Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Hợp đồng đưa người việt nam đi làm việc ở nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767.11 KB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THU HIỀN

HîP §åNG §¦A NG¦êI VIÖT NAM §I lµm viÖc
ë N¦íC NGOµI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THU HIỀN

HîP §åNG §¦A NG¦êI VIÖT NAM §I lµm viÖc
ë N¦íC NGOµI
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TIẾN VINH

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Thu Hiền


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ HỢP ĐỒNG ĐƢA NGƢỜI VIỆT NAM ĐI
LÀM VIỆC Ở NƢỚC NGOÀI VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM ........................................................................... 8
1.1.

Hợp đồng về đƣa ngƣời lao động Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài ......... 8

1.1.1. Khái niệm ....................................................................................................... 8
1.1.2. Đặc điểm ...................................................................................................... 11
1.1.3. Các loại hợp đồng đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài ............. 13

1.1.4. Tầm quan trọng của hợp đồng đưa người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài ......................................................................................... 18
1.2.

Lƣợc sử quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam về đƣa
ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài .................................................. 20

1.2.1. Giai đoạn trước năm 1990 ............................................................................ 20
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1991 đến 2007 ................................................................. 21
1.2.3. Giai đoạn từ năm 2007 trở đi ....................................................................... 22
1.3.

Pháp luật của nƣớc ngoài về hợp đồng đƣa ngƣời lao động đi làm
việc ở nƣớc ngoài và những gợi mở cho Việt Nam.................................. 25

Kế t luâ ̣n chƣơng 1 ................................................................................................... 31
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG
ĐƢA NGƢỜI LAO ĐỘNG ĐI LÀM VIỆC Ở NƢỚC NGOÀI ............. 32
2.1.

Thực trạng quy định của pháp luật về hợp đồng đƣa ngƣời Việt
Nam đi lao động ở nƣớc ngoài ................................................................... 33

2.1.1. Giao kết hợp đồng ........................................................................................ 33
2.1.2. Hiệu lực của việc giao kết hợp đồng ............................................................ 39
2.1.3. Sửa đổi, bổ sung, chấm dứt hợp đồng .......................................................... 41
2.2.

Quyền và nghĩa vụ cơ bản của các bên và việc thực hiện hợp đồng ......... 42



2.2.1. Quyề n và nghiã vu ̣ của các doanh nghiê ̣p , tổ chức đưa người lao đô ̣ng
đi làm viê ̣c ở nước ngoài theo hợp đồng (bên A)......................................... 43
2.2.2. Quyề n và nghiã vu ̣ của người lao đô ̣ng đi làm viê ̣c ở nước ngoài theo
hợp đồng (bên B)........................................................................................... 47
2.2.3. Các loại tiền, phí và việc bảo lãnh cho người lao động đi làm việc ở
nước ngoài .................................................................................................... 52
2.3.

Giải quyết các tranh chấp, vi phạm phát sinh từ hợp đồng ................... 56

2.3.1. Giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng ......................................... 56
2.3.2. Xử lý những vi phạm phát sinh từ hợp đồng ............................................... 58
2.4.

Thực trạng về việc giao kết và thực hiện hợp đồng đƣa ngƣời
Việt Nam đi lao động nƣớc ngoài .............................................................. 64

2.4.1. Những thuận lợi cơ bản của Việt Nam khi tiến hành hoạt động đưa
người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc là ................................... 64
2.4.2. Những khó khăn cơ bản của Việt Nam khi tiến hành các hoạt động
đưa lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc là ....................................... 67
Kết luận chƣơng 2 ................................................................................................... 83
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ĐƢA NGƢỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM
ĐI LÀM VIỆC Ở NƢỚC NGOÀI ............................................................ 85
3.1.

Phƣơng hƣớng hoàn thiêṇ pháp luâ ̣t Việt Nam điều chỉnh về hợp
đồng đƣa ngƣời lao động Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài ............... 85


3.2.

Các kiến nghị và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật Việt
Nam điều chỉnh về hợp đồng đƣa ngƣời lao động Việt Nam đi làm
việc ở nƣớc ngoài.......................................................................................... 87

3.2.1.

Các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy đinh
̣ của pháp luâ ̣t Việt Nam
điều chỉnh về hợp đồng đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài..................................................................................................... 87

3.2.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về điều chỉnh về hợp
đồng đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. ................... 88
Kết luận chƣơng 3 ................................................................................................. 102
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .............................................................................. 103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 105


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hoạt động đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng còn
được gọi là hoạt động xuất khẩu lao động. Xuất khẩu lao động là một hình thức
kinh tế dưới hình thức cung ứng lao động Việt Nam ra nước ngoài theo hợp đồng có
thời hạn, nhằm phục vụ cho nhu cầu nhân công lao động của doanh nghiệp ở các
quố c gia, vùng lãnh thổ đang rơi vào tình trạng thiếu lao động hoặc giá nhân công
tại chỗ quá cao.
Ngược dòng thời gian, từ những năm đầu của thập niên 80, Việt Nam vừa

trải qua sự tàn phá nặng nề của chiến tranh, nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề,
trong bối cảnh có sự giúp đỡ từ các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô (cũ),
Cộng hòa dân chủ Đức (cũ), Tiệp Khắc (cũ) và Bungari, việc đưa người Việt
Nam sang làm việc và lao động tại các quốc gia này được tiến hành. Đây được
xem là sự bắt đầu của hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam. Kết quả đã
đem lại nhiều thuận lợi cho sự phát triển đất nước ta. Theo thống kê của Bộ Lao
động- Thương binh và Xã hội, từ năm 1980 đến 1989, ngân sách nhà nước đã thu
được khoảng 800 tỷ đồng và hơn 300 triệu USD [13], một khoản tiền lớn tại thời
điểm lúc đó. Ngoài giảm bớt số người thất nghiệp trong nước, người lao động
được tiếp cận với công nghệ mới và gửi về nước một khối lượng hàng hóa tiêu
dùng khá lớn, giúp cải thiện cuộc sống gia đình tại Việt Nam trong thời kỳ khó
khăn. Thời điểm những năm đầu thập niên 90, khi Liên Xô (cũ) bị sụp đổ, nước
ta bắt đầu thời kì đổi mới. Hoạt động xuất khẩu lao động đã phát triển mạnh mẽ,
mở rộng thị trường ra nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ. Bước sang thế kỷ XXI,
có sự tăng đột biến lượng lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng, nhiều nhất tại ba thị trường Đài Loan, Malaysia và Hàn Quốc, số lao động
đưa đi hàng năm và hiệu quả năm sau đều cao hơn năm trước. Số liệu của Cục
Quản lý Lao động ngoài nước cho thấy, riêng năm 2014, lần đầu tiên Việt Nam
đưa được 106.840 lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, đây là một

1


con số kỷ lục từ trước đến nay. Đây là một con số nói lên được tiềm năng to lớn
của việc xuất khẩu lao động ra nước ngoài của Việt Nam [17].
Đặt trong sự phát triển vượt bậc và mạnh mẽ đó, người lao động cũng như
các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng đóng vai trò chính và vô cùng quan trọng. Hai thành phần này tồn tại
song song, có sự liên hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau trong quá trình thực
hiện hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Trong bối cảnh mối

quan hệ này tốt đẹp và bền vững sẽ mang đến những lợi ích không nhỏ cho đất
nước, cho người lao động và cho các doanh nghiệp như: giải quyết nhu cầu việc
làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp trong nước, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho
những người lao động, tăng nguồn ngoại tệ cho Việt Nam và mang lại nhiều lợi ích
kinh tế, xã hội khác. Tuy nhiên, bên cạnh đó là những hạn chế xuất phát cả từ phía
người lao động và các doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài
như vấn đề chi phí môi giới quá cao, vi phạm hợp đồng, thiếu trách nhiệm đối với
người lao động ở nước ngoài, nạn lừa đảo và buôn người, bỏ trốn và lưu trú bất hợp
pháp... Những hạn chế này đã tồn tại trong suốt một thời gian dài mà không thể tìm
cách khắc phục triệt để, ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của hoạt động xuất
khẩu lao động. Luật người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
2006 sau hơn 09 năm ban hành và thực hiện cũng như hàng loạt các thông tư, nghị
định liên quan vẫn bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế và dường như chưa đủ khả năng để
giải quyết, khắc phục được những vấn đề khó khăn trên.
Việt Nam hiện nay đang từng bước chuyển mình mạnh mẽ nhằm thực hiện
đúng lộ trình hội nhập với thế giới. Việc duy trì và phát triển hoạt động đưa người
lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng của nước ta đang đứng trước
những thách thức to lớn bởi thị trường hạn hẹp, biến động khó lường, ngày càng
cạnh tranh gay gắt. Chính vì vậy, cần phải có sự điều chỉnh pháp luật để khắc phục
và giải quyết triệt để những hạn chế trong mối quan hệ giữa người lao động và
doanh nghiệp hoạt động dịch vụ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển
một cách bền vững hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo

2


hợp đồng. Chính từ những thực trạng đó, người viết đã chọn thực hiện đề tài: “HỢP
ĐỒNG ĐƯA NGƯỜI VIỆT NAM ĐI LÀM VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước yêu cầ u gi ải quyết việc làm trong nước và đáp ứng nhu cầu tuyển

dụng lao động Việt Nam của phiá đối tác nước ngoài , đã có nhiều tổ chức, cơ quan
nghiên cứu và cá nhân tìm hiểu về pháp luật đưa người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài. Cho đến nay, đã có nhiề u cuô ̣c hô ̣i thảo , nhiề u công trin
̀ h , bài
viế t về vấ n đề đưa người lao đô ̣ng đi làm viê ̣c ở nước ngoài

. Trong đó có mô ̣t số

công trình đáng lưu ý như : các bài tham luận trong Hô ̣i thảo quố c tế về viê ̣c gia
nhâ ̣p tổ ch ức Thương mại quốc tế (WTO) đố i với thi ̣trường lao đô ̣ng Viê ̣t Nam do
trường ĐHKHXH và Nhân văn tổ chức ngày

30 tháng 11 năm 2007 tại Hà Nội ;

Luâ ̣n văn của Tha ̣c si ̃ Nguyễn Thi ̣Hoa Tâm năm 2004 về “Xuất khẩu lao động theo
quy đi ̣nh c ủa của pháp luật Việt Nam – Thực trạng và phương hướng hoàn thiện” ;
Bài “Xuất khẩu lao động Viê ̣t Nam trước yêu cầ u hội nhập” của TS. Nguyễn Quố c
Luâ ̣t đăng trên báo Người lao đô ̣ng ngày25 tháng 1 năm 2008; Bài “Để nâng cao chấ t
lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài”trên trang ngày
14 tháng 2 năm 2008 - Nguồ n từ Molisa – Bô ̣ lao đô ̣ng, Thương binh và Xã hội; Bài
“Lại xuất khẩu lao động kiểu “đem con bỏ chợ” đăng trên trang ;
Bài “Quan hê ̣ lao động trong thời đại công nghiê ̣p hóa, hiê ̣n đại hóa và nề n kinh tế thi ̣
trường” của TS. Lưu Biǹ h Nhưỡng trong Ta ̣p chí Luâ ̣t ho ̣c số tháng 2 năm 2008; Bài
“Pháp luật lao động trong quá trình toàn cầ u h

óa” của Th .S Pha ̣m Tro ̣ng Nghiã

trong ta ̣p chí Nghiên cứu Lâ ̣p pháp số 18 tháng 11 năm 2008 Bài “Lao động di trú:
Một xu hướng toàn cầu, một nỗ lực toàn cầu” của tác giả Phạm Hồng Thái – Vũ
Công Giao trong Lao động di trú trong pháp luật quốc tế và Việt Nam năm 2011 của

Nhà Xuất bản Lao động - Xã hội...
Ở mức độ nhấ t đinh
̣ , các công trình nêu trên đã phân tích , đánh giá và đưa ra
những kiế n nghi liên
quan đế n việc nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về đưa người
̣
lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc thông qua hình thức hợp đồng. Nhưng hầ u
như các bài viết nói trên chưa đánh giá được một cách toàn diện những bấ t câ ̣p của

3


pháp luật Việt Nam điều chỉnh hợp đồng đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là do còn thiếu các thông tin đầy
đủ về tình hình người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, cuộc sống, những khó khăn
và thuận lợi trong công việc của họ tại quốc gia đến làm việc.
Do đó, đề tài luận văn “Hợp đồng đưa người Việ t Nam đi làm viê ̣c ở nước
ngoài” sẽ là mô ̣t công trình nghiên cứu các vấn đề xoay quanh hợp đồng đưa người
đi làm việc ở nước ngoài từ giai đoạn xác lập, thực hiện hợp đồng cũng như giải
quyết tranh chấp và các vi phạm trong hợp đồng đưa người Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài kể từ khi Luâ ̣t về vấ n đề này có hiê ̣u lực(01/7/2007) cho đế n nay. Trên cơ
sở đó đánh giá những tác đô ̣ng, ảnh hưởng của pháp luật Việt Nam với thực tiễn điều
chỉnh quan hệ đưa người Việt Nam đi làm viê ̣c ở nước ngoài theo hợp đồng nhằm đề
xuất những giải pháp, kiế n nghi ̣khả thi hướng tới việc hoàn thiê ̣n pháp luâ ̣t Việt Nam
về đưa người lao đô ̣ng Viê ̣t Nam đi làm viê ̣c ở nước ngoài theo hơ ̣p đồ ng , phù hợp
với xu thế vận động của thị trường lao động quốc tế.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của tác giả khi nghiên cứu đề tài “Hợp đồng đưa người Việt Nam
đi làm viê ̣c ở nước ngoài” là nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong
hoạt động đưa người Viê ̣t Nam đi làm viê ̣c ở nước ngoài theo hợp đồng theo từng

giai đoạn cụ thể . Trên cơ sở đó đánh giá những kết quả và hạn chế của pháp luật
Việt Nam về đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài trong thời gian qua . Từ
đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiê ̣n pháp luâ ̣t Việt Nam , cũng như nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật Việt Nam trong điều kiện thực tiễn hiện nay nhằm tạo điều
thuận lợi cho người lao động, các doanh nghiệp, tổ chức đưa người đi lao động
nước ngoài, giải quyết những tranh chấp và vi phạm hợp đồng phát sinh trong quá
trình thực hiện hợp đồng.
Với mu ̣c đích đó, nhiê ̣m vu ̣ của luâ ̣n văn được xác định cụ thể như sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến việc đưa người

Việt

Nam đi làm viê ̣c ở nước ngoài theo hợp đồng và việc điều chỉnh bằng pháp luật Việt
Nam đối với vấn đề này;

4


- Phân tích , đánh giá thực tra ̣ng ban hành và thực hiện pháp luâ ̣t Việt Nam
hiê ̣n hành điều chỉnh về hợp đồng đưa người lao đô ̣ng Việt Nam đi làm viê ̣c ở
nước ngoài ;
- Nhận xét về những bấ t câ ̣p của pháp luâ ̣t Việt Nam điều chỉnh về hợp đồng
đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
- Đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiê ̣n pháp luật lao động Việt Nam
điều chỉnh về đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhằm thực hiện mục đích nghiên cứu đã được xác định ở phần trên

, đố i


tươ ̣ng nghiên cứu của đề tài được xác định là :
- Nghiên cứu pháp luật Việt Nam hiện hành về hợp đồng đưa người lao động
Viê ̣t Nam đi làm viê ̣c ở nước ngoài ;
- Nghiên cứu thực trạng quan hê ̣ hợp đồng giữa các bên trong hoa ̣t đô ̣ng đưa
người lao đô ̣ng Việt Nam đi làm viê ̣c ở nước ngoài

, trong đó chủ yếu nghiên cứu

những khía cạnh chịu sự điều chỉnh trực tiếp của pháp luật Việt Nam như: quan hệ
giữa chủ thể thực hiện dịch vụ đưa người lao động Việt Nam ra nước ngoài theo
hợp đồng (doanh nghiệp dịch vụ hoặc tổ chức sự nghiệp) và người lao động với
mục đích tìm kiếm, giới thiệu và môi giới lao động; quan hệ giữa cơ quan nhà nước
có thẩm quyền của Việt Nam với chủ thể đưa người lao động Việt Nam ra nước
ngoài nhằm thanh tra và xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật hiện hành...
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong điều kiện thời gian và quy mô còn nhiều hạn chế

, đồng thời để phù

hợp với đối tượng nghiên cứu đã được xác định , tác giả chủ yếu tập trung vào việc
nghiên cứu trong phạm vi các quy đinh
̣ của pháp luâ ̣t Việt Nam về hợp đồng đưa
người lao đô ̣ng Việt Nam đi làm viê ̣c ở nước ngoài với hai hình thức : (i) thông qua
các doanh nghiệp dịch vụ, tổ chức sự nghiệp được phép hoạt động đưa người lao
động đi làm việc ở nước ngoài và (ii) thông qua hình thức đưa tu nghiệp sinh, thực
tập sinh đi thực tập nâng cao tay nghề ở nước ngoài.

5



Theo đó, những hình thức hợp đồng khác theo quy định trong Luật đưa
người Việt Nam đi lao động ở nước ngoài tạm thời sẽ chưa được đề cập trong phạm
vi của luận văn. Ví dụ như, hình thức thông qua các doanh nghiệp trúng thầu, nhận
thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài được phép đưa người lao động đi
làm việc ở nước ngoài, hình thức thông qua hợp đồng cá nhân người lao động trực
tiếp ký kết với chủ sử dụng lao động nước ngoài.
Đồng thời, những vấn đề phát sinh trong lĩnh vực đưa người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài nhưng do pháp luật của quốc gia tiếp nhận lao động
điều chỉnh, hoặc được sự điều chỉnh của các hiệp định quốc tế về lao động, của các
Công ước quốc tế về lao động di trú sẽ không được nghiên cứu trong phạm vi của
đề tài này. Một trong những nguyên nhân đó là do pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này
quá đa dạng nên tác giả chưa thể đầu tư nghiên cứu toàn diện trong phạm vi luận
văn thạc sỹ. Một nguyên nhân khác là việc thu hẹp phạm vi nghiên cứu như trên sẽ
giúp tác giả có điều kiện tập trung sâu hơn vào một số vấn đề rất phức tạp của lĩnh
vực này, mặc dù đã được pháp luật lao động Việt Nam điều chỉnh nhưng vẫn còn
nhiều bất cập. Cụ thể là vấn đề xoay quanh hợp đồng đưa người đi làm việc ở nước
ngoài như hình thức thông qua các doanh nghiệp dịch vụ, tổ chức sự nghiệp được
phép hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài và thông qua hình
thức đưa tu nghiệp sinh, thực tập sinh đi thực tập nâng cao tay nghề ở nước ngoài cụ
thể là điều kiện giao kết, quyền và nghĩa vụ các bên và việc thực hiện hợp đồng,
giải quyết tranh chấp và vấn đề xử lý vi phạm xoay quanh hai hình thức này theo
pháp luật Việt Nam…
Với việc thu hẹp đối tượng và phạm vi nghiên cứu như đã nêu, tác giả
mong muốn sẽ giải quyết được tương đối toàn diện những vấn đề được đưa vào
nghiên cứu trong luận văn dưới các góc độ lý luận, thực trạng ban hành và thực
hiện pháp luật, cũng như đề xuất được những kiến nghị khả thi góp phần hoàn
thiện pháp luật lao động Việt Nam khi điều chỉnh về hợp đồng đưa người Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài.


6


5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vâ ̣n du ̣ng phương pháp luâ ̣n của chủ
nghĩa Mác – Lênin với phương pháp duy vâ ̣t biê ̣n chứng để giải quyế t các vấ n đề
về hợp đồng đưa người lao đô ̣ng đi làm viê ̣c ở nước ngoài
kết hợp và linh hoạt các phương pháp nghiên cứu như

. Đồng thời , sử du ̣ng

: phân tić h , thố ng kê , khảo

sát thực tiễn...
6. Ý nghĩa khoa học và tính ứng dụng của đề tài
Nghiên cứu đề tài “Hợp đồng đưa người Vi ệt Nam đi làm viê ̣c ở nước
ngoài” có ý nghĩa trên hai phương diện lý luận và thực tiễn . Trong phạm vi nghiên
cứu đã được xác định , tác giả đi sâu vào viê ̣c nghiên cứu thực tra ̣ng và đề xuất các
giải pháp hoàn thiện pháp luâ ̣t lao động Việt Nam hiê ̣ n hành điều chỉnh hợp đồng
đưa người lao đô ̣ng Việt Nam đi làm viê ̣c ở nước ngoài .
Các kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ giúp các cơ quan lâ ̣p pháp có thêm tư
liệu tham khảo phục vụ cho công tác hoàn thiê ̣n pháp luâ ̣t . Đồng thời, đề tài cũng
phục vụ cho việc học tập , nghiên cứu của những sinh viên luật học quan tâm đế n
vấn đề này trong quá trình được đào tạo tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội
và các trường đại học thuộc chuyên ngành luật học cũng như những chuyên ngành
khác nếu liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài mục lục , lời nói đầu , kết luận, tài liệu tham khảo , luâ ̣n văn được kết
cấu thành 3 chương:
Chương 1:


Tổng quan về hợp đồng đưa người Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài.

Chương 2:

Thực trạng pháp luật Việt Nam về hợp đồng đưa người Việt
Nam đi làm viê ̣c ở nước ngoài .

Chương 3:

Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng đưa người Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài.

7


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ HỢP ĐỒNG ĐƢA NGƢỜI VIỆT NAM
ĐI LÀM VIỆC Ở NƢỚC NGOÀI VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1. Hợp đồng về đƣa ngƣời lao động Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài
1.1.1. Khái niệm
Hợp đồng có những tên gọi khác như thỏa thuận, khế ước, giao kèo, thỏa
ước, ước định, hiệp ước mặc dù rất gần gũi, thiết yếu và quen thuộc với tất cả mọi
người, nhưng khi hỏi nó là gì thì không ai có thể định nghĩa được về nó. Thậm chí
các luật gia cũng có những định nghĩa khác nhau. Hợp đồng theo nghĩa chung nhất
là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và
nghĩa vụ trong những quan hệ cụ thể. Hiện nay pháp luật Việt nam quy định ba loại
hợp đồng cơ bản là hợp đồng dân sự, kinh tế, lao động. Bộ luật Dân sự Việt Nam

2005 định nghĩa: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác
lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” [49, Điều 388].
Thuật ngữ “đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài” được sử dụng chính
thức lần đầu tiên trong Nghị định số 270/HĐBT ngày 09/11/1991, ban hành quy chế
về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Đây cũng là
văn bản pháp luật quan trọng đánh dấu sự chuyển đổi cơ chế điều chỉnh bằng pháp
luật trong lĩnh vực này. Sau đó, Bộ luật lao động năm 1994 được ban hành đã sử
dụng thuật ngữ “đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài” và được
sử dụng phổ biến trong các văn bản pháp luật của nhà nước ta từ những năm 1990
đến nay. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, sức lao động được coi là một thứ
hàng hóa đặc biệt, không chỉ được tự do thuê mướn ở trong nước mà còn có thể
chuyển dịch ra nước ngoài với mục đích kinh tế, nhằm thu ngoại tệ về cho Việt Nam.
Hiện nay, trong Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng 2006, cụm từ “xuất khẩu lao động” đã chính thức được thay thế bằng cụm từ
“đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng”.

8


Như đã nói ở trên, trong phạm vi của Luận văn này xin được đề cập đến hai hợp
đồng đưa người lao đô ̣ng Việt Nam đi làm viê ̣c ở nước ngoài với hai hình thức là thông
qua các doanh nghiệp dịch vụ, tổ chức sự nghiệp được phép hoạt động đưa người lao
động đi làm việc ở nước ngoài và (ii) thông qua hình thức đưa tu nghiệp sinh, thực tập
sinh đi thực tập nâng cao tay nghề ở nước ngoài. Đây là hình thức phổ biến nhất trong
số các hình thức đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
Hợp đồng mà người lao động ký kết với doanh nghiệp dịch vụ hay tổ chức
sự nghiệp là một loại hợp đồng dịch vụ, được quy định tại Bộ luật Dân sự [49, Điều
518], theo đó bên cung ứng dịch vụ là doanh nghiệp sẽ thực hiện công việc cho bên
thuê dịch vụ là người lao động, công việc ở đây bao gồm tất cả các hoạt động để hỗ
trợ người lao động ra nước ngoài làm việc như đào tạo, đưa người lao động đi...sau

đó bên thuê dịch vụ là người lao động sẽ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng
dịch vụ là doanh nghiệp. Do đó, mối quan hệ giữa người lao động và doanh nghiệp
dịch vụ phải chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự. Trong Bộ luật Dân sự 2005,
hợp đồng dịch vụ được quy định và hướng dẫn cụ thể từ điều 518 đến điều 526 về
đối tượng của hợp đồng dịch vụ, quyền và nghĩa vụ của bên thuê dịch vụ, quyền và
nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ, trả tiền dịch vụ, trường hợp đơn phương chấm
dứt thực hiện hợp đồng dịch vụ, tiếp tục hợp đồng dịch vụ.
Bên cạnh đó, hợp đồng đưa người đi làm việc ở nước ngoài này điều chỉnh
mối quan hệ phát sinh trong lĩnh vực lao động, có liên quan mật thiết và ảnh hưởng
đến quan hệ pháp luật lao động như quan hệ lao động giữa người lao động Việt
Nam và người sử dụng lao động ở nước ngoài, vì vậy nên mối quan hệ này phải
chịu sự điều chỉnh của pháp luật lao động. Ngoài ra, mối quan hệ giữa người lao
động và doanh nghiệp dịch vụ còn chịu sự điều chỉnh của luật hành chính (vấn đề vi
phạm hành chính), luật hình sự (vấn đề vi phạm hình sự), luật tố tụng dân sự (vấn
đề giải quyết tranh chấp)...
Người lao động đi làm việc ở nước ngoài trên cơ sở một hợp đồng ký kết với
doanh nghiệp dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, hợp đồng này
được gọi là “Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài”. Tuy nhiên,

9


để có được hợp đồng này thì trước hết cần phải có một loại hợp đồng khác làm cơ
sở, đó là “Hợp đồng cung ứng lao động”.Trong hoạt động dịch vụ đưa người đi làm
việc ở nước ngoài, doanh nghiệp có vai trò là trung gian, cầu nối giữa người sử
dụng lao động ở nước ngoài với người lao động Việt Nam. Trước hết, doanh nghiệp
dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài ký kết với người sử dụng lao
động hợp đồng cung ứng lao động, hợp đồng này phải có những nội dung phù hợp
với quy định của pháp luật Việt Nam, pháp luật nước sở tại và phải đăng ký với Bộ
Lao động – Thương binh và Xã hội theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở hợp

đồng đó, doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước
ngoài sẽ tiến hành tìm kiếm người lao động, sau đó ký kết với người lao động hợp
đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Hợp đồng đưa người lao động
đi làm việc ở nước ngoài “là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa doanh nghiệp, tổ
chức sự nghiệp với người lao động về quyền, nghĩa vụ của các bên trong việc đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài” [50, Điều 3, Khoản 3]. Hợp đồng này
cũng phải có các nội dung cụ thể, phù hợp với nội dung của Hợp đồng cung ứng lao
động đã ký trước đó. Trong Luật người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng 2006 cũng đã quy định rất chi tiết các nội dung cần phải có trong hợp
đồng cung ứng lao động để làm cơ sở cho hợp đồng đưa người lao động đi làm việc
ở nước ngoài như thời hạn của hợp đồng; số lượng người lao động đi làm việc ở
nước ngoài; ngành, nghề, công việc phải làm; địa điểm làm việc; điều kiện, môi
trường làm việc; thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; an toàn và bảo hộ lao động;
tiền lương, tiền công, các chế độ khác và tiền thưởng (nếu có); tiền làm thêm giờ;
điều kiện ăn, ở, sinh hoạt; chế độ khám bệnh, chữa bệnh; chế độ bảo hiểm xã hội;
điều kiện chấm dứt hợp đồng trước thời hạn và trách nhiệm bồi thường thiệt hại;
trách nhiệm trả chi phí giao thông từ Việt Nam đến nơi làm việc và ngược lại; tiền
môi giới (nếu có); trách nhiệm của các bên khi người lao động bị chết trong thời
gian làm việc ở nước ngoài; giải quyết tranh chấp; trách nhiệm giúp đỡ người lao
động gửi tiền về nước. Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài đi
làm việc ở nước ngoài do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định phù hợp
với từng thị trường lao động [50, Điều 17].

10


1.1.2. Đặc điểm
Cũng giống như các loại hợp đồng dịch vụ khác, hợp đồng đưa người đi làm
việc ở nước ngoài cũng có những điểm chung sau đây
- Yếu tố đầu tiên và cơ bản nhất là là sự thỏa hiệp giữa các ý chí, tức là có sự

ưng thuận giữa các bên với nhau trong các hợp đồng (bên A và bên B). Người ta
thường gọi nguyên tắc này là nguyên tắc hiệp ý. Nguyên tắc hiệp ý là kết quả tất
yếu của tự do hợp đồng: khi giao kết hợp đồng các bên được tự do quy định nội
dung hợp đồng, tự do xác định phạm vi quyền và nghĩa vụ của các bên. Đương
nhiên tự do hợp đồng không phải là tự do tuyệt đối. Nhà nước buộc các bên khi giao
kết hợp đồng phải tôn trọng đạo đức, trật tự xã hội, trật tự công cộng.
- Yếu tố thứ hai của hợp đồng là người giao kết có đầy đủ năng lực hành vi
để xác lập hợp đồng. Ý chí chỉ phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý khi người
giao kết có đầy đủ năng lực hành vi theo quy định.
- Yếu tố thứ ba không thể thiếu của hợp đồng chính là đối tượng. Sự thống
nhất ý chí của các bên phải nhằm vào một đối tượng cụ thể (bên A và bên B). Mọi
hợp đồng phải có đối tượng xác định. Đối tượng của hợp đồng phải được xác định
rõ rệt và không bị cấm đưa vào các giao dịch dân sự – kinh tế.
Ngoài ra, trên cơ sở những đặc điểm của mối quan hệ giữa người lao động và
doanh nghiệp dịch vụ, pháp luật Việt Nam về đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài có những đặc điểm riêng sau đây:
Thứ nhất, hợp đồng đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài chịu sự
điều chỉnh của nhiều loại quy phạm pháp luật.
Trước hết, hợp đồng mà người lao động ký kết với doanh nghiệp dịch vụ là
một loại hợp đồng dịch vụ, được quy định tại Bộ luật Dân sự [49, Điều 518], theo
đó bên cung ứng dịch vụ là doanh nghiệp sẽ thực hiện công việc cho bên thuê dịch
vụ là người lao động, công việc ở đây bao gồm tất cả các hoạt động để hỗ trợ người
lao động ra nước ngoài làm việc như đào tạo, đưa người lao động đi...sau đó bên
thuê dịch vụ là người lao động sẽ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ là
doanh nghiệp. Do đó, mối quan hệ giữa người lao động và doanh nghiệp dịch vụ
phải chịu sự điều chỉnh của luật dân sự.

11



Bên cạnh đó, mối quan hệ này phát sinh trong lĩnh vực lao động, có liên
quan mật thiết và ảnh hưởng đến quan hệ pháp luật lao động như quan hệ lao động
giữa người lao động Việt Nam và người sử dụng lao động ở nước ngoài, vì vậy nên
mối quan hệ này phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật lao động.
Ngoài ra, mối quan hệ giữa người lao động và doanh nghiệp dịch vụ còn chịu
sự điều chỉnh của luật hành chính (vấn đề vi phạm hành chính), luật hình sự (vấn đề
vi phạm hình sự), luật tố tụng dân sự (vấn đề giải quyết tranh chấp)...
Thứ hai, chủ thể của hợp đồng - người lao động (bên B) lệ thuộc vào sự quản
lý, điều hành của doanh nghiệp dịch vụ đưa người đi làm việc ở nước ngoài (bên A).
Đặc điểm này do chính yêu cầu của việc tổ chức hoạt động dịch vụ đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Mặc dù người lao động là bên thuê dịch
vụ nhưng họ lại yếu thế hơn về nhiều mặt so với doanh nghiệp dịch vụ, đặc biệt là
sự hiểu biết về pháp luật, tiền bạc, rất khó để người lao động có thể tự mình đi làm
việc ở nước ngoài. Do vậy, các doanh nghiệp dịch vụ không thể tổ chức được hoạt
động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài nếu không có quyền quản lý,
điều hành đối với người lao động.
Thứ ba, lợi ích của Nhà nước luôn được tính đến trong mối quan hệ giữa
người lao động và doanh nghiệp dịch vụ được quy định trong hợp đồng.
Lợi ích của các doanh nghiệp dịch vụ là khoản thu từ các loại phí dịch vụ,
còn lợi ích của người lao động là có công ăn việc làm, thu nhập cao. Trong khi đó,
lợi ích kinh tế của Nhà nước là khoản ngoại tệ từ nước ngoài gửi về và khoản thu từ
thuế thu nhập của doanh nghiệp và người lao động. Có thể thấy, có sự liên quan mật
thiết giữa lợi ích của Nhà nước và hai chủ thể trên. Do đó, các chế độ, chính sách
pháp luật về đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài khi ban hành phải được
xem xét trên mọi khía cạnh, phải được tính toán sao cho đảm bảo sự hài hoà lợi ích
của các bên.
Thứ tư, mối quan hệ giữa người lao động và doanh nghiệp dịch vụ có ảnh
hưởng trực tiếp đến quan hệ lao động trong hoạt động đưa người lao động đi làm
việc ở nước ngoài.


12


Việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ giữa người lao động và
doanh nghiệp dịch vụ có thể làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ lao
động giữa người lao động và chủ sử dụng lao động ở nước ngoài. Chẳng hạn, khi
người lao động và doanh nghiệp ký kết “hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài” cũng kéo theo việc ký kết “hợp đồng lao động” giữa người lao động và
chủ sử dụng lao động; trong thời gian làm việc ở nước ngoài, nếu người lao động bỏ
trốn ra ngoài làm việc, đơn phương chấm dứt hợp đồng với doanh nghiệp dịch vụ
thì cũng kéo theo việc chấm dứt hợp đồng lao động.
1.1.3. Các loại hợp đồng đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
Hiện nay, theo Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo
hợp đồng 2006, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
được tiến hành theo các hình thức sau:
- Thông qua các doanh nghiệp dịch vụ, tổ chức sự nghiệp được phép hoạt
động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
- Thông qua các doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ chức, cá nhân
đầu tư ra nước ngoài được phép đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
- Thông qua hình thức đưa tu nghiệp sinh, thực tập sinh đi thực tập nâng cao
tay nghề ở nước ngoài.
- Theo hợp đồng cá nhân người lao động trực tiếp ký kết với chủ sử dụng lao
động nước ngoài.
Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ đưa người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài được chủ yếu thoả thuận trong ba loại hợp đồng cơ
bản sau đây [50, Điều 17]:
- Hợp đồng cung ứng lao động giữa doanh nghiệp, tổ chức Việt Nam đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài và người sử dụng lao động.
- Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài giữa doanh nghiệp,
tổ chức Việt Nam đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài và người lao động

Việt Nam.
- Hợp đồng lao động giữa người lao động Việt Nam và người sử dụng lao động.

13


Tuy nhiên trong phạm vi của luận văn này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu
vào “Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài” giữa doanh nghiệp,
tổ chức Việt Nam đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài và người lao động
Việt Nam. “Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài” giữa doanh
nghiệp, tổ chức Việt Nam đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài và người
lao động Việt Nam được nghiên cứu qua hai hình thức (i) Thông qua các doanh
nghiệp dịch vụ, tổ chức sự nghiệp được phép hoạt động đưa người lao động đi làm
việc ở nước ngoài và (ii) Thông qua hình thức đưa tu nghiệp sinh, thực tập sinh đi
thực tập nâng cao tay nghề ở nước ngoài.
Đây là hình thức phổ biến nhất trong số các hình thức đưa người lao động
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Người lao động đi làm việc ở nước ngoài trên
cơ sở một hợp đồng ký kết với doanh nghiệp dịch vụ đưa người lao động đi làm
việc ở nước ngoài.
Để xác định giới hạn điều chỉnh của pháp luật về đưa người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và bao quát được các hình thức đưa
người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng mà pháp luật lao
động cần điều chỉnh, phải xác định rõ các hình thức đưa người lao động Việt Nam
đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, trong mỗi hình thức phải xác định chủ thể
tham gia và địa vị pháp lý các chủ thể này (bao gồm các tổ chức, doanh nghiệp nào
được đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, người lao động đi làm việc
ở nước ngoài), điều kiện tiến hành đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, các loại
hợp đồng làm căn cứ pháp lý phát sinh quan hệ giữa các bên và trình tự, thủ tục tiến
hành để đưa người lao động đi theo từng hình thức đó.
* Thông qua các doanh nghiệp dịch vụ, tổ chức sự nghiệp đƣợc phép

hoạt động đƣa ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài
- Người lao động đi làm việc ở nước ngoài thông qua hợp đồng ký kết với
doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài (bên A).
Đây là hình thức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài phổ biến nhất
hiện nay. Ở hình thức này có sự tham gia của các doanh nghiệp dịch vụ (bên A) làm

14


trung gian giữa người lao động Việt Nam (bên B) với bên tiếp nhận lao động của
nước ngoài (bên C). Để được cấp Giấy phép hoạt động trong lĩnh vực đưa người lao
động đi làm việc ở nước ngoài, bên A phải đáp ứng các điều kiện cần thiết theo quy
định của pháp luật.
Bên cạnh các điều kiện thông thường mà bên B khi thành lập doanh nghiệp
dịch vụ đưa lao động đi nước ngoài phải có theo quy định của Luật doanh nghiệp,
bên A còn phải có thêm một số điều kiện khác như: phải có mức vốn pháp định là 5
tỉ đồng, ký quỹ tại Ngân hàng 1 tỉ đồng; có đề án hoạt động đưa người lao động đi
làm việc ở nước ngoài; người lãnh đạo điều hành hoạt động đưa người lao động đi
làm việc ở nước ngoài phải có trình độ từ đại học trở lên, có ít nhất ba năm kinh
nghiệm trong lĩnh vực đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài hoặc hoạt động
trong lĩnh vực hợp tác và quan hệ quốc tế; có bộ máy chuyên trách để bồi dưỡng
kiến thức cần thiết cho người lao động, trong đó phải bao gồm cán bộ về lĩnh vực
pháp luật, ngoại ngữ…
Hoạt động của bên A là hoạt động kinh doanh nhằm mang lại lợi nhuận cho
doanh nghiệp. Trong hoạt động dịch vụ đưa người đi làm việc ở nước ngoài, bên A
có vai trò trung gian, là cầu nối giữa doanh nghiệp nước ngoài có nhu cầu tiếp nhận
lao động (bên C) với người lao động Việt Nam (bên B). Trước hết, bên A ký kết với
bên C hợp đồng cung ứng lao động. Hợp đồng cung ứng lao động phải có những
nội dung phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam, pháp luật nước sở tại và
phải đăng ký với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội theo quy định của pháp

luật. Trên cơ sở đó, bên A sẽ tiến hành tìm kiếm người lao động, sau đó ký kết với
người lao động hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài (là văn bản
ký giữa bên A và bên B để đưa bên B ra nước ngoài làm việc theo hợp đồng lao
động ký giữa bên B và bên C). Đây là hai văn bản này có ý nghĩa pháp lý quan trọng
vì nó là cơ sở đảm bảo quyền lợi và ràng buộc trách nhiệm của các bên, nhất là bảo
vệ quyền lợi của người lao động (bên B) khi xảy ra tranh chấp giữa các bên. Do đó,
pháp luật Việt Nam quy định khá chi tiết về các điều khoản bắt buộc trong hai hợp
đồng này. Đây cũng được đánh giá là biện pháp hữu hiệu để góp phần bảo vệ quyền

15


lợi của người lao động Việt Nam trước, trong và sau khi họ ra nước ngoài làm việc
theo hợp đồng.
Để có thể ký kết được hợp đồng cung ứng lao động với bên nước ngoài, bên A
phải đầu tư tìm kiếm nguồn lao động, đào tạo – giáo dục định hướng nghề nghiệp,
trang bị cho người lao động những kiến thức cơ bản về văn hóa, xã hội, pháp luật,
phong tục, tập quán của nước tiếp nhận lao động. Thực hiện tốt những công việc
này trong giai đoạn chuẩn bị tại Việt Nam sẽ góp phần mang lại lợi ích cho các bên
khi tham gia quan hệ đưa người lao động ra nước ngoài làm việc. Về phía người lao
động, khi được trang bị đầy đủ các kiến thức và kỹ năng cấn thiết, họ sẽ giảm đi sự
bỡ ngỡ, xa lạ khi phải sống và làm việc trong môi trường mới. Phía tiếp nhận lao
động cũng có thể nắm được thông tin về người lao động, quản lý dễ dàng hơn, tránh
được những tranh chấp có thể xảy ra. Phía doanh nghiệp đưa đi sẽ nâng cao được uy
tín của mình, giảm thiểu được những tranh chấp với người lao động và thu được
nhiều lợi nhuận từ hoạt động cung ứng lao động.
- Người lao động đi làm việc ở nước ngoài thông qua các tổ chức sự nghiệp
của nhà nước.
Đây là trường hợp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo các
thỏa thuận hoặc điều ước quốc tế giữa Việt Nam với các quốc gia khác. Đây là hoạt

động phi lợi nhuận, mang tính chất hợp tác quốc tế, tương trợ giữa các nước trong
lĩnh vực lao động và đào tạo nghề, do vậy chỉ có những tổ chức sự nghiệp thuộc Bộ,
cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ được Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ giao nhiệm vụ đưa người lao động
đi làm việc ở nước ngoài mới được phép thực hiện.
Về cơ bản, thủ tục tiến hành đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài giống với hình thức thứ nhất. Nhưng điểm khác biệt là điều kiện đối với
chủ thể đưa lao động ra nước ngoài (bên A) trong hoạt động này.
* Thông qua hình thức đƣa tu nghiệp sinh, thực tập sinh đi thực tập
nâng cao tay nghề ở nƣớc ngoài
Thực chất đây là hình thức đưa người lao động đi học nghề ở nước ngoài

16


dưới dạng tu nghiệp sinh, thực tập sinh hoặc đơn giản là học nghề để nâng cao khả
năng làm việc.
Doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức
thực tập nâng cao tay nghề (tạm gọi là bên A) phải ký kết hợp đồng nhận lao động
thực tập với cơ sở tiếp nhận thực tập ở nước ngoài (tạm gọi là bên C) và ký hợp đồng
đưa người lao động đi thực tập ở nước ngoài với người lao động (tạm gọi là bên B).
Kết thúc giai đoạn học nghề, người lao động có thể làm việc tại chính doanh nghiệp
nước ngoài đã dạy nghề cho họ. Việc học nghề có thể có hoặc không có tiền trợ cấp
sinh hoạt, nhưng luôn gắn với nghĩa vụ lao động sau quá trình học nghề cho nơi đã bỏ
chi phí đào tạo nghề cho người lao động. Bên A phải đảm bảo các điều kiện đưa đi,
điều kiện làm việc, sinh hoạt, phải quản lý người lao động và bảo vệ các quyền lợi
hợp pháp cho người lao động, đồng thời phải phối hợp chặt chẽ với bên C để giải
quyết kịp thời các rủi ro cho người lao động trong quá trình thực tập ở nước ngoài.
Hình thức này hiện nay đang được khuyến khích nhằm giúp cho người lao
Việt Nam nâng cao trình độ tay nghề, học hỏi kinh nghiệm quản lý của quốc tế, tạo

điều kiện để nước ta thực hiện tốt công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Như vậy, có thể hiểu hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng là hoạt động bao gồm quy trình khép kín bắt đầu khi chủ
thể làm dịch vụ đưa lao động đi nước ngoài (trong luận văn này tôi gọi tắt là bên A)
bắt đầu tiến hành các hoạt động tìm kiếm các ứng viên phù hợp (trong luận văn này
tôi gọi tắt là bên B) để giới thiệu cho các đối tác nước ngoài đang có nhu cầu tuyển
lao động (trong luận văn này tôi gọi tắt là bên C). Sau đó bên A sẽ tiến hành các
hoạt động đào tạo định hướng hoặc dạy nghề cho bên B để cung cấp cho bên B
những kiến thức và kỹ năng cần thiết (được gọi tắt là quá trình giáo dục định
hướng). Đồng thời, bên A cũng tiến hành các thủ tục cần thiết để giúp bên B xuất
cảnh khỏi Việt Nam, nhập cảnh vào nước tiếp nhận lao động. Cuối cùng, sau khi
bên B đã chấm dứt việc thực hiện hợp đồng lao động với bên C tại nước ngoài, bên
B sẽ trở về Việt Nam.

17


1.1.4. Tầm quan trọng của hợp đồng đưa người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài
Trong giai đoạn 2010 - 2015, hoạt động đưa người Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài có sự phát triển rõ rệt. Tổng số lao động đi làm việc ở nước ngoài trong
giai đoạn này là gần 450 nghìn người. Riêng năm 2014, cả nước có 106.840 người
đi làm việc ở nước ngoài, vượt 22,8% so kế hoạch được giao. Trong sáu tháng đầu
năm 2015 đưa được hơn 56 nghìn người, bằng 102% so với cùng kỳ 2014 và đạt
59% so với kế hoạch năm 2015.
Cùng với tăng trưởng về số lượng, thị trường tiếp nhận lao động cũng không
ngừng được củng cố và phát triển, đặc biệt là các thị trường truyền thống như Đài
Loan, Nhật Bản. Các thị trường khác cũng đã được khai thác để tăng số lượng
người lao động Việt Nam sang làm việc: Ả rập Xê út (năm 2014: 4 ngàn người, 6
tháng đầu năm 2015: 2 ngàn người); Algeria (2014: 547 người; 6 tháng đầu năm

2015: 381 người). Cùng với đó là sự gia tăng nhiều doanh nghiệp mới đề nghị cấp
giấy phép hoạt động xuất khẩu lao động. Trong năm 2014, số lượng doanh nghiệp
được cấp giấy phép là 26 và con số này tính đến hết tháng 6 năm 2015 là 25 doanh
nghiệp, nâng tổng số doanh nghiệp được cấp phép lên 228. Chỉ riêng trong, trong 9
tháng đầu năm 2015, tổng số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là 90.558
lao động (28.894 lao động nữ) đạt 100,62% kế hoạch năm 2015 và bằng 108,62%
so với cùng kỳ năm ngoái.
Hợp đồng đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài giúp mang
lại lợi ích kinh tế cho bản thân người lao động, doanh nghiệp đưa đi và nhà nước.
Đối với người lao động, việc ra nước ngoài làm việc góp phần làm tăng thu
nhập của bản thân người lao động và gia đình họ. Khi ra nước ngoài làm việc, người
lao động thường có có thu nhập cao hơn so với làm việc trong nước thông. Nhờ có
nguồn thu nhập đó, người lao động gửi khoản tiền đó về cho gia đình để tiết kiệm. Theo
ước tính của Ngân hàng Nhà nước và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, năm 2007,
chỉ riêng lao động Việt Nam ở nước ngoài chuyển về nước khoảng 2 tỷ USD. Khoản
tiền người lao động gửi về nhà được chia làm hai phần: một phần gia đình chi tiêu

18


vào việc nâng cao mức sống, chăm sóc sức khỏe của gia đình, đặc biệt là chi tiêu
cho việc học tập của con cái góp phần nâng cao dân trí, một phần lớn dành để tiết
kiệm nhằm mục đích đầu tư trong tương lai.
Đối với đa số doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài,
đây là một hoạt động kinh doanh thuần tuý, do đó, mục tiêu của họ là hướng tới các
khoản lợi nhuận thu được thông qua hoạt động này.
Đối với nhà nước, việc cho phép đưa người lao động ra nước ngoài làm việc
tạo điều kiện để chúng ta tận dụng nguồn nhân lực làm tăng thu nhập quốc gia. Việt
Nam có nguồn lao động dồi dào và trẻ. Việc thực hiện chính sách đưa người lao
động ra nước ngoài làm việc sẽ tạo cơ hội để sử dụng số lao động thất nghiệp vào

việc sản xuất ra hàng hóa, dịch vụ tại nước khác, mang lại thu nhập cho người lao
động; đồng thời góp phần làm tăng thu nhập quốc gia. Việt Nam là một đất nước có
dân số trẻ với hơn 84 triệu dân, nguồn lực lao động dồi dào cộng với chi phí nhân
công rẻ, thị trường lao động Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường
hấp dẫn nhất khu vực. Theo thống kê, năm 2006 số người trong độ tuổi lao động
của cả nước là 43,44 triệu, trong đó số lao động trong độ tuổi thanh niên chiếm
khoảng 47%. Mục tiêu đề ra của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, từ nay đến
năm 2010 đảm bảo và tạo việc làm cho 49,5 triệu lao động, giảm tỉ lệ thất nghiệp ở
thành thị xuống dưới 5%. Cụ thể, bình quân mỗi năm giải quyết việc làm cho
khoảng 1,52-1,6 triệu lao động. Điều này đặt ra một thách thức to lớn cho các nhà
quản lý. Trong khi đó, theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), thị trường lao động thế giới
hiện nay đã tăng gấp 4 lần so với năm 1980 và dự báo sẽ tăng gấp đôi vào 2050. Ở
các nước phát triển chẳng hạn như Mỹ, giới phân tích thị trường việc làm cho rằng
lao động có tay nghề, có kỹ thuật cao vẫn thiếu trầm trọng. Trong xu hướng toàn
cầu hoá gia tăng cùng với việc thiếu lao động trầm trọng ở nhiều quốc gia trên thế
giới, làn sóng người lao động ở các nước đang phát triển thiếu việc làm đã di
chuyển đến các nước phát triển với hy vọng tìm việc làm và kiếm được nhiều tiền
hơn. Chính vì vậy, xuất phát trên hai mặt cung - cầu, xuất khẩu lao động được xem
như một bước đi đúng đắn góp phần giải quyết gánh nặng việc làm trong nước đồng

19


thời đem lại nguồn thu cho cá nhân người lao động và cho xã hội. Theo xu hướng
này, trong những năm qua, Việt Nam đã tập trung đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao
động và đã thu được những thành tựu khả quan. Hàng năm lượng tiền người lao
động gửi về nước khoảng 2 tỷ đô la Mỹ [60, tr. 2]. Năm 2010, Việt Nam đứng thứ
16 trong 30 quốc gia có lượng kiều hối chuyển về nhiều nhất [7].
Bên cạnh đó, việc đưa người lao động ra nước ngoài làm việc còn góp phần
thúc đẩy chi tiêu của Chính phủ cho việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Người

lao động ra nước ngoài làm việc muốn được doanh nghiệp nước sở tại tiếp nhận thì
họ phải có kỹ năng nghề nghiệp và trình độ ngoại ngữ nhất định theo yêu cầu của chủ
sử dụng lao động. Do vậy, Chính phủ phải đầu tư về cơ sở vật chất, đội ngũ giảng
viên và các điều kiện khác để đảm bảo cho việc đào tạo người lao động. Điều này sẽ
làm tăng chi tiêu của Chính phủ. Khi chi tiêu cho đầu tư của Chính phủ tăng sẽ góp
phần làm tăng GDP cả trong ngắn hạn và dài hạn. Việc đưa lao động ra nước ngoài
làm việc cũng tạo điều kiện cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sắp xếp lại cơ cấu
ngành nghề cho phù hợp với sự thay đổi của thực tiễn kinh tế - xã hội.
Việc đưa người lao động ra nước ngoài làm việc còn góp phần trực tiếp nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực. Khi đi làm việc ở nước ngoài, người lao động được
trang bị một khối lượng kiến thức học vấn và ngoại ngữ cơ bản. Khi được làm việc
trong môi trường công nghiệp hiện đại, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, trình độ tay
nghề và kỹ năng nghề nghiệp của họ ngày càng được nâng cao. Sau một thời gian
làm việc ở nước ngoài, trình độ tay nghề, ý thức kỷ luật, phong cách làm việc, trình
độ ngoại ngữ và vốn hiểu biết của người lao động được nâng cao vượt bậc.
1.2. Lƣợc sử quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam về đƣa ngƣời
lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài
1.2.1. Giai đoạn trước năm 1990
Trong giai đoạn này hoạt động hợp tác lao động được thực hiện theo cơ chế tập
trung - bao cấp. Nhà nước ký kết các hiệp định Chính phủ cung cấp lao động và chuyên
gia cho một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, một số nước Trung Đông và Châu Phi.
Cơ sở pháp lý cho việc đưa lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài trong thời

20


×