Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

Phân tích thực trạng xuất khẩu mặt hàng dệt may của việt nam sang hoa kỳ trong giai đoạn 2001 – 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (818.79 KB, 53 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
CƠ SỞ II TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
--------***--------

Bộ môn

CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Chuyên ngành: KINH TẾ ĐỐI NGOẠI

Đề tài
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU MẶT
HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM
SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ GIAI ĐOẠN 2001-2014
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 3 – Mã lớp: 153

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 01 năm 2015


MỤC LỤC

Danh mục bảng, biểu, hình vẽ


Danh mục từ viết tắt
VITAS
OTEXA
FDI
TPP
FTA
NICs
WTO


CMT
OEM/FOB
ODM
OBM

Hiệp hội Dệt may Việt Nam
Văn phòng dệt may Mỹ
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương
Hiệp định thương mại tự do
Nước công nghiệp mới
Tổ chức thương mại thế giới
Cut – Make –Trim
Original Equipment Manufacturing
Original Design Manufacturing
Original Brand Manufacturing


LỜI MỞ ĐẦU
Ngành dệt may là một ngành quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Dệt
may phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người, giải quyết được nhiều việc làm cho
xã hội, từ đó tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. Trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay, ngành dệt may đang chứng tỏ là một ngành mũi nhọn của nước ta
thể hiện qua kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng, số lao động trong ngành ngày càng
nhiều. các thị trường được mở rộng, trong đó Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn
nhất. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, Hoa Kỳ đã dỡ bỏ hạn ngạch nhập khẩu đối
với mặc hàng may mặc của Việt Nam thì thị trường Hoa Kỳ càng thu hút càng nhà
xuất khẩu hàng may mặc của chúng ta. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu hàng may
mặc của Việt Nam sang Hoa Kỳ vẫn còn gặp nhiều khó khan, thách thức.
Với mục đích tìm hiểu các vấn đề liên quan đến ngành trong hoạt động xuất

khẩu sang Hoa Kỳ hiện nay và thử tìm một số giải pháp để khắc phục những vấn đề
đó, nhóm chúng em quyết định chọn đề tài: “Phân tích thực trạng xuất khẩu mặt
hàng dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ trong giai đoạn 2001 – 2014”.
Nội dung bài viết được chia làm ba chương:


Chương 1: TỔNG QUAN VỀ NGÀNH DỆT MAY VÀ TÌNH HÌNH XUẤT



KHẨU CHUNG CỦA VIỆT NAM
Chương 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU MẶT HÀNG DỆT MAY CỦA



VIỆT NAM SANG HOA KỲ
Chương 3: ĐÁNH GIÁ THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG LĨNH
VỰC XUẤT KHẨU DỆT MAY VIỆT NAM SANG HOA KỲ
Trong quá trình tìm hiểu và hoàn thành đề tài nhóm em không thể tránh khỏi

những thiếu sót, nhóm em mong nhận được sự góp ý của cô để giúp chúng em hoàn
thiện kiến thức của mình.

4


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ NGÀNH DỆT MAY VÀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU
CHUNG CỦA VIỆT NAM
1.1.


Vài nét về ngành dệt may Việt Nam

Cùng với điện thoại và linh kiện, dệt may là ngành xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam trong những năm qua. Năm 2013, sản phẩm dệt may Việt Nam xuất khẩu đến
hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ với kim ngạch xuất khẩu đạt 17,9 tỷ USD; chiếm
13,6% tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam và 10,5% GDP cả nước. Tốc độ tăng
trưởng dệt may trong giai đoạn 2008-2013 đạt 14,5%/năm đưa Việt Nam trở thành
một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu dệt may
nhanh nhất thế giới.
Kể từ sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam vẫn
tiếp tục có những bước đi mạnh mẽ theo hướng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế
khu vực và thế giới. Với việc Việt Nam tham gia đàm phán, ký kết và thực thi các
hiệp định đối tác kinh tế, các hiệp định thương mại tự do (FTA) ở cấp song phương
và đa phương, các doanh nghiệp trong nước nói chung và các doanh nghiệp dệt may
nói riêng sẽ có nhiều cơ hội từ việc phát triển thương mại theo cách ít bị bảo hộ
nhất. Tuy nhiên, những cơ hội ấy chỉ tận dụng được hiệu quả nếu doanh nghiệp xử
lý hiệu quả các thách thức từ quá trình hội nhập.
Bảng 1 - Tổng quan ngành dệt may Việt Nam
Chỉ tiêu
Đơn vị
Số lượng công ty
Công ty
Quy mô doanh nghiệp
Người
Cơ cấu công ty theo hình
thức sở hữu
Cơ cấu công ty theo hoạt
động


Giá trị
6.000
SME 200-500+ chiếm tỉ trọng lớn
Tư nhân (84%), FDI (15%), nhà nước
(1%)
May (70%), se sợi (6%), dệt/đan
(17%), nhuộm (4%), công nghiệp phụ
trợ (3%)
Miền Bắc (30%), miền Trung và cao
nguyên (8%), miền Nam (62%)
2,5 triệu
4,5 triệu

Vùng phân bố công ty
Số lượng lao động
Người
Thu nhập bình quân công VND
nhân
5


Số ngày làm việc/tuần
Số giờ làm việc/tuần
Số ca/ngày
Giá trị xuất khẩu dệt may
2013 (không tính xơ sợi)
Giá trị nhập khẩu dệt may
2013
Thị trường xuất khẩu
chính

Thin tường nhập khẩu
chính
Sản phẩm sản xuất chủ
yếu
Phương thức sản xuất
Thời gian thực hiện đơn
hàng (lead time)
Nguồn: VITAS

Ngày
Giờ
Ca
USD

6
48
2
17,9 tỷ

USD

13,5 tỷ
Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc
Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan
Áo jacket, áo thun, quần, áo sơ mi
CMT (85%); khác (15%)
90 – 100

Ngày


Hiện cả nước có khoảng 6.000 doanh nghiệp dệt may; thu hút hơn 2,5 triệu lao
động; chiếm khoảng 25% lao động của khu vực kinh tế công nghiệp Việt Nam.
Theo số liệu của VITAS, mỗi 1 tỷ USD xuất khẩu hàng dệt may có thể tạo ra việc
làm cho 150 - 200 nghìn lao động, trong đó có 100 nghìn lao động trong doanh
nghiệp dệt may và 50 - 100 nghìn lao động tại các doanh nghiệp hỗ trợ khác. Phần
lớn các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân (84%); tập trung ở Đông Nam
Bộ (60%) và đồng bằng sông Hồng. Các doanh nghiệp may chiếm khoảng 70%
tổng số doanh nghiệp trong ngành với hình thức xuất khẩu chủ yếu là CMT (85%).
Ngành dệt may với những đòi hỏi : vốn đầu tư không quá lớn, công nghệ không
quá phức tạp,... phù hợp với tổ chức sản xuất quy mô vừa và nhỏ ở Việt Nam. Hơn
nữa do tính đặc thù sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm trong thời gian ngắn nên
có thời hạn thu hồi vốn ngắn hơn nhiều so với một số ngành khác. Thông thường
thời gian thu hồi vốn đối với ngành dệt là 10-12 năm, ngành may là 5-7 năm so với
khoảng trên 15 năm của các ngành công nghiệp khác (ví dụ như ngành công nghiệp
thép).

6


Biểu đồ 1 - Chỉ số năng suất lao động khu vực sản xuất

Nguồn: UNIDO China statistical yearbook
So với các quốc gia khác, năng suất lao động khu vực sản xuất của Việt Nam rất
thấp. Chỉ số năng suất lao động khu vực sản xuất của Việt Nam chỉ đạt 2,4; trong
khi các quốc gia sản xuất dệt may lớn khác như Trung Quốc, Indonesia là 6,9 và
5,2. Đây là một trong những điểm yếu lớn nhất của dệt may nói riêng và các ngành
công ngành sản xuất thâm dụng lao động nói chung của Việt Nam.
1.2.
Tình hình xuất khẩu chung của Việt Nam
1.2.1. Giai đoạn 2001 – 2010

Biểu đồ 2 - Kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may 2001-2010

Nguồn: VITAS
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam tính đến hết tháng 12/2011 là khoảng 96.9 tỷ USD, hàng dệt may đóng góp 14
tỷ USD, chiếm khoảng 14.5%. Đến năm 2012, hàng dệt may chiếm 13% tổng kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam (15 tỷ USD/114.5 tỷ USD). Năm 2013, kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam là 132 tỷ USD, hàng dệt may là 18 tỷ USD (khoảng
13.5%). Đến hết tháng 12/2014 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào khoảng 150

7


tỷ USD, trong đó hàng dệt may vào khoảng 21 tỷ USD, chiếm khoảng 14% tổng
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
1.2.2. Giai đoạn 2011 – 2014
Hàng dệt may của Việt Nam trong những năm gần đây không những tăng về
mặt sản lượng mà chất lượng, mẫu mã cũng ngày càng được cải tiến và hoàn thiện,
đáo ứng nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng, do đó hàng dệt may Việt Nam ngày càng mở
rộng thị trường xuất khẩu của mình và có mặt ở ngày càng nhiều quốc gia. Hiện tại
sản phẩm của ngành đã có mặt tại trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ ở hầu hết các
châu lục, đặc biệt là các thị trường lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc,…
Biểu đồ 3 - Thị trường xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đến tháng 10 năm
2014

Nguồn: VITAS
Trong 10 tháng đầu năm 2014, hàng dệt may là mặt hàng chủ lực của Việt
Nam xuất khẩu sang hầu hết các thị trường trên thế giới. Đặc biệt, nhiều thị trường
xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD như:
Hoa Kỳ đạt 8,16 tỷ USD; Nhật Bản đạt 2,16 tỷ USD; Hàn Quốc đạt 1,86 tỷ USD.

Theo sau đó là các thị trường khác như: Đức 628 triệu USD; Tây Ban Nha
584 triệu USD; Anh 478 triệu USD; Canada 404 triệu USD; Trung Quốc 388 triệu
USD.
Có thể thấy, Hoa Kỳ là một thị trường xuất khẩu đầy tiềm năng đối với hàng
dệt may Việt Nam khi gần 50% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
được xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ.
Chỉ tính riêng mặt hàng này đã chiếm khoảng 28,4% tổng kim ngạch hàng
hóa từ Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ và chiếm gần 46,82% kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may của cả nước tính đến tháng 10 năm 2014.
1.2.3.
8


1.2.4. Hình thức xuất khẩu chủ yếu
Phần nhiều các sản phẩm may mặc của Việt Nam xuất khẩu sang các nước
thuộc EU, Hoa Kỳ được tiến hành qua một trung gian thứ ba, chủ yếu là qua các
nước NICs có nền công nghiệp dệt may phát triển - với vị trí là nhà đặt hàng như
Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc,… Các nhà nhập khẩu đóng vai trò
là chủ hàng nước ngoài và là nguồn cung ứng chính về nguyên phụ liệu. Với vai trò
là những nhà thầu phụ, các doanh nghiệp xuất khẩu may mặc của Việt Nam cung
cấp hàng hóa theo các hợp đồng ký kết với những đối tác này và giao thẳng cho các
nhà bán lẻ của Hoa Kỳ hay EU. Vì vậy, hình thức xuất khẩu này làm cho việc xuất
khẩu hàng dệt may của doanh nghiệp Việt Nam trở nên thụ động, phụ thuộc vào
nước thứ ba dẫn đến giá trị xuất khẩu bị hạn chế.
1.3.

Định hướng phát triển ngành dệt may Việt Nam

Theo quyết định 36/2008/QĐ-TTg, mục tiêu tổng quát định hướng phát triển
ngành Dệt May trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi

nhọn về xuất khẩu; đáp ứng ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều
việc làm cho xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu
vực và thế giới.
Các chỉ tiêu chủ yếu trong Chiến lược phát triển ngành Dệt May Việt Nam đến
năm 2015, định hướng đến năm 2020 như sau:
Bảng 2 - Mục tiêu phát triển ngành dệt may đến năm 2015, định hướng đến
năm 2020
Chỉ tiêu

Đơn vị tính

Thực
hiện

Mục tiêu toàn ngành đến
2010

2015

2020

2006
1. Doanh thu

triệu USD

7.800

14.800


22.500

31.000

2. Xuất khẩu

triệu USD

5.834

12.000

18.000

25.000

3. Sử dụng lao động

nghìn người

2.150

2.500

2.750

3.000

9



4. Tỷ lệ nội địa hoá

%

32

50

60

70

5. Sản phẩm chính:
- Bông xơ

1000 tấn

8

20

40

60

- Xơ, Sợi tổng hợp

1000 tấn


-

120

210

300

- Sợi các loại

1000 tấn

265

350

500

650

- Vải

triệu m2

575

1.000

1.500


2.000

- Sản phẩm may

triệu SP

1.212

1.800

2.850

4.000

Nguồn: Quyết định 36/2008/QĐ-TTg
1.4.
Tổng quan về thị trường Hoa Kỳ
1.4.1. Đặc điểm tiêu dùng
Với dân số hơn ba trăm triệu dân, là một quốc gia đa chủng tộc, đa sắc tộc
nên nhu cầu tiêu dùng của người dân Hoa Kỳ hết sức đa dạng và phong phú, đặc
biệt là nhu cầu về hàng dệt may. Do có nhiều tầng lớp dân cư nên các mặt hàng từ
cao cấp đến thứ cấp đều có thể tiêu thụ được trên thị trường này. Đối với đồ dùng cá
nhân như quần áo, người Mỹ thích sự đơn giản, thoải mái nhưng hợp thời trang và
các yếu tố khác biệt, độc đáo cũng được ưa chuộng.
1.4.2. Những vấn đề nhà nhập khẩu Hoa Kỳ quan tâm
Về nguồn gốc xuất xứ sản phẩm: được sản xuất tại quốc gia nào, có là thành
viên của WTO, hạn ngạch xuất khẩu dệt may được Hoa Kỳ cấp là bao nhiêu, các
chương trình ưu đãi thuế, vị thế quốc gia, mức độ tuân thủ các quy định hải quan
của Hoa Kỳ,...
Về khả năng đáp ứng đơn hàng: do người dân Hoa Kỳ trọng chữ tín và thực

dụng, thời gian đối với họ là tài sản quý nên với những đơn hàng của họ đòi hỏi khả
năng giao hàng nhanh chóng, đúng hạn.
1.4.3. Một số rào cản kỹ thuật của Hoa Kỳ đối với hàng dệt may

10


Các quy định của Hoa Kỳ về hàng dệt may nhập khẩu là rất nghiêm ngặt
nhằm đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng cũng như bảo hộ nền sản xuất trong
nước. Các sản phẩm dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ sẽ phải tuân thủ theo luật về
an toàn sản phẩm nhập khẩu vào Hoa Kỳ (thông qua ngày 14/8/2008, có hiệu lực từ
tháng 2/2009). Hơn nữa, Ủy ban an toàn sản phẩm tiêu dùng Hoa Kỳ (CPSC –
Consume Product Safety Community) cũng sẽ tăng cường giám sát các quy định an
toàn sản phẩm.



11


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU MẶT HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM
SANG HOA KỲ
2.1.
Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ
2.1.1. Kim ngạch xuất khẩu
Biểu đồ 4- Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ từ
năm 2000 đến 2014

Nguồn: VITAS

Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ
chỉ là 50 triệu USD; năm 2001 tăng trưởng âm với kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 45
triệu USD (do sự kiện khủng bố ngày 11/9/2001 ở Hoa Kỳ).
Biểu đồ 5 - Kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng mặt hàng dệt may Việt
Nam sang Hoa Kỳ từ năm 2000 đến 2014

Nguồn: VITAS
Hiệp định thương mại song phương được thực hiện, năm 2002 kim ngạch
xuát khẩu tăng vọt lên đến 951 triệu USD, đánh dấu sự tăng trưởng vượt bậc của
kim ngạch hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ với tốc độ tăng trưởng
lên đến 2013,33%. Trong các năm tiếp theo, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may sang thị trường này là tương đối cao nhưng biến động với biên
độ lớn, cao nhất là tăng trưởng 46,63% vào năm 2007, một năm sau khi Việt Nam
gia nhập WTO, và thấp nhất vào năm 2009, năm chứng kiến cơn bão suy thoái kinh
tế toàn cầu, kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực giảm mạnh và kim
ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ cũng bị ảnh
hưởng, tuy nhiên chỉ ở mức -2.17% so với năm 2008.

12


Biểu đồ 6 - tốc độ tăng trưởng trong kim ngạch xuất khẩu mặt hàng dệt may
Việt Nam sang Hoa Kỳ từ năm 2004 đến 2014

Nguồn: VITAS
Có thể thấy, ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế đến xuất khẩu mặt hàng dệt may là
không lớn, một phần là do dệt may thuộc nhóm các mặt hàng phục vụ tiêu dùng
mang tính thiết yếu, đây là mặt hàng có cầu ít nhạy cảm đối với thu nhập người tiêu
dùng, do đó khi thu nhập người tiêu dùng thay đổi, lượng cầu về mặt hàng này thay
đổi không đáng kể. Năm 2010, kim ngạch xuất khẩu dệt may sang thị trường này

đạt 6118 triệu USD, tăng 22,5% so với năm 2009. Bước sang năm 2011, kim ngạch
xuất khẩu 2 tháng đầu năm là 993,11 triệu USD, tăng 13,81% so với cùng kỳ năm
2010, tổng kết cả năm kim nghạch xuất khẩu dệt may năm 2011 là 6880 triệu USD,
tốc độc tăng trưởng cùng kì năm 2010 là 12,5%. Tổng cộng, kim ngạch XK ngành
dệt may năm 2011 đạt 15,6 tỷ USD, tăng 38% so với năm 2010. Đây là mức tăng
trưởng XK ngoạn mục mà ngành dệt may đạt được kể từ khi trở thành thành viên
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Giai đoạn từ năm 2011 đến 2013 có thể nói là điểm sáng tăng trưởng , dù
phải đối mặt với những tác động xấu từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu trong
các năm từ 2011-2013, nhưng Việt Nam vẫn là một trong số ít nền kinh tế giữ mức
tăng trưởng trên 5% mỗi năm. Mức tăng trưởng trên có phần quan trọng từ những
thành tựu của hoạt động xuất khẩu. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu năm 2012 đều
có sự tăng trưởng rõ rệt so với năm 2011, và chiếm tỉ trọng lớn nhất vẫn là mặt hàng
dệt may, xét trên thị trường xuất khẩu qua Hoa Kỳ.
Dệt may vẫn là mặt hàng ổn định và chiếm tỉ trọng lớn nhất trong các mặt
hàng chủ yếu xuất khẩu qua Hoa Kỳ, năm 2012 đạt 7457 triệu USD so với năm
2011, chiếm tỉ trọng 37,9% đứng đầu trong các mặt hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ
cùng năm, và năm 2013 tiếp tục tăng mạnh với 8612 triệu USD, tăng 15,5% , ngành
may mặc đã tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng trong tốc độ tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam đến năm 2014 tiếp tục tăng với 9819 triệu USD và tốc độ tăng trưởng
là 14%.
13


Tuy giảm về tỉ trọng trong tổng Kim ngạch xuất khẩu cả nước , nhưng với
các nhóm hàng xuất khẩu qua Hoa Kỳ thì mặt hàng may mặc vẫn đứng đầu về tỉ
trọng. Nhìn một cách tổng thể, kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam sang Hoa
Kỳ trong thời gian qua đã có sự tăng trưởng đáng kể và tương đối ổn định. Sau khi
Hoa Kỳ dỡ bỏ hạn ngạch dệt may và nhất là khi chính thức trở thành thành viên của
WTO thì thị trường Hoa Kỳ đã mở ra nhiều cơ hội cho xuất khẩu dệt may Việt Nam

nói riêng và cho hoàng hóa Việt Nam nói chung.
2.1.2. Cơ cấu mặt hàng may mặc xuất sang Hoa Kỳ
Xét cơ cấu hàng dệt may nói chung, hàng dệt may bao gồm ba nhóm chính
là: sợi, vải và hàng may mặc. Đi cùng với sự thay đổi dần của máy móc, trang thiết
bị thì các sản phẩm dệt may xuất khẩu của Việt Nam đã dần được đa dạng hóa về
chủng loại.
Trong khâu sản xuất sợi, tỷ trọng các mặt hàng Polyeste pha bông với nhiều
tỷ lệ khác nhau tăng nhanh. Các loại sợi 100% polyeste cũng bắt đầu được sản xuất,
các sản phẩm cotton/visco, cotton/acrylic đã bắt đầu được đưa ra thị trường.
Trong khâu dệt vải, nhiều mặt hàng dệt thoi mới, chất lượng cao đã bắt đầu
được sản xuất: đối với mặt hàng 100% sợi bông, các mặt hàng sợi đơn chải kỹ chỉ
số cao phục vụ cho may xuất khẩu, mặt hàng sợi bông dày được tăng cường công
nghệ làm bóng, phòng co cơ học. Đối với một số mặt hàng sợi pha, các mặt hàng
katê đơn màu sợi 76/76 đều thay sợi dọc 76/2, các loại vải dày như gabadin, kaki,
simili tuy sản lượng chưa cao nhưng cũng bắt đầu được đưa vào sản xuất rộng rãi ở
nhiều doanh nghiệp. Đối với mặt hàng 100% sợi tổng hợp, nhờ được trang bị thêm
hệ thống xe săn sợi với độ săn cao, thiết bị comfit, thiết bị giảm trọng lượng đã tạo
ra nhiều mặt hàng tơ tằm nhân tạo, len nhân tạo. Đối với mặt hàng dệt kim , chủ yếu
vẫn là các mặt hàng thuộc nhóm giá thấp và trung bình, tỷ trọng các mặt hàng chất
lượng cao còn rất thấp.
Về phía các mặt hàng may mặc cũng đã có sự thay đổi đáng kể. Trước đây,
ngành may mặc chỉ tập trung vào các mặt hàng dễ làm do công nghệ sản xuất còn
lạc hậu. Ngày nay, khi thị trường ngày càng được mở rộng và nhằm thực hiện được
14


các nhu cầu đặt ra của thị trường nhập khẩu, các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may
Việt Nam đã không ngừng mở rộng chủng loại mặt hàng may mặc xuất khẩu, số
lượng các mặt hàng cao cấp ngày càng tăng mạnh. Từ chỗ chỉ may được quần áo
bảo hộ lao động, quần áo thường dùng ở nhà, đồng phục học sinh... đến nay ngành

đã có những sản phẩm chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu của những nhà nhập
khẩu khó tính.
Bảng 3 - Trị giá xuất khẩu 2 nhóm hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ, giai
đoạn 2010-2013
Đơn vị: 1000 USD
Năm
2010
2011
2012
2013

May mặc
Kim ngạch
5,876,916
6,644,078
7,101,131
8,126,284

Tỉ lệ (%)
93.45
92.33
92.77
92.64

Dệt xuất khẩu
Kim ngạch
Tỉ lệ(%)
411,978
6.55
551,970

7.67
553,509
7.23
645,497
7.36
Nguồn: OTEXA

Tuy nhiên, cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn mất sự cân
đối, chủ yếu là xuất khẩu hàng may mặc (chiếm trên 90% kim ngạch xuất khẩu),
hàng dệt xuất khẩu chiếm tỉ lệ rất thấp.
Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ đa phần là hàng may mặc. Tuy nhiên trong
số các mặt hàng may mặc xuất khẩu sang Hoa Kỳ lại có những mặt hàng chiếm tỉ lệ
chủ yếu về trị giá xuất khẩu và tăng trưởng đều qua các năm như áo dệt kim nam
chất liệu bông (338), áo dệt kim nữ chất liệu bông (339), quần dài và quần short nữ
chất liệu bông (347), áo sơ mi dệt kim của nữ chất liệu sợi nhân tạo (639), quần dài
và quần short nữ chất liệu nhân tạo (648).1
Một số mặt hàng có xu hướng tăng mạnh trong những năm gần đây như: đồ
lót (352), váy dài (636), áo sơ mi dệt kim của nam (638), áo sơ mi dệt kim của nữ
(639), áo sơ mi nữ không dệt kim (641).2
2.2.

Kênh phân phối mặt hàng may mặc Việt Nam tại Hoa Kỳ

1 Xem Phụ lục 2
2 Xem Phụ lục 2

15


2.2.1. Các phương thức sản xuất xuất khẩu

Hình 1 - Các phương thức sản xuất xuất khẩu

Các doanh nghiệp dệt may gia công hàng xuất khẩu may mặc thường áp
dụng 4 phương thức xuất khẩu chính là CMT, FOB, ODM và OBM.
2.2.1.1.

CMT (Cut – Make –Trim)

Đây là phương thức xuất khẩu đơn giản nhất của ngành dệt may và mang lại
giá trị gia tăng thấp nhất. Khi hợp tác theo phương thức này, người mua cung cấp
cho doanh nghiệp gia công toàn bộ đầu vào để sản xuất sản phẩm bao gồm nguyên
liệu, vận chuyển, mẫu thiết kế và các yêu cầu cụ thể; các nhà sản xuất chỉ thực hiện
việc cắt, may và hoàn thiện sản phẩm. Doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu theo CMT
chỉ cần có khả năng sản xuất và hiểu biết cơ bản về thiết kế để thực hiện mẫu sản
phẩm.
2.2.1.2.

OEM/FOB (Original Equipment Manufacturing)

FOB là phương thức xuất khẩu ở bậc cao hơn so với CMT; đây là hình thức
sản xuất theo kiểu “mua nguyên liệu, bán thành phẩm”. Theo phương thức FOB,
các doanh nghiệp chủ động tham gia vào quá trình sản xuất, từ việc mua nguyên
16


liệu đến cho ra sản phẩm cuối cùng. Khác với CMT, các nhà xuất khẩu theo FOB sẽ
chủ động mua nguyên liệu đầu vào cần thiết thay vì được cung cấp trực tiếp từ các
người mua của họ. Các hoạt động theo phương thức FOB thay đổi đáng kể dựa theo
các hình thức quan hệ hợp đồng thực tế giữa nhà cung cấp với các khách mua nước
ngoài và được chia thành 2 loại:



FOB cấp I. Các doanh nghiệp thực hiện theo phương thức này sẽ thu mua
nguyên liệu đầu vào từ một nhóm các nhà cung cấp do khách mua chỉ định.
Phương thức xuất khẩu này đòi hỏi các doanh nghiệp dệt may phải chịu trách



nhiệm về tài chính để thu mua và vận chuyển nguyên liệu.
FOB cấp II. Các doanh nghiệp thực hiện theo phương thức này sẽ nhận mẫu
thiết kế sản phẩm từ các khách mua nước ngoài và chịu trách nhiệm tìm
nguồn nguyên liệu, sản xuất và vận chuyển nguyên liệu và thành phẩm tới
cảng của khách mua. Điểm cốt yếu là các doanh nghiệp phải tìm được các
nhà cung cấp nguyên liệu có khả năng cung cấp các nguyên liệu đặc biệt và
phải tin cậy về chất lượng, thời hạn giao hàng. Rủi ro từ phương thức này
cao hơn nhưng giá trị gia tăng mang lại cho công ty sản xuất cũng cao hơn
tương ứng.
2.2.1.3.

ODM (Original Design Manufacturing)

Đây là phương thức sản xuất xuất khẩu bao gồm khâu thiết kế và cả quá trình
sản xuất từ thu mua vải và nguyên phụ liệu, cắt, may, hoàn tất, đóng gói và vận
chuyển. Khả năng thiết kế thể hiện trình độ cao hơn về tri thức của nhà cung cấp và
vì vậy sẽ mang lại giá trị gia tăng cao hơn rất nhiều cho sản phẩm. Các doanh
nghiệp ODM tạo ra những mẫu thiết kế, hoàn thiện sản phẩm và bán lại cho người
mua, thường là chủ của các thương hiệu lớn trên thế giới.
2.2.1.4.

OBM (Original Brand Manufacturing)


Đây là phương thức sản xuất được cải tiến dựa trên hình thức OEM, song ở
phương thức này các hãng sản xuất tự thiết kế và ký các hợp đồng cung cấp hàng
hóa trong và ngoài nước cho thương hiệu riêng của mình. Các nhà sản xuất tại các
nền kinh tế đang phát triển tham gia vào phương thức OBM chủ yếu phân phối sản
phẩm tại thị trường nội địa và thị trường các quốc gia lân cận.
17


2.2.2. Lý thuyết về chuỗi giá trị và chuỗi giá trị dệt may toàn cầu
Theo tài liệu nghiên cứu về chuỗi giá trị của Kaplinsky (2000), chuỗi giá trị
bao gồm các hoạt động cần thiết của một chu trình sản xuất sản phẩm hoặc dịch vụ
kể từ giai đoạn nghiên cứu sáng chế, qua các giai đoạn khác nhau của quá trình sản
xuất, phân phối đến người tiêu dùng cuối cùng, cũng như xử lý rác thải sau khi sử
dụng.
Như vậy có thể hiểu về chuỗi giá trị là tập hợp các giá trị được tạo ra từ các
giai đoạn của quá trình sản xuất một sản phẩm hay dịch vụ, từ khâu nghiên cứu phát
triển, thiết kế, cung cấp đầu vào, sản xuất, marketing và phân phối tới người tiêu
dùng cuối cùng. Nếu một chuỗi giá trị của một sản phẩm hay dịch vụ diễn ra qua
nhiều nước trên phạm vi toàn cầu thì chuỗi giá trị đó được gọi là chuỗi giá trị toàn
cầu.
Từ lý thuyết về chuỗi giá trị, Gereffi (2001) đã xây dựng lý thuyết về chuỗi
cung ứng, ông cho rằng có hai yếu tố liên quan đến việc tạo ra giá trị hay quyết định
dạng chuỗi cung ứng của một ngành. Thứ nhất là chuỗi cung ứng do phía cung tạo
ra. Đây là những chuỗi hàng hóa mà trong đó tác nhân chính các nhà sản xuất lớn,
thường là những nhà sản xuất xuyên quốc gia hợp nhất theo chiều dọc đóng vai trò
trung tâm trong việc phối hợp các mạng lưới sản xuất quốc tế. Các ngành công
nghiệp thâm dụng vốn và công nghệ như sản xuất xe hơi, máy bay, điện tử là đặc
trưng của chuỗi cung ứng do phía cung quyết định. Thứ hai là chuỗi cung ứng do
phía cầu hay người mua quyết định. Đây là đặc trưng của những ngành công nghiệp

sản xuất hàng tiêu dùng thâm dụng lao động như ngành may mặc, giày dép, và các
hàng thủ công khác. Các nhà bán lẻ lớn, các nhà buôn và các nhà sản xuất có
thương hiệu là những tác nhân chính đóng vai trò cốt yếu trong việc hình thành các
mạng lưới sản xuất được phân cấp tại nhiều quốc gia xuất khẩu. Đặc điểm chính của
chuỗi giá trị do người mua quyết định là sự hợp nhất theo mạng lưới để thúc đẩy sự
phát triển của các khu chế xuất và thực hiện thuê gia công toàn cầu của các nhà bán
lẻ.

18


Ngành dệt may là một minh họa kinh điển của chuỗi giá trị do người mua
quyết định, việc tạo ra sản phẩm cuối cùng phải qua nhiều công đoạn và hoạt động
sản xuất thường được tiến hành ở nhiều nước. Trong đó các nhà sản xuất với
thương hiệu nổi tiếng, các nhà buôn, nhà bán lẻ lớn đóng vai trò then chốt trong
việc thiết lập mạng lưới sản xuất và định hình việc tiêu thụ hàng loạt thông qua các
thương hiệu mạnh và sự phụ thuộc của chúng vào những chiến lược thuê gia công
toàn cầu nhằm thỏa mãn nhu cầu này (Gereffi, 1999).
Theo kết quả nghiên cứu về chuỗi giá trị dệt may toàn cầu của Gereffi và
Memodovic (2003) có thể phân chia chuỗi giá trị dệt may làm năm phân khúc chính
theo hình:

19


Hình 2 - Mô hình chuỗi giá trị ngành dệt may

NGUYÊN LIỆU
ĐẦU VÀO


MẠNG LƯỚI
NGUYÊN PHỤ LIỆU

MẠNG LƯỚI
SẢN XUẤT

Nguồn: Gereffi và Memodovic, 2003
20

MẠNG LƯỚI
XUẤT KHẨU

MẠNG LƯỚI
TIẾP THỊ


Ứng dụng lý thuyết đường cong nụ cười, các nhà nghiên cứu đã biểu diễn
chuỗi giá trị dệt may thế giới hiện nay gồm 5 mắt xích chính:

Đồ thị 1 - Lý thuyết "Đường cong nụ cười"
Chuỗi giá trị dệt may chịu ảnh hưởng bởi người mua, việc tạo ra sản phẩm
cuối cùng phải qua nhiều công đoạn và hoạt động sản xuất thường được tiến hành ở
nhiều nước. Trong đó, các nhà sản xuất với thương hiệu nổi tiếng, các nhà buôn,
nhà bán lẻ lớn đóng vai trò then chốt trong việc thiết lập mạng lưới sản xuất và định
hình việc tiêu thụ hàng loạt thông qua các thương hiệu mạnh và sự phụ thuộc vào
những chiến lược thuê gia công toàn cầu nhằm thỏa mãn nhu cầu này. Chuỗi giá trị
dệt may toàn cầu được chia làm 5 công đoạn cơ bản:
1. Cung cấp sản phẩm thô, bao gồm bông tự nhiên, xơ,…;
2. Sản xuất các sản phẩm đầu vào; sản phẩm của công đoạn này là chỉ và sợi,
vải do các công ty dệt, nhuộm đảm nhận;

3. Thiết kế mẫu sản phẩm; sản xuất thành phẩm do các công ty may đảm nhận;
4. Xuất khẩu do trung gian thương mại đảm nhận;
5. Marketing và phân phối.
Mắt xích 1- Thiết kế: Đây là khâu có tỷ suất lợi nhuận cao trong chuỗi giá trị
và rất thâm dụng tri thức. Các nước đi trước trong ngành công nghiệp dệt may, sau
khi đã dịch chuyển hoạt động sản xuất sang các nước đi sau thường chỉ tập trung
21


vào khâu nghiên cứu và thiết kế sản phẩm mới nhằm tạo ra những thương hiệu nổi
tiếng để đạt được tỷ suất lợi nhuận cao nhất. Việc cạnh tranh thương hiệu đang rất
khốc liệt trên thị trường dệt may thế giới, các thương hiệu cạnh tranh nhau bằng các
mẫu thiết kế đẹp, sáng tạo. Yếu tố quan trọng để thâm nhập và “trụ” vững được ở
mắt xích này đòi hỏi các doanh nghiệp cần có các nhà thiết kế có khả năng nắm
được xu hướng, thị hiếu thời trang của người mua toàn cầu.
Mắt xích 2 - Sản xuất nguyên phụ liệu: Đây là mắt xích quan trọng hỗ trợ
cho ngành may mặc phát triển và là khâu thâm dụng đất đai và vốn. Đối với hàng
may mặc, giá trị của phần nguyên phụ liệu chiếm tỷ trọng lớn và quyết định đến
chất lượng sản phẩm. Nguyên phụ liệu trong ngành dệt may thường chia thành hai
phần: nguyên liệu chính và phụ liệu. Nguyên liệu chính là thành phần chính tạo nên
sản phẩm may mặc, chính là các loại vải. Phụ liệu là các vật liệu đóng vai trò liên
kết nguyên liệu, tạo thẩm mỹ cho một sản phẩm may mặc, gồm có hai loại phụ liệu
chính là chỉ may và vật liệu dựng. Vật liệu dựng là các vật liệu góp phần tạo dáng
cho sản phẩm may như: khóa kéo, cúc, dây thun,…
Mắt xích 3 – May: Đây là mắt xích thâm dụng lao động nhất nhưng lại có tỉ
suất lợi nhuận thấp nhất chỉ chiếm khoảng 10-15% (Jocelyn Trần, 2011). May là
khâu mà các nước mới gia nhập ngành thường chọn để thâm nhập đầu tiên vì nó
không đòi hỏi đầu tư cao về công nghệ và rất thâm dụng lao động. Những nước
đang tham gia ở khâu này thường thực hiện việc gia công lại cho các nước gia nhập
trước, đây chính là đặc điểm chung của khâu sản xuất trong ngành dệt may thế giới.

Các quốc gia có ngành dệt may phát triển, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu từ lâu
thường không còn thực hiện các công đoạn trong khâu này nữa mà hợp đồng gia
công lại cho các quốc gia mới gia nhập ngành, có nguồn lao động giá rẻ và việc sản
xuất nguyên phụ liệu đầu vào chưa phát triển như Bangladesh, Pakistan và Việt
Nam. Đối với các doanh nghiệp tham gia hoạt động gia công, tỷ lệ giá trị thu về
trong phân khúc may cũng sẽ khác nhau tùy theo phương thức xuất khẩu là CMT,
FOB hay ODM.
Mắt xích 4 - Mạng lưới xuất khẩu: Đây là khâu thâm dụng tri thức, gồm các
công ty may mặc có thương hiệu, các văn phòng mua hàng, và các công ty thương
22


mại của các nước. Một trong những đặc trưng đáng lưu ý nhất của chuỗi dệt may do
người mua quyết định là sự tạo ra các nhà buôn với các nhãn hiệu nổi tiếng, nhưng
không thực hiện bất cứ việc sản xuất nào 3. Họ được mệnh danh là những “nhà sản
xuất không có nhà máy” do hoạt động sản xuất được gia công tại hải ngoại, điển
hình như các công ty Mast Industries, Nike và Reebok. Các công ty này đóng vai
trò trung gian kết hợp chuỗi cung ứng giữa các nhà may mặc, các nhà thầu phụ với
các nhà bán lẻ toàn cầu. Trong chuỗi dệt may toàn cầu, chính các nhà buôn (trader),
các nhà cung cấp là các trung gian đóng vai trò then chốt và nắm giữ phần lớn giá
trị trong chuỗi mặc dù họ không hề sở hữu nhà máy sản xuất nào. Hiện nay các nhà
buôn, người mua ở Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc đang nắm đa số các điểm nút
của mạng lưới này, đây được xem là “ba ông lớn” 4trong chuỗi cung ứng hàng dệt
may thế giới.
Mắt xích 5 - Thương mại hóa: Mắt xích này bao gồm mạng lưới marketing
và phân phối sản phẩm, đây cũng là khâu thâm dụng tri thức. Các nhà bán lẻ nổi
tiếng trên thế giới đang nắm giữ khâu này và thu được nguồn lợi nhuận khổng lồ
hàng năm. “Tại thị trường châu Âu, các nhà phân phối thường chính là nhà thiết kế,
vì hơn ai hết, chính họ là người tường tận nhất nhu cầu và điều kiện để thoả mãn thị
hiếu của khách hàng. Các chuyên gia trong ngành dệt may ước tính, tới 70% lợi

nhuận (tính trên một sản phẩm may mặc từ khâu đầu đến khâu cuối cùng của chuỗi
giá trị) thuộc về các nhà phân phối lẻ này”. Đây là mắt xích có suất sinh lợi cao
nhất, do các công ty lớn trên thế giới nắm giữ và họ thường tạo ra các rào cản gia
nhập ngành nên các quốc gia mới gia nhập chuỗi giá trị rất khó để xâm nhập được
khâu này. Các công ty trong khâu này không trực tiếp làm ra sản phẩm, chỉ thực
hiện hoạt động phân phối đến người tiêu dùng cuối cùng nhưng họ đóng vai trò
quan trọng trong việc định hướng và tác động đến chuỗi dệt may thế giới vì họ nắm
rõ nhu cầu của những người tiêu dùng, cung cấp xu hướng thời trang cho các nhà
thiết kế sản phẩm và nắm giữ hệ thống bán hàng, kênh phân phối trên toàn cầu.
2.2.3. Chuỗi giá trị ngành dệt may Việt Nam
3 Xu hướng này bắt đầu từ những năm 1970
4 Gereffi, 1999, International trade and industrial upgrading in the apparel commodity chain, Journal of
International Economics 48

23


Để xác định rõ ngành dệt may Việt Nam đang ở vị trí nào trong chuỗi giá trị
dệt may toàn cầu, cần tiền hành phân tích luồng di chuyển sản phẩm dệt may và đặc
điểm các người mua mà các doanh nghiệp Việt Nam đang giao dịch.
2.2.3.1.

Nguồn cung cấp bông, xơ và sợi5

Hiện cả nước có khoảng 10 nghìn hecta trồng bông với sản lượng hằng năm
chỉ đáp ứng khoảng 2% nhu cầu sản xuất. Nguyên nhân chính dẫn tới sự kém phát
triển của ngành bông, xơ ở Việt Nam là do nước ta không có lợi thế cạnh tranh tự
nhiên và không chú trọng đầu tư trong việc trồng bông và sản xuất xơ. Trồng bông
là ngành rất thâm dụng đất đai, việc trồng bông chịu tác động nhiều bởi thời tiết, khí
hậu, dẫn tới diện tích trồng bông ở Việt Nam vẫn chưa cao và còn manh mún. Bên

cạnh đó, trình độ thâm canh của nông dân chưa tốt, không có hệ thống thủy lợi hỗ
trợ, điều kiện trồng trọt chủ yếu phụ thuộc vào thiên nhiên, sản xuất thu hoạch bằng
tay nên chất lượng bông của nước ta thấp dẫn tới giá bán không cạnh tranh so với
các nước khác ở Bắc Mỹ và Châu Phi. Năng suất bông bình quân của nước ta hiện
đạt khoảng 1,28 tấn/ha.
Ngành sợi phát triển thuận lợi trong những năm qua xuất phát từ hai nguyên
nhân chính. Thứ nhất, ngành sợi đã phát huy được lợi thế cạnh tranh về chi phí đầu
vào thấp so với các nước mà cụ thể là chi phí nhân công và tiền thuê đất. Thứ hai là
do nhu cầu sợi của thị trường của thế giới tăng nhanh trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, đa số lượng sợi sản xuất trong nước được xuất khẩu trong khi các doanh
nghiệp dệt trong nước lại nhập khẩu sợi từ nước ngoài do cung và cầu trong nước
chưa phù hợp với nhau về số lượng và chất lượng sợi.
2.2.3.2.

Hoạt động dệt, nhuộm và sản xuất nguyên phụ liệu

Vai trò của ngành dệt đối với ngành may nói riêng và tổng thể ngành dệt
may là rất lớn vì vải là yếu tố quan trọng quyết định đến chi phí và chất lượng cuối
cùng của một sản phẩm may mặc. Mặc dù có vai trò quan trọng trong việc cung cấp
nguyên liệu tại chỗ cho ngành may nhưng trên thực tế, ngành dệt Việt Nam chưa
phát triển như kỳ vọng.
5 Thống kê của Hiệp hội Bông Sợi Việt Nam

24


3 nguyên nhân chính dẫn đến sự yếu kém của ngành dệt trong chuỗi giá trị dệt
may Việt Nam là:



Sự mâu thuẫn trong chính sách của nhà nước trong việc khuyến khích đầu tư
vào ngành dệt nhuộm và chính sách hạn chế các ngành công nghiệp gây ô




nhiễm môi trường;
Quy mô doanh nghiệp dệt nhỏ, thiếu nhân lực quản lý giỏi; công nghệ lạc
hậu;
Thiếu vắng các cụm ngành công nghiệp dệt may để hỗ trợ phát triển.
2.2.3.3. Hoạt động may
Ngành may xuất khẩu Việt Nam đã phát triển nhanh chóng kể từ cuối những

năm 80 và đầu những năm 90, đặc biệt Hiệp định thương mại song phương với Hoa
Kỳ có hiệu lực vào năm 2001 đã thúc đẩy ngành dệt may Việt Nam mở rộng thị
trường xuất khẩu đáng kể. Các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm may mặc của Việt
Nam hiện nay vẫn đang sản xuất theo phương thức gia công đơn giản. Theo thống
kê của VITAS, tỷ lệ xuất khẩu hàng may mặc theo phương thức gia công CMT vẫn
chiếm chủ yếu (khoảng 85%), xuất khẩu theo phương thức FOB chỉ khoảng 13% và
chỉ 2% xuất khẩu theo phương thức ODM. Các doanh nghiệp Việt Nam xuất hàng
theo FOB cũng chỉ chủ yếu ở mức FOB I nên giá trị gia tăng của ngành còn thấp.
Tỷ lệ xuất khẩu các sản phẩm may mặc theo phương thức FOB, ODM, OBM
vẫn thấp do ngành dệt may của Việt Nam không chủ động được nguồn nguyên liệu,
khả năng quản lý, huy động vốn nên vẫn chưa khai thác hết các lợi thế để thu lợi
nhuận tối đa ở khâu này. Đặc biệt, ngành may mặc Việt Nam đang rất yếu ở mảng
thiết kế sản phẩm vì thiếu các nhà thiết kế giỏi, khó tiếp cận và thiếu thông tin về
nhu cầu khách hàng, xa thị trường tiêu dùng cuối cùng.
Nếu so sánh mắt xích sản xuất ngành dệt may Việt Nam so với thế giới, có
thể thấy trong khi mắt xích sản xuất của ngành dệt may Việt Nam đang ở mức may
gia công là chủ yếu thì các nhà sản xuất trên thế giới đang cạnh tranh bằng cách

dịch chuyển lên phương thức sản xuất ODM hay OBM nhằm đáp ứng những thay
đổi quan trọng trên thị trường.
2.2.3.4.

Mạng lưới xuất khẩu và tiếp thị
25


×