Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Vai trò của thẩm phán trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (731.15 KB, 94 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HÀ DUY HIỂN

VAI TRß CñA THÈM PH¸N
TRONG Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HÀ DUY HIỂN

VAI TRß CñA THÈM PH¸N
TRONG Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TSKH. LÊ VĂN CẢM

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
dưới sự hướng dẫn của GS-TSKH Lê Văn Cảm. Các kết quả nêu
trong Luận văn chưa từng được công bố trong một công trình khoa
học nào khác.
Tất cả các tư liệu được đề cập trong luận văn đều trung thực,
chính xác, có nguồn gốc, rõ ràng.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật - Đại học
Quốc Gia Hà Nội xem xét để tôi bảo vệ Luận văn.
Tôi xin trân thành cảm ơn!
Ngƣời cam đoan

Hà Duy Hiển


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN
TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ .............................. 10
1.1.
Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự ............ 10
1.1.1. Khái niệm vai trò của Thẩm phán ...................................................... 10
1.1.2. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với các chức danh tư pháp khác ........ 15
1.1.3. Các nguyên tắc cơ bản của hoạt động xét xử và sự tác động đến
vai trò hoạt động tố tụng Thẩm phán ................................................. 17
1.2.


Các mô hình tố tụng hình sự và vai trò của những ngƣời
tiến hành tố tụng ............................................................................... 21

Những yếu tố tác động đến vai trò của Thẩm phán trong
hoạt động tố tụng hình sự ................................................................ 25
1.3.1. Yếu tố truyền thống pháp lý ............................................................... 25
1.3.2. Yếu tố văn hóa pháp lý ....................................................................... 27
1.3.3. Những ảnh hưởng của phương thức tổ chức quyền lực nhà nước .......... 28
Kết luận Chƣơng 1 ........................................................................................ 31
1.3.

Chƣơng 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH
SỰ VIỆT NAM VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN VÀ THỰC
TIỄN THI HÀNH ............................................................................... 32
Lịch sử hình thành và phát triển của các quy định pháp luật
về vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự ở
nƣớc ta từ 1945 đến nay ................................................................... 32
2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1980 ............................................... 32
2.1.2. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992 ............................................... 35
2.1.


2.1.3. Giai đoạn từ năm 2002 đến nay ......................................................... 38
Vai trò của Thẩm phán trong thực tiễn hoạt động tố tụng
hình sự................................................................................................ 39
2.2.1. Vai trò của Thẩm phán trong việc thực hiện các quyền và nghĩa
vụ theo quy định của pháp luật luật tố tụng hình sự .......................... 39
2.2.2. Vai trò của Thẩm phán trong việc thực hiện các nguyên tắc cơ
bản của pháp luật tố tụng hình sự....................................................... 51

2.2.3. Vai trò của Thẩm phán với việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng
tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp ...................................... 58
Kết luận Chƣơng 2 ........................................................................................ 63
2.2.

Chƣơng 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH

3.1.

CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ VAI TRÒ
CỦA THẨM PHÁN TRƢỚC YÊU CẦU CẢI CÁCH TƢ
PHÁP Ở VIỆT NAM ....................................................................... 64
Sự cần thiết của công cuộc cải cách tƣ pháp ................................. 64

Những yêu cầu cơ bản về việc cải cách hoạt động của Tòa
án và Thẩm phán .............................................................................. 68
3.2.1. Về việc cải cách hoạt động đối với Tòa án ........................................ 70
3.2.2. Về việc cải cách hoạt động đối với Thẩm phán ................................. 72
3.3.
Xác định vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống tƣ pháp ....... 73
3.2.

Một số vấn đề kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật tố tụng về vai trò của Thẩm phán ................................. 75
3.4.1. Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà .............................. 75
3.4.2. Nâng cao tính độc lập trong hoạt động xét xử của Thẩm phán ......... 76
3.4.3. Đổi mới về cơ chế hoạt động của Tòa án trên cơ sở đó hoàn
thiện vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự ........... 77
3.4.4. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật để
nâng cao vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự ........ 78

Kết luận Chƣơng 3 ........................................................................................ 80
3.4.

KẾT LUẬN .................................................................................................... 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 84


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLTTHS:

Bộ Luật tố tụng hình sự

HĐXX:

Hội đồng xét xử

TAND:

Tòa án nhân dân

TANDTC:

Tòa án nhân dân Tối cao

TAQS:

Tòa án Quân sự

XHCN:


Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 02/6/2005 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về
Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 theo tinh thần Nghị quyết Đại hội
IX của Đảng về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế. Cùng với
Hiến pháp năm 2013 đi vào cuộc sống, bảo đảm tính thượng tôn Hiến pháp,
đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả cải cách tư pháp, một nhiệm vụ lớn và trọng
tâm lúc này là căn chỉnh, hoàn thiện hệ thống pháp luật về tư pháp cho phù
hợp với tinh thần và nội dung của Hiến pháp năm 2013 và các định hướng của
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Mục tiêu cải cách tư pháp thời kỳ thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước là xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong đó cải cách Tòa án và hoạt động xét xử là
trung tâm của cải cách tư pháp với khâu đột phá là mở rộng tranh tụng dân chủ
trong xét xử.
Để đạt mục tiêu đó, Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra 5
phương hướng và 7 nhóm giải pháp, tập trung vào cải cách pháp luật nội dung
(hình sự, dân sự, hành chính...) và pháp luật tố tụng; cải cách tổ chức các cơ
quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp; xây dựng và nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp;
phát huy vai trò giám sát của cơ quan dân cử, của công luận, của nhân dân và
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tư pháp và cơ quan tư
pháp. Nghị quyết xác định Tòa án giữ vai trò trung tâm trong hệ thống tư
pháp, hoạt động của Tòa án là trọng tâm của hoạt động tư pháp. Đây là bước


1


phát triển mới về nhận thức lý luận trong lĩnh vực tư pháp nhằm thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX với mục tiêu xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X, XI tiếp tục khẳng định nhiệm vụ: “Cải cách tư pháp khẩn trương,
đồng bộ, lấy cải cách hoạt động xét xử làm trung tâm” [18, tr.127].
Trước yêu cầu hội nhập sâu rộng nhằm nâng cao vị thế, vai trò của Việt
Nam với cộng đồng Quốc tế trên tất cả các lĩnh vực với mục tiêu Việt Nam
muốn làm bạn, làm đối tác tin cậy, là nước có trách nhiệm trong việc giải
quyết các vấn đề Quốc tế có liên quan và một trong những lĩnh vực trọng tâm
là Việt Nam đang quan tâm thực hiện cải cách hành chính, cải cách pháp luật
một cách đồng bộ phù hợp với luật pháp Quốc tế.
Hiến pháp 2013 quy định “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” [33, Khoản 3],
trên tinh thần đó, vấn đề đặt ra cho các cơ quan Tư pháp Việt Nam nói chung
và ngành Tòa án nói riêng nhiều thách thức thực sự là cơ quan bảo vệ công lý
và công bằng xã hội. Việt Nam đã và sẽ tham gia thực hiện các công ước, điều
ước quốc tế khi gia nhập và trở thành thành viên, đòi hỏi hệ thống pháp luật
bao gồm cả luật nội dung và luật tố tụng cần được sớm hoàn thiện. Thực tiễn
trên đây đã đặt ra cho các Thẩm phán Việt Nam không những cần phải có kiến
thức sâu rộng trong nhiều lĩnh vực luật nội dung mà còn phải hiểu biết và áp
dụng thành thạo luật tố tụng liên quan để giải quyết các loại vụ án tranh chấp.
Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Tòa án đã tiến hành
xét xử theo hướng nâng cao vai trò tranh tụng, đảm bảo quyền của bị cáo và
những người tham gia tố tụng. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ

Chính trị xác định rõ nhiệm vụ cải cách tư pháp đến năm 2020 là phải nâng

2


cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng
hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân, đổi mới việc tổ chức
phiên toà xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến
hành tố tụng theo hướng đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng
cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của
hoạt động tư pháp. Thực hiện các Nghị quyết của Đảng về chiến lược cải cách
tư pháp, cùng với Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 được Quốc hội khóa
XIII (kỳ họp thứ tám) thông qua ngày 24/11/2014 có hiệu lực ngày 01/6/2015;
Bộ Luật Hình sự sửa đổi 2015, Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi 2015 được
Quốc hội khóa XIII (kỳ họp thứ mười) thông qua ngày 27/11/2015 có hiệu lực
ngày 01/7/2015, thì Ngành Tòa án Việt Nam đang thực sự đổi mới về tổ chức
và hoạt động; tăng cường quản lý, nâng cao năng lực của đội ngũ Thẩm phán
để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Gắn liền với hoạt động của Tòa án là
Thẩm phán, Thẩm phán là một trong số những người tham gia tố tụng giữ vai
trò then chốt trong quá trình cải cách tư pháp nói chung, đặc biệt là việc thực
hiện các mục tiêu mà Nghị quyết Đảng đã đề ra. Vai trò của Thẩm phán trong
tố tụng hình sự là một nội dung rất quan trọng, một mắt xích không thể thiếu
trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Do vậy, việc nghiên cứu về vai trò
của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự là một việc làm cần thiết góp
phần thực hiện thành công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Một trong những nội dung của Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp
là: “Bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những
người tham gia tố tụng khác...; việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ

yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa” [6]. Một phiên tòa nói chung và
phiên tòa sơ thẩm hình sự nói riêng có bảo đảm tính chất tranh tụng hay

3


không phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Vai trò của Hội đồng xét xử, của
Kiểm sát viên, của Luật sư, của những người tiến hành tố tụng và người tham
gia tố tụng khác, nhưng vai trò của chủ tọa phiên tòa là quan trọng nhất. Kết
quả phiên tòa phụ thuộc chủ yếu vào vai trò của chủ tọa phiên tòa. Vì vậy, tác
giả đã chọn đề tài: “Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam”
để làm luận văn thạc sỹ. Thông qua đề tài này, tác giả muốn làm rõ thêm vai
trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam, từ đó đề xuất
một số vấn đề hoàn thiện các quy định của pháp luật về vai trò của Thẩm
phán trước yêu cầu cải cách tư pháp, nhằm nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa
án trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Các sách (sách chuyên khảo, sách tham khảo, sách hướng dẫn
và giáo trình)
1). GS.TSKH Lê Cảm (2003) “Nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống
các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự”, Tạp chí luật học.
2). GS.TSKH Lê Cảm (chủ biên) “Hệ thống tư pháp hình sự trong giai
đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền" Sách chuyên khảo, Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội 2009.
3). PGS.TS. Phạm Hồng Hải (2003), “Mô hình lý luận Bộ luật tố tụng
hình sự Việt Nam”. Nxb Công an nhân dân, Hà Nội
4). PGS.TS Nguyễn Đăng Dung (2004), “Thể chế tư pháp trong nhà
nước pháp quyền”. Nxb Tư pháp, Hà Nội
5). PGS.TS Đinh Văn Quế (2005), “Pháp luật hình sự thực tiễn xét xử
và án lệ”. Nxb Lao động - Xã hội.

6). PGS. TS Võ Khánh Vinh (2007) "Bình luận khoa học Bộ luật tố
tụng hình sự". Nxb Công an nhân dân.

4


Đặc biệt trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2014 đã có hàng loạt
các bài viết khoa học đã được đăng trên các tạp chí như: Tạp chí Tòa án
nhân dân (thuộc Tòa án nhân dân Tối cao), Tạp chí Kiểm sát (thuộc Viện
Kiểm sát nhân dân Tối cao) mà ở các mức độ đánh giá, phân tích khác
nhau có liên quan đến đề tài này, cụ thể:
1). “Tăng cường tính độc lập của các Thẩm phán trong hoạt động xét
xử ở Việt Nam” Cổng thông tin điện tử Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh.
Trích dẫn từ:
2). Quách Thành Vinh – Tòa án Quân sự Trung ương; Đàm Kim Yến Tòa phúc thẩm, TANDTC (2010) “Mấy vấn đề áp dụng pháp luật trong xét xử”.
Tạp chí Tòa án nhân dân – Tòa án nhân dân Tối cao số 19, tháng 10/2010.
3). GS.TSKH Lê Văn Cảm (2011) "Tòa án là trung tâm – Xét xử là
trọng tâm trong tố tụng hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp". Tạp chí Tòa
án nhân dân – Tòa án nhân dân Tối cao số 9, tháng 5/2011.
4). GS.TSKH Lê Văn Cảm (2011) "Những vấn đề cơ bản về tổ chức –
Thực hiện quyền tư pháp trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền".
Tạp chí Tòa án nhân dân – Tòa án nhân dân Tối cao số 13, tháng 5/2011.
5). GS.TSKH Lê Văn Cảm (2011) "Hoàn thiện nguyên tắc tranh tụng
trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam theo tinh thần cải cách tư pháp".
Tạp chí Kiểm sát – Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao số 11, tháng 6/2011.
6). “Tổng hợp những vướng mắc về tố tụng hình sự, dân sự, hôn nhân
gia đình, kinh doanh, thương mại”. Tạp chí Tòa án nhân dân – Tòa án nhân
dân Tối cao tháng 12/2011.
7). Thạc sỹ Trần Duy Bình – Tòa án nhân dân tỉnh An Giang (2012)
“Thực tiễn và một số kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc Khi xét

xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Tạp chí Tòa
án nhân dân – Tòa án nhân dân Tối cao số 11, tháng 6/2012.

5


8). Nguyễn Quang Ngọc - Nguyên Thẩm phán TANDTC (2013) “ Bàn
về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung”. Tạp chí Tòa án nhân dân - Tòa án
nhân dân Tối cao số 8, tháng 4/2013.
9). Thạc sỹ Nguyễn Văn Trượng (2013) “Hoàn thiện thủ tục xét xử vụ
án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp”. Tạp chí Tòa án nhân dân – Tòa án
nhân dân Tối cao số 19,tháng 10/2013.
10). Thạc sỹ Nguyễn Thị Thúy Hằng, Giảng viên khoa Luật – Đại học
Huế (2014) “Một số kiến nghị góp phần thực hiện có hiệu quả nguyên tắc
tranh tụng tại phiên tòa hình sự”. Tạp chí Tòa án nhân dân – Tòa án nhân
dân Tối cao số 11, tháng 6/2014.
11). Thạc sỹ Nguyễn Văn Nhớ, Thẩm phán Tòa án Quân sự khu vực 1 Quân khu 9 (2014) “Hoàn thiện quy định về quyền hạn, trách nhiệm của Chủ
tọa phiên tòa trong tố tụng hình sự theo yêu cầu của cải cách tư pháp”. Tạp
chí tòa án nhân dân – Tòa án nhân dân Tối cao số 14, tháng 7/2014.
12). Nguyễn Quang Lộc - Nguyên Thẩm phán TANDTC “Kỹ năng viết
Bản án hình sự sơ thẩm”. Tạp chí Tòa án nhân dân – Tòa án nhân dân Tối
cao số 17, tháng 9/2014.
13). “Đổi mới và tăng cường công tác thông tin - tuyên truyền về tòa án
nhân dân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị
quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị”. Tạp chí Tòa án nhân dân - Tòa án nhân
dân Tối cao số 02 - tháng 01/2015
2.2. Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng nói chung và
trong tố tụng hình sự nói riêng đã có một số công trình nghiên cứu của các
tác giải như
1). Luận án Tiến sỹ của tác giả Đỗ Gia Thư (2006) “Cơ sở khoa học

của việc xây dựng đội ngũ thẩm phán ở nước ta hiện nay”.
2). Tiến sỹ Phạm Văn Lợi (2004), “Chế định thẩm phán - Một số

vấn đề lý luận và thực tiễn” Nxb Tư pháp.

6


3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích đánh giá thực trạng về vai trò của
Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp
trong giai đoạn hiện nay để làm sáng tỏ một số nội dung sau:
1) Đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật về tố tụng hình sự
hiện hành về vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự.
2) Vai trò của Thẩm phán trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và
thực tiễn thi hành.
3) Nhận diện được những hạn chế, bất cập và đề xuất những giải pháp
hoàn thiện về vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
1) Nghiên cứu, phân tích, đánh giá những đặc điểm của các mô hình tố
tụng hình sự để làm rõ thêm vai trò của Thẩm phán tương ứng với từng mô
hình tố tụng hình sự.
2) Đánh giá những kết quả và hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật
của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự ở nước ta thời gian vừa qua.
3) Đề xuất một số vấn đề nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự về vai trò của Thẩm phán trước yêu cầu yêu cầu cải cách tư pháp
đối với Ngành Tòa án nói chung và Thẩm phán nói riêng.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên nền tảng cơ sở phương pháp luận chủ

nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các
quan điểm, tư tưởng của Đảng, Nhà nước về Nhà nước và pháp luật, về cải
cách tư pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xét xử các vụ án hình sự đối
với ngành Tòa án nói chung và Thẩm phán nói riêng.

7


5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật về vai trò của
Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay;
Thẩm phán trong hoạt động thực tiễn xét xử.
Luận văn có tham khảo kinh nghiệm pháp luật tố tụng hình sự của một
số quốc gia và một số công trình nghiên cứu của các tác giả, nhà khoa học
pháp lý chuyên ngành.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự được thể hiện ở
tất cả các giai đoạn xét xử như: giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm. Phạm vi nghiên cứu về Vai trò của Thẩm phán trong hoạt
động tố tụng ở tất cả các giai đoạn trên có tính chất đa dạng, phức tạp và rộng
lớn và được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.
Tuy nhiên bản thân tác giả hiện đang công tác trong ngành thi hành án
dân sự cấp huyện, vì vậy trong quá trình nghiên cứu viết Luận văn do nhận
thức trong công tác nghiên cứu còn có mặt hạn chế, nên tác giả chỉ giới hạn
trong việc nghiên cứu về vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình
sự Việt Nam ở giai đoạn xét xử sơ thẩm về các vụ án hình sự.
6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý
luận vì đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo về vai trò của Thẩm phán trong

hoạt động tố tụng hình sự. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn là:
6.1. Kiến nghị những giải pháp để nâng cao tính độc lập trong mối
quan hệ với các cơ quan, cá nhân bên ngoài hệ thống Toà án
6.2. Đổi mới về cơ chế hoạt động của Toà án trên cơ sở đó hoàn thiện
vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự

8


6.3. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện các tiêu chuẩn bổ nhiệm,
nâng ngạch, chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, phần Kết luận và phần Danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố
tụng hình sự
Chương 2: Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về
vai trò của Thẩm phán và thực tiễn thi hành.
Chương 3: Một số vấn đề hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về vai trò của Thẩm phán trước yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam.

9


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ
CỦA THẨM PHÁN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm vai trò của Thẩm phán
Theo “Đại từ điển tiếng việt” của tác giả Nguyễn Như Ý (chủ biên) và

một số đồng tác giả khác thì vai trò được hiểu như sau “Vai trò, chức năng,
tác dụng của cái gì, hoặc của ai đó trong sự vận động, phát triển của nhóm,
tập thể nói chung” [54, tr.1736].
Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản
lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp giao nhiệm vụ xét xử cho
cơ quan Tòa án nhân dân và Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Tòa án nhân dân thực hiện chức năng xét xử của mình thông qua các
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân năm 2002 quy định: “Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy
định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những
việc khác thuộc Thẩm quyền của Tòa án” [49, Điều 1].
Thẩm phán là người thay mặt cho Tòa án thực hiện chức năng xét xử,
vì vậy thông qua hoạt động xét xử của mình thì Thẩm phán cũng góp phần về
việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể,
bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của nhân dân. Hoạt
động của Thẩm phán là một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng
hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Trong quá trình tố tụng, vai trò của Thẩm phán là rất quan trọng, thậm

10


chí có thể cho rằng họ có vai trò gần như quyết định đến chất lượng trong quá
trình tranh tụng. Mặc dù Thẩm phán không trực tiếp tham gia với tư cách là
một chủ thể, nhưng với tư cách là người đại diện cho Nhà nước trong việc
thực thi công lý, Thẩm phán còn có vai trò là trọng tài, là người hướng dẫn
cho các bên đương sự thực hiện quyền tranh tụng theo đúng quy định của
pháp luật. Thông qua kết quả tranh tụng, Thẩm phán đánh giá nội dung thực

chất của vụ án, các chứng cứ, trên cơ sở đó căn cứ các quy định của pháp luật
để ra một Bản án đúng đắn.
Ngoài ra Thẩm phán còn thể hiện vai trò quan trọng trong việc tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho nhân dân thông qua hoạt động xét xử.
Thẩm phán đã thay mặt cho Tòa án nhân dân giáo dục công dân chấp hành
nghiêm pháp luật, đồng thời phát huy tác dụng phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm.
Hoạt động tố tụng hình sự được chia ra nhiều giai đoạn khác nhau, tương
ứng với mỗi giai đoạn đó có các cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau. Các cơ
quan tiến hành tố tụng gồm có: Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát, Toà án và
trong mỗi cơ quan tiến hành tố tụng, pháp luật quy định những người có thẩm
quyền thực hiện các hành vi tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Và những người đó được gọi là những người tiến hành tố tụng với địa vị pháp
lý và vai trò hoạt động rất khác nhau. Những người tiến hành tố tụng này có
chức năng nhiệm vụ và quyền hạn riêng nhưng đều có trách nhiệm là phát hiện
nhanh chóng chính xác và xử lý công minh, kịp thời, khách quan mọi hành vi
phạm tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Tại Toà án, những người tiến hành tố tụng gồm có: Chánh án, Phó
Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký toà án. Điều 66 Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì Thẩm phán có 4 ngạch gồm: Thẩm phán
TANDTC, Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp. Hoạt
động xét xử của Thẩm phán được coi là một nghề đó là nghề xét xử. Thẩm

11


phán đại diện cho quyền lực tư pháp, quyền lực nhà nước, nhân danh nhà nước
là "tượng trưng cho khát vọng của mọi tầng lớp, giai cấp trong xã hội về chân,
thiện, mỹ về một hệ thống tiêu chí đạo đức: sống làm người” [39, tr.37].
Thẩm phán là một chức danh tư pháp, theo Giáo sư, Tiến sỹ Võ Khánh Vinh:
"Chức danh tư pháp bao gồm những người thực thi nhiệm vụ

trong các cơ quan tư pháp (điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án)
được đào tạo kỹ năng thực hành nghề và hành nghề theo một
chuyên môn nhất định, có danh xưng, được bổ nhiệm hoặc thừa
nhận theo pháp luật khi đáp ứng đẩy đủ các tiêu chuẩn và điều kiện
xác định theo quy định của pháp luật" [53, tr.43].
Do vậy, chức danh tư pháp theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam bao
gồm: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Thư ký toà án, Hội thẩm nhân
dân, Thẩm tra viên.
Trong các chức danh tư pháp thì Thẩm phán được xác định là một
chức danh tư pháp quan trọng và có vai trò quyết định đến việc thực hiện
quyền tư pháp.
Nghị Quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó xác định trọng tâm là xây dựng,
hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân và nâng cao kỹ năng
thực hành nghề nghiệp của Thẩm phán.
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể rút ra khái niệm Thẩm phán
như sau: “Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để
làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc Thẩm
quyền của Tòa án”
Từ khái niệm trên thì vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng
hình sự được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
Một là: Những quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của
Thẩm phán trong tố tụng hình sự.

12


Hai là: Những quy định của pháp luật về vị trí, vai trò của Thẩm phán
trong tố tụng hình sự.
1) Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán

Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán được quy định tại
khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013; Điều 65, 76 Luật Tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2014; Điều 39 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 45 Bộ
luật tố tụng hình sự sửa đổi năm 2015); Điều 11, 12, 13, 14, 15, 16 Pháp lệnh
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán về nguyên tắc phải được xác
định đầy đủ trên cơ sở vai trò, vị trí, chức năng nhiệm vụ của Thẩm phán
trong tố tụng hình sự. Mặt khác, chúng phải được pháp luật quy định cụ thể rõ
ràng và chặt chẽ. Có như vậy mới đảm bảo cho Thẩm phán hoàn thành hiệu
quả nhiệm vụ xét xử của mình, tránh tình trạng tuỳ tiện hay lạm dụng quyền
hạn trong thực tiễn xét xử.
Nhiệm vụ quyền hạn của Thẩm phán trong mỗi một giai đoạn lịch sử cụ
thể cũng cần có những thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế song vẫn
dựa trên những nguyên tắc chung của tố tụng hình sự và nhằm mục đích là
thực hiện chức năng xét xử theo quy định của pháp luật.
2) Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tư pháp hình sự
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, thì tại phiên toà
sơ thẩm hình sự, Chủ tọa phiên toà vừa là người tiến hành tố tụng vừa là
người điều khiển toàn bộ hoạt động tố tụng tại phiên tòa của những người tiến
hành tố tụng và người tham gia tố tụng khác.
Với vai trò là người tiến hành tố tụng, chủ tọa phiên tòa phải thực hiện
đầy đủ, chính xác các công việc mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định đối với
chủ tọa phiên tòa, đồng thời chịu trách nhiệm chính về những vấn đề Bộ luật tố
tụng hình sự quy định đối với Hội đồng xét xử, thay mặt Hội đồng xét xử công

13


bố những quyết định đã được thông qua trong phòng nghị án cũng như tại
phòng xử án.

Với vai trò của người điều khiển phiên tòa, chủ tọa phiên tòa phải là
người tổ chức, người chỉ huy cao nhất đối với mọi hoạt động tố tụng và hành
vi tố tụng tại phòng xử án.
Thông qua hoạt động xét xử của mình mỗi một phán quyết của Thẩm
phán có thể dẫn tới chỗ công dân, pháp nhân được hưởng quyền và lợi ích
hoặc phải gánh chịu các nghĩa vụ nhất định, sai lầm trong hoạt động xét xử
của Thẩm phán sẽ dẫn đến tình trạng xử oan, sai, nhất là trong lĩnh vực hình
sự. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến một cá nhân mà có thể làm giảm lòng
tin của quần chúng nhân dân vào sự công bằng của xã hội, vào pháp luật của
Nhà nước ta.
Thông qua hoạt động xét xử của Thẩm phán cũng góp phần vào việc
bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội,
bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự, nhân phẩm của công dân.
Trong hoạt động xét xử để đưa ra được một phán quyết đúng pháp
luật, Thẩm phán phải am hiểu về pháp luật, có hiểu biết về kiến thức xã hội,
nắm bắt tâm lý của từng cá thể và có lương tâm của Người thẩm phán "Cơ
sở của các phán quyết là pháp luật, nhưng kết quả của các phán quyết có
công bằng, vô tư và khách quan hay không đòi hỏi mỗi Thẩm phán phải có
cái tâm trong sáng" [26, tr.38].
Thẩm phán phải có niềm tin nội tâm, đó là niềm tin vào công lý. Bởi vì,
trong quá trình xét xử Thẩm phán cũng sẽ không bao giờ dự liệu hết được mọi
tình huống xảy ra trong thực tế. Có những quy định của pháp còn xung đột,
không thống nhất, song khi xét xử Thẩm phán vẫn phải đảm bảo nguyên tắc
xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Tòa án không chỉ là cơ quan bảo vệ pháp luật mà còn là biểu tượng của

14


công lý, sự công bằng xã hội "Khi phải đối mặt với quan tòa, với công đường

người dân chờ đợi sự công minh, sáng suốt. Tòa án là người đại diện của
công lý và quan tòa là cán cân công lý" [8, tr.23].
1.1.2. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với các chức danh tư pháp khác
Trong cơ quan Tòa án, Thẩm phán có rất nhiều mối quan hệ như quan
hệ với lãnh đạo, quan hệ với Thẩm phán khác, quan hệ với Thư ký và các cán
bộ làm các bộ phận khác của Tòa án. Tất cả các mối quan hệ này đều thể hiện
vai trò trung tâm của Thẩm phán.
1) Quan hệ giữa lãnh đạo Tòa án với Thẩm phán: Chánh án, Phó
Chánh án là những người lãnh đạo, quản lý toàn bộ hoạt động của cơ quan,
đảm bảo hoạt động của Toà án với vai trò là một cơ quan nhà nước. Thẩm
phán chỉ với tư cách là nhân viên, cán bộ trong cơ quan và đây là mối quan
hệ quản lý hành chính. Chánh án, Phó Chánh án chỉ có thể quản lý về mặt
con người và trong hoạt động nghiệp vụ thì không thể can thiệp vào công
việc xét xử của Thẩm phán nhưng Thẩm phán phải chịu sự phân công công
việc của lãnh đạo.
2) Mối quan hệ giữa Thẩm phán với Thẩm phán: Đây là quan hệ mang
tính chất tố tụng, trong hoạt động xét xử Thẩm phán hoàn toàn độc lập không
bị phụ thuộc vào bất cứ ai cho dù là lãnh đạo Tòa án. Chánh án, Phó Chánh án
cũng là Thẩm phán, khi tham gia hoạt động tố tụng thì các Thẩm phán đều có
những quyền và nghĩa vụ giống nhau theo quy định của tố tụng.
3) Mối quan hệ giữa Thẩm phán với Hội thẩm nhân dân: Hội thẩm
nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của
UBMTTQ cùng cấp, công tác Hội thẩm là công tác kiêm nhiệm họ không
phải cán bộ Tòa án nhưng chịu sự phân công của Chánh án. Hội thẩm là
những người đại diện cho nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử với mục
đích đảm bảo tính dân chủ, Hội thẩm cũng có trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ,

15



tham gia xét xử và khi xét xử vụ án, mọi vấn đề phải được Thẩm phán và Hội
thẩm thảo luận và thông qua tại phòng nghị án. Mối quan hệ giữa Thẩm phán
và Hội thẩm là mối quan hệ độc lập, tính độc lập ở đây thể hiện trên hai
phương diện: độc lập với các cá nhân khác và độc lập với chính những thành
viên trong Hội đồng xét xử. Nhưng trong hoạt động xét xử thì vai trò của
Thẩm phán vẫn là trung tâm, được thể hiện trong toàn bộ quá trình xét xử từ
phần thủ tục đến phần tuyên án.
4) Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Thư ký Tòa án: Điều 197 Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 (Điều 47 BLTTHS sửa đổi năm 2015) quy định Thư
ký được Chánh án phân công tiến hành tố tụng, giúp Thẩm phán trong công
tác chuẩn bị phiên tòa; trước khi bắt đầu phiên tòa, phổ biến nội quy phiên
tòa; kiểm tra sự có mặt của những người được Tòa án triệu tập…. Thư ký tiến
hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm
trước pháp luật và Chánh án về những công việc của mình.
5) Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Kiểm sát viên: Kiểm sát viên tham
gia tố tụng theo sự phân công và chỉ đạo trực tiếp của Viện trưởng Viện Kiểm
sát. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ công tác tư pháp trong thời gian tới quy định "Phán quyết của Tòa
án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem
xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, người bào
chữa.." [6]. Căn cứ vào kết quả điều tra, Kiểm sát viên có quyền lập bản cáo
trạng, có quyền xét hỏi, tranh luận, rút toàn bộ hay một phần quyết định truy
tố tại phiên toà. Kiểm sát viên không có quyền thay đổi nội dung buộc tội
theo hướng tăng nặng đối với bị cáo. Ngoài chức năng trên Kiểm sát viên còn
kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa, đây là hai chức năng gắn bó
chặt chẽ với nhau, trong đó, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
xét xử hỗ trợ cho chức năng thực hành quyền công tố. Nếu phát hiện bản án

16



có vi phạm pháp luật, Kiểm sát viên có quyền yêu cầu toà án khắc phục
những vi phạm đó hoặc báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát kháng nghị theo
trình tự phúc thẩm.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 không quy định cụ thể sự phối hợp
này tuy nhiên đây là hai chức danh tư pháp chủ yếu trong tố tụng hình sự để
tìm ra sự thật khách quan của vụ án tránh việc đưa ra phán quyết trái pháp
luật, bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.
6) Mối quan hệ giữa Thẩm phán và các chức danh bổ trợ tư pháp khác
trong hoạt động tố tụng: Hoạt động bổ trợ tư pháp là hoạt động hỗ trợ cho cơ
quan tư pháp thực hiện tốt chức năng, quyền hạn của mình. Các chức danh bổ
trợ tư pháp bao gồm Giám định viên, Luật sư, Công chứng viên. Mỗi một
chức danh này đều có vai trò, quyền và nghĩa vụ đặc trưng riêng nhưng có
điểm chung là hoạt động của các chức danh này là cần thiết, tạo điều kiện thể
hiện sự dân chủ, khách quan trong việc phán quyết của Thẩm phán. Mối quan
hệ giữa Thẩm phán với Kiểm sát viên, Điều tra viên khác với mối quan hệ
giữa Thẩm phán với các chức danh bổ trợ tư pháp khác xuất phát từ vị trí tố
tụng của các chức danh này.
Quan hệ giữa Thẩm phán với các chức danh bổ trợ tư pháp như tác giả
trình bày ở trên chỉ phát sinh trong những vụ án cụ thể và ngược lại.
1.1.3. Các nguyên tắc cơ bản của hoạt động xét xử và sự tác động
đến vai trò hoạt động tố tụng Thẩm phán
Trong hoạt động tiến hành tố tụng, Thẩm phán thực hiện đầy đủ các
nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự như: nguyên tắc pháp chế xã hội
chủ nghĩa; nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp
luật và trước Tòa án; nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án…
Trong những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự (Chương II
Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2003) thì các nguyên tắc về xét xử chi phối

17



toàn bộ đến vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự, đó là:
nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật; nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia; nguyên tắc
Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, đó là ba nguyên tắc có tính
chất quyết định đến quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong khi thực hiện
chức năng xét xử của mình.
1) Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật
Nguyên tắc trên được quy định tại khoản 2 Điều 103 Hiến pháp 2013,
khoản 1 Điều 9 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 "Thẩm phán, Hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức,
cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm" [36]. Với những
quy định trên thì ngoài cơ quan Tòa án không một cơ quan nhà nước nào khác
có chức năng xét xử và cũng không có quyền can thiệp bằng cách này hay
cách khác vào hoạt động xét xử của Tòa án. Nội dung của nguyên tắc này là
đảm bảo tính khách quan, công bằng trong các quyết định do Tòa án đưa ra,
đề cao trách nhiệm và tính tự chủ của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
Tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội thẩm phải trực tiếp xem xét những
chứng cứ của vụ án chứ không phải chỉ căn cứ vào hồ sơ của vụ án hay
chứng cứ mà Viện kiểm sát đưa ra trong bản cáo trạng. Bản án của Tòa án
chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét toàn diện tại phiên
tòa và Hội đồng xét xử dựa vào kết quả phiên tòa, căn cứ vào các quy định
của pháp luật để xử lý vụ án và có quyền kết luận khác với ý kiến của quan
điều tra, Viện kiểm sát.
Trong hoạt động xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân có thể tham
khảo lắng nghe ý kiến của các bên, nhưng luôn phải thể hiện bản lĩnh của
mình để xem xét mọi vấn đề một cách độc lập, không được để cho các ý kiến
của bên ngoài làm thay đổi quyết định của mình.


18


Tại các Điều 185, Điều 244 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 (Điều 254
BLTTHS sửa đổi năm 2015) thì việc xét xử sơ thẩm hoặc trong những trường
hợp đặc biệt của xét xử phúc thẩm thành phần Hội đồng xét xử gồm có Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân thì Hội thẩm nhân dân độc lập với Thẩm phán
trong việc đưa ra ý kiến trình bày quan điểm của mình về vụ án.
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập khi xét xử còn được thể hiện
trong quan hệ giữa Tòa án cấp trên với Tòa án cấp dưới. Toà án cấp trên
không thể can thiệp hoặc bằng các biện pháp hành chính buộc Tòa án cấp
dưới xét xử theo ý mình vì Tòa án cấp trên chỉ có quyền quản lý về mặt con
người đối với Tòa án cấp dưới chứ không có quyền can thiệp vào việc giải
quyết từng vụ án cụ thể của Tòa án cấp dưới. Trong hoạt động tố tụng Tòa án
cấp trên không được định hướng hoặc gợi ý cho Tòa án cấp dưới để xét xử mà
chỉ là giải thích về mặt nghiệp vụ để đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ khi áp
dụng quy định pháp luật vào trong công tác xét xử.
Đảng lãnh đạo được thể hiện bằng việc đưa ra quan điểm, nguyên tắc,
định hướng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đảng lãnh đạo về
chính trị, tư tưởng về công tác tổ chức cán bộ trong ngành Tòa án. Đảng
không can thiệp vào từng vụ án cụ thể mà chỉ ra đường lối chỉ đạo hoạt động
xét xử trong từng giai đoạn.
Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật,
không có nghĩa là Thẩm phán, Hội thẩm được xét xử tuỳ tiện mà phải xem xét
đối chiếu với sự việc thực tế xảy ra và trên cơ sở các quy định đó sẽ đưa ra
các pháp quyết của mình về hành vi phạm tội của bị cáo một cách chính xác
phù hợp với diễn biến thực tế của vụ án, nếu độc lập mà không tuân theo pháp
luật thì dễ dẫn đến tình trạng xét xử một chiều, chủ quan duy ý chí:
Thẩm phán và Hội thẩm không một bước xa rời pháp luật,

không có bất kỳ một sự lẩn tránh nào đối với pháp luật, không tha

19


×