Tải bản đầy đủ (.docx) (108 trang)

Luận văn giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại sở giao dịch – ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (961.6 KB, 108 trang )

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề tốt nghiệp

Luận văn:
“Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với
doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch

– Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam”

Nguyễn Việt Hùng

1

KhoaNH - TC


Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề tốt nghiệp

MỞ ĐẦU
Bắt đầu từ Đại hội Đảng năm 1986, Việt Nam đã tiến hành quá trình đổi
mới nền kinh tế, xoá bỏ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp,
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản
lý của Nhà nước. Công cuộc đổi mới nền kinh tế đã tạo ra nhiều thành phần kinh
tế mới, trong đó có các DNNQD. Hiện nay, các DNNQD đóng vai trò đặc biệt
quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước, góp phần tạo công ăn việc
làm cho người lao động, góp phần đang kể vào GDP của đất nước. Xét về mặt
quản lý thì DNNQD chính là lực lượng quan trọng góp phần nâng cao hiệu suất
và tính linh hoạt của nền kinh tế. Tuy nhiên hiện nay các DNNQD Việt Nam


chưa phát triển xứng với tiềm năng vốn có của nó vì gặp phải nhiều lý do.
Đồng thời, trong những năm qua thì ngành ngân hàng Việt Nam cũng
đã tiến hành đổi mới trong tổ chức cũng như trong hoạt động kinh doanh của
mình. Các nghiệp vụ ngân hàng ngày càng phong phú hơn, đáp ứng được ngày
càng nhiều hơn nhu cầu của khách hàng. Hoạt động chủ yếu của các NHTM vẫn
là tín dụng. Các ngân hàng luôn chú trọng đa dạng hoá hình thức cho vay, cũng
như đa dạng hoá các hình thức khách hàng. Trong đó đối tượng khách hàng là
các
DNNQD ngày càng được ngân hàng quan tâm hơn vì đây là đối tượng khách
hàng đầy tiềm năng đối với ngân hàng. Tuy nhiên hiện nay, do nhiều lý do mà
hoạt động tín dụng đối với các DNNQD tại các NHTM vẫn còn gặp nhiều khó
khăn, lý do chủ yếu là do chất lượng tín dụng đối với đối tượng khách hàng này
của các ngân hàng vẫn còn chưa cao. Chính vì vậy mà việc nâng cao chất lượng
tín dụng đối với DNNQD tại các ngân hàng có vai trò đặc biết quan trọng đến sự
phát triển của các ngân hàng và các DNNQD. Hiểu rõ tầm quan trọng của vấn đề
này, qua quá trình thực tập, tìm hiểu thực trạng cũng như những khó khăn trong
việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNNQD tại SGD – NHĐT&PTVN,
tôi đã chon đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh
nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và phát triển
Việt Nam” làm đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.


Nguyễn Việt Hùng

2

KhoaNH - TC


Trường Đại học Kinh tế Quốc dân


Chuyên đề tốt nghiệp

Qua chuyên đề này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô giáo Th.S
Lê Hương Lan và các cán bộ nhân viên tại SGDI – NHĐT&PTVN, những người
đã tận tình giúp đỡ em để em có thể hoàn thành chuyên đề này.
Nội dung chuyên đề ngoài lời mở đầu và phần kết luận còn bao gồm ba
chương:
Chương I - Những vấn đề cơ bản về tín dụng ngân hàng đối với doanh
nghiệp ngoài quốc doanh.
Chương II - Thực trạng về chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp
ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.
Chương III - Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh
nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam

Nguyễn Việt Hùng

3

KhoaNH - TC


Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề tốt nghiệp

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI

QUỐC DOANH

1.1. Tín dụng Ngân hàng Thương mại.
1.1.1. Khái niệm.
Tín dụng Ngân hàng là một phạm trù kinh tế và cũng là sản phẩm của
nền kinh tế hàng hoá. Nó tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế xã hội,
tuỳ theo các cách tiếp cận khác nhau mà người ta đưa ra các khái niệm khác
nhau về tín dụng ngân hàng:
Theo định nghĩa hiện nay thì Tín dụng Ngân hàng Thương mại (NHTM)
là mối quan hệ giữa một bên là NHTM và một bên là khách hàng của ngân hàng
dựa trên nguyên tắc tin tưởng và hoàn trả. Trong đó Ngân hàng chuyển giao
tiền hoặc tài sản cho khách hàng trong một thời hạn nhất định, đồng thời bên
nhận tiền hay tài sản phải cam kết phải hoàn trả đầy đủ theo thời hạn và kèm
theo phần lãi do hai bên thoả thuận. Theo cách khác thì tín dụng ngân hàng là
sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị dưới hình thức tiền tệ hay hiên vật
từ NHTM sang người sử dụng sau đó người sử dụng hoàn trả tại một thời điểm
trong tương lai với lượng giá trị lớn hơn.
Như vậy, theo định nghĩa trên thì tín dụng NHTM được thể hiện qua các
nội dung sau:
- Ngân hàng sẽ chuyển giao cho khách hàng (người vay) một lượng giá
trị nhất định. Giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hay dưới hình thái hiện vật
như hàng hoá, máy móc, thiết bị, bất động sản.

Nguyễn Việt Hùng

4

KhoaNH - TC



Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề tốt nghiệp

- Khách hàng (người đi vay) chỉ được sử dụng tạm thời trong một
khoảng thời gian nhất định. Sau khi hết thời hạn theo thoả thuận phải hoàn trả
lại cho ngân hàng (người cho vay).
- Giá trị mà khách hàng hoàn trả lại cho ngân hàng thường lớn hơn giá
trị lúc vay, tức là khách hàng phải trả thêm lãi.

1.1.2. Phân loại tín dụng NHTM.
Theo các tiêu thức khác nhau thì có các cách phân loại tín dụng ngân
hàng khác nhau. Sau đây là các cách phân loại tín dụng ngân hàng phổ biến hiện
nay:
* Căn cứ theo thời gian cho vay:
- Tín dụng ngắn hạn: Là hình thức tín dụng có thời hạn dưới một năm,
thường nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc cho nhu cầu sử dụng vốn ngắn
hạn. Nó bao gồm các loại chính: bổ sung vốn lưu động của doanh nghiệp; chiết
khấu chứng từ có giá...
- Tín dụng trung hạn: Là hình thức tín dụng có thời hạn từ 1 năm đến 5

năm. Loại tín dụng này thường được sử dụng để đầu tư mua sắp tài sản cố định,
đổi mới trang thiết bị, cải tiến kỹ thuật...
- Tín dụng dài hạn: Là hình thức tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Loại

tín dụng này chủ yếu được sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn của khách
hàng như: xây dựng nhà xưởng, máy móc, thiết bị, những dự án có thời gian thu
hồi vốn dài...
* Căn cứ vào hình thức bảo đảm:
- Tín dụng không có tài sản bảo đảm: Là hình thức tín dụng trong đó

Ngân hàng cho khách hàng vay dựa trên uy tín của khách hàng mà không cần
cầm cố, thế chấp tài sản hoặc bảo lãnh của bên thứ ba.

Nguyễn Việt Hùng

5

KhoaNH - TC


Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề tốt nghiệp

- Tín dụng có tài sản bảo đảm: Là hình thức tín dụng trong đó khách
hàng nếu muốn được ngân hàng cho vay thì phải có tài sản để cấm cố, thế chấp
hoặc sự bảo lãnh của bên thứ ba được ngân hàng đồng ý.
* Căn cứ theo hình thức cấp tín dụng:
- Chiết khấu thương phiếu: Là hình thức tín dụng mà khách hàng sẽ
mang thương phiếu còn hạn đến ngân hàng để xin chiết khấu trước hạn. Nghiệp
vụ chiết khấu thương phiếu được coi là đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa
ngân hàng và những người ký tên trên thương phiếu.
- Cho vay:
+ Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay tương đối phổ biến
của ngân hàng đối với các khách hàng có nhu cầu vay thường xuyên, không có
điều kiện để cấp hạn mức thấu chi. Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và
trình ngân hàng giấy đề nghị vay vốn và trình phương án sử dụng vốn vay. Ngân
hàng sẽ tiến hành phân tích khách hàng, xác định quy mô cho vay, thời hạn cho
vay, thời hạn giải ngân, lãi suất, tài sản đảm bảo nếu cần... và sau đó ký hợp
đồng cho vay.

+ Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển
hàng hoá. Đầu năm hoặc đầu quý, người vay phải làm giấy đề nghị vay luân
chuyển, sau đó Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức
vay, hạn mức cho vay... Hạn mức cho vay có thể được thoả thuận trong một năm
hoặc vài năm, đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời gian để ngân hàng
xem xét lại mối quan hệ với khách hàng. Vì thủ tục vay chỉ phải thực hiện một
lần nên rất thuận tiện cho khách hàng.
+ Cho vay theo hạn mức: Là nghiệp vụ cho vay trong đó ngân hàng thoả
thuận cấp cho khách hàng hạn mức cho vay. Hạn mức có thể tính cho cả kỳ hoặc
cuối kỳ, đó là số dư tại thời điểm tính.
+ Cho vay thấu chi: Là nghiệp vụ cho vay trong đó ngân hàng cho phép
khách hàng được chi trội vượt trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một

Nguyễn Việt Hùng

6

KhoaNH - TC


Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề tốt nghiệp

giới hạn nhất định trong một thời hạn xác định. Giới hạn này được gọi là hạn
mức thấu chi.
+ Cho vay trả góp: Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cho phép

khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn cho vay đã thoả thuận. Hình
thức này thường áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, hoặc cho vay

đối với tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định.
+ Cho vay gián tiếp: Là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung

gian. Hình thức này thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay
nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng...
- Cho thuê tài sản (Cho thuê tài chính): Là hình thức tín dụng trung và
dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và

động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận
chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê và
bên thuê. Bên cho thuê cam kết mmua máy móc, thiết bị, phương tiện vận
chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở
hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền
thuê trong suốt thời gian thuê đã được hai bên thoả thuận
- Bảo lãnh: Bão lãnh của Ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình
thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của
ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết.

1.1.3. Vai trò của tín dụng NHTM trong nền Kinh tế thị trường.
Tuỳ từng trình độ phát triển của mỗi nước mà vai trò của tín dụng
NHTM có khác nhau. Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam thì vai
trò của tín dụng NHTM được thể hiện rõ nét, thể hiện qua các mặt sau:
* Tín dụng NHTM thực hiện quá trình huy động các nguồn vốn nhàn
rỗi trong nền kinh tế để đưa vào đầu tư, đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh
doanh,góp phần tái sản xuất mở rộng nền kinh tế.


Nguyễn Việt Hùng

7


KhoaNH - TC


Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề tốt nghiệp

Vốn là yếu tố không thể thiếu được của quá trình sản xuất kinh doanh.
Trong bất kỳ nền kinh tế nào cũng có nguồn tiền nhàn rỗi và chưa được sử dụng,
tín dụng ngân hàng đã tập trung các nguồn tiền đó thông qua hoạt động huy
động vốn của mình theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi để có thể mang nguồn vốn
đó cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu vay vốn phục vụ cho sản xuất kinh
doanh.
* Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản
xuất, là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành kinh tế
mũi nhọn.
Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị
trường thông qua các công cụ tài chính tín dụng để sử dụng có hiệu quả nhất
nguồn tài nguyên và sức lao động. Muốn phát huy thế mạnh về tài nguyên để
chuyển hướng cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội thì không
thể thiếu vai trò của tín dụng ngân hàng. Trong đó, tín dụng ngân hàng tạo
nguồn vốn bằng cách huy động tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế thông qua lãi suất
linh hoạt, phù hợp với tỉ lệ tăng trưởng, tỷ lệ lạm phát để đầu tư vào các lĩnh
vực, các công trình cần thiết cho đất nước nhưng đang gặp khó khăn do thiếu
vốn; Bên cạnh đó ngân hàng còn tập trung tín dụng để tài trợ cho các ngành kinh
tế mũi nhọn mà sự phát triển của các ngành này đóng vai trò quan trọng trong sự
phát triển của kinh tế đất nước.
* Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá và luân
chuyển tiền tệ.

Sự phát triển của tín dụng NHTM làm tăng mạnh các hoạt động thanh
toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế, từ đó thúc đẩy lưu thông tiền tệ.
Đây cũng là một biện pháp hữu hiệu để kiềm chế lạm phát.
* Tín dụng Ngân hàng thực hiện chức năng phản ánh, tổng hợp và kiểm
soát các hoạt động kinh tế, góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế.
Sự vận động của tín dụng Ngân hàng cũng như việc quản lý tập trung
thống nhất công tác tín dụng đã tạo điều kiện cho nó phản ánh một cách tổng


Nguyễn Việt Hùng

8

KhoaNH - TC


Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề tốt nghiệp

hợp và nhạy bén mối quan hệ giữa quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp với tình hình hoạt động của nền kinh tế. Trên cơ sở đó, Nhà nước có biện
pháp kịp thời phát huy những nhân tố tích cực và hạn chế những tiêu cực có thể
xảy ra để thúc đẩy phát triển kinh tế. Như vậy, tín dụng ngân hàng được sử dụng
như một đòn bẩy kinh tế không thể thiếu được trong cả công tác quản lý, kiểm
soát các quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm xã hội và củng cố chế độ hạch
toán kinh tế.
* Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện để phát triển kinh tế đối ngoại của
đất nước.
Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay thì muốn kinh tế đất

nước phát triển nhanh, vững mạnh thì kinh tế đối ngoai đóng vai trò đặc biệt
quan trọng. Nhờ có tín dụng ngân hàng mà các thành phần kinh tế của đất nước
đã có vốn, từ đó nâng cấp, đổi mới máy móc thiết bị, tiến hành xuất khẩu hàng
hoá ra thế giới. Như vậy, tín dụng Ngân hàng đã trở thành cầu nối quan trọng
giữa kinh tế trong nước và kinh tế thế giới.

1.1.4. Quy trình tín dụng của NHTM.
Quy trình tín dụng là một tập hợp các thao tác, thủ tục mà cán bộ tín
dụng phải làm khi thực hiện xem xét một yêu cầu tín dụng của khách hàng. Quy
trình tín dụng là những quy định của cơ quan cấp trên quản lý Ngân hàng ban
hành, buộc Ngân hàng và cán bộ tín dụng phải tuân thủ. Quy trình tín dụng tại
các NHTM bao gồm các bước sau:
- Bước 1: Hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và hồ sơ vay
vốn. Cán bộ tín dụng phải có trách nhiệm hướng dẫn đầy đủ, rõ ràng cho khách
hàng về thể lệ vay, tránh gây phiền hà cho khách hàng.
- Bước 2: Điều tra, thu thập, tổng hợp các thông tin về khách hàng và
phương án vay vốn. Những thông tin này phải được thu thập từ nhiều nguồn
khác nhau để đảm bảo có được thông tin chính xác nhất, như là từ các bạn hàng,

Nguyễn Việt Hùng

9

KhoaNH - TC


Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề tốt nghiệp


từ sự đánh giá của cán bộ tín dụng, từ các tổ chức liên quan, thông tin từ thị
trường, điều tra quốc tế...
- Bước 3: Phân tích, thẩm định khách hàng và phương án vay vốn. Thẩm

định tư cách pháp nhân, các giai đoạn phát triển, thẩm định tình hình tài chính
của Doanh nghiệp.
- Bước 4: Thẩm định dự án đầu tư.
+ Thẩm định sự cần thiết của dự án.
+ Thẩm định phương tiện kỹ thuật, tổ chức quản lý tài chính.

Tuỳ theo từng món vay cụ thể mà cán bộ tín dụng cần xác định cụ thể
nội dung và phương pháp thẩm định thích hợp để vừa đảm bảo chất lượng và
thời gian thẩm định, tránh việc thẩm định quá rườm rà, phức tạp làm mất cơ hội
kinh doanh của khách hàng.
- Bước 5: Quyết định cho vay.
- Bước 6: Kiểm soát vốn cho vay và thu nợ gốc, lãi, tiền thuê.
1.2. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh.

1.2.1. Khái niệm doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới
đất nước, đó là sự nghiệp đổi mới toàn diện, trên nhiều lĩnh vực... Trong đó đổi
mới cơ cấu kinh tế là một trong những ưu tiên quan trọng của Nhà nước. Phương
hướng chủ yếu nhằm đổi mới cơ cấu kinh tế ở nước ta là phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng XHCN, đây là bước phát triển mang tính quy luật
trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì Doanh nghiệp ngoài quốc
doanh
(DNNQD) là doanh nghiệp mà trong đó Nhà nước sở hữu dưới 50% vốn điều lệ
(không kể các đơn vị đầu tư nước ngoài). Bao gồm: Các doanh nghiệp tư nhân,



Nguyễn Việt Hùng

10

KhoaNH - TC


Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề tốt nghiệp

công ty cổ phần mà trong đó Nhà nước sở hữu dưới 50% vốn điều lệ, công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và các đơn vị theo hình thức hợp tác xã.

1.2.2. Phân loại doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Có nhiều tiêu thức để phân loại các DNNQD, nhưng có các tiêu thức
chủ yếu sau:
* Phân loại theo loại hình doanh nghiệp, bao gồm các loại hình sau:
- Doanh nghiệp tư nhân: Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn: Là công ty trong đó phần vốn góp của
tất cả các thành viên phải được đóng đầy đủ ngay khi thành lập công ty. Các
phần vốn góp được ghi rõ trong điều lệ công ty. Công ty không được phép phát
hành bất kỳ một loại chứng khoán nào. Việc chuyển nhượng vốn góp giữa các
thành viên được thực hiện tự do. Nhưng việc chuyển nhượng vốn góp cho người
không phải thành viên công ty phải được sự nhất trí của nhóm thành viên đại
diện cho ít nhất ¾ số vốn điều lệ của công ty. Có công ty trách nhiệm hữu hạn

một thành viên và công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên trở lên.
- Công ty cổ phần: Là công ty mà trong đó số thành viên được gọi là cổ
đông của công ty phải ít nhất là 3 người trong suốt quá trình hoạt động của công
ty. Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ
phần.

- Hợp tác xã: Là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu
cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của
pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau
thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải
thiện đời sống, góp phần phát triển đời sống của hộ gia đình cũng như phát triển
kinh tế của địa phương, đất nước.


Nguyễn Việt Hùng

11

KhoaNH - TC


Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề tốt nghiệp

* Phân loại theo ngành kinh doanh thì DNNQD bao gồm:
- DNNQD hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản.
- DNNQD hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp.
- DNNQD hoạt động trong lĩnh vực xây dựng.
- DNNQD hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp, khách sạn, nhà


hàng.
- DNNQD hoạt động trong lĩnh vực vận tải, bưu chính, viễn thông.
- DNNQD hoạt động trong các ngành dịch vụ khác.

* Phân loại theo quy mô doanh nghiệp thì DNNQD bao gồm:
- DNNQD có quy mô vừa và nhỏ: Là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập,
đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký kinh doanh
không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300
người.
- DNNQD có quy mô lớn: Là những doanh nghiệp có tính chất tư hữu,
có số vốn lớn hơn 10 tỷ đồng và số lao động lớn hơn 300 người.

1.2.3. Đặc điểm của DNNQD ở nước ta hiện nay.
1.2.3.1. DNNQD có số lượng lớn.
Trong những năm gần đây, doanh nghiệp Việt Nam nói chung và
DNNQD Việt Nam nói riêng đã tăng nhanh về số lượng doanh nghiệp, số lượng
lao động và vốn. Năm 1991, một năm sau khi ban hành luật công ty và luật
doanh nghiệp tư nhân, tổng số DNNQD chỉ có 414 doanh nghiệp. Đến năm
1999, số lượng DNNQD đã tăng lên con số 30.500 doanh nghiệp. Tính bình
quân giai đoạn này, mỗi năm tăng khoảng 3.252 doanh nghiệp, tương ứng với
tốc độ tăng 32%/ năm. Đến năm 2003, số lượng DNNQD đã tăng lên 55.236
doanh nghiệp, chiếm tỷ trọng 88 % trong tổng số doanh nghiệp ở nước ta.

Nguyễn Việt Hùng

12

KhoaNH - TC



Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề tốt nghiệp

1.2.3.2. DNNQD ở nước ta có quy mô lao động và quy mô vốn nhỏ bé.
Mặc dù có số lượng rất lớn nhưng độ tập trung vốn của khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh chưa cao, còn rời rạc, quy mô nhỏ bé. Số lượng DNNQD có
quy mô vốn lớn rất ít, hầu như không có. Theo số liệu thống kê thì năm 2005, số
vốn của các DNNQD chỉ chiếm 19% tổng số vốn của toàn bộ các doanh nghiệp
hoạt động tại Việt Nam.
* Xét về vốn sản xuất: Năm 2005, số doanh nghiệp có số vốn dưới 500
triệu đồng chiếm khoảng 62,4% trong tổng số doanh nghiệp; số doanh nghiệp có
số vốn trên 500 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng chiếm khoảng 24,3%, còn lại là
các doanh nghiệp có số vốn trên 1 tỷ đồng. Tuy những năm gần đây, số vốn bình
quân của một DNNQD đã tăng lên, đạt được gần 5 tỷ đồng/doanh nghiệp, nhưng
so với số vốn bình quân của một doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) là khoảng
170 tỷ đồng, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là khoảng 145 tỷ đồng thì
số vốn bình quân của DNNQD quá nhỏ bé.
* Xét về số lượng lao động: Số lao động trong các DNNQD vào khoảng
1,9 triệu người, chiếm 37% tổng số lao động của toàn khu vực doanh nghiệp
nhưng so với tỷ lệ số DNNQD trong tổng số doanh nghiệp ở Việt Nam thì có thể
thấy số lao động bình quân của một DNNQD là thấp.
Như vây, phần lớn các DNNQD ở Việt Nam là thuộc loại hình doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Nguyên nhân chính của vấn đề này là do khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh chỉ mới thực sự tồn tại và phát triển trong khoảng thời gian
chưa dài, do đó chưa có điều kiện tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất và quy mô.
1.2.3.3. Trình độ quản lý và công nghệ sản xuất lac hậu, thấp kém.
Hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường là một vấn đề phức tạp,
đòi hỏi người quản lý không những phải có trình độ mà còn phải có kinh nghiệm

dày dạn. Bởi vì nền kinh tế nước ta mới chuyển sang cơ chế thị trường nên
những kiến thức về kinh tế, về quy luật kinh doanh không phải ai cũng nắm bắt
được; mặt khác cũng bởi vì các trường đào tạo quản lý kinh doanh và quản lý

Nguyễn Việt Hùng

13

KhoaNH - TC


Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề tốt nghiệp

pháp luật còn quá thiên về phương pháp lý thuyết mà ít chú ý tới phương pháp
giải quyết các vấn đề thực tế, mặt khác chi phí đào tạo quản lý nói chung còn rất
cao. Từ những lý do trên làm cho trình độ quản lý của DNNQD còn thấp, gây ra
nhiều khó khăn trong việc quản lý kinh doanh của doanh nghiệp. Những người
quản lý ở các doanh nghiệp này gặp nhiều khó khăn trong công tác tổ chức nhân
sự, trong việc hoạch định kế hoạch cũng như phân tích dự án, cơ hội đầu tư.
Việc thực hiện các quy định của Nhà nước về quản lý tài chính trong các doanh
nghiệp này còn chưa được nghiêm túc, chính vì thế mà họ gặp nhiều khó khăn
khi muốn tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng.
Công nghệ sản xuất của các DNNQD đã trở nên lạc hậu. Theo điều tra
thì ở các DNNQD hiện nay chỉ có 20% thiết bị hiện đại, 55% thiết bị ở mức
trung bình, còn lại là thiết bị lạc hậu. Riêng ngành công nghiệp sản xuất, chế tạo
thì có đến 60% máy móc, thiết bị lạc hậu từ những năm 60. Nguyên nhân của
tình trạng này là do vốn đầu tư ban đầu của các DNNQD thường thấp, họ lại gặp
nhiều khó khăn trong việc vay vốn tín dụng trung và dài hạn cần thiết cho việc

đầu tư nâng cấp công nghệ. Ngoài ra các DNNQD không được tiếp cận đầy đủ
với những dịch vụ tư vấn để có sự hỗ trợ trong việc xác định công nghệ tương
xứng và thích hợp với khả năng tài chính nhằm hoàn thiện trình độ sản xuất và
nâng cao sức cạnh tranh của mình. Chính vì những lý do trên mà hiệu quả sản
xuất kinh doanh của các DNNQD thường rất thấp và năng lực cạnh tranh trong
thị trường trong nước cũng như ngoài nước cũng bị suy giảm.
1.2.3.4. Các DNNQD tuy hoạt động linh hoạt song thường kém hiệu
quả.
Các DNNQD hoạt động năng động, thích nghi cao với thị trường, dễ
dàng chuyển đổi, đáp ứng tốt nhu cầu thị trường. Tuy nhiên, hầu hết các
DNNQD hiện nay làm ăn theo kiểu manh mún, chộp giật mà không tính đến lợi
ích lâu dài của doanh nghiệp mình. Nhiều doanh nghiệp khi có cơ hội thì họ tận
dụng, khai thác tối đa nhất, triệt để nhất các lợi ích trước mắt mà không có tính
toán chiến lược lâu dài. Điều đó làm cho họ luôn bị động, lúng túng khi gặp khó

Nguyễn Việt Hùng

14

KhoaNH - TC


Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề tốt nghiệp

khăn, nhất là các khó khăn đến một cách bất ngờ. Nhiều DNNQD không thực
hiện đúng chế độ kế toán, thống kê, một số khác lại có biểu hiện của làm ăn phi
pháp như: trốn thuế, lừa đảo, gian lận thương mại... Điều đó làm cho xã hội
thiếu tin tưởng vào các DNNQD, gây ra hiệu quả kém của các doanh nghiệp

này.
Trên đây là một số đặc điểm chính của các DNNQD ở nước ta hiện nay.
Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng các DNNQD ở nước ta đã và đang phát triển
với tốc độ cao, đóng góp vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của kinh tế đất
nước.

1.2.4. Vai trò của DNNQD trong nền kinh tế thị trường.
Trong tình hình hiện nay, khi mà nền kinh tế đất nước ta đang trong quá
trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế thì các DNNQD ngày càng thể hiện
được vai trò quan trọng của mình đối với nền kinh tế. Vai trò quan trọng đó
được thể hiện ở các mặt sau:
1.2.4.1. Thúc đẩy sự phát triển của kinh tế đất nước.
Các DNNQD hoạt động trong hầu hết các ngành kinh tế của đất nước
như: nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp... Các DNNQD hoạt động linh
hoạt, năng động, thích ứng nhanh, đáp ứng tốt những nhu cầu của thị trường.
Theo số liệu thống kê thì hiện nay các DNNQD đóng góp đến khoảng 40% tổng
sản phẩm quốc nội (GDP), những năm gần đây, tỷ lệ đóng góp vào GDP của các
DNNQD ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước. Điều này góp phần quan
trọng thúc đấy nền kinh tế đất nước ta phát triển.
1.2.4.2. Làm nâng cao tính cạnh tranh trong nền kinh tế, tận dụng tối
đa mọi nguồn lực của đất nước..
Các DNNQD phát triển trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề trong nền kinh
tế đã làm cho thị trưòng hàng hoá trở nên phong phú, đa dạng và sôi động hơn.
Người tiêu dùng có nhiều cơ hội lựa chọn hàng hoá và dịch vụ, đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của mình. Mặt khác các DNNQD có ưu thế về sự nhạy bén với thị
trường đã thực sự trở thành đối thủ cạnh tranh trên thị trường của rất nhiều


Nguyễn Việt Hùng


15

KhoaNH - TC


Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề tốt nghiệp

doanh nghiệp khác. Vì vậy, sự phát triển của DNNQD sẽ làm tăng tính cạnh
tranh trên thị trường.
Cạnh tranh không những giúp các doanh nghiệp tạo ra các sản phẩm,
dịch vụ đáp ứng tốt nhất mọi nhu cầu của khách hàng trên thị trường mà còn
thông qua đó sàng lọc ra các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả và không hiệu quả.
Các doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả sẽ bị loại ra khỏi thị trường. Với
những ưu thế của mình, các DNNQD đã thực sự trở thành đối thủ cạnh tranh
mạnh mẽ của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là
các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế Nhà nước, thành phần kinh tế mà
trong nền kinh tế kế hoạch hoá trước kia luôn giữ vị trí độc tôn. Đây thực sự là
một động lực giúp cho nền kinh tế phát triển vì nó thúc đẩy tính cạnh tranh, năng
động của mọi thành phần kinh tế trong xã hội, làm cho mọi nguồn lực của đất
nước được tận dụng tối đa.
1.2.4.3. Góp phần tạo việc làm, giảm thất nghiệp.
Việt Nam là một nước có dân số trẻ, lực lượng lao động đông đảo. Khu
vực kinh tế Nhà nước không thể tạo đầy đủ công ăn việc làm cho tất cả. Sự ra
đời của DNNQD thực sự là cứu cánh cho số lao động còn lại. Mặt khác,
DNNQD cần một lượng lớn lao động giản đơn, lao động không cần đầu tư phức
tạp nên rất phù hợp với trình độ của người lao động Việt Nam. Chính vì vậy mà
DNNQD đã góp phần quan trọng vào tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp của
đất nước.

1.2.4.4. Góp phần vào quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá của
đất nước.
DNNQD hoạt động trong mọi ngành nghề nhưng chủ yếu phổ biến ở
các lĩnh vực công nghiệp, thương mại, thủ công nghiệp, dịch vụ, xuất khẩu.
DNNQD có thể thích nghi đón đầu công nghệ mới, chuyển đổi hướng sản xuất
nhanh chóng cho phù hợp với thị trường, đã tham gia tích cực vào quá trình
chuyển đổi cơ cấu lao động từ khu vực nông nghiệp sang phi nông nghiệp. Từ
đó góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế nông nghiệp sang
một nền kinh tế


Nguyễn Việt Hùng

16

KhoaNH - TC


Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề tốt nghiệp

có cơ cấu tiên tiến, theo hướng xuất khẩu, phù hợp với định hướng Công nghiệp
hoá - Hiện đại hoá đất nước.

1.3. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với DNNQD.
Trong quá trình phát triển của mình, ngoài nguồn vốn tự có thì các
DNNQD có thể dựa vào các nguồn vốn chủ yếu là nguồn vốn tín dụng Ngân
hàng, nguồn vốn thông qua thị trường tài chính. Trong đó thì vốn tín dụng Ngân
hàng đóng vai trò chủ yếu và an toàn nhất. Vì vậy vai trò của tín dụng Ngân

hàng đối với hoạt động của DNNQD là rất lớn.

1.3.1. Tín dụng NHTM là kênh cung cấp vốn chủ yếu cho các DNNQD,
góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh của các DNNQD.
Tại thị trường tín dụng chính thức, hoạt động của các quỹ tín dụng nhân
dân chủ yếu là để hỗ trợ, giải quyết nhu cầu sinh hoạt và vốn phát triển kinh tế
gia đình. Mặt khác, thị trường vốn dài hạn, thì trường chứng khoán của nước ta
mới trong giai đoạn sơ khai. Điều kiện tham gia thị trường chứng khoán của các
DNNQD không phải dễ dàng. Chính vì vậy mà kênh cung cấp vốn chủ yếu và
hết sức quan trọng để giúp cho các DNNQD phát triển chính là vốn tín dụng
Ngân hàng.
Có thể nói điểm yếu lớn nhất của các DNNQD là vốn. Nguồn vốn tự có
hạn hẹp của các doanh nghiệp phần lớn được tập trung cho việc đầu tư ban đầu
vào các máy móc, thiết bị, nhà xưởng và giá trị quyền sử dụng đất. Mặt khác,
nếu sử dụng vốn tự có của mình vào hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ làm tăng
chi phí vốn. Vì thế nên phần vốn để dành cho vốn lưu động để luân chuyển
trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như tái sản xuất là rất hạn chế, mà tái
sản xuất mở rộng chính là tiền đề cho sự tăng trưởng của các doanh nghiệp nói
chung và DNNQD nói riêng, một doanh nghiệp chỉ có thể phát triển, khẳng định
vị thế của mình thông qua hoạt động tái sản xuất mở rộng. Tuy nhiên, với nguồn
vốn nhỏ bé, cơ sở vật chất yếu kém thì việc tái sản xuất mở rộng của các
DNNQD nếu chỉ dựa vào nguồn vốn tự có là rất khó.

Nguyễn Việt Hùng

17

KhoaNH - TC



Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề tốt nghiệp

Tháo gỡ được cho doanh nghiệp các khó khăn trên, tín dụng Ngân hàng
đã giúp đỡ cho các DNNQD trong việc hỗ trợ vốn lưu động và tiến hành tái đầu
tư mở rộng sản xuất. Với nhiều hình thức cho vay khác nhau mà các DNNQD đã
được cấp thêm vốn lưu động, có thể kịp thời chớp lấy các cơ hội kinh doanh,
tăng tốc độ luân chuyển của vốn lưu động, làm cho quá trình sản xuất kinh
doanh được diễn ra liên tục. Ngoài ra, với các hình thức cho vay trung và dài hạn
còn giúp các doanh nghiệp có vốn để đầu tư dây chuyền sản xuấtvà máy móc
thiết bị. Sự tài trợ này của ngân hàng sẽ giúp doanh nghiệp tăng doanh thu, lợi
nhuận và hiện đại hoá công nghệ của chính mình.
Như vậy, tín dụng ngân hàng chính là nguồn vốn hỗ trợ tốt nhất, quan
trọng nhất, đa dạng nhất để các DNNQD có thể tiến hành sản xuất kinh doanh
một cách thuận lợi, phát triển.

1.3.2. Giúp các doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả hơn.
Vai trò này bắt nguồn từ chức năng giám sát của NHTM với tư cách là
nguời cho vay đối với các DNNQD. Ngân hàng căn cứ vào các nguyên tắc tín
dụng, hướng dẫn các doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả,
đồng thời đôn đốc chủ doanh nghiệp trả nợ đúng hạn. Trong quá trình giám sát,
kiểm tra, Ngân hàng phát hiện ra những nhược điểm cần khắc phục, giúp các
doanh nghiệp xác định đúng phương hướng sản xuất kinh doanh kinh doanh,
nhằm hạn chế khả năng rủi ro có thể xảy ra.
Mặt khác, một trong những điểm cơ bản nhất của tín dụng NHTM là
buộc người vay phải hoàn trả gốc (vốn vay ban đầu) và lãi sau một khoảng thời
gian nhất định. Điều này đã buộc các DNNQD khi sử dụng nguồn vốn tín dụng
NHTM thì phải nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn để thu hồi được đồng tiền đầu tư
ban đầu, từ đó có thể trả gốc, lãi cho ngân hàng và có được một khoản lợi nhuận.

Các DNNQD phải tính toán các chỉ tiêu thật chính xác để có thể đạt được kết
quả tối ưu.

1.3.3. Kích thích tính năng động, sáng tạo của các DNNQD.

Nguyễn Việt Hùng

18

KhoaNH - TC


×