Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.17 KB, 14 trang )

Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Từ
đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận đối với hoạt động thực
tiễn của bản thân.
Nộidung:
1.Khái niệm:
-Vật chất: Là phạm trù triết học dùng để chỉ thựctại khách quan được
đem lại cho con người trong cảmgiác được cảm giác của chúng ta chép
lại, chụp lại,phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
-Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giớikhách quan của bộ
óc con người; là hình ảnh chủ quancủa thế giới khách quan.
2.Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Triếthọc Mác – Lê nin khẳng định trong mối quan hệ giữavật chất và ý
thức quyết định ý thức và ý thức cótính độc lập tương đối và tác động
trở lại vậtchất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
a.Vai trò của vật chất đối với ý thức:
Trongmối quan hệ với ý thức, vật chất là cái có trước,ý thức là cái có
sau; vật chất là nguồn gốc của ýthức; vật chất quyết định ý thức, ý
thức là sựphản ánh đối với vật chất.
-Vật chất là tiền đề, nguồn gốc cho sự ra đời, tồntại và phát triển của ý
thức.
-Điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức như thếđó.
-Vật chất biến đổi thì ý thức biến đổi theo.
-Vật chất là điều kiện để biến ý thức thành hiệnthực.
b.Vai trò của ý thức đối với vật chất.
-Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tácđộng trở lại vật chất
thông qua hoạt động thựctiễn của con người. Nhờ có ý thức con người
nhậnthức được quy luật vận động, phát triển của thếgiới khách quan.
-Ý thức tác động lại vật chất theo hai chiều hướng:
+Tích cực: ý thức có thể trở thành động lực pháttriển của vật chất.
+Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vậnđộng và phát triển
của vật chất khi ý thức phản ánhsai, phản ánh xuyên tạc các quy luật


vận động kháchquan của vật chất.
2.Ý nghĩa phương pháp luận.


-Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: vật chấtcó trước, ý thức có
sau, vật chất là nguồn gốc củaý thức, song ý thức có thể tác động trở
lại vậtchất thông qua hoạt động thực tiễn của con người; vìvậy con
người phải tôn trọng tính khách quan, đồngthời phát huy tính năng
động, chủ quan của mình.
-Ý thức có thể quyết định làm cho con người hoạt độngđúng và thành
công khi phản ánh đúng đắn, sâu sắc thếgiới khách quan. Ngược lại, ý
thức, tư tưởng có thểlàm cho con người hoạt động sai và thất bại khi
conngười phản ánh sai thế giới khách quan.
Vìvậy, phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thứcđồng thời
khắc phục bệnh bảo thủ trì trệ, thái độtiêu cực, thụ động, ỷ lại hoặc
bệnh chủ quan duy ýchí.
-Đảng ta đã chỉ rõ: Mọi đường lối chủ chương củaĐảng phải xuất phát
từ thực tế, tôn trọng quy luậtkhách quan.
*Đối với hoạt động thực tiễn của bản thân:
-Phát huy năng động, sáng tạo của ý thức trong quá trìnhhọc tập và
công tác.
-Chống bệnh chủ quan duy ý chí, có thái độ tích cựctrong học tập và
công tác.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học. Phạm trù vật
chất và mối liên hệ giữa vật chất và ý thức đã được các nhà triết học trước Mác
quan tâm với nhiều quan điểm khác nhau và luôn diển ra cuộc đấu tranh giữa
chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trong suốt lịch sử của triết học .
Quan điểm Mácxit cho rằng chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới
vật chất . thế giới vật chất tồn tại khách quan có trước và độc lập với ý thức con
người .

Lênin –người đã bảo vệ và phát triển triết học Mác đã nêu ra định nghĩa “vật chất
là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại để làm
cho con người trong cảm giác ,được cảm giác của chúng ta chép lại ,chụp lại
,phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác (Lênin toàn tập 8 ,nhà xuất
bản tiến bộ Maxcơva-1980. trang 151).


Định nghĩa trên thể hiện mấy nội dung sau :
Vật chất là một phạm trù triết học : Đó là một phạm trù rộng và khái quát nhất ,
không thể hiểu theo nghĩa hẹp như các khái niệm vật chất thường dùng trong
các lỉnh vực khoa học cụ thể hoặc đời sống hàng ngày .
Thuộc tính cơ bản nhất của vật chất là “thực tại khách quan” , “tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác”, đó củng chính là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất
và cái gì không phải là vật chất .
Thực tại khách quan đem lại cho con người trong cảm giác “tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác” . điều đó khẳng định “thực tại khách quan” (vật chất ) là cái
có trước ( tính thứ nhất) . còn “cảm giác” , (ý thức ) là cái có sau ( tinh thứ hai ) .
Vật chất tồn tại không lệ thuộc vào ý thức .
“Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác ,đươc cảm
giác của chúng ta chép lại ,chụp lại, phản ánh” .Điều đó nói lên “thực tại khách
quan” (vật chất ) được biểu hiên thông qua các dạng cụ thể bằng “cảm giác” (ý
thức ) con người có thể nhận thức được . Và “thực tại khách quan” (vật chất )
chính là nguồn gốc nội dung của “cảm giác” (ý thức ).
Khẳng định thế giới thực chất khách quan là vô cùng , vô tận luôn vận động và
phát triển không ngừng , nên đã có tác động cổ vũ ,động viên các nhà khoa học
đi nghiên cứu thế giới vật chất , tim ra những kết cấu mới , những thuộc tính mới
và những qui luật hoạt động của vật chất để làm phong phú thêm kho tàng vật
chất của nhân loại .
Chủ nghĩa duy vật biên chứng khẳng định ý thức của con người là sản phẩm của
quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử xã hội . Chủ nghĩa duy vật biên chứng

cho ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não người thông qua hoạt
động thực tiển , nên bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan, là sự phản ánh sáng tạo thế giới vật chất .
Y thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan . Điều đó có nghĩa là nội
dung của ý thức là do thế giới khách quan qui định , nhưng ý thức là hình ảnh
chủ quan , là hình ảnh tinh thần chứ không phải là hình ảnh vật lý , vật chất như
chủ nghĩa duy vật bình thường quan niệm.


Khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan , củng có nghĩa là ý
thức là sự phản ánh tư giác , sáng tạo thế giới .
Tính năng động sáng tạo của ý thức thể hiện ở việc con người thu nhận thông
tin ,cải biến thông tin trên cơ sở cái đã có ,ý thức sẽ tạo ra tri thức mới về vật
chất . Ý thức có thể tiên đoán , tiên liệu tương lai , có thể tạo ra những ảo
tưởng , những huyền thoại , những giả thiết khoa học …. Ý thức là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan .
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người ,song đây là
sự phản ánh đặc biệt –phản ánh trong quá trình con người cải tạo thế giới . Quá
trình ấy diển ra ở 3 mặt :sự trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản
ánh , mô hình hoá đối tượng trong tư duy hình ảnh tinh thần và chuyển vào mô
hình hoá từ tư duy ra hiện thực khách quan hay gọi là hiện thực hoá mô hình tư
duy-đây là giai đoạn cải tạo hiện thực khách quan . Chủ nghĩa duy vật biện
chứng còn cho rằng ý thức không phải là hiện tượng tự nhiên thuần tuý mà còn
gọi là hiện tượng xã hội ý thức bắt nguồn từ thực tiển lịch sử xã hội , phản ánh
những quan hệ xã hội khách quan . Đây chinh là bản chất xã hội của ý thức .
Quan điểm Mác xit cho rằng vật chất quyết đinh ý thức , ý thức là sản phẩm của
một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc của con người . Bộ óc con người cùng
với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc –đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức .
Nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý
thức là lao động và thực tiển của xã hội .

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thể hiện mấy quan điểm sau :
Vật chất quyết định ý thức, vật chất quyết định nội dung ý thức . Cả ý thức thông
thường và ý thức lý luận đều bắt nguồn từ điều kiện tự nhiên và xã hội nhất
định . những ước mơ phong tục, tập quán , thói quen nầy nẩy sinh trên những
điều kiện vật chất nhất định đó là thực tiển xã hội –lịch sử . Chủ nghĩa xã hội
khoa học đời củng dựa trên mảnh đất hiện thực là những tiên đề về kinh tế chính
trị xã hội, về khoa học tự nhiên và sự kế thừa tinh hoa tư tưởng , văn hoá nhân
loại cùng với thiên tài của cácmác và Ăngghen .


Do thưc tại khách quan luôn luôn biến động vận động nên nhận thức của nó
củng luôn luôn biến đổi theo, nhưng xét đến cùng thì vật chất bao giờ củng quyết
định ý thức . Nhưng ý thức đã ra đời thì nó có tác động lại vật chất . Với tính độc
lập tương đối của mình ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực
tiển của con người .
Sự tác động trở lại theo hai hướng thúc đẩy hoặc kìm hảm thâm chí phá hoại sự
phát triển bình thường của sự vật .
Vai trò của ý thức là ở trổ nó chỉ đạo hoạt động của con người, hình thành mục
tiêu , kế hoạch , ý trí biện pháp hoạt động của từng người . Cho nên trong điều
kiên khách quan nhất định ý thức – tư tưởng trở thành nhân tố quan trọng có tác
dụng quyết định làm cho con người hoạt động đúng hay sai, thành công hay thất
bại .
Sức mạnh của ý thức con người không phải ở trổ tách rời điều kiện vật chất
thoát li điều kiện khách quan mà là biết dựa vào điều kiện vật chất đã có phản
ánh đúng qui luật khách quan để cải tạo thế giới một cách chủ động sáng tạo và
có hiệu quả . “Ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới khách quan mà còn
tạo ra thế giới khách quan” (Lênin).
Quán triệt quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức của triết học Mác xit.
Trong nhận thức và thực tiễn , chúng ta phải xuất phát từ thực tế khách quan ,
lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình . Đồng thời phát

huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố của con người
trong việc nhân thức ,tác động cải tạo thế giới .Quan điểm khách quan trên giúp
ta ngăn ngừa và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí.
Bệnh chủ quan duy ý trí là xuất phát từ việc cường điệu tính sáng tạo của ý
thức , tuyệt đối hoá vai trò nhân tố chủ quan của ý chí ,bất chấp qui luật khách
quan ,xa rời hiện thực , phủ nhận xem nhẹ điều kiện vật chất .
Ở nước ta , trong thời kỳ trước đổi mới . Đảng ta đã nhận định rằng chúng ta
mắt bệnh chủ quan duy ý chí trong việc xác định mục tiêu và bước đi trong việc
xây dựng vật chất kỹ thuật và cải tạo xã hội chủ nghĩa ; về bố trí cơ cấu kinh tế
;về việc sử dụng các thành phần kinh tế ….


Trong những năm 1976-1980 trên thực tế chúng ta chủ trương đẩy mạnh công
nghiệp hoá trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết đó là lực lượng sản xuất
còn nhỏ bé , chưa phát triển , còn chủ yếu là sản xuất nhỏ , lạc hậu , kinh tế
hàng hoá chưa phát triển . Chúng ta chỉ muốn đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật cho Chủ Nghĩa Xã Hội mà không tính đến điều kiện thực tế
của đất nước .
Trong bố trí cơ cấu kinh tế ,trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư , thường chỉ
xuất phát từ mong muốn đi nhanh , không tính đến điều kiện và khả năng thực
tế đề ra những chỉ tiêu kế hoạch hoá cao về xây dựng cơ bản và phát triển sản
xuất .
Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa ,sử dụng các thành phần kinh tế , đã có hiện
tượng nóng vọi muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa ,
nhanh chống biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh trong khi đúng ra là
phải duy trì thực hiện phát triển các thành phần kinh tế theo từng bước đi thích
hợp , phù hợp với thời kỳ quá độ trong một thời gian tương đối dài để phát triển
lực lượng sản xuất .
Nguyên nhân của căn bệnh chủ quan duy ý chí trên là do sự lạc hậu ,yếu kém về
lý luận ,do tâm lý của người sản xuất nhỏ và do chúng ta kéo dài chế độ quan

liêu bao cấp .
Văn kiện Đại Hội toàn quốc lần thứ 6 của Đảng ta đã nêu lên bài học :”Đảng ta
luôn luôn xuất phát từ thực tế ,tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan .
Năng lực nhận thức và hành động theo qui luật là điều kiên đảm bảo sự lảnh đạo
đúng đắn của Đảng ” (VKĐH 6, trang 30 ).
Chúng ta biết rằng quan điểm khách quan đòi hỏi trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn phải xuất phát từ bản thân sự vật hiện tượng ,phải thừa nhận và tôn
trọng tính khách quan của vật chất , của các qui luật tự nhiên và xã hội , không
được xuất phát từ ý muốn chủ quan .
Bài học mà Đảng ta đã nêu ra , trước heat đòi hỏi Đảng nhận thức đúng đắn và
hành động phù hợp với hệ thống qui luật khách quan. Tiếp tục đổi mới tư duy lý


luận , nhất là tư duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta . Đó là xây dựng CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cho nên phải
trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài nhiều chặn đường , nhiều hình thức tổ chức
kinh tế xã hội có tính chất quá độ .
Mổi chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước phải xuất phát từ thực tế
khách quan của đất nước và phù hợp qui luật . Chúng ta biết rằng ý thức là sự
phản ánh hiện thực khách quan trong quá trình con người cải tạo thế giới . Do
đó càng nắm bắt thông tin về thực tế khách quan chính xác , đầy đủ trung thực
và sử lý các thông tin ấy một cách khoa học thì quá trình cải tạo thế giới càng
hiệu quả .Đồng thời cần thấy rằng sức mạnh của ý thức là ở năng lực nhận thức
và vận dụng tri thức củng như các qui luật của thế giới khách quan .
Xuất phát từ mối quan hệ biên chứng giữa vật chất và ý thức . Đảng ta xác định :
“Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế tôn trọng và hành động theo qui luật
khách quan” là xác định vai trò quyết định của vật chất (thế giới khách quan ) :
“Năng lực nhận thức và hành động theo qui luật là điều kiện đảm bảo sự lảnh
đạo đúng đắn của Đảng “là khẳng định vai trò tích cực của ý thức trong việc chỉ
đạo hành động con người . Như vậy , từ chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ

vật chất và ý thức , củng như từ những kinh nghiệm thành công và thất bại trong
quá trình lảnh đạo cách mạng nước ta , Đảng ta đả rút ra bài học trên.
Bài học ấy có ý nghĩa thời sự nóng hổi trong quá trình đổi mới đất nước . Hiện
nay , trong tình hình đổi mới của cục diện thế giới và của cách mạng ở nước ta
đòi hỏi Đảng ta không ngừng phát huy sự hiệu quả lảnh đạo của mình thông qua
việc nhận thức đúng , tranh thủ đươc thời cơ do cách mạng khoa học công nghệ
,do xu thế hội nhập và toàn cầu hoá đem lại ,đồng thời xác định rỏ những thách
thức mà cách





1/ Khái niệm vật chất và ý thức:
a/ Vật chất:
Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan mà con
người biết được qua cảm giác, Được cảm giác chụp lại, chép lại, phản ánh, tồn
tại không phụ thuộc cảm giác
Trước hết, Lê nin trong định nghĩa vật chất đã dùng định nghĩa đặc biệt
khác với thông thường. Nghĩa là đem đối lập giữa vật chất với ý thức để định
nghĩa . Nghĩa là tất cả những gì bên ngoài độc lập với ý thức con người đều là
vật chất.




Về nội dung vật chất: có 2 nội dung chính:
Thứ nhất: vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan và con
người biết được qua cảm giác.
Thứ 2 là: Cảm giác chụp lại, nhắc lại và phản ảnh những tồn tại không phụ thuộc

cảm giác. Nghĩa là vật chất là cái mà con người có thể nhận biết được, chỉ có cái
chưa biết nhưng rồi con người sẽ biết thông qua nhận thức.
b/ Ý thức :
Là sự phản ánh thế giới khách quan lên bộ óc con người dựa trên cơ sở hoạt
động thực tiễn, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Đây là phản
ánh tích cực chủ động sáng tạo hình ảnh chủ quan …
Qua đây ta thấy:
Thứ nhất: BẢN chất của ý thức là sự phản ánh thực Tại khách quan trên cơ sở
hoạt động Thực tiễn. Ý THỨC KHÔNG PHẢI LÀ HUYỀN BÍ mà bản chất của nó
là sự phản ảnh tức là có cả cái phản ảnh (Ý thức) và cái được phản ánh (vật
chất). Ở đây cái được phản ánh sẽ quyết định cái phản ánh.
Thứ 2: Hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: Hình ảnh chủ quan nghĩa là
ý thức là hình ảnh chứ không phải là bản thân sự vật. Nghĩa là bản thân sự vật
được di chuyển vào óc người và được cải biến trong đó. Vì thế nội dung phản
ảnh mang tính khách quan. Mức độ cải biến đến đâu là do chủ thể.
Thứ 3: Đây là phản ánh tích cực chủ động, sáng tạo:
Tích ực chủ động là con người không thụ động chờ đợi hoàn cảnh khách quan
mà chủ động tác động vào khách quan để khách quan bộc lộ thuộc tính. Con
người nhận thức để cải tạo thế giới khách quan theo mục đích của mình. Ví dụ:
đổ dấm vào đá, đá sủi bọt
Tính sáng tạo là ý thức phản ánh sự vật và đi sâu vào bản chất sự vật, dự kiến
được xu hướng phát triển của sự vật để con người chủ động đón trước. Mác nói:
con người tái tạo tự nhiên theo quy luật của cái đẹp. Ví dụ: nước ta đưa ra
những mục tiêu đến năm 2020 nước ta trở thành 1 nước cơ bản là 1 nước
công nghiệp. Xây nhà làm sao cho đẹp.
Kết cấu:
Ý thức có kết cấu phức tạp bao gồm nhiều thành tố có quan hệ gắn bó chặt chẽ
với nhau. Đó là: Tri thức, tình cảm ý chí… Trong đó, tri thức là quan trọng nhất.
Mác nói: Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức.
-> Ý thức có nguồn từ tự nhiên (thế giới quan và bộ óc con người) và xã hội (lao

động và ngôn ngữ). Vì vậy, ý thức và vật chất có mối quan hệ thể hiện như sau:
2/ Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
Trong lịch sử, Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức có trước vật chất có sau, ý
thức quyết định vật chất
Chủ nghĩa duy vật siêu hình cho rằng vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất
quyết định ý thức và sinh ra ý thức. Tuy nhiên quan điểm của họ chưa thấy
được vai trò, tính năng động sáng tạo của ý thức.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng xuất phát từ con người hiện thực, con người thực
tiễn để xem xét mối quan hệ này. Từ đó khảng định, vật chất có trước, ý thức có
sau, vật chất quyết định ý thức và ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động của con người




* Vật chất quyết định ý thức: Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất quyết
định nguồn gốc, bản chất, nội dung sự biến đổi của ý thức.
VÍ DỤ :Trong ĐỜI SỐNG XÃ HỘI có câu: thực túc, binh cường, có thực mới vực
được đạo.
+ Vật chất Quết định nguồn gốc ý thức: Nghĩa là não người là dạng vật chất cao
có tính chất của vật chất là cơ quan phản ánh để hoàn thành ý thức.
Ý thức phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh
thế giới khách quan.
+ Vật chất quyết định bản chất, nội dung ý thức: Bản chất là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan: nghĩa là ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất và thế
giới vật chất được dịch chuyển vào óc người, được cải biến trong đó. Vì thế, vật
chất quyết định cả bản chất và nội dung. Nội dung là phản ánh thế giới khách
quan.
+ Vật chất quyết định Sự biến đổi ý thức: Ý thức là cái phản ánh, vật chất là cái
được phản ánh khi cái được phản ánh biến đổi thì cái phản ánh cũng phải biến

đổi theo.
* Ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động con người cụ thể nó có
thể thúc đẩy hoặc kìm hãm ở một mức độ nhất định, các điều kiện vật chất
góp phần cải tạo hình thức khách quan.
Nếu phản ánh đúng hiện thực khách quan – nó thúc đẩy ngược lại thì nó
cản trở
Ví dụ: Chủ rương đổi mới cơ chế quan liêu bao cấp, cản trở phát triển con người
– khủng hoảng kinh tế xã hội, động lực
Tóm lại:Quan hệ VẬT CHẤT và ý thức là quan hệ hai chiều tác động biện
chứng qua lại, trong đó VẬT CHẤT quyết định ý thức còn ý thức tác động trở lại
thực tiễn thông qua hoạt động nhận thức của con người.
III/ Ý nghĩa phương pháp luận:
1/ Vì vật chất quyết định ý thức, sinh ra ý thức cho nên mọi chủ trương CS hoạt
động nhận thức, hoạt động con người đều phải xuất phát từ hiện thực khách
quan và hoạt động tuân theo quy luật khách quan, nghĩa là chúng ta phải có
quan điểm khách quan trong nhận thức hoạt động thực tiễn.
2/ Xuất phát từ hiện thực khách quan, không phải từ những cái lẻ tẻ của hiện
thực khách quan, phải xuất phát từ cái chung là quy luật khách quan.
Nghị quết 6 của Đảng là bài học kinh nghiệm là phải nắm vững hiện thực khách
quan.
+ Hoạt động tuân theo quy luật (quan điểm khách quan) là nhận thức sự vật phải
tôn trọng chính nó có, phải phản ánh đúng quy luật vận động phát triển của sự
vật và chống chủ nghĩa khách quan, đồng thời chống chủ quan duy ý chí.
3/Vì ý thức có tính độc lập tương đối, có tính năng động sáng tạo có thể tác
động trở lại vật chất thông qua hoạt động con người, cho nên cùng với xuất phát
từ cái hiện thực khách quan thì phải phát huy tính năng động chủ quan , tức là
phát huy mặt tích cực ý thức, hạn chế mặt tiêu cực của ý thức.
Ví dụ: Trước một trận đánh làm quyết tâm thư, tự phê bình và phê bình, rut ra
những nhược điểm để tiến bộ, khắc phục những mặt tiêu cực.
Giáo dục nhận thức thông qua phong trào, thực tiễn tư tưởng cục bộ đ phong,

đạo đức giả


4/ Giữa vật chất và ý thức chỉ có đối lập tuyệt đối trong phạm vi nhận thức luận.
Ngoài lĩnh vực đó ra, sự phân biệt chỉ là tương đối (Câu của Lê Nin)
Vì thế một chính sách đúng đắn là cơ sở liên kết hợp hai yếu tố này.
Ví dụ: giáo dục chính trị, tư tưởng gắn liền với khuyến khích lợi ích vật chất như
đạt danh hiệu thi đua, được phần thưởng.
+ Công tác tư tưởng phải gắn liền với công tác tổ chức nếu tuyệt đối hóa yếu tố
vật chất, yếu tố kinh tế mà coi nhẹ ý thức của con người, coi nhẹ tính năng
động , sáng tạo của con người sẽ rơi vào chủ nghĩa duy vật tầm thường, ngược
lại nếu tuyệt đối hóa yếu tố ý thức và coi nhẹ điều kiện vật chất nhất định thì sẽ
rơi vào chủ nghĩa chủ quan duy ý chí.
Ví dụ: một thời kỳ đề ra vấn đề công hữu , xây dựng quan hệ sản xuất không
dựa trên lực lượng sản xuất.
Câu 3: Nguồn gốc và bản chất của ý thức? Ý nghĩa phương pháp luận?
Thich 05/06/2015 Đề thi chủ nghĩa Mác - Lênin Nhận xét 12,310 Lượt xem
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Ý thức của con người là sản phẩm
của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử – xã hội. Để hiểu được nguồn gốc và
bản chất của ý thức cần phải xem xét trên cả hai mặt tự nhiên và xã hội.
I. Nguồn gốc của ý thức
1. Nguồn gốc tự nhiên (Thuộc tính phản ánh của vật chất và sự ra đời
của ý thức)
– Phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất. Đó là năng lực giữa lại,
tái hiện của hệ thống vật chất này, những đặc điểm của hộ thống vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại.
>>> Định nghĩa vật chất của Lênin
– Cùng với sự tiến hoá của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của nó cũng
phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Trong đó ý thức là hình
thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất.– Ý thức là một thuộc tính của một

dạng vật chất có tổ chức cao của bộ não con người, là sự phản ánh thế giới
khách quan vào bộ óc con người.
2. Nguồn gốc xã hội (Vai trò của lao động và ngôn ngữ trong sự hình
thành và phát triển của ý thức)
– Lao động là hoạt động đặc thù của con người, làm cho con người khác với tất
cả
các
động
vật
khác.
+ Trong lao động, con người đã biết chế tạo ra các công cụ và sử dụng các công
cụ
để
tạo
ra
của
cải
vật
chất.
+ Lao động của con người là hành động có mục đích – tác động vào thế giới vật
chất khách quan làm biến đổi thế giới nhằm thoả mãn nhu cầu của con người.


+ Trong quá trình lao động, bộ não người phát triển và ngày càng hoàn thiện,
làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con người cùng ngày càng phát triển.
– Lao động sản xuất còn là cơ sở của sự hình thành và phát triển ngôn ngữ.
+ Trong lao động, con người tất yếu có những quan hệ với nhau và có nhu cầu
cần trao đổi kinh nghiệm. Từ đó nảy sinh sự “cần thiết phải nói với nhau một cái
gì đấy”. Vì vậy, ngôn ngữ ra đời và phát triển cùng với lao động.
+ Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai, là cái “vỏ vật chất” của tư duy, là

phương tiện để con người giao tiếp trong xã hội, phản ánh một cách khái quát
sự vật, tổng kết kinh nghiêm thực tiễn và trao đổi chung giữa các thế hệ. Chính
vì vậy, Ăngghen coi: lao động và ngôn ngữ là “hai sức kích thích chủ yếu” biến
bộ não của con vật thành bộ não con người, phản ánh tâm lý động vật thành
phản ánh ý thức.
Lao động và ngôn ngữ, đó chính là nguồn gốc xã hội quyết định sự hình thành
và phát triển ý thức.
II. Bản chất của ý thức
Trong lịch sử triết học, triết học duy tâm quan niệm ý thức là một thực thể độc
lập, là thực tại duy nhất, từ đó cường điệu tính năng động của ý thức đến mức
coi ý thức sinh ra vật chất chứ không phải là sự phản ánh của vật chất.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan
vào bộ não con người thông qua thực tiễn, nên bản chất của ý thức là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh sáng tạo thế giới vật chất.
– Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó có nghĩa là nội
dung của ý thức là do thế giới khách quan quy định, nhưng ý thức là hình ảnh
chủ quan, là hình ảnh tinh thần chứ không phải là hình ảnh vật lý, vật chất như
chủ nghĩa duy vật tầm thường quan niệm.
– Khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, cùng có nghĩa là
ý
thức

sự
phản
ánh
tự
giác,
sáng
tạo
thế

giới.
+ Phản ánh ý thức là sáng tạo, vì nó bao giờ cũng do nhu cầu thực tiễn quy
định. Nhu cầu đó đòi hỏi chủ thể phản ánh phải hiệu được cái được phản ánh.
Trên cơ sở đó hình thành nên hình ảnh tinh thần và những hình ảnh đó ngày
càng phản ánh đúng đắn hơn hiện thực khách quan, Song, sự sáng tạo của ý
thức là sự sáng tạo của phản ánh, dựa trên cơ sở phản ánh.
+ Phản ánh ý thức là sáng tạo, vì phản ánh đó bao giờ cũng dự trên hoạt động
thực tiễn và là sản phẩn của các quan hệ xã hội. Là sản phẩm của các quan hệ
xã hội, bản chất của ý thức là có tính xã hội.


Quan điểm trên của triết học Mác về nguồn gốc và bản chất của ý thức hoàn
toàn đối lập vớichủ nghĩa duy tâm coi ý thức, tư duy là cái có trước, sinh ra vật
chất và chủ nghĩa duy vật tầm thường coi ý tức là một dạng vật chất hoặc coi ý
thức là sự phản ánh giản đơn, thụ động về thế giới vật chất.
III- Ý nghĩa phương pháp luận
1. Do ý thức chỉ là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nên trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan. Cần phải
chống bệnh chủ quan duy ý chí.
2. Do ý thức là sự phản ánh tự giác, sáng tạo hiện thực, nên cần chống tư tưởng
thụ động và chủ nghĩa giáo điều xa rời thực tiễn
Bạn đang xem bài viết số 3 trong 35 bài viết của ngân hàng đề thi môn Chủ
nghĩa Mac – Lênin . Bạn có thể tải trọn bộ câu hỏi tại: Đề thi môn chủ nghĩa Mac
– Lenin
ĐỌC THÊM
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định trong mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức thì: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức,
quyết định ý thức, song ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người; vì vậy, con người phải tôn trọng khách quan,
đồng thời phát huy tính năng động chủ quan của mình.

Tôn trọng khách quan là tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các quy
luật tự nhiên và xã hội. Điều này đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn con người phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế
khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình. V.I. Lênin đã nhiều lần
nhấn mạnh không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không
được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng.
Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo
tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí.
– Nếu ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động trở lại vật
chất thông qua hoạt động thực tiễn thì con người phải phát huy tính năng động
chủ quan.
Phát huy tính năng động chủ quan tức là phát huy vai trò tích cực của ý thức,
vai trò tích cực của nhân tố con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp
thay đổi được gì trong hiện thực. ý thức muốn tác động trở lại đời sống hiện
thực phải bằng lực lượng vật chất, nghĩa là phải được con người thực hiện trong
thực tiễn. Điều ấy có nghĩa là sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông
qua hoạt động của con người được bắt đầu từ khâu nhận thức cho được quy
luật khách quan, biết vận dụng đúng đắn quy luật khách quan, phải có ý chí,


phải có phương pháp để tổ chức hành động. Vai trò của ý thức là ở chỗ trang bị
cho con người những tri thức về bản chất quy luật khách quan của đối tượng,
trên cơ sở ấy, con người xác định đúng đắn mục tiêu và đề ra phương hướng
hoạt động phù hợp. Tiếp theo, con người với ý thức của mình xác định các biện
pháp để thực hiện tổ chức các hoạt động thực tiễn. Cuối cùng, bằng sự nỗ lực
và ý chí mạnh mẽ của mình, con người có thể thực hiện được mục tiêu đề ra. ở
đây ý thức, tư tưởng có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng và
thành công khi phản ánh đúng đắn, sâu sắc thế giới khách quan, vì đó là cơ sở
quan trọng cho việc xác định mục tiêu, phương hướng và biện pháp chính xác.
Ngược lại, ý thức, tư tưởng có thể làm cho con người hoạt động sai và thất bại

khi con người phản ánh sai thế giới khách quan. Vì vậy, phải phát huy tính năng
động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người để tác động cải
tạo thế giới khách quan; đồng thời phải khắc phục bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ
tiêu cực, thụ động, ỷ lại, ngồi chờ trong quá trình đổi mới hiện nay.
Từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và từ kinh nghiệm thành công và thất bại
trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra bài học
quan trọng là “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế,
tôn trọng quy luật khách quan”. Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa và hiện đại hóa, Đảng chủ trương: “huy động ngày càng cao
mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước, đặc biệt là nguồn lực của dân vào công
cuộc phát triển đất nước”, muốn vậy phải “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Câu 4: Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức? Ý nghĩa phương pháp luận?
Thich 05/06/2015 Đề thi chủ nghĩa Mác - Lênin Nhận xét 13,591 Lượt xem
1. Phạm trù vật chất và phạm trù ý thức
Lênin đã định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại trong lệ thuộc vào cảm giác”
(V.I.Lênin: Toàn tập, t.18, Nxb. Tiến bộ, M., 1980, tr.151).
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Ý thức của con người là sản phẩm
của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử – xã hội. Để hiểu được nguồn gốc và
bản chất của ý thức cần phải xem xét trên cả hai mặt tự nhiên và xã hội.
>>>>> Nguồn gốc và bản chất của ý thức
2. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức


a)
Vật

chất
quyết
định
ý
thức:
– Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất sinh ra ý thức, ý thức là chức năng
của óc con người – dạng vật chất có tổ chức cao nhất của thế giới vật chất
– Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào óc con người. Thế giới vật chất là
nguồn gốc khách quan của ý thức.
b) Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất:
– Ý thức có thể thức đẩy hoặc kìm hãm với một mức độ nhất định sự biến đổi
của
những
điều
kiện
vật
chất.
– Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con
người. Con người dựa trên các tri thức về những quy luật khách quan mà đề ra
mục tiêu, phương hướng thực hiện; xác định các phương pháp và bằng ý chí
thực
hiện
mục
tiêu
ấy.
Sự tác động của ý thức đối với vật chất dù có đến mức độ nào đi chăng nữa thì
nó vẫn phải dựa trên sự phản ánh thế giới vật chất.
c) Biểu hiện của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là
quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội và ý thức xã hội có tính độc lập tương đối tác động trở lại tồn tại xã

hội. Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để xem xét các
mối quan hệ khác nhau như: chủ thể và khách thể, lý luận và thực tiễn, điều
kiện khách quan và nhân tố chủ quan v.v..
3. Ý nghĩa phương pháp luận
– Vật chất quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh vật chất, cho nên trong
nhận thức phải bảo đảm nguyên tắc “tính khách quan của sự xem xét” và trong
hoạt động thực tiễn phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động
theo
các
quy
luật
khách
quan.
– Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động
của con người, cho nên cần phải phát huy tính tích cực của ý thức đối với vật
chất bằng cách nâng cao năng lực nhận thức các quy luật khách quan và vận
dụng
chung
trong
hoạt
động
thực
tiễn
của
con
người.
– Cần phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như thái độ thụ động, chờ
đợi vào điều kiện vật chất, hoàn cảnh khách quan…




×