn đốc thu nợ
và các chi phí khác có liên quan khác có thể có như chi phí liên quan đến toà án,
tài sản đảm bảo, đặc biệt là chi phí cơ hội của việc thay vì cấp tín dụng cho một
khách hàng có khả năng thanh toán tốt hơn.
5.2. Tỷ lệ nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu = x 100%

Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN: Nợ xấu là các khoản nợ thuộc các
nhóm nợ 3, 4 và 5 quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7.
Tỷ lệ nợ xấu là một chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của TCTD. Nếu tỷ
lệ này cao thì rủi ro tín dụng cao vì đây là những khách hàng có dấu hiệu khó
khăn về tài chính nên khó trả nợ cho ngân hàng.
5.3. Tỷ lệ mất vốn
Tỷ lệ mất vốn = x 100%
Dư nợ xấu
Tổng dư nợ
Dư nợ có khả năng mất vốn
Tổng dư nợ
Theo Quyết định 493/QĐ-NHNN: Nợ có khả năng mất vốn chính là các
khoản nợ thuộc nhóm 5 quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7.
Tỷ lệ này càng cao thì thiệt hại cho ngân hàng càng lớn vì nó phản ánh
những khoản tín dụng mà ngân hàng có khả năng bị mất vốn và phải dùng quỹ
dự phòng để bù đắp.
5.4. Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN: Dự phòng rủi ro bao gồm: Dự
phòng chung và dự phòng cụ thể.
Số tiền dự phòng cụ thể phải trích được tính theo công thức:
R = max { 0, ( A-C ) } x r
Trong đó:
R: Là số tiền dự phòng cụ thể phải trích.
A: Là giá trị của khoản nợ.
C: Là giá trị của tài sản đảm bảo.
r: Là tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể.
Tỷ lệ trích lập dự phòng chung: Tổ chức tín dụng thực hiện trích lập và
duy trì dự phòng chung bằng 0,75% tổng giá trị của các khoản nợ từ nhóm 1
đến nhóm 4 quy định tại Điều 6 và Điều 7 quy định này.
Hai tỷ lệ này càng cao thì chứng tỏ rủi ro tín dụng càng cao vì dự phòng

trích lập nhiều sẽ làm tăng chi phí của ngân hàng dẫn đến giảm lợi nhuận, thậm
chí là gây thua lỗ cho ngân hàng.
5.5. Mức độ tập trung tín dụng
Mức độ tập trung tín dụng là tỷ trọng đầu tư vốn tín dụng phân theo đối
tượng khách hàng, từng nhóm khách hàng, từng ngành, từng thời hạn, từng loại

×