Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Và sự vận dụng lý luận ấy trong xây dựng kinh tế Việt Nam hiện nay.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.95 KB, 20 trang )

Tiểu luận triết học Phạm Thị Lý_QTNL50B
LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay ý thức hay vật chất là yếu tố thông qua hoạt động
thực tiễn của con người quyết định đường lối chủ trương phát triển kinh tế luôn thu
hút sự quan tâm của nhiều đối tượng.
Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của bất
cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về mối quan hệ biện chứng giữa ý
thức và vật chất luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt động thực tiễn,
xây dựng và phát triển xã hội.
Từ lý luận chủ nghĩa Mác Lênin Đảng ta đã rút ra bài học ”Mọi đường lối, chủ
trương của Đảng phải xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng quy luật khách quan”. Nước
ta đang bước vào thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Nguyên nhân
sự phát triển kinh tế vững mạnh xuất phát từ mối quan hệ nào? Mối quan hệ giữa
biện chứng vật chất giữ ý thức và vật chất ảnh hưởng tới nền kinh tế như thế nào?
Và sự thành công hay thất bại, phát triển hay lạc hậu của bất kì nền kinh tế nào đều
do có lập trường triết học đúng đắn. Là một sinh viên kinh tế để góp phần nhỏ vào
toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước thoát ra khỏi tình cảnh kém phát
triển, “thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Với
nhận thức đó và muốn tìm hiểu thêm về thực trạng nên kinh tế việt Nam hiện nay
vì vậy em quyết định chọn đề tài: “Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý
thức. Và sự vận dụng lý luận ấy trong xây dựng kinh tế Việt Nam hiện nay” làm
bài tiểu luận của mình.
1
1
Tiểu luận triết học Phạm Thị Lý_QTNL50B
CHƯƠNG I: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
I. Phương thức tồn tại của vật chất.
1.Định nghĩa phạm trù vật chất của thế giới.
1.1. Quan điểm trước Mác về vật chất.


* Chủ nghĩa duy vật trước Mác có rất nhiều định nghĩa về vật chất, trong đó
nổi lên các định nghĩa điển hình sau đây: Phạm trù vật chất là nền tảng của thế giới
duy vật xác lập trên cơ sở thừa nhận bản chất của thế giới là duy vật. Giống như
mọi phạm trù khác, phạm trù vật chất có quá trình phát sinh phát triển gắn liền hoạt
động thực tiễn của con người trong giới tự nhiên.
* Thời cổ đại các nhà triết học duy vật đã đồng nhất vật chất nói chung với
những dạng cụ thể của nó, tức là những vật thể hữu hình, cảm tính đang tồn tại ở
thế giới bên ngoài. Đỉnh cao của tư tưởng duy vật cổ đại là thuyết nguyên tử của
Lơxíp và Đêmôcrít.
VD: -Talet cho rằng vật chất là nước
-Anaximen cho rằng vật chất là không khí.
-Đêmôcrit cho rằng vật chất là nguyên tử.
=> Quan niệm vật chất thời kì cổ đại mang tính trực quan, cảm tình. Nó chỉ có
tác dụng chống lại quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo.Theo quan điểm
duy tâm thì thực thể của thế giới, cơ sở của mọi tồn tại là bản nguyên tinh thần nào
đó. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật thì thực thể của thế giới là vật chất cái
tồn tại một cách vĩnh cửu tạo nên mọi sự vật và hiện tượng với những thuộc tính
vốn có của nó.
2
2
Tiểu luận triết học Phạm Thị Lý_QTNL50B
* Thời ki cận đại thế kỷ XVII – XVIII(thời kì phục hưng): chủ nghĩa duy vật
nói chung và phạm trù vật chất nói riêng đã có bước phát triển mới, chứa đựng
nhiều yếu tố biện chứng. Mọi phân biệt về vật chất giữa các vật thể đều bị quy giản
về sự phân biệt về lượng, mọi hiện tượng bị quy về cái đơn giản, mọi sự vận động
đều quy về sự dịch chuyển vị trí trong không gian. Đồng nhất vật chất với thuộc
tính của vật chất .VD: Niutơn cho rằng khối lượng là vật chất. Coi vận động của vật
chất chỉ là biểu hiện của vận động cơ học, nguồn gốc vận động nằm ngoài vật chất.
=> Quan điểm vật chất thời kì cận đại mang tính siêu hình, máy móc.
1.2 Định nghĩa vật chất của Lênin:

Kế thừa tư tưởng của C.Mac, Ph.ăngghen và nhu cầu đấu tranh chống chủ
nghĩa duy tâm, Lênin đã định nghĩa như sau:“Vật chất là một phạm trù triết học
dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào
cảm giác”.
Đây là định nghĩa khoa học nhất, hoàn chỉnh nhất về vật chất của V.I.Lênin
trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán. Định nghĩa
đã phân biệt hai vấn đề sau:
-Trước hết vật chất với tư cách là phạm trù triết học dùng chỉ vật chất nói
chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi. Vì vậy không thể quy vật chất
nói chung về vật thể, không thể đồng nhất vật chất nói chung với những dạng cụ
thể của vật chất như những duy vật trong lịch sử cổ đại, cận đại.
-Thứ hai là trong nhận thức luận, đặc trưng để nhận biết vật chất chính là
thuộc tính khách quan, theo Lênin là ”cái đang tồn tại độc lập với loài người và với
cảm giác của con người”.
3
3
Tiểu luận triết học Phạm Thị Lý_QTNL50B
Và nội dung cơ bản về định nghĩa vật chất của Lênin bao gồm:
- Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào
ý thức bất kể sự tôn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được
-Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác
động lên giác quan của con người.
- Cảm giác, ý thức, tư duy chỉ là sự phản ánh của vật chất lên con người, tức
con người có khả năng nhận thức được vật chất, thực tại khách quan..
=>Lênin đã khẳng định vật chất là”thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác”,”tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Vật chất là tính thứ
nhất, là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức. Và khi nhận thức các hiện
tượng thuộc đời sống xã hội Lênin đã xác định cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã
hội, tìm ra sự vận động trong phương thức sản xuất. Như vậy định nghĩa vật chất

của Lênin đã bác bỏ quan điểm chủ nghĩa duy tâm, bác bỏ thuyết không thể biết, đã
khắc phục đựoc hạn chế trong các quan điểm chủ nghĩa duy vật trứoc Mac về vật
chất.
2. Các hình thức tồn tại của vật chất.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng vật chất tồn tại bằng vận động, và vận
động của vật chất diễn ra trong không gian và thời gian. Vì vậy, vận động, không
gian và thời gian là các hình thức tồn tại của vật chất.
2.1.Vận động.
Theo quan điểm siêu hình, vận động là sự di chuyển vị trí cả vật thể trong
không gian, thời gian, nguồn gốc của sự vận động là ở bên ngoài sự vật hiện tượng.
Còn xét theo quan điểm duy vật biện chứng:”Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất
4
4
Tiểu luận triết học Phạm Thị Lý_QTNL50B
là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu của vật chất bao gồm tất
cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn
giản cho đến tư duy”. Nếu thừa nhận thế giới vật chất là vô cùng vô tận thì cũng
phải thừa nhận thế giới vật chất có vô vàn những hình thức hành động khác nhau
ngày càng đầy đủ hơn về quy luật vận động của các tồn tại vật chất. Các hình thức
vận động chuyển hoá lẫn nhau, còn vận động của vật chất thì vĩnh viễn tồn tại.
Nguồn gốc vật động là do bản thân sự vật hiện tuợng quy định và cho đến nay có 5
hình thức vận động của thế giới vật chất là: vận động cơ học, vật lý, hoá học, sinh
học và xã hội cùng những quy luật vận động đặc thù của chúng.
2.2 Không gian và thời gian.
Theo quan điểm của các nhà duy tâm thì không gian, thời gian tách rời với vật
chất vận động, phủ nhận tính khách quan của không gian, thời gian. Nhưng trên cơ
sở của thành tựu khoa học và thực tiễn chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: Mọi
sự vật đều ở trong trạng thái không ngừng biến đổi, mà mọi sự biến đổi diễn ra đều
có quá trình, có độ dài của sự diễn biến, nhanh, chậm kế tiếp nhau, tất cả những
thuộc tính đó được gọi là thời gian. Như vậy, không gian và thời gian là thuộc tính

khách quan, nội tại của bản thân vật chất. Không gian là hình thức tồn tại của vật
chất vận động về mặt vị trí, quảng tính, kết cấu, còn thời gian là hình thức tồn tại
của vật chất vận động về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp nhau của quá trình.
Không gian và thời gian là hai thuộc tính khác nhau nhưng không thể tách rời nhau
của vật chất vận động. Bên cạnh đó không gian và thời gian có những tính chất cơ
bản sau đây:
5
5
Tiểu luận triết học Phạm Thị Lý_QTNL50B
-Tính khách quan: không gian và thời gian là một thuộc tính của vật chất,
tồn tại gắn liền với vật chất vận động. Vật chất tồn tại khách quan, do đó không
gian và thời gian cùng tồn tại khách quan.
-Tính vĩnh cữu của thời gian và tính vô tận của không gian, những thành tựu
của vật lý học hiện đại về lĩnh vực vi mô cũng như vũ trụ học ngày càng xác nhận
những tính chất này.
-Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian, tính ba chiều
của không gian là chiều dài, chiều rộng và chiều cao. Tính một chiều của thời gian
là chiều từ quá khứ đến tương lai.
II. Nguồn gốc và bản chất của ý thức.
Vấn đề nguồn gốc, bản chất và vai trò của ý thức là một vấn đề hết sức phức
tạp của triết học, là trung tâm của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm trong lịch sử. Dựa trên những thành tựu của triết học duy vật, của
khoa học và thực tiễn xã hội, triết học Mác – Lênin đã góp phần làm sáng tỏ vấn đề
trên đây.
1. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về nguồn gốc và bản chất của ý
thức:
1.1. Nguồn gốc của ý thức:
1.1.a. Nguồn gốc tự nhiên: Chủ ngĩa duy tâm cho rằng ý thức có trước vật
chất có sau, ý thức sinh ra vật chất chi phối sự vận động và tồn tại của thế giới vật
chất, tách ý thức ra khỏi vật chất, lấy ý thức là điểm xuất phát suy ra giới tự nhiên.

Trước Mác nhiều nhà duy vật đã đấu tranh phê phán lại quan điểm trên của chủ
nghĩa duy tâm, không thừa nhận tính chất siêu tự nhiên của ý thức chỉ ra mối quan
6
6
Tiểu luận triết học Phạm Thị Lý_QTNL50B
khăng khít giữa vật chất và ý thức, thừa nhận vật chất có truớc ý thức. Nhưng do
khoa học chưa phát triển ảnh hưởng của quan điểm siêu hình-máy móc nên không
giải thích đúng nguồn gốc và bản chất ý thức.
Dựa trên thành tựu khoa học tự nhiên nhất là sinh lý học thần kinh chủ
nghĩa duy vật biện chứng cho rằng ý thức là một thuộc tính của vật chất nhưng
không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất sống
có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức. Ý thức
là chức năng của bộ óc người. Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên sở hoạt
động sinh lý thần kinh của bộ óc người. Ý thức phụ thuộc vào hoạt động bộ óc
người, do đó khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ không bình thường
hoặc bị rối loạn. Vì vậy, không thể tách rời ý thức ra khỏi hoạt động của bộ óc. Ý
thức không thể diễn ra, tách rời hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người. Tuy
nhiên, nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có sự tác động của thế giới bên ngoài
để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức.
Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất, thuộc
tính này được biểu hiện ra trong sự liên hệ, tác động qua lại giữa các đối tượng vật
chất với nhau, phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này
ở hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng. Kết quả của sự
phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật – vật tác động và vật nhận tác động. Đồng thời
quá trình phản ánh bao hàm quá trình thông tin. Nói cách khác, vật nhận tác động
bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động. Đây là điều hết sức quan trọng để
làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức chỉ nảy
sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự xuất hiện của con
người. Ý thức là của con người, nằm trong con người, không thể tách rời con

7
7
Tiểu luận triết học Phạm Thị Lý_QTNL50B
người. Ý thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất – thuộc tính phản ánh –
phát triển thành. Ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh
của vật chất, nội dung của nó là thông tin về thế giới bên ngoài, về vật được phản
ánh. Ý thức và sự phản ánh thế giới bên ngoài vào trong bộ óc người. bộ óc người
là cơ quan phản ánh song chỉ có riêng bộ óc thôi thì chưa thể có ý thức. Không có
sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt
động ý thức không thể xảy ra. Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài
tác động lên bộ óc, đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
1.1.b. Nguồn gốc xã hội: Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự
nhiên là rất quan trọng, không thể thiếu đựoc song chưa đủ; điều kiện cho sự ra đời
của ý thức là tiên đề, nguồn gốc xã hội. Ý thức ra đời hình thành bộ óc con người
nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội, ý thức là sản phẩm của sự phát
triển xã hội, nó phụ thuộc vào xã hội và ngay từ đầu đã mang tính chất xã hội. Lao
động là quá trìmh con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo sản phẩm phục vụ
nhu cấu của mình. Thông qua hoạt động lao động đã cải tạo thế giới khách quan mà
con người có thể phản ánh được và có ý thức về thế giới đó. Sự hình thành ý thức
không phải là quá trình thu nhận thụ động mà đó là kết quả hoạt động chủ động của
con người. Nhờ lao động con người tác động vào thế giới khách quan, bắt thế giới
khách quan bộc lộ những thuộc tính , những kết cấu, những quy luật vận động của
mình thành những hiện tượng và các hiện tượng này tác động vào bộ óc người hình
thành dần tri thức về tự nhiên và xã hội. Ý thức được hình thành không phải chủ
yếu là do tác động thuần túy, tự nhiên của thế giới khách quan vào bộ óc người, mà
chủ yếu là do hoạt động của con người cải tạo thế giới khách quan làm biến đổi thế
giới đó. Quá trình hình thành ý thức là kết quả hoạt động, chủ động của con người.
Như vậy, không phải bỗng nhiên thế giới khách quan động vào bộ óc người để con
8
8

×