Tải bản đầy đủ (.docx) (79 trang)

THỰC TRẠNG KỸ NĂNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM VẬT LÝ TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC ĐHQGHN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (722.62 KB, 79 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

Tên đề tài

THỰC TRẠNG KỸ NĂNG TỰ HỌC
CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM VẬT LÝ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC - ĐHQGHN

Nhóm sinh viên thực hiện:

Đặng Khánh Linh
Phùng Thị Thùy Linh
Phạm Thảo Ngân
Nguyễn Minh Thư
Lê Thị Sang

Lớp:

Qh2014 – S Vật lý

Giảng viên hướng dẫn:

TS. Lê Thái Hưng

Hà Nội, tháng 04 năm 2016


Mục lục

2




LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian dài nghiên cứu, cố gắng để học tập và làm việc một cách
nghiêm túc, chúng tơi đã hồn thành bài báo cáo khoa học này. Chúng tơi xin bày tỏ
lịng biết ơn đến những người đã giúp đỡ, bên cạnh chúng tôi suốt thời gian qua.
Để hoàn thành bài báo cáo khoa học này, chúng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc
tới thầy giáo TS. Lê Thái Hưng, giảng viên môn Phương pháp Nghiên cứu Khoa học
giáo dục, Trường Đại học Giáo Dục – Đại học Quốc gia Hà Nội, người đã tận tình
hướng dẫn, gợi ý và cho những lời khuyên hết sức bổ ích trong việc nghiên cứu và
hồn thành bài báo cáo khoa học này.
Chúng tôi cũng xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến các thầy, cô giáo và các
bạn sinh viên ngành sư phạm Vật lý Đại học Giáo dục – Đại học Quốc gia Hà Nội đã
giúp đỡ chúng tơi trong suốt q trình nghiên cứu và thu thập dữ liệu.
Trong quá trình nghiên cứu và thu thập dữ liệu, khó tránh khỏi sai sót, rất
mong thầy, cơ bỏ qua. Đồng thời do trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm còn hạn
chế nên báo cáo khó tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tơi rất mong nhận được ý kiến
đóng góp từ thầy, cơ và bạn đọc.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 30 tháng 12 năm 2015

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Viết đầy đủ
Đại học Giáo dục – Đại học Quốc gia Hà Nội
Điểm trung bình
Độ lệch chuẩn
Giảng viên
Kỹ năng

Sinh viên
3

Viết tắt
ĐHGD – ĐHQGHN
ĐTB
Độ LC
GV
KN
SV


Sư phạm vật lý

SPVL

4


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1.a. Số lượng khách thể (theo sinh viên khóa).
Bảng 2.1.b. Số lượng khách thể (theo giới tính).
Bảng 2.1.c. Số lượng khách thể (theo học lực).
Bảng 2.1.d. Phân chia các mức độ theo ĐTB.
Bảng 2.2. Thời gian mỗi ngày dành cho việc tự học ngoài lớp học của SV SPVL
Trường ĐHGD – ĐHQGHN.
Bảng 2.3 Mức độ ảnh hưởng của các KN tự học cụ thể ngoài lớp học đến kết quả học
tập.
Bảng 2.4. Mức độ ảnh hưởng của các KN tự học cụ thể ngoài lớp học đến kết quả học
tập của SV SPVL trường ĐHGD – ĐHQGHN.

Bảng 2.5. Thực trạng KN lập kế hoạch tự học ngoài lớp học của SV SPVL trường
ĐHGD – ĐHQGHN.
Bảng 2.6. Thực trạng KN đọc sách ngoài lớp học của SV SPVL trường ĐHGD –
ĐHQGHN.
Bảng 2.7. Thực trạng KN ghi chép ngoài lớp học của SV SPVL trường ĐHGD –
ĐHQGHN.
Bảng 2.8. Thực trạng KN ơn tập ngồi lớp học của SV SPVL trường ĐHGD –
ĐHQGHN.
Bảng 2.9. Thực trạng KN tự kiểm tra, đánh giá của SV SPVL trường ĐHGD –
ĐHQGHN.
Bảng 2.10. Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến thực trạng KN tự học ngoài lớp học
của SV SPVL trường ĐHGD – ĐHQGHN.
Bảng 2.11. Mẫu bản kế hoạch rèn luyện KN tự học.
DANH MỤC BIỂU
Biểu đồ 1: Tỉ lệ sinh viên theo khóa.
Biểu đồ 2: Tỉ lệ sinh viên theo giới tính.
Biểu đồ 3: Tỉ lệ sinh viên theo học lực.
5


6


MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề
Xã hội ngày càng phát triển đồng nghĩa với việc lượng kiến thức ngày càng gia
tăng. Vì vậy, hiện nay nhiều trường đại học đã chuyển đổi phương thức đào tạo từ biên
chế sang học chế tín chỉ. Đây là bước chuyển tất yếu khách quan của hệ thống giáo
dục đào tạo đại học của Việt Nam theo xu thế hội nhập khu vực và quốc tế. Tuy vậy,
mơ hình đào tạo này cịn khá mới mẻ ở nước ta. Chương trình đào tạo tín chỉ được

thiết kế theo hướng ngày càng tinh gọn. Số tiết truyền đạt trực tiếp trên lớp giảm còn
hai phần ba so với trước đây, trong khi yêu cầu đối với người học ngày càng cao. Bản
chất của phương pháp đào tạo này là phát huy tính tích cực chủ động của sinh viên,
trong đó tự học là yếu tố quyết định đến kết quả học tập của sinh viên, là hình thức học
tập khơng thể thiếu được của sinh viên đang học tập tại các trường đại học.
Việc dạy học trong nhà trường hiện nay không phải là cung cấp một khối lượng
tri thức hàn lâm mà là dạy cho người học phương pháp tiếp cận thông tin, phương
pháp tư duy để họ có thể tiếp tục học ngồi nhà trường, có thể tiếp tục học suốt đời. Để
nắm bắt tồn diện những kiến thức chun mơn ở bậc Đại học địi hỏi sinh viên phải
có nhiều nỗ lực trong hoạt động học tập, đặc biệt phải dành nhiều thời gian cho việc tự
học và tự nghiên cứu và cần có một phương pháp học đúng đắn, phù hợp và hiệu quả.
Trong đó phương pháp tự học đóng một vai trị vơ cùng quan trọng.
Tự học có vai trị ý nghĩa rất lớn, không chỉ trong giáo dục nhà trường mà cả
trong cuộc sống. Ngoài việc nâng cao kết quả học tập, tự học cịn tạo điều kiện hình
thành và rèn luyện khả năng hoạt động độc lập, sáng tạo của mỗi người, trên cơ sở đó
tạo điều kiện và cơ hội học tập suốt đời. Tự học là nhu cầu, một năng lực cần có của
mọi người trong thời đại ngày nay.
Với sứ mạng là những giáo viên tương lai, sinh viên sư phạm càng phải phát
huy tối đa bản chất tự học, khơng chỉ để hồn thành nhiệm vụ học tập trên ghế giảng
đường mà còn phải tự học trong suốt những năm giảng dạy của cuộc đời. Tuy vậy, khi
làm quen với mơ hình học tập mới này, rất nhiều sinh viên nói chung và sinh viên
trường ĐHGD – ĐHQGHN nói riêng vẫn chưa trang bị cho mình những kĩ năng cần
thiết và phương pháp học tập đúng đắn, dẫn đến kết quả học tập không được như ý
muốn. Đặc biệt là những sinh viên của trường được đào tạo theo mơ hình 3+1 và 4+1.
Mơ hình này đang được áp dụng đối với các sinh viên sư phạm trường Đại học Giáo
dục. Sinh viên sẽ có thời gian 3 năm học tại các trường thành viên của Đại học Quốc
gia Hà Nội. Tại đây, sinh viên sẽ được đào tạo theo các ngành khoa học khác nhau. Mà
các ngành khoa học lại địi hỏi sự tìm tịi, sáng tạo, phát hiện những cái mới.
Vì vậy, kĩ năng tự học là rất cần thiết đối với sinh viên sư phạm trường ĐHGD.
Hơn thế nữa đến năm thứ tư, sinh viên sẽ được rèn luyện về kĩ năng sư phạm thông

7


qua việc đi kiến tập, thực tập. Điều này yêu cầu sinh viên phải có kĩ năng tự học để
tiếp thu các kiến thức cần thiết cũng như tự rèn luyện các kĩ năng khác. Xuấtphát từ
những lý do trên, nhóm chúng tơi lựa chọn đề tài:“Thực trạng kỹ năng tự hoc của
sinh viên sư phạm Vật lý – Trường ĐHGD – ĐHQGHN” nhằm tìm hiểu về thực
trạng kỹ năng tự học của sinh viên trường ĐHGD - ĐHQGHN, từ đó đề xuất một số
giải pháp giúp sinh viên có phương pháp học tập một cách hiệu quả nhất.
1.2 Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu về thực trạng cũng như những khó
khăn gặp phải của sinh viên trường ĐHGD – ĐHQGHN trong việc tự học, từ đó đề
xuất một số giải pháp giúp sinh viên có phương pháp tự học một cách hiệu quả nhất.
1.3 Giới hạn nghiên cứu của đề tài
Hoạt động tự học của sinh viên sư phạm Vật lý trường ĐHGD – ĐHQGHN.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
2.1.2 Câu hỏi nghiên cứu
Thực trạng khả năng tự học của SV SPVL trường ĐHGD - ĐHQGHN như thế
nào? Tại sao lại có thực trạng đó?
2.2.2 Giả thuyết nghiên cứu
Sinh viên sư phạm vật lý trường ĐHGD – ĐHQGHN có nhận thức đúng đắn về
tầm quan trọng của việc tự học trong phương thức đào tạo tín chỉ nhưng chưa có kĩ
năng, phương pháp tự học hiệu quả, mức độ tự học còn chưa tốt. Chúng tôi cho rằng
nguyên nhân của thực trạng chủ yếu là do các yếu tố từ bản thân sinh viên và một số
các yếu tố khác. Nếu áp dụng các phương pháp nhằm nâng cao kĩ năng tự học, sinh
viên có thể tích cực, chủ động tự học hiệu quả và đạt kết quả cao.
2.2 Khách thể và đối tượng nghiên cứu
2.2.1 Khách thể nghiên cứu

SV SPVL khóa 58, 59 trường ĐHGD – ĐHQGHN.
2.2.2 Đối tượng nghiên cứu
8


Thực trạng kỹ năng tự học của sinh viên SPVL trường ĐHGH – ĐHQGHN.
2.3 Phương pháp tiếp cận nghiên cứu
2.3.1 Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa tài liệu để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
2.3.2 Phương pháp nghiên cứu điều tra
Mục tiêu điều tra: khảo sát thực trạng KN tự học ngoài lớp học của SV SPVL
trường ĐHGD – ĐHQGHN.
Đối tượng khảo sát: SV SPVL khóa 58, 59trường ĐHGD – ĐHQGHN.
Cơng cụ điều tra: Thiết kế và phát bảng hỏi để thu thập thơng tin, số liệu.
2.3.3 Phương pháp xử lí thơng tin
Xử lí số liệu bằng phương pháp thống kê toán học.
Sử dụng các phần mềm tin học: excel và SPSS.
2.4 Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: chỉ khảo sát thực trạng và đề xuất một số biện pháp (không thử
nghiệm hiệu quả các biện pháp này) để nâng cao KN tự học ngoài lớp học của SV
SPVL Trường ĐHGD – ĐHQGHN.
Về đối tượng khảo sát: Phát bảng hỏi khảo sát vớisinh viên SPVL khóa 58, 59,
60 trường ĐHGD – ĐHQGHN.
2.5 Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về khả năng tự học ngoài giờ lên lớp dành cho sinh
viên.
Khảo sát thực trạng khả năng tự học của SV SPVL trường ĐHGD – ĐHQGHN.
Đề xuất một số biện pháp để nâng cao khả năng tự học của SV SPVL trường
ĐHGD – ĐHQGHN.


9


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

1.1.1 Lịch sử nghiên cứu ngoài nước
H. N. Casson đã viết trong cuốn Efficiency for all (Khoa Hiệu năng cho mọi
người): “Số vốn đặt vào bất kỳ công việc nào cũng không lợi bằng đặt vào sự mua
những sách hữu ích. Mua sách có khi lời cho tới 1000 phần 100 hoặc hơn nữa. Muốn
tiết kiệm về món gì thì tiết kiệm, khơng thể tiết kiệm về tiền mua sách được”.Chỗ
khác, ông quả quyết: “Những nhà triệu phú đều là những người được đọc nhiều. Hỏi
họ, họ sẽ đáp rằng đọc sách là một trong những ngun nhân thành cơng của họ”.
Trong khi đó, ở Hi Lạp, Socrate đã đưa ra quan niệm rất nổi tiếng: Giáo dục
phải giúp con người tự khẳng định chính mình. Vì thế, trong dạy học, ơng đã đề xuất
và thực hiện triệt để một phương pháp dạy học rất tiến bộ lúc bấy giờ, đó là hỏi – đáp.
Người thầy sẽ đặt những câu hỏi gợi ý để dẫn dắt học trò đến với chân lý. [11]
Đến thế kỷ 17, nhà sư phạm vĩ đại J.A. Comenski (1592-1670) đã đưa ra rất nhiều tư
tưởng giáo dục tiến bộ, tạo nên bước ngoặt lịch sử cho nền giáo dục thế giới, trong đó
quan điểm về dạy học trực quan tức phải cho người học tiếp xúc trực tiếp với sự vật,
hiện tượng đã tiếp cận rất gần với tư tưởng "lấy người học làm trung tâm" tức yêu cầu
dạy học phải phát huy tính tích cực nhận thức của người học dưới sự hướng dẫn của
giáo viên. [8] [11]
Tiếp nối Comenski, ở thế kỷ 18, 19, nhà giáo dục Pestalozzy (1746- 1827) đã
được mệnh danh là người đặt nền móng cho việc tạo ra mơi trường tự học cho mọi
người. Ông chủ trương nhà trường phải áp dụng một hệ thống đặc biệt không chỉ
truyền thụ cho học sinh những kiến thức đã được đời trước tích luỹ mà phải giúp các

em trở thành những người tự do ý chí, có khả năng hồ nhập xã hội và là những cá
nhân độc lập, tự chủ. [8]
Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, bằng những nghiên cứu khoa học, bài bản của
mình, nhà giáo dục người Nga A.K. Krupskaya (1869- 1939) đã đưa ra nhiều cải cách
giáo dục có ý nghĩa quan trọng với nền giáo dục Xô Viết, trong đó, bà kêu gọi mọi
người khơng ngừng học tập qua việc tự giáo dục, luôn làm giàu cả kiến thức chung và
kiến thức chuyên môn trong suốt cuộc đời. Trong nhiều bài báo, Krupskaya đã trình

10


bày về nội dung, hình thức và các phương pháp hoặc sự hỗ trợ nhiều mặt dành cho
người tự học. [8] [11]
Vào những năm đầu của thế kỷ XX, trên cơ sở phát triển mạnh mẽ của tâm lý
học hành vi, tâm lý học phát sinh, nhiều phương pháp dạy học mới ra đời: “Phương
pháp lạc quan”, “Phương pháp trọng tâm tri thức”, “Phương pháp montessori”…Các
phương pháp dạy học này đã khẳng định vai trò quyết định của học sinh trong học tập.
Các nhà giáo dục học ở Mỹ và Tây Âu ở thời kỳ này đã đều thống nhất khẳng
định vai trị của người học trong q trình dạy học, song bên cạnh đó cũng khẳng định
vai trị rất quan trọng của người thầy và các phương pháp, phương tiện dạy học. Khái
niệm người học trong giai đoạn này cũng khơng cịn được quan niệm cá thể hóa cực
đoan như trước đây, tuy nó vẫn được chú ý. Theo J.Dewey: “ Học sinh là mặt trời,
xung quanh nó quy tụ mọi phương tiện giáo dục”. Tư tưởng “lấy học sinh làm trung
tâm” đã được cụ thể hóa thành nhiều phương pháp cụ thể như: “Phương pháp hợp tác”
(cooperative methods), “Phương pháp tích cực” (active methods), “Phương pháp cá
thể hóa”, “Phương pháp nêu vấn đề”, … trong đó “Phương pháp tích cực” được
nghiên cứu triển khai rộng hơn cả. Theo phương pháp này, giáo viên đóng vai trị gợi
sự chú ý kích thích, thúc đẩy học sinhtự hoạt động.
Vì thế, người học đóng vai trị trung tâm của q trình dạy học, còn người dạy
là chuyên gia của việc học. Nhìn chung tư tưởng “lấy học sinh là trung tâm trong q

trình dạy học nói riêng và giáo dục nói chung địi hỏi có sự phối hợp của nhiều phương
pháp, trong đó “Phương pháp tích cực” là chủ đạo mang tính nguyên tắc. Đây chính là
cơ sở để đưa ra những biện pháp bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh, sinh viên.
Đồng tình với quan điểm trên, các nhà giáo dục Xơ Viết đã khẳng định vai trị tiềm
năng to lớn của hoạt động tự học trong giáo dục nhà trường. Đặc biệt, nhiều tác giả
còn nghiên cứu sâu sắc cách thức nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tự học của người
học, trong đó nêu lên những biện pháp tổ chức hoạt động độc lập nhận thức của học
sinh trong quá trình dạy học.
Các nghiên cứu cho thấy sinh viên gần như đạt được các kết quả mong muốn và
họ cảm thấy thỏa mãn với nền giáo dục mà họ nhận được khi họ được học một cách
tích cực, được tham gia chủ động với đa dạng các hoạt động học tập. Học tập chủ động
giúp sinh viên có được cách tiếp cận sâu trong q trình học. Cách tiếp cận sâu có
nghĩa là sinh viên chủ tâm để tìm hiểu các khái niệm, thay vì đơn thuần chỉ tái thể hiện
thông tin trong các bài thi. [1]
1.1.2

Lịch sử nghiên cứu trong nước
11


Vấn đề tự học ở Việt Nam cũng được chú ý từ lâu. Ngay từ thời kỳ phong kiến,
giáo dục chưa phát triển nhưng đất nước vẫn có nhiều nhân tài kiệt xuất. Những nhân
tài đó, bên cạnh yếu tố được những ơng đồ tài giỏi dạy dỗ, thì yếu tố quyết định đều là
tự học của bản thân. Cũng chính vì vậy mà người ta coi trọng việc tự học, nêu cao
những tấm gương tự học thành tài. Nhưng nhìn chung, lối giáo dục cịn rất hạn chế
“người học tìm thấy sự bắt chước, đúng mà khơng cần độc đáo, người học học thuộc
lòng …”
Đến thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, mặc dù nền giáo dục Âu Mỹ rất phát triển
nhưng nền giáo dục nước ta vẫn chậm đổi mới. Vấn đề tự học không được nghiên cứu
và phổ biến, song thực tiễn lại xuất hiện nhu cầu tự học rất cao trong nhiều tầng lớp xã

hội. Vấn đề tự học thực sự được phát động nghiên cứu nghiêm túc, rộng rãi từ khi nền
giáo dục cách mạng ra đời (1945), mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là người khởi xướng
vừa nêu tấm gương về tinh thần và phương pháp dạy học. Người từng nói: “Về cách
học phải lấy tự học làm cốt”. [5, tr.273] Có thể nói tự học là một tư tưởng lớn của Hồ
Chí Minh, về phương pháp học tập.
Từ những năm 60 của thế kỷ XX, tư tưởng về tự học đã được nhiều tác giả trình
bày trực tiếp và gián tiếp trong các cơng trình tâm lý học, giáo dục học học, phương
pháp dạy học bộ môn.
Từ những năm 1960, nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê đã xuất bản cuốn sách
"Tự học để thành công" (sau đổi tựa thành “Tự học, một nhu cầu của thời đại”) bàn
luận sâu sắc, thấu đáo về ý nghĩa của việc tự học và làm thế nào để tự học tốt, đồng
thời khẳng định không tự học thì con người khơng thể thành cơng. [6]
GS.TSKH Nguyễn Cảnh Toàn từ một giáo viên trung học (1947), chỉ bằng con
đường tự học, tự nghiên cứu ông đã trở thành nhà tốn học nổi tiếng. Khơng chỉ
nghiên cứu khoa học cơ bản, ơng cịn có nhiều cơng trình, bài viết về khoa học giáo
dục, về vấn đề tự học. Ông cho rằng: “Học bao giờ cũng gắn với tự học, tự rèn luyện
để biến đổi nhân cách của mình. Người dạy giỏi là người dạy cho học sinh biết cách tự
học, tự nghiên cứu, tự giáo dục”. [3]
Chúng ta có thể tham khảo bài viết của Nguyễn Nghĩa Dán “Vì năng lực tự học
sáng tạo của học sinh” [10]; hay Giáo sư Cao Xuân Hạo đã có những phân tích thấu
đáo và ý kiến sâu sắc trong bài “Bàn về chuyện tự học”. [4] Và giáo viên ở các trường
đại học cũng có những nghiên cứu để giúp dần đưa việc tự học thành một hoạt động
không thể thiếu trong quá trình dạy và học hiện nay: Diệp Thị Thanh, trường Đại học
Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng với bài “Phương pháp Tự học – Cầu nối giữa học tập và
Nghiên cứu Khoa học”.
12


1.2


Các khái niệm
1.2.1 Kỹ năng
Có nhiều quan niệm khác nhau về KN:
- Theo từ điển tiếng Việt: KN là khả năng vận dụng những kiến thức trong một lĩnh
vực nào đó vào thực tế.[9]
- Theo Từ điển Nghề nghiệp của Bộ Lao động Mỹ, KN được định nghĩa như là khả
năng thực hiện thành thạo một hành động. KN có thể đạt được thông qua giáo dục,
thông qua trải nghiệm cơng việc và đào tạo nghề, hoặc có thể là kết quả của khảnăng
mà con người có được qua nhiều năm.
- Cần thiết phải phân biệt kỹ năng với một số thứ có vẻ giống kỹ năng.
1) Sự khác nhau giữa kỹ năng và phản xạ: Phản xạ là phản ứng của cơ thể với mơi
trường mang tính thụ động. Kỹ năng ngược lại là phản ứng có ý thức và hồn tồn
mang tính chủ động. Ví dụ: Cùng là đám cháy, nếu theo phản xạ thì con người có xu
hướng bỏ chạy khỏi đám cháy, nhưng nếu là lính chữa cháy, đã được rèn luyện kỹ
năng đấu tranh với lửa thì anh ta lại chạy lại đám cháy và dùng các kỹ năng để dập lửa.
2) Sự khác nhau giữa kỹ năng và thói quen: Hầu hết các thói quen hình thành một cách
vơ thức và khó kiểm sốt. Trong khi đó kỹ năng được hình thành một cách có ý thức
do q trình.
3) Kỹ năng rất khác với kiến thức: Thậm chí có một số người cịn nhầm lẫn kiến thức
là kỹ năng cứn. Kiến thức là biết, là hiểu nhưng chưa bao giờ làm, thậm chí khơng bao
giờ làm. Trong khi đó kỹ năng lại là hành động thuần thục trên nền tảng kiến thức.Vì
khơng tác động vào thực tại khách quan nên kiến thức thường ít tạo ra những thành
quả cụ thể cho cuộc đời. Bạn có thể thấy rất nhiều những giáo viên suốt đời dậy về lý
thuyết kinh tế và không tham gia làm kinh doanh nên cho dù họ có hiểu rõ về nguyên
lý của thị trường đến mấy nhưng bản thân họ cũng không làm ra nhiều tiền. Nhiều học
giả cho rằng chỉ có kiến thức sng thì chưa đủ. Nói một cách khác kỹ năng chính là
sức mạnh.
- Sự hình thành của KN: Bất cứ một KN nào được hình thành thì đều phụ thuộc vào
khát khao, quyết tâm, năng lực tiếp nhận của chủ thể, cách luyện tập, tính phức tạp của
chính KN đó. Dù hình thành nhanh hay chậm thì KN cũng đều trải qua những bước

sau đây:
+ Hình thành mục đích. Lúc này thường thì chủ thể tự mình trả lời câu hỏi “Tại sao tơi
phải sở hữu kỹ năng đó?”; “Sở hữu kỹ năng đó tơi có lợi gì?”…
13


+ Lên kế hoạch để có kỹ năng đó. Thường cũng là tự làm. Cũng có những kế hoạch
chi tiết và cũng có những kế hoạch đơn giản như là “ngày mai tơi bắt đầu luyện kỹ
năng đó”.
+ Cập nhật kiến thức / lý thuyết liên quan đến kỹ năng đó. Thơng qua tài liệu, báo chí
hoặc buổi thuyết trình nào đó. Phần lớn thì những kiến thức này chúng ta được học từ
trường và từ thày của mình.
+ Luyện tập kỹ năng. Bạn có thể luyện tập ngay trong cơng việc, luyện với thày hoặc
tự mình luyện tập.
+ Ứng dụng và hiệu chỉnh. Để sở hữu thực sự một kỹ năng chúng ta phải ứng dụng nó
trong cuộc sống và cơng việc. Cơng việc và cuộc sống thì biến động khơng ngừng nên
việc hiệu chỉnh là q trình diễn ra thường xuyên nhằm hướng tới việc hoàn thiện kỹ
năng của chúng ta. Một khi bạn hồn thiện kỹ năngthì cũng có nghĩa là bạn đang hồn
thiện bản thân mình.
1.2.2

Tự học
Theo Từ điển Giáo dục học “Tự học là quá trình tự mình lĩnh hội tri thức khoa
học và rèn luyện KN thực hành khơng có sự hướng dẫn của giáo viên và sự quản lý
trực tiếp của cơ sở giáo dục đào tạo”. [2]
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về tự học. Theo quan niệm về tự
học. Người cho rằng: “Tự học là cách học tự động” và “phải biết tự động học tập”
Theo người “tự động học tập” tức là tự học một cách hồn tồn tự giác, tự chủ khơng
đợi ai nhắc nhở, khơng chờ ai giao nhiệm vụ mà tự mình chủ động vạch kế hoạch học
tập cho mình, rồi tự mình triển khai, thực hiện kế hoạch đó một cách tự giác, tự mình

làm chủ được thời gian để học và tự mình kiểm tra đánh giá được việc học của mình”.
Tác giả Nguyễn Kỳ cũng bàn về khái niệm tự học: Tự học là hoạt động trong đó
người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra tri thức kinh nghiệm bằng hành động của
mình, tự thể hiện mình. Tự học là người học tự đặt mình vào tình huống học, vào vị trí
nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải quyết các vấn đề, thử nghiệm các giải pháp…
[5]
Nhìn chung các tác giả đều quan niệm tự học là sự nỗ lực của mỗi cá nhân
nhằm đạt đến mục đích nào đó trên con đường chiếm lĩnh tri thức của nhân loại. Sự nỗ
lực đó bao gồm cả tư duy trí tuệ, động cơ tâm lý, ý thức, thái độ, tình cảm. Tự học là
q trình mà trong đó chủ thể người học với sự độc lập, tích cực và tự giác ở mức độ
cao tự biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị của mình bằng các thao tác trí tuệ hoặc
các hoạt động khác cùng với nghị lực và sự say mê học hỏi của bản thân.
14


Từ những định nghĩa như trên về tự học chúng ta đều nhận thấy điểm chung của
tự học là sự tự giác, chủ động và độc lập của người học trong quá trĩnh lĩnh hội tri
thức. Bản chất của tự học là quá trình chủ thể người học cá nhân hóa việc học nhằm
thỏa mãn các nhu cầu học tập, tự giác tiến hành các hành động học tập như: phân tích,
so sánh, tổng hợp, khái quát, giao tiếp, thực hành, kiểm tra, đánh giá… để thực hiện có
hiệu quả mục đích và nhiệm vụ học tập đề ra. Tự học của SV đại học mang đầy đủ các
đặc điểm của tự học nói chung nhưng cũng phản ánh đặc trưng riêng của hoạt động
học tập ở đại học là tính tự chủ cao và tính nghiên cứu vừa sức.
Có hai dạng tự học của sinh viên:
Dạng 1: Tự học có hướng dẫn trực tiếp của GV (chủ yếu ở trên lớp), GV sẽ giao các
nhiệm vụ tự học, yêu cầu và hướng dẫn HS cách tự học để hoàn thành các nhiệm vụ.
Dạng 2: Tự học khơng có hướng dẫn trực tiếp của GV (chủ yếu diễn ra ở ngồi lớp
học), GV có thể giao nhiệm vụ hoặc có thể chính SV tự thiết kế các nhiệm vụ học tập
cho chính mình và sau đó SV tự tìm tịi các phương pháp để hoàn thành.
Kết hợp các khái niệm về KN và tự học trên, nhóm nghiên cứu đã đưa ra khái

niệm KN tự học như sau: KN tự học là khả năng thực hiện thành thục và có kết quả
các thao tác, hành động tự học trên cơ sở vận dụng những tri thức tích luỹ được về
hoạt động và KN tự học.
Với khái niệm này, nhóm nghiên cứu nhấn mạnh để có KN tự học tốt địi hỏi
người học phải sở hữu cả tri thức về KN tự học, khơng chỉ là sự thành thục mang tính
máy móc các thao tác, kỹ thuật tự học, đồng thời cũng khẳng định KN tự học hồn
tồn có thể rèn luyện được.
Các KN tự học ngoài lớp học trong đề tài nghiên cứu này phản ánh mức độ 2
của tự học, và được hiểu là các KN tự học mà SV tự giác, chủ động thực hiện để hoàn
tất các nhiệm vụ học tập ngoài lớp học.
1.3

Kỹ năng tự học ngồi lớp của SV sư phạm
1.3.1 Vai trị của kỹ năng tự học
* Lập kế hoạch
• Lập kế hoạch nêu lên mục tiêu, cách thức đạt được cho mục tiêu đó.
• Lập kế hoạch giúp bạn có thể gắn mục tiêu với thời gian cụ thể.
• Lập kế hoạch sẽ thiết lập được những tiêu chuẩn tạo điều kiện cho bạn kiểm tra
tiến độ và có thêm động lực hơn để hồn thành cơng việc.

15


Lập kế hoạch có ý nghĩa rất lớn. Nếu chúng ta khơng biết tự lập kế hoạch cho
bản thân mình thì chúng ta khơng thể xác định được rõ mục tiêu của chúng ta cần đạt
tới là gì? Với năng lực của mình thì chúng ta cần phải làm gì để đạt được mục tiêu đó.
Khơng có kế hoạch chúng ta sẽ không biết phân chia thời gian hợp lý, mà để nó trơi đi
một cách vơ ích và thực hiện một cách thụ động trước sự thay đổi của môi trường
xung quanh.
* Thực hiện kế hoạch.

Thực hiện kế hoạch có vai trị quyết định tới sự thành bại của việc tự học. Việc
định hướng và thiết lập kế hoạch có tốt đến mấy nhưng khơng được thực hiện bài bản,
khoa học thì sẽ khơng đem lại kết quả như mong muốn.
* Tự kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm
Khi người học tự đánh giá được kết quả học tập của mình, người học sẽ tự đánh
giá được năng lực học tập của bản thân, hiểu được cái gì mình làm được, cái gì mình
chưa làm được để từ đó có hướng phát huy hoặc khắc phục.
* Vai trị của tự học đối với việc đào tạo theo tín chỉ.
Bản chất của đào tạo theo hệ thống tín chỉ là cá thể hóa việc học tập trong một
nền giáo dục đại học cho số đông. Các triết lý làm nền tảng cho đào tạo theo tín chỉ là
“giáo dục hướng về người học” và “giáo dục đại học đại chúng”. Các triết lý này được
vận dụng nhuần nhuyễn trong nền giáo dục đại học của Hoa Kỳ, nơi sinh ra hệ thống
đào tạo theo tín chỉ. Nó ra đời đầu tiên ở đại học Havard cuối thế kỷ XIX. Các đặc
điểm quan trọng của đào tạo theo hệ thống tín chỉ quy định phương pháp dạy - học và
đánh giá thành quả học tập. Do mục tiêu cá thể hóa việc học tập, đào tạo theo tín chỉ
có đặc điểm quan trọng nhất là làm cho mỗi người học có thể học theo năng lực và
điều kiện của riêng mình. Ðặc điểm này buộc người học phải sử dụng, khai thác và
phát huy được tính chủ động tự học củamình, và việc học như thế đồng thời giúp
người học biết cách học để tự học – tự hoàn thiện kiến thức, hay nói cách khác việc tự
học là yếu tố quyết định sự thành cơng của q trình học đại học.
1.3.2

Hệ thống kỹ năng tự học
Trước đây, đã có nhiều nghiên cứu về KN tự học của sinh viên. Mỗi tác giả lại
có nhiều cách phân chia và gọi tên các KN tự học khác nhau.
Trong “Vấn đề kỹ năng và kỹ năng học tập” các tác giả Nguyễn Quang Uẩn Trần Quốc, KN tự học có thể được phân thành 4 nhóm, đó là nhóm KN định hướng,
nhóm KN thiết kế (lập kế hoạch), nhóm KN thực hiện kế hoạch và nhóm KN kiểm tra,
đánh giá, rút kinh nghiệm.
16



Tác giả Nguyễn Thị Xuân Thuỷ trong bài viết “Rèn luyện KN tự học cho SV
đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ", các KN tự học cần thiết cho SV là: KN
xây dựng kế hoạch tự học; KN đọc giáo trình, tài liệu tham khảo; KN chọn lọc, sử
dụng vốn kiến thức cũ để học kiến thức mới
Tác giả Trần Thị Minh Hằng trong “Tự học và yếu tố tâm lýcơbản trong tự học
của sinh viên sư phạm” đã phân chia các KN tự học thành 3 nhóm: nhóm KN định
hướng, nhóm KN thực hiện kế hoạc tự học, nhóm KN tự kiểm tra – đánh giá.
Dựa trên cơ sở các nghiên cứu trước, nhóm nghiên cứu của chúng tôi đã thống
nhất và đưa ra cách phân chia KN tự học khác, cụ thể, KN tự học bao gồm 3 nhóm
chính: KN lập kế hoạch tự học; KN thực hiện kế hoạch (bao gồm các KN: ghi chép, ôn
tập và đọc sách – nghiên cứu tài liệu) và KN tự kiểm tra, đánh giá hoạt động tự học.
1.3.3 Một số kỹ năng tự học ngoài lớp của sinh viên sư phạm
1.3.3.1 Kỹ năng lập kế hoạch tự học

Đây là KN cần có đầu tiên của KN tự học. Không chỉ riêng việc học, mà khi
làm bất cứ việc gì, muốn đạt hiệu quả cao trong cơng việc, chúng ta cần phải xác định
rõ mục đích và mục tiêu của cơng việc. Vì vậy, để việc tự học thật sự có hiệu quả thì
mục tiêu, nhiệm vụ và kế hoạch học tập phải được xây dựng cụ thể, rõ ràng. Kế hoạch
học tập cần chỉ ra cụ thể những nhiệm vụ cụ thể, cần biết phân chia những mục tiêu
lớn thành những nhiệm vụ cụ thể, dễ đạt được hơn. Bên cạnh đó, mục tiêu đặt ra cần
có nội dung hợp lý và ấn định thời gian thực hiện rõ ràng.
-

Xác định nội dung học tập:

+ Cần chọn đúng trọng tâm, cái gì là cốt lõi, là quan trọng để ưu tiên tác động trực tiếp
và dành thời gian cơng sức cho nó.
+ Cần sắp xếp cụ thể cái gì cần được học trước, cái gì sẽ được
học sau, làm như thế không những sẽ giúp quản lí và tiết kiệm được thời gian mà

cịn giúp chúng ta hệ thống lại những kiến thức đã học một cách khoa học.
-

Ấn định thời gian:

+ Sắp xếp thời gian tự học, đề ra thời gian học từng thứ và phải tuân thủ đúng theo lịch
thời gian đó.
+ Xác định thời điểm học hợp lý.
-

Các nguyên tắc của việc lập kế hoạch:

+ Đảm bảo thời gian tự học tương xứng với lượng thông tin của môn học

17


+ Xen kẽ hợp lý giữa các hình thức tự học, giữa các môn học, giữa giờ tự học, giờ nghỉ
ngơi
+ Thực hiện nghiêm túc kế hoạch tựhọc.
+ Sau khi đã xác định được trọng tâm, phải sắp xếp các phần việc một cách hợp lí
logic về cả nội dung lẫn thời gian, đặc biệt cần tập trung hoàn thành dứt điểm từng
phần, từng hạng mục theo thứ tự được thể hiện chi tiết trong kế hoạch. Điều đó sẽ giúp
q trình tiến hành việc học được trơi chảy thuận lợi.
1.3.3.2

Kỹ năng thực hiện kế hoạch

Đây là kỹ năng quan trọng nhất của KN tự học. Để thực hiện KN thực hiện kế
hoạch, yêu cầu người học phải có một số kĩ năng chính dưới đây:

1.3.3.2.1

Kỹ năng ghi chép
Kỹ năng ghi chép là kĩ năng rất quan trọng trong quá trình tự học. Ghi chép
hiệu quả sẽ tiết kiệm thời gian cho người học, do trong quá trình ghi chép, người học
có thể sắp xếp thơng tin, nắm bắt được những thông tin quan trọng và dễ dàng nhớ lại
chúng khi cần. Việc ghi chép giúp chúng ta nhớ lại thông tin tốt hơn, giúp gợi ra các
thông tin đã được lưu giữ trong bộ nhớ hay đã được nghe hoặc đọc được trước đó
khơng lâu. Bên cạnh đó, việc ghi chép có hệ thống cịn giúp sinh viên nhớ lâu, và có
sự hiểu biết sâu sắc hơn nội dung bài học. Một số cách ghi chép hiệu quả:

1.3.3.2.2

-

Ghi chép các ý chính: Sinh viên cần kết hợp với suy nghĩ của bản thân để
viết ý chính và diễn đạt bằng câu văn của mình, khơng cần thiết phải chép
ngun câu của tác giả.

-

Ghi chép để dễ nhìn và nhớ: Cần ghi chép sạch đẹp, rõ ý, có thể sử dụng kí hiệu
riêng của mình hay đánh dấu những ý quan trọng bằng màu mực khác để dễ
nhớ hoặc ghi chép vào những quyển vở mà mình u thích.

-

Ghi trực tiếp trên sách: Giúp sinh viên nắm được các phần, nội dung quan trọng
của bài học và tiết kiệm được thời gian vì khơng cần phải xem lại tồn bộ nội
dung của trang sách.


-

Ghi thành dàn bài: Đọc kỹ nội dung của bài học, chia thành những phần
chính, trong phần chính chia thành những mục nhỏ được sắp xếp theo một trật
tự phù hợp, dễ nhớ, dễ liên tưởng. Nên ghi chép theo dạng sơ đồ cây.

Kỹ năng ôn tập
KN ôn bài là hoạt động quan trọng, giúp sinh viên tái hiện lại bài giảng, giúp
học sinh ghi nhớ, nắm bắt được mối quan hệ giữa các phần rời rạc, hệ thống lại toàn
18


bộ bài học, bổ sung kiến thức bài bằng những thông tin nghiên cứu được ở các tài liệu
khác, nhận diện cấu trúc từng phần và tồn bài.
Việc ơn tập có thể kết hợp với việc vận dụng các kiến thức lý thuyết đã ôn
đểgiải quyết các bài tập, điều này giúp sinh viên đào sâu và mở rộng kiến thức, có tác
dụng rất lớn trong việc hình thành, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo vận dụng và tìm tịi kiến
thức mới cho học sinh.
Khi ôn tập, cần chú ý phân bố thời gian hợp lý và ôn tập thường xuyên, nhiều
lần để đảm bảo việc hiểu, ghi nhớ và nắm vững kiến thức. Kỹ năng ôn tập bao gồm:

1.3.3.2.3

-

Lập kế hoạch chi tiết cho việc ôn tập

-


Viết lại nội dung ơn tập

-

Ơn tập xem kẽ các mơn học

-

Làm bài tập vận dụng

Kỹ năng đọc sách – nghiên cứu tài liệu
Việc đọc sách giúp sinh viên tiếp thu tri thức và phát triển phương pháp tự học
hiệu quả. KN đọc sách bao gồm các thao tác:
+ Tra cứu và lựa chọn tài liệu: Biết cách tra cứu tài liệu ở thưviện, nhà sách lẫn các
kho tài liệu trực tuyến sẽ giúp SV tìm được tài liệu như mong muốn, liên quan đến nội
dung học tập. Vì thế, trước khi chính thức đọc một cuốn sách, một tập tài liệu, SV
cần hiểu biết rõ các nhà xuất bản uy tín, các tác giả là chuyên gia đầu ngành, có những
nghiên cứu giá trị, thời điểm xuất bản, số lần tái bản để đảm bảo thơng tin có sự cập
nhật, ...
+ Đọc sách: bao gồm các cách đọc:
- Đọc lướt: là cách đọc lật nhanh từng trang, hoặc mở ngẫu nhiên một số trang nào đó
để định hình cho mình cách bố cục, trình bày, mục lục, hình minh họa vị trí các phần
tóm tắt, kết luận…
- Đọc có suy nghĩ: là cách đọc mà khi đọc cần phải tập trung tư tưởng, đọc chậm, đọc
kĩ để hiểu những điều tác giả nói và mở rộng đến những điều liên quan mà sách khơng
đề cập đến.
- Đọc có hệ thống: đọc lướt nhanh toàn bộphần tổng quát của sách để nắm sơ bộ nội
dung cuốn sách, tuỳ vào mục đích đọc mà đọc kĩ một lần hay nhiều lần. Cuối
cùng là cần rèn luyện cách đọc nhanh để tập trung được sự chú ý, sự suy nghĩ diễn
ra liên tục và dễ dàng xác lập được mối quan hệ giữa các đoạn với nhau khiến ta dễ

nắm được nội dung tài liệu.
19


- Đọc có chọn lọc: Đọc có chọn lọc là đọc để tìm những điểm cốt lõi, chọn ý tưởng
hay nhất, đúng nhất và có ích cho việc học sẽ rèn được tư duy phê phán, làm tiền
đềcho năng lực giải quyết vấn đề sau này.
- Đọc có ghi nhớ: Đọc sách là học tập tích cực nên cần kèm theo việc ghi chép các
dàn ý và diễn biến nội dung.
Như vậy, khi đọc sách nên ghi lại những chỗ chưa hiểu hoặc chưa rõ ràng để
đọc lại. Để đọc sách hiệu quả, SV phải tổ chức việc đọc sách của mình với các điều
kiện thuận lợi nhất như: bàn ghế ngồi đọc, vở ghi chép, không gian yên tĩnh, mát mẻ,
cách ly với các yếu tố gây nhiễu nhưtruyền hình, điện thoại, máy tính cá nhân (nếu
khơng cần thiết)...
1.3.3.3

Kỹ năng kiểm tra, đánh giá

Tự kiểm tra đánh giá trong quá trình học tập, đặc biệt trong quá trình tự học là
biện pháp giúp SV hình thành KN từ đó nhận biết rõ ưu khuyết điểm của bản thân nhất
là phương pháp học tập để tìm cách khắc phục.
Khi người học tự đánh giá được kết quả học tập của mình, người học sẽ tự đánh
giá được:
- Đánh giá năng lực học tập của bản thân, hiểu được cái gì mình làm được, cái gì mình
chưa làm được để từ đó có hướng phát huy hoặc khắc phục.
- Đánh giá sự nỗ lực, cố gắng của bản thân
- Đánh giá sự tiến bộ của bản thân
- Đánh giá năng lực hiện tại của bản thân
Khi tự kiểm tra, đánh giá SV sẽ tự khẳng định được mình, tự mình đề xuất được
biện pháp thỏa đáng để điều khiển và thúc đẩy hoạt động học tập của bản thân vận

động đi lên. Tự kiểm tra đánh giá góp phần hình thành các KN và thói quen trong học
tập như nhận thức về vấn đề đặt ra, nhạy bén, biết vận dụng kiến thức, KN vào các
hoạt động thực tiễn, thực tập… Nếu như khơng q q trình tự kiểm tra và đánh giá
sinh viên sẽ không thể biết được việc tự học hiện nay của mình có đạt kết quả tốt hay
khơng.
Để có kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá, học sinh cần:
- Xác định được mục tiêu, nội dung bài học
- Xác định các nội dung liên quan trong các tài liệu tham khảo
- Tái hiện những kiến thức liên quan đã được nghe giảng
20


- Xây dựng dàn ý bài học (hoặc bài thuyết trình)
- Làm bài tập theo yêu cầu
- Dự kiến các câu hỏi và trả lời
- Tự đặt câu hỏi để tự mình giải quyết hoặc thảo luận cùng bạn bè.
- Làm các bài tập của thầy cô giao cho, hoặc các bài tập bản thân tự tìm kiếm sau đó
tự mình kiểm tra đáp án để rút kinh nghiệm…
1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành kỹ năng tự học ngoài lớp của SV sư
phạm
1.4.1 Bản thân SV
Tự học là quá trình nỗ lực của bản thân người học khơng chỉ trên giảng đường
mà cịn cả ngồi giờ lên lớp, là thời điểm để SV hệ thống lại và đi sâu nghiên cứu
những tri thức đã lĩnh hội. Vì vậy việc nỗ lực và chủ động tự học ngoài giờ lên lớp là
điều rất cần thiết và mang tính quyết định trong việc học tập của SV.
Nghiên cứu tâm lý học sư phạm kết hợp với kinh nghiệm học tập cho thấy,
người học tự giác học tập và học có hiệu quả khi bản thân nhận thức đúng đắn bản
chất, vai trị của tự học, có kiến thức về các phương pháp học, có nhu cầu, động cơ tự
học đúng đắn, thấy hứng thú tìm tịi, học hỏi và họ có khả năng vượt qua những khó
khăn trở ngại để tự học thành công (Theo Trần Thị Minh Hằng). Nếu người học thiếu

các yếu tố trên thì việc tự học sẽ trở nên rất khó khăn.
Khi theo học chế tín chỉ, với khối lượng kiến thức rất lớn thì sinh viên phải tự
chủ động tìm hiểu. GV sẽ hướng dẫn, giải đáp những chỗ khúc mắc của người học mà
thôi. Nếu mỗi lần gặp GV trên lớp mà SV đặt được nhiều câu hỏi, có nghĩa là SV đang
sử dụng hiệu quả khoảng thời gian tự học. Tập trung nghe giảng, đào sâu suy nghĩ,
mạnh dạn, hăng hái phát biểu bài và tích cực làm bài tập nhóm ở lớp chính là người
có ý thức tự học tốt, bởi vì chúng ta thường nhớ rất nhanh và rất bền điều mà ta hiểu.
Khi tự học SV có thể tự nghiên cứu các vấn đề nảy sinh trong học tập theo cách
của mình. Điều đó giúp SV nắm được vấn đề một cách chắc chắn và bền vững, rèn
luyện được ý chí và năng lực hoạt động độc lập sáng tạo. Đó là những phẩm chất do
chính SV rèn luyện mới có, khơng ai có thể cung cấp hay làm thay cho mình. Thực tế
cũng chính minh, những người thành công không bao giờ là người thụ động, chờ thời
mà đều phải do nỗ lực bản thân.
1.4.2 Giảng viên
Tự học của SV là một mặt hoạt động trong quá trình dạy học, nó khơng thể tách
rời với hoạt động của GV. Giờ học được đánh giá là tích cực khi GV giảng dạy trên cơ
sở đã SV đã chuẩn bị bài học, có sự tương tác giữa SV với nhau và giữa thầy và trò.
21


Việc đặt ra các yêu cầu tự học cho SV cũng là cách GV kích thích hoạt động tự
học cho SV. Chẳng hạn, khi dạy học bài mới, GV tổ chức cho SV báo cáo kết quả tự
học bằng việc thuyết trình trước lớp.
Ngồi ra, kết quả tự học của SV cần được thể hiện, được bạn và thầy nhận xét,
góp ý, đánh giá.Vì vậy, GV giao nhiệm vụ tự học nhưng phải thường xuyên kiểm tra,
đánh giá kết quả tự học của SV, để kịp thời hỗ trợ SV cũng như giám sát việc tự học
của SV.
Với sự hỗ trợ tự học từ GV, SV sẽ tiến bộ lên rất nhiều. Họ có KN đọc - hiểu tài
liệu chuyên ngành; họ nắm được phương pháp nghiên cứu chuyên ngành với sự hỗ trợ
của thầy; có KN làm việc nhóm; có KN về cơng nghệ thơng tin, internet; họ có phẩm

chất cần cù, nghiêm túc, không ỷ lại, trông chờ, chủ động, tích cực và sáng tạo... từ đó,
bồi dưỡng sự tự tin, ý chí quyết tâm, tính kiên trì vượt khó, tính trung thực, tinh thần
tập thể giúp đỡ nhau trong học tập.
Như vậy hướng dẫn SV tự học ở nhà chu đáo, tổ chức các hoạt động tự kiểm
tra, đánh giá giữa SV với nhau trong từng học phần, môn học trên lớp là biện pháp hữu
hiệu mà GV có thể phát huy vai trị chủ động của SV.
1.4.3 Nhà trường và chương trình đào tạo
Giáo sư Nguyễn Cảnh Tồn từng vạch ra các bình diện trợ giúp cho người tự
học, trong đó giáo sư có đề cập đến mơ hình giáo dục của nhà trường. Nếu mơ hình đó
khuyến khích và tạo điều kiện cho việc tự học của người học thì người học sẽ được
nâng đỡ nhiều hơn. Ông khẳng định: việc quản lý tự học chặt chẽ của nhà trường
không giới hạn mà ngược lại sẽ giúp người học tự học tốt hơn. Ngoài ra, nhà trường
cần hỗ trợ người học về mặt nhận thức, cảm xúc, động cơ, xây dựng nguồn học liệu,
mở rộng các kênh trao đổi giữa GV-SV và kênh để SV tiếp cận nguồn học liệu.[12]
Tuy nhiên, hiện nay, vấn đề tự học của SV vẫn chưa được các trường cao đẳng,
đại học quan tâm đúng mức. Quan điểm nhấn mạnh khả năng tự học và tạo điều kiện
tự học cho SV vẫn chưa được chú trọng, thể hiện qua việc xây dựng chương trình, chỉ
đạo đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp kiểm tra, đánh giá, đầu tư cơ sở vật
chất, thư viện...cịn nhiều hạn chế.
Hiện nay, chương trình đào tạo của các trường các kiến thức chuyên môn, nghề
nghiệp nặng nề với nhiều môn học khác nhau. Một GV phải đảm nhận nhiều mơn,
nhiều lớp. Chính vì khối lượng công việc luôn quá tải nên GV chỉ lo thực hiện nhiệm
vụ của mình mà ít quan tâm để rèn luyện KN tồn diện cho SV trong đó có KN tự học.
Nhà trường chưa thực sự chú trọng đến các việc tổ chức các khóa đào tạo hay một học
phần riêng về KN tự học. Trong khi các khóa học hay học phần như này giúp cho SV
hiểu biết đúng đắn về KN tư học, giúp ích rất nhiều cho SV trong việc phát triển KN
tự học hiệu quả.
22



Vì vậy, một trường đại học hiện đại cần đưa KN tự học vào mục tiêu đào tạo,
bởi lẽ, nó khơng chỉ cần thiết cho SV khi cịn ngồi trên ghế nhà trường mà cả khi ra
trường hòa nhập với xã hội, trong suốt cuộc đời.
1.4.4 Tài liệu và cơ sở vật chất khác
Tự học phải gắn liền với sách, giáo trình, tài liệu tham khảo…Sách được xem là
người thầy thứ hai, sau GV của SV. Nguồn tài liệu càng phong phú, dồi dào, càng giúp
ích cho SV tích luỹ kiến thức đa chiều, sâu sắc hơn. [12]
Hiện nay SV có thể tìm thấy tài liệu từ nhiều nguồn như thư viện, nhà sách, kho
tài liệu trực tiếp, các website của các tạp chí khoa học, tổ chức giáo dục... Tuy nhiên,
nguồn tài liệu chủ yếu từ thư viên trường, Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu tự học, các
trường cần đầu tư mua các tài liệu in mới nhất, với số lượng lớn đủ đáp ứng nhu cầu
tham khảo của SV. Ngoài ra hệ thống thư viện với khu tự học phải đủ chỗ ngồi, thống
mát, n tĩnh.
Tóm lại, lý luận cho thấy vấn đề tự học là đặc biệt quan trọng trong giáo
dục. Ở đại học, muốn hoạt động có hiệu quả SV phải chủ động tự giác học tập bất
cứ lúc nào vì đây là nhân tố quyết định cho sự phát triển cá nhân. Ngoài ra để
hình thành KN tự học cho SV, rất cần tới vai trò của GV, nhà trường trong việc
trang bị cho SV hệ thống tri thức, kĩ năng, thái độ cùng với phương pháp tự học
cụ thể, khoa học.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KỸ NĂNG TỰ HỌC NGOÀI LỚP
HỌC CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM VẬT LÝ TRƯỜNG ĐHGD –
ĐHQGHN

2.1 Mô tả nghiên cứu
2.1.1 Cơng cụ nghiên cứu
2.1.1.1 Bảng hỏi điều tra
Nhóm nghiên cứu tham khảo cơ ở lý luận, mục đích nghiên cứu và soạn thảo
bảng hỏi để thu thập ý kiến của SV về thực trạng, các yếu tố ảnh hưởng và biện pháp
để nâng cao KN tự học ngoài lớp học cho SV SPVL trường ĐHGD – ĐHQGHN. Cấu

trúc bảng hỏi bao gồm:
Phần 1: Thông tin cá nhân của người trả lời phiếu bao gồm: Giới tính, năm thứ đang
học, học lực.
23


Phần 2:
Câu 1: Tác dụng của việc tự học.
Câu 2: Thời gian dành cho việc tự học ngoài giờ lên lớp.
Câu 3: Thực trạng việc thực hiện kế hoạch học tập của sinh viên.
Câu 4: Mức độ ảnh hưởng của KN tự học cụ thể đến kết quả học tập của sinh viên?
Câu 5: Khả năng lập kế hoạch tự học của sinh viên
Câu 6: Khả năng đọc sách ngoài lớp học của sinh viên
Câu 7: Khả năng ghi chép tài liệu của sinh viên
Câu 8: Khả năng ôn tập của sinh viên
Câu 9: Khả năng tự kiểm tra đánh giá
Câu 10: Những yếu tố ảnh hưởng đến KN tự học của sinh viên.
Câu 11: Cách khắc phục những khó khăn trong quá trình tự học? Các kĩ năng cần thiết
để việc tự học đạt hiệu quả tốt nhất?
Các thang đo thái độ được sử dụng trong bảng câu hỏi gồm:
Thang đo 1: Rất ít/Ít/ Vừa phải/ Nhiều/ Rất nhiều
Thang đo 2: Không bao giờ/Hiếm khi/ Thỉnh thoảng/ Thường xuyên/ Rất thường
xun
Thang đo 3: Hồn tồn đồng ý/Đồng ý/Phân vân/Khơng đồng ý/Hoàn toàn đồng ý
2.1.2 Phương pháp nghiên cứu
2.1.2.1 Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Mẫu khảo sát bằng bảng hỏi
Nhóm nghiên cứu tiến hành chọn 2 khóa 58 và 59 SPVL
Ở giai đoạn 1: Nhóm nghiên cứu phát bảng câu hỏi thử nghiệm cho 5 SV
chính quy sư phạm khóa 59, 5 SV khóa 59. Tổng số phiếu thu được là 10 phiếu.

Ở giai đoạn 2: Bảng hỏi được đưa ra dưới dạng bảng hỏi online. (google biểu
mẫu)
24


Tổng cộng, nhóm nghiên cứu thu được là 66 phiếu, số phiếu trả lời đầy đủ,
trung thực là 60 phiếu (đạt tỷ lệ 85.71%). Thành phần mẫu khảo sát bằng bảng hỏi
đóng chính thức như bảng 2.1.
Bảng 2.1.a. Số lượng khách thể (theo sinh viên khóa)

SVNAM
Cumulative
Frequency Percent Valid Percent Percent
Valid Năm 2

40

66.7

66.7

66.7

Năm 3

20

33.3

33.3


100.0

Total

60

100.0

100.0

Bảng 2.1.b. Số lượng khách thể (theo giới tính)

GIOITINH
Frequency Percent
Valid Nam

Valid
Percent

Cumulative
Percent

12

20.0

20.0

20.0


Nữ

48

80.0

80.0

100.0

Total

60

100.0

100.0

Bảng 2.1.c. Số lượng khách thể (theo học lực)

DTB
Frequency Percent
25

Valid
Percent

Cumulative
Percent



×