Tải bản đầy đủ (.pdf) (211 trang)

Sự biến đổi kinh tế xã hội của dân tộc thổ ở huyện như xuân, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.07 MB, 211 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Như Xuân là huyện miền núi, nằm ở phía tây nam tỉnh Thanh Hóa gồm 18 xã
thị trấn, là huyện có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội, với mỏ Cao lanh
ở thị trấn Yên Cát, vàng sa khoáng, bauxite (bô xít) ở xã Thanh Quân... thổ nhưỡng
phù hợp để trồng các loại cây phục vụ cho công nghiệp chế biến cao su, chè, keo,
tre, nứa, luồng, mía… có rừng Quốc gia Bến En, thác Đồng Quan… để phát triển du
lịch, đồng thời là địa phương có sự đa dạng về sắc thái văn hóa với nhiều dân tộc thiểu
số cùng cư trú như Thái, Thổ, Mường… trong đó, người Thổ còn giữ được nhiều yếu
tố văn hóa truyền thống. Cơ cấu kinh tế của Như Xuân, nông - lâm nghiệp chiếm tỷ
trọng cao, thương mại - dịch vụ chiếm tỷ trọng thấp.
Mặc dù có những tiềm năng để phát triển nhưng đến nay chưa được khai thác
một cách có hiệu quả, Như Xuân nằm trong danh sách 61 huyện nghèo của cả nước
theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP và là một trong số 7 huyện nghèo của tỉnh
Thanh Hóa.
Từ sau Đổi mới (năm 1986) đến nay, nhất là trong những năm gần đây nhờ có
chính sách quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước và của tỉnh Thanh Hóa thông qua
các Chương trình 134, 135, Chương trình 30a, Chương trình xây dựng nông thôn
mới… kinh tế - xã hội ở người Thổ huyện Như Xuân có những chuyển biến mạnh
mẽ, từ sản xuất nông nghiệp truyền thống, trồng lúa nước là chính chuyển sang
kinh tế nông nghiệp hàng hoá đã góp phần đưa kinh tế của người Thổ từng bước ổn
định và phát triển, đồng thời là tiền đề cho những biến đổi về xã hội.
Các nghiên cứu về dân tộc Thổ ở huyện Như Xuân trước đây đã đề cập ở
những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, những biến đổi về kinh tế - xã hội của tộc
người này còn chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức. Vì thế, nghiên cứu
những biến đổi kinh tế - xã hội từ sau Đổi mới (1986) đến nay sẽ góp phần khỏa lấp
khoảng trống về phương diện lý luận và thực tiễn mà các nghiên cứu trước để lại,
đặc biệt trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

1



Những tư liệu thu thập được tại thực địa không chỉ phản ánh thực trạng về tình
hình kinh tế - xã hội ở người Thổ, mà còn góp phần tìm ra nguyên nhân của những
thành công và những khó khăn, thách thức trên con đường phát triển.
Vì vậy, lựa chọn đề tài “Sự biến đổi kinh tế - xã hội của dân tộc Thổ ở huyện
Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá” làm luận án tiến sĩ nhân học có ý nghĩa thiết thực cả
về lý luận và thực tiễn.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Trên cơ sở tư liệu Dân tộc học/Nhân học và các nguồn tài liệu khác nhau,
luận án tập trung phân tích những đặc điểm cơ bản kinh tế - xã hội truyền thống ở
người Thổ huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
- Chỉ ra những biến đổi về kinh tế - xã hội và những yếu tố tác động đến biến
đổi ở người Thổ huyện Như Xuân từ năm 1986 đến nay.
- Từ kết quả nghiên cứu, luận án đề xuất một số kiến nghị và giải pháp góp
phần phát triển kinh tế - xã hội ở người Thổ ở huyện Như Xuân.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng hợp, thu thập các tài liệu thành văn có liên quan đến đề tài nghiên cứu;
thực hiện điền dã Dân tộc học/Nhân học, điều tra hộ gia đình nhằm thu thập tài liệu
thực địa phục vụ cho chủ đề nghiên cứu của luận án.
- Trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu; xác định cơ sở lý thuyết làm định
hướng cho triển khai nội dung luận án.
- Mô tả và tìm ra những đặc điểm cơ bản về kinh tế - xã hội truyền thống của
người Thổ ở huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
- Phân tích và đánh giá thực trạng biến đổi về kinh tế - xã hội của người Thổ ở
huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tộc người Thổ, trong đó tập trung trình bày những nét cơ bản về kinh tế - xã
hội truyền thống và biến đổi của nó từ sau Đổi mới (năm 1986) đến nay.


2


3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: phân tích những biến đổi về sở hữu và sử dụng đất đai, tài
nguyên thiên nhiên, nông nghiệp, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; gia đình, dòng
họ, thôn/làng, sự xuất hiện các tổ chức phường/hội mới và phân tầng xã hội.
- Về không gian: nghiên cứu tại ba xã: Yên Lễ, Cát Tân, Hóa Quỳ của huyện
Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa (đây là ba xã có vị trí cư trú khác nhau: xã ở gần thị
trấn, xã gần đường mòn Hồ Chí Minh, xã ở nơi hẻo lánh), để thấy được các yếu tố
truyền thống và sự đa dạng của quá trình biến đổi kinh tế - xã hội ở tộc người này.
- Về thời gian: trình bày kinh tế - xã hội truyền thống của người Thổ trước năm
1986 và những biến đổi từ sau 1986 đến nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh tế - xã hội đối với
các dân tộc ở Việt Nam. Luận án vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng trong triết học Mác-Lênin để làm rõ sự vận
động của quy luật phát triển.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Cách tiếp cận
- Tiếp cận liên - đa ngành
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là biến đổi kinh tế - xã hội. Theo đó, nghiên
cứu này tiếp cận liên - đa ngành Dân tộc học/Nhân học kết hợp với một số ngành
khoa học liên quan khác như: Xã hội học, Văn hoá học.
- Tiếp cận vùng văn hóa - tộc người
Phát triển vùng và tộc người luôn gắn bó hữu cơ với nhau. Vì vậy, nghiên cứu
về phát triển kinh tế - xã hội ở dân tộc Thổ không thể tách rời giữa vùng và tộc

người. Vùng văn hóa - tộc người có những nét tương đồng về địa lý tự nhiên, dân
cư, trình độ phát triển kinh tế - xã hội, nên có những đặc trưng chung, thể hiện trong
sinh hoạt của cư dân ở đó.

3


- Tiếp cận dưới góc nhìn chủ thể văn hoá
Quan điểm tiếp cận này đòi hỏi phải xem xét dân tộc Thổ là đối tượng hưởng
lợi trong hoạch định các chính sách, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của
vùng này. Các chủ thể văn hóa là người phát biểu chính kiến của mình về những
biến đổi kinh tế - xã hội, đề xuất nhu cầu cũng như giải pháp phát triển.
4.2.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó sử dụng
phương pháp điền dã Dân tộc học là chủ yếu, với các hình thức quan sát tham gia,
phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm, ghi âm, chụp ảnh, được áp dụng một cách linh hoạt,
nhằm thu thập những tư liệu cần thiết phục vụ cho quá trình nghiên cứu. Quan sát tham
gia được áp dụng trong suốt thời gian nghiên cứu tại thực địa. Vận dụng hình thức cùng
ăn, ở, làm việc và trao đổi với người dân địa phương, tạo được mối quan hệ thân thiện
với các cộng tác viên, khiến họ cảm thấy thoải mái và sẵn sàng chia sẻ thông tin về địa
bàn cư trú, các hình thức canh tác nông nghiệp (đồng ruộng, mương máng,…), hoạt
động lâm nghiệp và các khía cạnh khác trong đời sống kinh tế - xã hội của tộc người.
Phương pháp cơ bản để thu thập tư liệu định tính là quan sát và tiến hành
phỏng vấn sâu. Các cuộc phỏng vấn sâu đã được tiến hành tại một số hộ gia đình
trong các thôn/làng, dựa vào bộ câu hỏi đã chuẩn bị sẵn, hay đặt những câu hỏi mở
để cho người dân chủ động tìm hiểu và trả lời. Đối tượng được lựa chọn phỏng vấn
là các chủ hộ gia đình, già làng, trưởng thôn, những người tham gia bộ máy chính
quyền các cấp.
Tại mỗi điểm điều tra, một số buổi thảo luận nhóm tập trung đã được tổ chức
trong nhóm nam giới, nhóm phụ nữ, nhóm hỗn hợp nam giới và phụ nữ, mỗi nhóm

có từ 5 -7 người. Nội dung thảo luận nhóm hướng vào từng chủ đề cụ thể liên quan
đến trồng trọt, chăn nuôi và các vấn đề xã hội… Việc sử dụng hình thức thảo luận
nhóm là rất cần thiết nhằm khuyến khích người dân chủ động tham gia, chủ động
trả lời những câu hỏi đặt ra.
Việc thu thập tài liệu thứ cấp gồm báo cáo thống kê, báo cáo tổng kết của
chính quyền các cấp, ban ngành, đoàn thể được ưu tiên quan tâm. Điều đó giúp luận

4


án có điều kiện đối chiếu, so sánh, phân tích với tư liệu từ các nguồn khác, nhất là
từ phỏng vấn. Ngoài ra, phương pháp điều tra xã hội học cũng được chú trọng thực
hiện, thông qua việc tổ chức điều tra phiếu tại ba xã: Yên Lễ, Cát Tân, Hóa Quỳ,
trong đó mỗi xã lựa chọn ngẫu nhiên một thôn để điều tra 100 hộ (tổng số phiếu
điều tra là 300 hộ). Các phiếu này được xử lý bằng phần mềm SPSS.
Phương pháp so sánh cũng được sử dụng trong luận án, nhằm thấy được sự
biến đổi về kinh tế - xã hội của dân tộc Thổ ở các điểm lựa chọn nghiên cứu.
5. Đóng góp mới về khoa học
- Từ góc độ Nhân học, luận án tập trung nghiên cứu có hệ thống, chuyên sâu về
những biến đổi kinh tế - xã hội của dân tộc Thổ ở huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
- Từ kết quả nghiên cứu, luận án chỉ ra rằng, quá trình biến đổi kinh tế - xã hội
của dân tộc Thổ là do tác động trực tiếp của đường lối Đổi mới, nhất là sự vận dụng
sáng tạo chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở Thanh Hóa nói
chung, huyện Như Xuân nói riêng.
- Luận án góp thêm luận cứ khoa học cho việc định hướng xây dựng chính
sách phát triển kinh tế - xã hội đối với dân tộc Thổ ở huyện Như Xuân trong bối
cảnh xây dựng nông thôn mới hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án bổ sung thêm tư liệu về dân tộc Thổ, nhất là sự biến đổi kinh tế - xã hội

ở tộc người này. Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần đề xuất một số chính sách
trong xây dựng nông thôn mới ở vùng dân tộc Thổ hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của luận án là tài liệu tham khảo giúp các nhà quản lý, hoạch định
chính sách lập kế hoạch phát triển bền vững và nâng cao cuộc sống của dân tộc Thổ
nói riêng và các dân tộc thiểu số nói chung.

5


7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án được chia
thành bốn chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và địa bàn nghiên cứu
Chương 2: Biến đổi về kinh tế
Chương 3: Biến đổi về xã hội
Chương 4: Các yếu tố tác động đến sự biến đổi kinh tế - xã hội và những vấn
đề đặt ra.

6


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU,
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Những nghiên cứu về biến đổi kinh tế - xã hội của các dân tộc thiểu số ở
Việt Nam
Ở Việt Nam, sự biến đổi về đời sống kinh tế - xã hội của các dân tộc thiểu số

là một chủ đề không mới, ít nhất là trong khoảng 40 năm gần đây, kể từ năm 1975
sau ngày hai miền Bắc - Nam thống nhất, khi mà yêu cầu nhận diện và đánh giá
thường xuyên tình hình dân số và đời sống của các nhóm cư dân khác nhau trên cả
nước là một trong những yêu cầu tiên quyết để xây dựng và điều chỉnh các chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Tùy thuộc vào từng thời điểm, từng địa
bàn hay từng tổ chức/nhóm điều tra khác nhau mà cách tiếp cận và phương nghiên
cứu có thể có sự khác biệt. Chẳng hạn, ở cấp độ vĩ mô, các cuộc điều tra của Chính
phủ trong khuôn khổ của Tổng điều tra dân số và nhà ở, Tổng điều tra nông thôn,
nông nghiệp và thủy sản, Khảo sát mức sống dân cư và hộ gia đình... chủ yếu quan
tâm đến tình hình tăng trưởng và chênh lệch trong các con số thể hiện mức thu
nhập, chi tiêu, cơ cấu nghề nghiệp, đầu tư giáo dục và chăm sóc sức khỏe của dân
cư nói chung và hộ gia đình nói riêng. Trong khi đó, những cuộc điều tra có sự phối
hợp giữa các viện/trung tâm nghiên cứu được tài trợ hoàn toàn hoặc một phần bởi
các tổ chức quốc tế (thường là Ngân hàng thế giới, Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc...)
lại nhấn mạnh đến các khái niệm đói nghèo, bất bình đẳng, phân tầng xã hội, với đối
tượng điều tra có khi được thu hẹp thành các nhóm cụ thể như trẻ em, phụ nữ, thanh
thiếu niên, người già...
Dù là theo hướng tiếp cận nào thì các nghiên cứu đã được công bố đều thừa
nhận kể từ khi thực hiện đường lối Đổi mới do Đảng ta khởi xướng đã có sự thay
đổi tích cực và toàn diện về đời sống kinh tế - xã hội của các dân tộc thiểu số ở Việt
Nam. Những tiến bộ rõ rệt về nhiều mặt không chỉ được ghi nhận như là thành tựu

7


của các chính sách phát triển, mà còn được xem xét như là kết quả của sự tự thích
ứng của các nhóm cư dân với bối cảnh mới. Đặc biệt, ảnh hưởng của tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa, toàn cầu hóa... đã thường xuyên được lưu ý và
gắn kết với những biểu hiện khác nhau từ lớn nhất đến nhỏ nhất của sự biến đổi.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều hướng tới việc mô tả sâu hơn về

hiện trạng biến đổi của đời sống kinh tế - xã hội theo cấp độ vùng (nhiều tỉnh miền
núi trong một vùng địa lý - kinh tế), hoặc cấp hành chính cơ sở (tỉnh, huyện, xã
miền núi) mà đối tượng là các dân tộc/nhóm dân tộc.
Bốn cuốn sách: Một số vấn đề kinh tế - xã hội Tây Nguyên/ Ủy ban Khoa học
xã hội Việt Nam [124]; Một số vấn đề kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc/
Viện Dân tộc học [171]; Những biến đổi về kinh tế - văn hóa ở các tỉnh miền núi
phía Bắc/ Bế Viết Đẳng [32] và Những đặc điểm kinh tế - xã hội các dân tộc miền
núi phía Bắc/ Khổng Diễn (Chủ biên) [17], đã trình bày một cách tổng quát về đặc
điểm kinh tế, xã hội truyền thống của nhiều tộc người khác nhau và các ảnh hưởng
của nó tới công cuộc định canh định cư và xây dựng quan hệ sản xuất mới, đồng
thời trình bày những thay đổi cơ bản trong đời sống của các tộc người này, đánh giá
các nguồn lực và định hướng phát triển miền núi trên con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Cuốn sách Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX do nhiều tác giả biên
soạn [75] đã giới thiệu một số bài viết, đề cập sơ qua về sự phát triển của đời sống
người dân tộc thiểu số trong thế kỷ XX, trong đó gắn kết với quá trình xây dựng và
thực hiện chính sách dân tộc của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đáng
chú ý hơn, một số bài viết đã khẳng định tính năng động của đồng bào dân tộc thiểu
số trong phát triển kinh tế dưới chế độ mới, cũng như tích cực tham gia xây dựng
chính quyền cơ sở, góp phần thúc đẩy những biến chuyển về nhiều mặt của đời
sống tộc người.
Từ cuối những năm 1990, khi mà ảnh hưởng của chính sách Đổi mới đã hiện
hữu ngày càng rõ nét, tính cấp thiết về việc liên hệ những biến đổi của đời sống tộc
người với chính sách này đã thu hút sự quan tâm của giới khoa học. Những công

8


trình đầu tiên quan tâm đến vấn đề này phải kể đến là Kinh tế miền núi và các dân
tộc: thực trạng - vấn đề - giải pháp của Phạm Văn Vang [169] và Miền núi Việt

Nam, thành tựu và phát triển những năm đổi mới của Trần Văn Thuật và cộng sự
[120]. Nhìn chung, các tác giả đặt trọng tâm vào luận bàn về chính sách, việc đánh
giá thực trạng biến đổi kinh tế - xã hội chủ yếu dựa vào các con số thống kê, tư liệu
mô tả còn yếu và khó có thể kiểm chứng đầy đủ.
Những năm tiếp theo, sự hòa nhập của đời sống các dân tộc với những biến
chuyển mới của đất nước mới được mô tả tỉ mỉ hơn qua các công trình Văn hoá, xã
hội và con người Tây Nguyên của Nguyễn Tấn Đắc [31], Văn hoá làng miền núi
Trung bộ Việt Nam: Giá trị truyền thống và những bước chuyển lịch sử, Nguyễn
Hữu Thông (Chủ biên) [114], Sự phát triển vùng dân tộc thiểu số Việt Nam sau hội
nhập [110] của Lê Ngọc Thắng, Văn hoá tộc người, truyền thống và biến đổi của
Ngô Văn Lệ [58], Thực trạng phát triển các dân tộc Trung bộ và một số vấn đề đặt
ra của Bùi Minh Đạo [30], Sự biến đổi những giá trị xã hội truyền thống của đồng
bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay của Nguyễn Ngọc Hoà [46]...
Bên cạnh đó, một số nhà nghiên cứu đã quan tâm làm rõ sự đa dạng của đời
sống kinh tế - xã hội của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Đề cập đến vấn đề đói
nghèo do ảnh hưởng của kinh tế thị trường và sự phân tầng kinh tế xã hội, có thể kể
đến: Kinh tế thị trường và sự phân hoá giàu - nghèo ở vùng dân tộc miền núi phía
Bắc nước ta hiện nay, Lê Du Phong (Chủ biên) [80], Xoá đói giảm nghèo ở vùng
dân tộc thiểu số nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp, Hà Quế Lâm [56], Thực
trạng đói nghèo và một số giải pháp xoá đói giảm nghèo đối với các dân tộc thiểu
số tại chỗ Tây Nguyên của Bùi Minh Đạo [29], Điều tra, đánh giá tăng trưởng và
giảm nghèo ở một số vùng dân tộc thiểu số phía Bắc của Lò Giàng Páo [79], An
sinh xã hội đối với dân tộc thiểu số ở Việt Nam của Nguyễn Thị Lan Hương [49]...
Đối với sự biến đổi kinh tế - xã hội của từng dân tộc cụ thể, số lượng các
công trình đã xuất bản rất phong phú và đã đề cập đến hầu hết mọi vùng, miền trên
cả nước. Trong đó, đáng chú ý là ba cuốn Thực trạng kinh tế và văn hoá của ba
nhóm tộc người đang có nguy cơ bị biến mất của Trần Trí Dõi [19] đã nói đến tộc

9



người Arem, Mã Liềng, Rục ở miền Tây Quảng Bình; Biến đổi kinh tế, văn hoá, xã
hội của cộng đồng người Chăm và Khmer tại thành phố Hồ Chí Minh của Nông
Bằng Nguyên và cộng sự [71], đã giới thiệu các bài nghiên cứu có đề cập đến sự
phân bố dân cư của cộng đồng người Chăm ở Thành phố Hồ Chí Minh và một số
đặc điểm trong đời sống kinh tế hộ gia đình của người Chăm Islam Nam Bộ. Gần
đây có công trình Định canh định cư và biến đổi kinh tế - xã hội của người Khơ mú và người Hmông của Nguyễn Văn Toàn [99] tập trung vào một số địa bàn tái
định cư hai tộc người này ở tỉnh Nghệ An.
Ngoài các công trình được xuất bản dưới dạng sách, không thể không kể đến
các Luận án tiến sĩ, Luận văn thạc sĩ thuộc các ngành Xã hội học, Văn hóa học, Dân
tộc học - Nhân học với đối tượng nghiên cứu là các tộc người ở các địa bàn cụ thể
(giới hạn trong phạm vi một huyện hoặc một vài xã trong một huyện). Nhìn chung,
khung phân tích về sự biến đổi đời sống kinh tế - xã hội tộc người trong các đề tài
nghiên cứu tương đối thống nhất, đều rất chú trọng đến việc đối chiếu hai mặt
truyền thống và hiện đại bằng các tư liệu điền dã có tính cập nhật cao.
Trong những năm gần đây, để phục vụ cho việc nắm bắt thực trạng biến đổi
kinh tế - xã hội của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam, Viện Dân tộc học thuộc Viện
hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã triển khai hàng loạt đề tài nghiên cứu với đối
tượng như người Bru-Vân Kiều, Ơ-đu, Mảng, Mạ, Mnông,Tà Ôi, Xơ-đăng, Si La,
La Hủ, Chu-ru, Raglai, Ngái, Cống... Các đề tài của Viện Dân tộc học tập trung làm
rõ sự biến đổi đời sống của các tộc người dưới tác động của kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, ở khu vực miền núi Thanh - Nghệ vẫn còn rất ít các đề tài thuộc
chủ đề này. Đối với người Thổ nói riêng, hiện vẫn chưa có đề tài nào có tên gọi và
định hướng nghiên cứu sát với chủ đề này, ngoại trừ một phần nội dung nghiên cứu
từ những công trình cũ mà nay đã thiếu tính cập nhật.
1.1.2. Nghiên cứu về người Thổ nói chung, người Thổ ở huyện Như Xuân,
tỉnh Thanh Hoá nói riêng
Có thể nói cuốn sách Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam của Lã Văn Lô và
Nguyễn Hữu Thấu [60] là công trình khoa học đầu tiên đề cập đến người Thổ, dù


10


chỉ ở dạng rất sơ lược. Qua tiếp cận từ các truyền thuyết được kể lại, ngay từ công
trình này, các nhà khoa học đã khẳng định về nguồn gốc đồng bằng của một số
nhóm Thổ ở miền núi phía Tây khu IV cũ, do sự áp bức của phong kiến và những
biến động lịch sử mà phải chạy lên vùng rừng núi để lánh nạn. Trong phần danh
mục các dân tộc thiểu số, nhóm tác giả đã xếp người Đan Lai, Ly Hà, Poọng là một
dân tộc, còn lại xếp vào dân tộc Mường [60, tr.39,245]. Trong cuốn Các dân tộc
nguồn gốc Nam Á ở miền Bắc Việt Nam [101] Vương Hoàng Tuyên cũng đồng quan
điểm khi cho rằng nhóm Đan Lai - Ly Hà là một nhánh của người Việt, bằng việc
đối chiếu từ vựng của một số tộc người, ông lại xếp người Tày Poọng vào nhóm
ngôn ngữ Môn - Khơ-me ở Bắc Trường Sơn [101, tr.159].
Mạc Đường là người đầu tiên nghiên cứu về người Thổ với tư cách là một
tộc người độc lập phân biệt với các tộc người trùng tên ở Bắc Việt Nam. Trong
cuốn sách mang tên Các dân tộc miền núi bắc Trung bộ: Sự phân bố dân cư và
những đặc trưng văn hoá [38], ông đã xác định dân tộc gọi là “Thổ” ở miền núi
Nghệ An thuộc nhóm ngôn ngữ “Việt miền núi”, hoàn toàn khác với nhóm người
sống ở Việt Bắc cũng được gọi là “Thổ” nhưng lại nói tiếng Tày. Mạc Đường đưa
ra những nhận định về nguồn gốc của người Thổ qua hệ thống các tên họ và gắn kết
với những biến động lịch sử của Đại Việt thời phong kiến, cố gắng phân tách các
nhóm địa phương của người Thổ như Thổ sông Con và Thổ Lâm la, đồng thời còn
nhắc đến sự tồn tại của các tộc Cuối, Đan Lai, Ly Hà, Tày Poọng [38, tr.31 - 34] mà
về sau đã được các nhà khoa học xếp chung vào dân tộc Thổ. Ông cũng nói về một
số đặc điểm kinh tế - văn hoá của một số nhóm địa phương người Thổ, nhưng trình
bày trộn lẫn với phần viết về các dân tộc khác cũng sinh sống ở khu vực miền núi
Bắc Trung Bộ, vì thế mà người đọc khó có thể nắm bắt được những đặc trưng văn
hóa nổi bật của các nhóm này.
Trong khoảng một thập kỷ từ sau cuốn sách của Mạc Đường ra đời, không có
một nghiên cứu nào về người Thổ được ghi nhận. Phải đến năm 1974, 1975, giữa

bối cảnh mà việc nghiên cứu xác minh thành phần dân tộc trong cả nước được đặt
ra như là một nhu cầu bức thiết, một số bài viết ngắn về các nhóm Thổ xoay quanh

11


về vấn đề kể trên mới được các học giả giới thiệu. Bài viết đầu tiên được đăng trên
Tạp chí Dân tộc học năm 1974, có tiêu đề là Bước đầu tìm hiểu về lịch sử phân bố
cư dân ở miền núi Nghệ An của Đặng Nghiêm Vạn [165], trong đó xác định các tộc
Tày Poọng, Đan Lai - Ly Hà và Cuối ở Tân Kỳ, Nghĩa Đàn là những cư dân đầu
tiên tại đây, có thể xếp vào cộng đồng dân tộc Thổ [165, tr.21 - 23]. Sang năm 1975
xuất hiện hai bài viết Vài nét về người Thổ ở Nghệ An của Thi Nhị và Trần Mạnh
Cát [74], Vài nét về ba nhóm Đan Lai - Ly Hà, Tày Poọng của Đặng Nghiêm Vạn
và Nguyễn Anh Ngọc [166], nội dung được trình bày trong cuốn Về vấn đề xác định
thành phần các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam do Viện Dân tộc học đứng
tên. Bằng những tư liệu điền dã thu thập được, các tác giả này đã chứng minh được
sự gần gũi về nguồn gốc, văn hóa vật chất và tinh thần của các nhóm Họ, Kẹo,
Mọn, Cuối, cũng như giữa các nhóm Đan Lai, Ly Hà, Tày Poọng với nhau. Dù nhận
thấy rằng nguồn gốc của các nhóm này không thật sự đồng nhất, họ vẫn đưa ra được
kết luận: người Thổ là “một cộng đồng người riêng biệt, một dân tộc” chứ không
phải là một nhóm nhỏ của người Kinh, người Mường [74, tr.445].
Đến các năm 1977, 1978, tình hình nghiên cứu đã có bước tiến triển mới khi
xuất hiện một số khóa luận tốt nghiệp đại học của Khoa Lịch sử, trường Đại học
Tổng hợp Hà Nội như Bước đầu tìm hiểu người Thổ ở huyện Như Xuân - tỉnh
Thanh Hóa) của Lê Văn Bé [7], Phong tục tập quán của người Đan Lai - Ly Hà
trước Cách mạng tháng Tám 1945 của Bùi Minh Đạo [28], Người Tày Poọng ở
Tương Dương, Nghệ Tĩnh trước Cách mạng tháng Tám của Đặng Văn Hường [50].
Điểm mới trong các công trình này là các tác giả đã bước đầu đưa ra được những tư
liệu tương đối chi tiết về kinh tế, phong tục tập quán truyền thống của các nhóm khác
nhau thuộc dân tộc Thổ.

Năm 1978, công trình Các dân tộc ít người ở Việt Nam - Các tỉnh phía Bắc
[170] ra đời và được tái bản có sửa chữa, bổ sung vào năm 2014 đã ghi nhận về tộc
danh và nêu các đặc điểm về văn hóa của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, trong đó
có người Thổ. Phần viết “Dân tộc Thổ” của Thi Nhị đã giới thiệu hàng loạt các khía
cạnh mang tính chất cơ bản về dân tộc này (bao gồm địa bàn phân bố, nguồn gốc,

12


hoạt động kinh tế, các loại hình vật chất - tinh thần, tổ chức xã hội, hôn nhân, gia
đình...). Các nhóm địa phương của người Thổ đã được tác giả thống nhất lại, ngoài
ra thì lần tái bản mới nhất của cuốn sách còn đề cập đến sự tồn tại của một bộ phận
người Thổ ở miền núi Thanh Hóa.
Có thể nói rằng từ cuối những năm 1980 của thế kỷ XX, việc nghiên cứu các
khía cạnh đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người Thổ mới bắt đầu được quan
tâm nhiều hơn.
Tiêu biểu là các công trình Dân tộc Thổ 40 năm dưới ánh sáng Cách mạng
của Đảng [88] của Trương Văn Sinh, gồm 26 trang in trong sách 40 năm một chặng
đường của Ban Dân tộc Nghệ Tĩnh đã giới thiệu về sự đổi thay và phát triển về
nhiều mặt của người Thổ ở miền núi Nghệ An kể từ sau Cách mạng tháng Tám
(1945) thành công. Bằng việc tổng hợp và phân tích tài liệu của các ban, ngành địa
phương, Trương Văn Sinh đã giới thiệu sự chuyển biến về quan hệ xã hội và quan
hệ sản xuất, những thành tựu trong nâng cao năng suất lao động, sự mở mang các
ngành nghề thủ công nghiệp và mạng lưới giao thông, phát triển đời sống, văn hóa,
giáo dục và bồi dưỡng cán bộ người Thổ. Tác giả còn bổ sung thêm những tư liệu
có giá trị về đặc điểm xã hội và văn hóa truyền thống của người Thổ [88, tr.194].
Tác giả Nguyễn Đình Lộc trong sách Các dân tộc thiểu số ở Nghệ An [62] đã
dành ra 14 trang trình bày về người Thổ. Trong đó đáng lưu ý là những nhận xét về
đặc điểm truyền thống của người Thổ: nền kinh tế sản xuất chỉ ở trình độ thấp, nền
văn hóa vật chất không có nét đặc sắc nhưng nền văn hóa tinh thần thì rất đa dạng,

văn học dân gian khá phong phú và đặc sắc, đồng bào có ý thức cố kết tộc người lại
rất cao và được biểu hiện rõ nét qua chế độ hôn nhân nội tộc.
Từ kết quả nghiên cứu tác giả cho rằng trình độ phát triển kinh tế - xã hội
giữa các nhóm người Thổ khá lớn, xuất phát từ việc “sống tách biệt với các tộc
người khác trong một điều kiện tự nhiên khắc nghiệt nên đã dẫn đến quá trình thoái
hóa tộc người rõ rệt” [62, tr.48].
Trong số các tác giả có đóng góp cho những hiểu biết về người Thổ, không thể
không kể đến các công trình do Ninh Viết Giao đứng tên. Những nghiên cứu của

13


ông có giá trị tham khảo cao trong việc so sánh văn hóa Thổ giữa các vùng, bởi vì
chúng chỉ bó hẹp trong những đơn vị hành chính, cụ thể như sau:
Tân Kỳ: truyền thống và làng xã [40], Ninh Viết Giao và Nguyễn Văn Tài đã
dành một chương nói về người Thổ (hơn 40 trang), trong đó có một số trang trình
bày đặc điểm xã hội và đặc điểm văn hóa.
Địa chí huyện Tương Dương [42], tác giả đã dành một chương ngắn (hơn 10
trang) để đề cập đến các nét cơ bản đời sống vật chất, phong tục tập quán và ngôn
ngữ của người Tày Poọng tại Tương Dương. Nội dung của chương này tuy không
có gì đặc sắc do chủ yếu là chắt lọc lại những tư liệu có từ trước đó, nhưng vẫn đảm
sự mô tả đầy đủ về đặc điểm của nhóm người này.
Địa chí huyện Quỳ Hợp [41] xuất bản cùng năm, tác giả đã dành một chương
dài (hơn 70 trang) để trình bày một cách khá toàn diện về người Thổ tại Quỳ Hợp,
có đầy đủ hết các khía cạnh mà những cuốn sách trước chưa đề cập đến. Đặc biệt
trong mục “Đặc điểm về mặt văn hóa vô thể”, vốn văn học - nghệ thuật dân gian
của người Thổ đã lần đầu được đề cập đến qua các sưu tầm về tục ngữ, đồng dao,
truyện kể và âm nhạc.
Bên cạnh những nghiên cứu tổng hợp đề cập đến những mặt khác nhau trong
văn hóa người Thổ, từ cuối những năm 1990 trở lại đây đã xuất hiện nhiều công

trình, bài viết phản ánh một vấn đề chuyên biệt của đời sống tộc người này như sau:
Về nghề truyền thống có bài viết Một số nghề thủ công truyền thống của
người Thổ [69] của Nguyễn Thị Thanh Nga, Nghề đan võng gai truyền thống của
đồng bào Thổ ở huyện Quỳ Hợp (Nghệ An) [66], khóa luận tốt nghiệp Đại học Văn
hóa Hà Nội, khoa Văn hóa dân tộc thiểu số của Tạ Thị Minh.
Về nhà ở, trang phục có bài viết: Nhà ở của người Đan Lai và Tày Poọng [91]
của Lý Hành Sơn, Mấy nét trang phục cổ truyền của đồng bào Thổ Nghệ An [96]
của Thái Tâm.
Về cưới xin - tang ma: gồm các bài viết Tang lễ của một số nhóm thuộc dân
tộc Thổ ở miền Tây Nghệ An [82] của Đặng Thanh Phương và Võ Mai Phương
(1998), Nghi thức tang ma của người Thổ [55] của Trịnh Thị Lan, Hôn lễ của người

14


Đan Lai [92] của Lý Hành Sơn, Lễ thức trong đám tang truyền thống ở dân tộc Thổ
[97] của Thái Tâm, Ngoài ra còn có khóa luận tốt nghiệp Đại học khoa Quản lý văn
hóa - nghệ thuật mang tên Tập quán cưới xin truyền thống người Đan Lai huyện
Con Cuông tỉnh Nghệ An và tác động đến phong trào xây dựng đời sống văn hóa
mới [10] của Lương Thị Bình.
Về lĩnh vực ngôn ngữ có Một số đặc điểm ngôn ngữ, văn hóa người Đan Lai ở
Nghệ An [3] của Lê Túc Ánh, Mối quan hệ giữa tiếng “Nguồn” với tiếng của các
nhóm địa phương thuộc dân tộc “Thổ” và Vấn đề dân tộc ‘Thổ’ xét từ góc độ ngôn
ngữ [47] của Nguyễn Hữu Hoành.
Từ năm 2010 trở lại đây, một số tác giả mới bắt đầu cho ra mắt những công
trình có tính chất chuyên khảo toàn diện về người Thổ. Trước hết là hai công trình:
Văn hóa vật chất người Thổ [77], Văn hóa dân gian người Thổ [78] của Lê Mai
Oanh. Cuốn sách đầu tập trung vào các đặc điểm văn hoá vật chất (hoạt động kinh
tế, hệ thống công cụ, giao thông đi lại và phương tiện vận chuyển, ăn uống, làng
bản và nhà ở, trang phục truyền thống) và thực trạng văn hoá vật chất. Trong khi

cuốn thứ hai tập trung làm rõ văn hóa xã hội, văn hóa tinh thần (quan hệ dòng họ,
gia đình và gia tộc; lễ hội, tập quán hôn nhân và tang ma, trò chơi dân gian) và đặc
biệt hơn cả là một tập hợp phong phú các tác phẩm văn học dân gian gồm truyện
(có 7 truyện), thơ ca (gồm ca dao, dân ca, tục ngữ, câu đố và hát nghi lễ), làn điệu
cổ (16 bài) và các hình thức sinh hoạt văn nghệ dân gian do tác giả sưu tầm. Đây là
hai công trình nghiên cứu, sưu tầm toàn diện nhất về người Thổ.
Cũng trong năm 2011, Văn hoá dân gian dân tộc Thổ làng Sẹt [102] của
Hoàng Minh Tường được xuất bản. Cuốn sách bước đầu giới thiệu về những đặc
điểm kinh tế, xã hội, văn hóa người Thổ ở một làng miền núi, nhưng còn sơ lược.
Năm 2015, nhóm tác giả Bùi Xuân Đính, Tạ Thị Tâm và Bùi Minh Thuận đã
hệ thống lại toàn bộ các nghiên cứu về người Thổ và trình bày trong 135 trang của
cuốn sách Các dân tộc ở Việt Nam, tập 1: Nhóm ngôn ngữ Việt Mường [36] do
Vương Xuân Tình chủ biên. Nhóm tác giả đã trình bày những đặc điểm kinh tế - xã
hội truyền thống của người Thổ nói chung và những biến đổi của chúng trong bối

15


cảnh hiện đại. Thông qua những con số cụ thể, nhóm tác giả đã đề cập đến tình hình
và tác động của sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi cũng như sự xuất hiện của
hiện tượng đi làm thuê, đi làm ăn xa nhà từ năm 1986 đến nay. Kết luận chung được
đưa ra là “đời sống kinh tế - xã hội của cộng đồng người Thổ ở Nghệ An đã có
nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, những chuyển biến đó không đồng đều giữa
các nhóm, các vùng”. Đối với lĩnh vực xã hội, các tác giả mô tả vấn đề theo 3 mục:
gia đình, dòng họ và làng bản.
Nhìn chung, những dẫn chứng sinh động được đưa ra cho thấy xã hội người
Thổ đã có sự tiến bộ hơn về nhiều mặt, nhưng cái “hồn” của nó cơ bản vẫn được
duy trì.
Những công trình có thể nói là gần gũi nhất với luận án này là ba luận văn
Thạc sĩ: Chuyển biến trong đời sống kinh tế - văn hóa của tộc người Đan Lai ở

huyện Con Cuông, Nghệ An (từ cuối thế kỷ XX đến năm 2008) [54] của Hoàng Kim
Khoa, Tìm hiểu đời sống kinh tế - văn hóa của dân tộc Thổ huyện Tân Kỳ - Nghệ An
từ năm 1975 đến năm 2007 [15] của Võ Duy Cường, Tái định cư và sự thay đổi đời
sống của nhóm Đan Lai (Thổ) ở vườn Quốc gia Pù Mát [117] của Bùi Minh Thuận.
Thành công lớn nhất của Hoàng Kim Khoa là đã chỉ ra sự chuyển biến tiến bộ trong
đời sống người Đan Lai ở Con Cuông. Do hạn chế về mặt phương pháp nên tác giả
mới trình bày tiến trình chuyển biến ở dạng mô tả theo trình tự thời gian, chưa giải
thích được nguyên nhân của những chuyển biến.
Trong khi đó, luận văn của Võ Duy Cường và Bùi Minh Thuận lại lấy di cư,
định canh định cư làm hướng tiếp cận, do đó trình bày rõ nét hơn về sự thay đổi của
phương thức mưu sinh và đời sống văn hóa - xã hội người Thổ dưới tác động của
những chính sách phát triển.
Riêng tác giả Bùi Minh Thuận sau đó đã công bố 2 bài tạp chí là Một số vấn
đề trong quá trình thực hiện tái định cư cho người Đan Lai ở xã Môn Sơn, huyện
Con Cuông, tỉnh Nghệ An [118] và Tái định cư và sự thay đổi phương thức mưu
sinh của người Đan Lai ở Tân Sơn và Cửa Rào, xã Môn Sơn, huyện Con Cuông,
tỉnh Nghệ An [119].

16


Liên quan đến nội dung của luận án còn có đề tài Tác động của yếu tố xã hội và
văn hóa đến an toàn lương thực của người Thổ, nghiên cứu tại xóm Kẻ Mui, xã Giai
Xuân, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An [44] của Trần Văn Hà chủ yếu trình bày về sự
cải thiện tình trạng thiếu lương thực nhờ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, việc đối phó
với tình trạng khan hiếm lương thực bằng sự giúp đỡ của dòng họ, phường/hội,
đồng thời nhấn mạnh vai trò của phụ nữ trong khắc phục tình trạng đói ăn của gia
đình [36, tr.490].
Nhìn chung, các nghiên cứu trên về người Thổ nói chung và người Thổ ở huyện
Như Xuân, tỉnh Thanh Hoa nói riêng tập trung vào hai nội dung chủ yếu, đó là: chỉ rõ

nguồn gốc tộc người, sự phân bố dân cư và khái quát một số nét trong bức tranh chung
về văn hoá tộc người. Đến nay, nghiên cứu hệ thống về sự biến đổi kinh tế - xã hội
người Thổ ở huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá vẫn còn thiếu vắng. Vì vậy, luận án này
góp thêm vào việc nhận thức, đánh giá vai trò tộc người trong sự phát triển chung của
đất nước.
1.2. Cơ sở lý thuyết
1.2.1. Các khái niệm cơ bản
Kinh tế là “tổng thể nói chung các hoạt động sản xuất và tái sản xuất của cải
vật chất cho con người và xã hội”; “có tác dụng mang lại hiệu quả tương đối lớn so
với sức người, sức của và thời gian bỏ ra tương đối không nhiều” [103, tr.680].
Xã hội là “hình thức sinh hoạt chung có tổ chức của loài người ở một trình độ
phát triển nhất định, được hình thành trong quá trình lịch sử” [103, tr.1452]. Đó là
một tập thể hay một nhóm những người được phân biệt với các nhóm người khác
bằng các lợi ích, mối quan hệ đặc trưng, chia sẻ cùng một thể chế và có cùng văn
hóa. Sử dụng từ xã hội để nói đến một nhóm người tạo dựng một hệ thống xã
hội một phần khép kín (hoặc một phần mở rộng), trong đó những người trong một
nhóm hầu hết tương tác với những người khác thuộc cùng nhóm đó.
Một xã hội được coi là một mạng lưới của những mối quan hệ của các thực thể.
Một xã hội cũng được coi là một cộng đồng với các cá nhân trong cộng đồng đó
phụ thuộc lẫn nhau.

17


Kinh tế - xã hội
Theo quan điểm của C. Mác “sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội
là một quá trình lịch sử tự nhiên” [12, tr.20]. Có nghĩa là sự vận động thay thế nhau
giữa các hình thái kinh tế - xã hội, trong các giai đoạn lịch sử, chính là quá trình lịch
sử tự nhiên của xã hội. Tức là, sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng một
hình thái kinh tế - xã hội khác luôn chịu tác động của các quy luật khách quan. Và,

xét đến cùng, lực lượng sản xuất chính là yếu tố quan trọng nhất, quyết định toàn bộ
quá trình vận động, biến đổi và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội như là
một quá trình lịch sử tự nhiên.
Trong quá trình vận động và phát triển này, quy luật về sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất có vai trò quyết định.
Quy luật này chỉ rõ khi lực lượng sản xuất thay đổi/phát triển, đến một mức độ nào
đó sẽ kéo theo sự biến đổi và phát triển của quan hệ sản xuất; kiến trúc thượng tầng
của xã hội. Lý thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác và Ph. Ăng-ghen cho
thấy có thể tìm nguyên nhân, cách lý giải về sự biến đổi của các tổ chức xã hội từ
những biến đổi trong đời sống kinh tế [87].
Truyền thống là những “thói quen hay có tính chất quen thuộc đã được hình
thành từ lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền từ thế hệ sang thế hệ khác”
[103, tr.135].
Biến đổi kinh tế: biến đổi kinh tế diễn ra ở hai phương diện là tăng trưởng kinh
tế và phát triển kinh tế. Biến đổi trong kinh tế được thể hiện ở cơ cấu, thành phần,
vùng kinh tế, chính sách và thể chế kinh tế.
Biến đổi xã hội: là một quá trình qua đó những khuôn mẫu của các hành vi xã
hội, các quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội và các hệ thống phân tầng xã hội được
thay đổi theo thời gian. Khái niệm này hiểu theo nghĩa rộng là một sự thay đổi so
sánh với một tình trạng xã hội hoặc một nếp sống có trước. Theo nghĩa hẹp, biến
đổi xã hội là sự biến đổi về cấu trúc (cơ cấu) của một hệ thống xã hội. Biến đổi xã
hội là một quá trình mà qua đó những khuôn mẫu của các hành vi xã hội, các quan
hệ xã hội, thiết chế xã hội và các hệ thống phân tầng xã hội thay đổi qua thời gian.

18


Đặc điểm nổi bật của biến đổi xã hội:
- Là một hiện tượng phổ biến nhưng nó diễn ra không giống nhau giữa các xã
hội. Nguyên nhân của hiện tượng này do các yếu tố trình độ khoa học kỹ thuật, văn

hóa chênh lệch tạo ra.
- Khác nhau về thời gian và hệ quả bởi vì có những biến đổi diễn ra trong cả
một giai đoạn, một thời kỳ, thậm chí qua nhiều thế hệ.
- Biến đổi xã hội có tính hai mặt của nó. Có những sự biến đổi do con người
tạo ra và mang lại sự tác động tích cực làm thay đổi xã hội nhưng mặt trái của nó
đôi khi con người không lường hết được hoặc không thể kiểm soát hết. Chẳng hạn,
xã hội công nghiệp kéo theo tình trạng ô nhiễm môi trường, thất nghiệp,...
1.2.2. Lý thuyết nghiên cứu
R.Inglehart với thuyết phát triển: chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa kinh
tế - chính trị - xã hội - văn hoá. Trong cuốn “Hiện đại hoá và hậu hiện đại hoá”
ông đã đặc biệt tập trung vào mối quan hệ kinh tế - văn hoá là mối quan hệ hữu
cơ, nó bổ sung cho nhau. R.Inglehart khẳng định: kinh tế, văn hoá, xã hội luôn
luôn diễn ra cùng nhau theo một mô hình chặt chẽ. Nghiên cứu sự biến đổi kinh
tế - xã hội của tộc người, phải nhận thức được sự biến đổi đó không phải là rời
rạc, riêng lẻ. Sự biến đổi giữa các mặt của đời sống xã hội, đó là sự biến đổi
mang tính biện chứng.
Nhìn một cách bao quát, khi áp dụng thuyết phát triển trong luận án này là tìm
ra quá trình vận động biến đổi trong sự phát triển ổn định và bền vững cộng đồng
người Thổ ở địa bàn nghiên cứu.
M.Syrquin với thuyết chuyển dịch cơ cấu: nhấn mạnh nhân tố để biến đổi kinh
tế truyền thống tộc người là vai trò tiên phong của chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật
nuôi. Chính sự chuyển dịch này mới tạo nên diện mạo mới cho kinh tế nông nghiệp.
Trên cơ sở vận dụng lý thuyết này, luận án đi sâu tìm hiểu quá trình chuyển đổi
cơ cấu kinh tế như là tiền đề của sự biến đổi ở người Thổ.
Thuyết chức năng - cấu trúc: các tác giả B.Malinowski, Radcliffe - Brown và
Talcott Parsons cho rằng, mỗi hiện tượng văn hoá hay xã hội đều được cấu thành

19



bởi những bộ phận hay yếu tố nhất định, trong đó mỗi bộ phận hay yếu tố đều phải
đảm bảo một hoặc nhiều chức năng. Các chức năng này phải luôn được đảm bảo
cho cấu trúc tổng thể không bị phá vỡ. Từ thuyết chức năng - cấu trúc cho thấy khi
nghiên cứu sự biến đổi kinh tế - xã hội của tộc người phải nhìn thấy được yếu tố
nền tảng, giá trị văn hoá bên trong được hiện hữu thông qua sự biến đổi.
Việc áp dụng thuyết chức năng trong luận án này nhằm mục đích đưa ra các
quy tắc và các giả thiết để tìm hiểu các cơ chế hành động nhằm tái tạo những cấu
trúc kinh tế - xã hội trong sự phát triển bền vững của cộng đồng được nghiên
cứu. Từ đó để thấy rõ sự biến đổi của các thiết chế xã hội ở người Thổ ở huyện Như
Xuân hiện nay.
Thuyết biến đổi xã hội: Học thuyết của August Comte chỉ ra khi nghiên cứu về
sự biến đổi kinh tế - xã hội phải tìm hiểu những nhân tố quyết định đến sự tồn tại và
phát triển của xã hội. Ông phân thành hai loại: Kinh tế, khí hậu, dân số... (không
quan trọng) và nhận thức, tư tưởng của con người (có ý nghĩa quyết định).
Theo ông cơ cấu xã hội phát triển từ thấp lên cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn
thiện. Cơ cấu xã hội tổng thể được tạo nên từ các tiểu cơ cấu và sự phát triển của xã
hội tất yếu sẽ làm cho tiểu cơ cấu xã hội được chức năng hóa, chuyên môn hóa.
Chẳng hạn: cơ cấu kinh tế gồm nhiều ngành: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ ...
Ông nghiên cứu cách liên kết hữu cơ các tiểu cơ cấu lại với nhau theo hai đường:
Một là, phải có vai trò của Nhà nước, thông qua quyền lực của Nhà nước để điều
hòa, điều phối nhằm liên kết các bộ phận lại không để nó tan rã. Hai là, phải dựa
vào các cá nhân để liên kết cộng đồng.
August Comte quan niệm về gia đình với hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ
hôn nhân và quan hệ huyết thống. Ông coi gia đình là một tế bào của xã hội, là đơn
vị xã hội cơ bản nhất, nó tham gia vào mọi đơn vị khác. Ông đã đi sâu nghiên cứu
gia đình, phân công lao động trong gia đình, quan hệ giữa các thành viên, đặc biệt là
quan hệ huyết thống.
Vận dụng lý thuyết này, luận án muốn hướng tới tìm hiểu sự phát triển của xã
hội ở cộng đồng người Thổ ở huyện Như Xuân từ truyền thống đến biến đổi hiện
nay, nhất là những biến đổi trên quy mô lớn (cộng đồng xã) đến quy mô nhỏ, cấp độ

gia đình, dòng họ.

20


1.3. Khái quát về địa bàn nghiên cứu
1.3.1. Xã Yên Lễ
- Điều kiện tự nhiên: phía tây giáp các xã Cát Tân và Hóa Quỳ, phía bắc giáp
xã Thượng Ninh, phía đông giáp xã Tân Bình và huyện Như Thanh, phía nam giáp
Thị trấn Yên Cát, xã Bình Lương. Yên Lễ thuộc vùng núi tiếp cận với đồng bằng
nên địa hình khá phức tạp và đa dạng với các con suối chia cắt địa hình tạo thành
những vùng riêng biệt, hình lòng chảo nghiêng theo ba hướng bắc, tây bắc và đông
nam. Tổng diện tích đất tự nhiên là 2.715,34 ha trong đó, đất cho sản xuất nông lâm
nghiệp chiếm 78,99%, đất phi nông nghiệp chiếm 11,17%, đất chưa sử dụng chiếm
0,2%. Nguồn nước mặt và nước ngầm dồi dào. Nhiệt độ trung bình năm là 230C,
lượng mưa là 1697mm, độ ẩm không khí là 84%. Là xã tiếp giáp với trung tâm
huyện lỵ, giúp cho việc vận chuyển hàng hóa giữa miền núi và miền xuôi dễ dàng,
thuận lợi. Với những điều kiện như vậy cho phép xã Yên Lễ tận dụng lợi thế để
phát triển kinh tế tổng hợp.
- Dân số và sự phân bố dân cư: dân số toàn xã có trên 5031 người, mật độ 167
người/km2, với các tộc người chủ yếu sinh sống như Thổ, Thái, Mường, Kinh trên
cả 12 thôn của xã Yên Lễ, trong đó tộc người Thổ chiếm 54%.
- Thực trạng kinh tế - xã hội: xã Yên Lễ có điều kiện phát triển kinh tế tổng
hợp cả nông - lâm - thủy sản, công nghiệp, xây dựng, thương mại và dịch vụ. Trong
những năm qua bức tranh kinh tế, xã hội của xã Yên Lễ đã có những thay đổi khá
rõ nét với tốc độ tăng trưởng cao từ 9 - 10%/năm theo chiều tăng tỷ trọng thương
mại, dịch vụ và giảm tỷ trọng nông - lâm nghiệp. Thu nhập bình quân đầu người
không ngừng được cải thiện, các chỉ số đánh giá mức độ phát triển xã hội như tỷ lệ
đói nghèo giảm, tăng dân số tự nhiên 1%/năm, trẻ bắt đầu đến trường đạt 100%,
tuổi thọ tăng… cho thấy tính ổn định, tiến bộ bên trong sự phát triển.

1.3.2. Xã Cát Tân
- Điều kiện tự nhiên: xã Cát Tân nằm ở phía tây bắc của huyện Như Xuân,
cách trung tâm huyện lỵ về phía đông khoảng 7km, có vị trí địa lý phía đông giáp
xã Yên Lễ, phía nam giáp xã Hóa Quỳ, phía tây giáp xã Cát Vân, phía bắc giáp xã

21


Thượng Ninh. Là xã có địa hình tương đối bằng phẳng, có độ cao trung bình từ
300m - 400m, độ dốc trung bình từ 15 - 200. Địa hình của xã theo hướng thấp dần
từ tây sang đông nên tạo ra những dải đất cao thấp xen kẽ nhau. Khí hậu tương đối
thuận lợi về lượng nhiệt, lượng mưa (tổng lượng mưa trong năm 1600 - 1800mm)
và độ ẩm không khí (trung bình trong năm 80% - 86%),… các yếu tố khí hậu thời
tiết nhìn chung thuận lợi cho hoạt động trồng trọt và chăn nuôi. Tổng diện tích đất
tự nhiên của xã là 1.655,11ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp 1.503,73 ha chiếm
90,85%; đất phi nông nghiệp 130,46 ha chiếm 7,88%; đất chưa sử dụng 20,92 ha
chiếm 1,26%. Tài nguyên nước ở đây có cả nước mặt và nước ngầm. Nước mặt có
diện tích 14,84 ha, bao gồm cả hệ thống sông suối, ao, hồ, kênh rạch và nước ngầm
có độ sâu 8 - 10m.
- Dân số và sự phân bố dân cư: dân số toàn xã là 2919 người và phân bố tương
đối đồng đều trên cả 8 thôn. Các tộc người sinh sống gồm Thái, Thổ, Mường, trong
đó tộc người Thổ chiếm số lượng đông nhất với 1282 người, chiếm 44%.
- Thực trạng kinh tế - xã hội: theo số liệu thống kê của xã Cát Tân, số người
trong độ tuổi lao động chiếm 59,28% (lao động nông nghiệp là chủ yếu). Với nguồn
lao động nông nghiệp dồi dào và nhờ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng
nên trong những năm qua tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn đạt mức hai con số trên
năm, theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ và giảm
dần tỷ trọng nông - lâm nghiệp trong cơ cấu ngành kinh tế. Sự phát triển kinh tế tạo
lực cho những tiến bộ về xã hội. Tỷ lệ học sinh đến trường ở các ngành học, bậc
học hàng năm đạt 100%, 2/3 trường học cho các cấp học đều đạt chuẩn Quốc gia

giai đoạn I, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm, tuổi thọ trung bình cao hơn, đời sống
văn hóa tinh thần vì thế cũng được cải thiện nhiều.
1.3.3. Xã Hóa Quỳ
- Điều kiện tự nhiên: Hoá Quỳ là xã miền núi nằm ở phía tây nam của huyện
Như Xuân, có vị trí địa lý phía nam giáp xã Xuân Quỳ và Xuân Hoà, phía tây giáp
xã Cát Vân, phía đông giáp xã Bình Lương, phía bắc giáp xã Yên Lễ. Địa hình
tương đối bằng phẳng về phía đông bắc nên thuận lợi cho sản xuất cây lúa nước.
Phía tây nam có nhiều đồi núi cao nên thuận lợi cho phát triển cây công nghiệp. Các

22


yếu tố khí hậu, thời tiết nhìn chung thuận lợi cho sinh trưởng phát triển cây trồng và
vật nuôi. Tổng diện tích đất tự nhiên của xã là 2.628,4 ha. Trong đó, diện tích đất
nông nghiệp 2.333 ha, chiếm 88,8%; diện tích đất phi nông nghiệp 290,4 ha, chiếm
11%; diện tích đất chưa sử dụng 5,1 ha, chiếm 0,2%. Tài nguyên nước gồm cả nước
mặt và nước ngầm phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân tương đối ổn định.
- Dân số và sự phân bố dân cư: dân số xã Hoá Quỳ hiện nay là 5339 người.
Dân cư phân bố tương đối đồng đều ở 13 thôn nhưng tập trung đông nhất dọc theo
tuyến đường Hồ Chí Minh và gần khu trung tâm xã. Trong đó, số lượng người Thổ là
1837 người, chiếm 34,4% dân số toàn xã.
- Thực trạng kinh tế - xã hội: sản xuất nông nghiệp trong những năm qua đã có
tốc độ tăng trưởng khá theo hướng giữ ổn định tỷ trọng trồng trọt, tăng tỷ trọng
chăn nuôi, lâm nghiệp. Cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng tích cực,
tuy nhiên tốc độ dịch chuyển còn rất chậm. Nhiều giống cây trồng, vật nuôi mới
được đưa vào sản xuất làm đa dạng hoá mặt hàng nông sản. Phong trào xây dựng
làng văn hoá, gia đình văn hoá, xây dựng nếp sống văn hoá mới ở khu dân cư đã
được xúc tiến mạnh, giảm thiểu những hủ tục lạc hậu trong các ngày cưới, tang lễ.
Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân từng bước được quan tâm, chất lượng
giáo dục và cơ sở vật chất phục vụ cho giáo dục có những thay đổi rõ rệt.

Toàn huyện Như Xuân có 11 xã thuộc diện xã đặc biệt khó khăn của chương
trình 135 giai đoạn II của Chính phủ. Hai xã Yên Lễ và Cát Tân là hai trong số ba
xã được chọn nghiên cứu nằm trong danh sách đó.
Tiểu kết Chương 1
Trên cơ sở tổng quan tình hình nghiên cứu về biến đổi kinh tế - xã hội, nghiên
cứu sinh nhận thấy các nghiên cứu kinh tế - xã hội ở Việt Nam nói chung, nghiên
cứu về người Thổ nói riêng đã có khá nhiều công trình được công bố dưới dạng
sách, bài tạp chí hoặc luận án, luận văn, đây là nguồn tư liệu quan trọng để nghiên
cứu sinh tham khảo cho luận án của mình; tuy nhiên, chưa có một nghiên cứu
chuyên sâu nào về biến đổi kinh tế - xã hội của người Thổ ở huyện Như Xuân, tỉnh
Thanh Hóa.

23


Nghiên cứu sinh đã hệ thống hóa cơ sở lý thuyết liên quan đến nội dung của
luận án như các khái niệm cơ bản và một số lý thuyết. Đồng thời nghiên cứu sinh đã
giới thiệu khái quát về địa bàn ba xã Yên Lễ, Cát Tân và Hóa Quỳ, đây là các xã có
số lượng người Thổ cư trú khá tập trung. Từ những nội dung của chương này sẽ là
tiền đề quan trọng cho các nghiên cứu ở các chương tiếp theo của luận án.

24


Chương 2
BIẾN ĐỔI VỀ KINH TẾ
2.1. Đặc điểm kinh tế truyền thống
2.1.1. Sở hữu, sử dụng đất đai và tài nguyên thiên nhiên
Từ sau Cách mạng tháng Tám (1945), đặc biệt từ sau cuộc cải cách ruộng đất
vào những năm 1953 - 1957, vấn đề “người cày có ruộng” đã được giải quyết triệt

để ở các vùng nông thôn miền Bắc, trong đó có người Thổ, chế độ sở hữu ruộng đất
được trao cho người nông dân. Tuy nhiên, việc sở hữu ruộng đất tư nhân chỉ tồn tại
trong một thời gian ngắn. Từ những năm 1960, thực hiện chủ trương hợp tác hóa
của Nhà nước, ruộng đất của hộ gia đình được tập thể hóa (cùng với tập thể hóa lao
động và một số tư liệu sản xuất khác). Sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể được
khuyến khích, còn sở hữu tư nhân giảm dần và không còn vai trò đáng kể trong đời
sống kinh tế - xã hội. Quyền sở hữu ruộng đất trên danh nghĩa là sở hữu toàn dân,
sở hữu tập thể do hợp tác xã quản lý, xã viên là người làm công cho hợp tác xã
(HTX). Bắt đầu từ năm 1961, người Thổ ở huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa hình
thành nên các HTX của mình. Ở xã Yên Lễ có các HTX Trung Thành, HTX Yên
Lợi; ở xã Hóa Quỳ có các HTX Đon, HTX Liên Hiệp… Nhìn chung, hình thức tập
thể hóa về cơ bản đã xóa bỏ các chủ thể kinh tế hộ nông dân. Hợp tác xã nông
nghiệp với sản xuất thủ công là chính, trình độ quản lý thấp kém đã tỏ ra kém hiệu
quả trong một thời gian dài. Chính điều này, làm cho sự phát triển kinh tế ở người
Thổ kém hiệu quả...
2.1.2. Kinh tế nông nghiệp truyền thống
2.1.2.1. Trồng trọt
- Canh tác ruộng nước
Người Thổ cũng như các tộc người khác trong nhóm Việt - Mường đã có
truyền thống lâu đời trong canh tác ruộng nước và họ đúc rút nhiều kinh nghiệm
trồng trọt quý giá. Vùng cảnh quan nơi người Thổ sinh sống được coi là ngã ba
đường giao thoa với nhiều luồng văn hóa. Trong đó lâu đời và quen thuộc nhất phải

25


×