Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

KẾT hợp các PHƯƠNG PHÁP GIẢNG dạy môn KINH tế học CHÍNH TRỊ lấy NGƯỜI học làm TRUNG tâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.42 KB, 7 trang )

KẾT HỢP CÁC PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
MƠN KINH TẾ HỌC CHÍNH TRỊ
LẤY NGƯỜI HỌC LÀM TRUNG TÂM

Hà Thanh Minh*

Trong cơng tác giảng dạy Kinh tế chính trị học, để phát triển tư
duy sáng tạo của sinh viên theo hướng “ lấy người học làm trung
tâm” phải ln gắn liền lý luận với thực tiễn. Vì vậy, trong q trình
giảng dạy phải kết hợp một cách nhuần nhuyễn các phương pháp:
thuyết giảng, nêu vấn đề trao đổi, semina…
1. Phương pháp thuyết giảng trên lớp
Thuyết giảng trên lớp là hình thức cơ bản của q trình dạy
học. Bài giảng kinh tế chính trị có thể được quan niệm là việc trình
bày một cách súc tích và có hệ thống một chủ đề nhất định của mơn
khoa học kinh tế chính trị, với những luận chứng khoa học, với
những phạm trù và qui luật của nó, với việc khái qt tài liệu thực
tiễn thành những kết luận, giúp cho sinh viên mắm vững ngay trên
lớp đến mức tối đa những cơ sở nội dung bài học.
Thuyết giảng trên lớp là thơng báo- tái hiện bằng lời giảng
của thầy và tính chất tái hiện khi lĩnh hội của sinh viên. Giảng viên
nghiên cứu tài liệu, chuẩn bị bài giảng và trực tiếp điều khiển thơng
báo luồng thơng tin tri thức đến sinh viên. Sinh viên tiếp nhận
những thơng tin đó bằng việc nghe, nhìn, cùng tư duy theo lời giảng
của giảng viên, hiểu, ghi chép và ghi nhớ.

*

Thạc sĩ, Giảng viên Bộ mơn Kinh Tế học – Trường ĐH Kinh tế-Luật, ĐHQG-HCM

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 2015



445


Như vậy, những kiến thức đến với sinh viên theo phương
pháp này gần như là do giảng viên đã chuẩn bị sẵn, để sinh viên thụ
động thu nhận, cho nên nó chỉ đạt đến trình độ tái hiện của sự lĩnh
hội mà thơi. Vì thế phải biết phát huy tối đa những ưu điểm của
phương pháp thuyết giảng trên lớp.
Thơng qua thuyết giảng, cho phép giảng viên truyền đạt có
hiệu quả những nội dung lý luận tương đối khó, trừu tượng, phức
tạp, chứa nhiều thơng tin mà sinh viên khơng dễ dàng tự tìm hiểu
được. Chính vì vậy, thuyết giảng đã và đang được sử dụng thường
xun, rộng rãi trong q trình giảng dạy. Thơng qua thuyết giảng,
giảng viên trình bày một mơ hình mẫu của tư duy logic về cách đề
cập và lý giải một vấn đề khoa học, về cách dùng ngơn ngữ để diễn
đạt những nội dung tri thức phức tạp, trừu tượng một cách rõ ràng,
chính xác và súc tích. Từ hình mẫu tư duy khoa học của giảng viên
sẽ giúp cho sinh viên phát triển trí tuệ, hình thành phương pháp
nhận thức mới đáp ứng một trong những u cầu cơ bản của bậc đào
tạo đại học là học phương pháp tư duy.
Cũng chính nhờ mối liên hệ trực tiếp giữa giảng viên và sinh
viên, nên trong q trình thuyết giảng, giáo viên có thể hiểu được
những đặc điểm cơ bản trong lĩnh hội tri thức của sinh viên, để có
những ứng xử sư phạm kịp thời nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Phương pháp thuyết giảng còn cho phép trong một thời gian
hạn chế, giảng viên có thể truyền đạt một lượng thơng tin lớn cùng
một lúc cho nhiều sinh viên, đồng thời giảng viên có thể nhanh
chóng đưa những thành tựu khoa học mới nhất và những sự kiện
chính trị, thời sự, lịch sử…để bổ sung cho nội dung bài giảng thêm

phong phú, sâu sắc. Nhất là trong điều kiện phát triển nhanh của
kinh tế thị trường và khoa học kỹ thuật, cơng nghệ, thì khơng những
bổ sung bài giảng những thơng tin, thuật ngữ mới, mà ngay cả
những khái niệm cơ bản như: hàng hóa, thị trường, cơ cấu kinh
tế…cũng khơng ngừng đươc mở rộng, gắn chặt vào thực tế. Có như
vậy mới khắc phục được tình trạng “ thầy đọc- trò chép” còn khá
phổ biến và sinh viên đang cực lực lên án trên các báo hiện nay.
Từ những ưu điểm trên, ta có thể khẳng định được rằng:
Phương pháp thuyết giảng vẫn sẽ là một phương pháp dạy học

446

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO


thơng dụng nhất. Nhưng hiệu quả của phương pháp nầy sẽ được
nâng lên đáng kể nếu chúng ta kết hợp nhuần nhuyển với nhiều
phương pháp dạy học khác như phương pháp nêu vấn đề, phương
pháp semina… mà chúng tơi xin được trình bày ngay dưới đây.
2. Phương pháp nêu vấn đề cho sinh viên nghiên cứu trao
đổi
Theo đề án “ Đổi mới giáo dục đại học”, phương pháp nêu
vấn đề trong bài giảng hiện nay là một u cầu hết sức cấp bách bởi
những lý do như sau:
- Với những thành tựu cách mạng khoa học kỹ thuật và cơng
nghệ, sự bùng nổ thơng tin…đang đòi hỏi chương trình đào tạo phải
tăng cường hơn nữa số lượng mơn học và khối lượng kiến thức
trong mỗi mơn họctrong khi thời lượng của chương trình khơng thể

tăng lên. Do vậy, việc áp dụng những phương pháp dạy học hiện đại
như: tăng cường trao đổi, sử dụng máy chiếu, mạng internet, kho tư
liệu…là vơ cùng cần thiết. Nhờ đó kích thích phát triển trí tuệ người
học, rèn luyện khả năng trình bày một vấn đề trước tập thể và nhu
cầu tự lực nhận thức của sinh viên ngày càng trở thành vấn đề bức
thiết. Vì vậy, phương pháp nêu vấn đề, là một trong những phương
pháp dạy học hiện đại, có khả năng đáp ứng u cầu đổi mới giáo
dục hiện nay theo hương “ lấy người học làm trung tâm”.Ưu thế của
phương pháp nêu vấn đề có khả năng giúp cho sinh viên làm quen
với các tình huống tự lực, nghi vấn, suy luận và phản ứng nhanh
trước những tác động của hồn cảnh kinh tế hiện nay. Tuy nhiên,
hiện nay sức ì của sinh viên ít suy nghĩ và ngại phát biểu trước lớp
là khá phổ biến. Vấn đề chúng tơi muốn đặt ra là làm thế nào đẩy lùi
được “nạn thụ động trong học đường” đó, thì mới nâng chất lượng
buổi học lên được.
- Xét về mức độ và hiệu quả, phương pháp nêu vấn đề xen kẽ
vào q trình thuyết giảng làm cho sinh viên tự lực giải quyết những
vấn đề học tập, nhớ lâu hơn, biến những kết luận tìm thấy được
thành kiến thức của mình. Sinh viên được đặt vào trạng thái chủ
động, độc lập sáng tạo. Nhất là khi đã khám phá những vấn đề mới
mẻ của mơn học, sinh viên sẽ rất hứng thú học tập, tự tin vào khả
năng của mình. Như vậy, nếu tăng cường áp dụng và nâng cao hiệu
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 2015

447


quả, ưu thế của phương pháp nêu vấn đề sẽ góp phần đào tạo cho
đất nước những cán bộ có bản lĩnh, năng động, sáng tạo, thích ứng
với u cầu của nền kinh tế thị trường.

Phương pháp nêu vấn đề trong bài giảng được vận dụng
trong tất cả các loại bài giảng và các khâu của q trình học tập như:
giảng bài mới, hệ thống hóa và hướng dẫn ơn tập, kiểm tra đánh giá
kết quả…Phương pháp này được thực hiện qua ba khâu cơ bản sau
đây:
- Đề xuất vấn đề: Giảng viên đưa ra một vấn đề hay một hệ
thống vấn đề để hướng người học quan tâm vào vấn đề đó, và làm
xuất hiện tình huống có vấn đề để người học cảm thấy phải tìm ra
câu trả lời, tìm cách giải quyết vấn đề đó.
- Nghiên cứu và giải quyết vấn đề: Giảng viên chỉ ra cho sinh
viên thấy xung quanh vấn đề vừa nêu ra trong vón tri thức hiện có
của sinh viên những gì đã biết, cái gì chưa biết, cần tập trung suy
nghĩ theo hướng nào để đi đến giải quyết vấn đề đặt ra. Thực hiện
bước này giảng viên có thể trình bày ngắn gọn, sát thực những u
cầu đặt ra bằng hình thức thuyết trình, hoặc những câu hỏi dẫn dắt,
hoặc giả thuyết…
Kết luận vấn đề: Sinh viên vận dụng những kiến vừa mới tìm
tòi được đi đến kết luận vấn đề, đồng thời có thể tiếp tục phát triển
những vấn đề học tập mới.
Với các khâu cơ bản như nêu ở trên, trong q trình thực
hiện, căn cứ vào mức độ tự lực nhận thức của sinh viên và cách thức
gây tình huống, chúng ta có thể có những kiểu nêu vấn đề như sau:
- Trình bày nêu vấn đề: Trong q trình trình bày bài giảng,
giảng viên có thể diễn đạt vấn đề dưới dạng nghi vấn, gợi mở hoặc
đưa ra những câu hỏi để gây tình huống lơi kéo sự chú ý của sinh
viên…Nhằm tạo cho sinh viên bước đầu làm quen và có quan niệm
về cách học nêu vấn đề. Sử dụng phương pháp này thường phù hợp
với những bài học khó, bài học nhập mơn, những vấn đề phức tạp
mà sinh viên khơng thể tự lực giải quyết được.


448

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO


- Nêu vấn đề một phần: Giáo viên trình bày bài giảng theo
kiểu nêu vấn đề nhưng chỉ tập trung vào một phần nào đó, hoặc chỉ
giải quyết vấn đề đến chừng mực nào đó, còn lại là việc sinh viên tự
giải quyết tiếp theo.
- Nêu vấn đề tồn phần: là kiểu điển hình nhất của dạy và
học nêu vấn đề. Về thực chất là giảng viên tổ chức cho sinh viên
nghiên cứu bài giảng một cách sáng tạo. Giảng viên nêu vấn đề
cùng hệ thống câu hỏi chính, câu hỏi phụ, gợi mở…để dẫn dắt sinh
viên độc lập giải quyết và đi đến kết luận. Phương thức nêu vấn đề
nầy đảm bảo phát huy đến mức cao nhất sự phát triển khả năng tư
duy của sinh viên, đặc biệt là tư duy biện chứng, sáng tạo. Đảm bảo
cho sinh viên nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, làm quen với
phương pháp nghiên cứu khoa học và có niềm say mê, hứng thú
trong học tập. Nhưng để thực hiện thành cơng một bài giảng nêu
vấn đề tồn phần phải mất nhiều thời gian, chuẩn bị chu đáo cả về
nội dung và phương pháp tiến hành, trình độ của sinh viên phải
tương đối đồng đều, sinh viên phải thực sự có ý thức chủ động, tự
giác trong học tập.
- Nêu vấn đề có tính giả thuyết: là phương pháp giảng viên
đưa vào bài học một số giả thuyết hoặc quan điểm có tính chất mâu
thuẩn với vấn đề đang nghiên cứu, nhằm xây dựng tình huống có
vấn đề thuộc loại giả thuyết. Kiểu nêu vấn đề này đòi hỏi sinh viên
phải lựa chọn quan điểm nào đúng và phải có lập luận vững chắc về

sự lựa chọn của mình. Đồng thời sinh viên phải phê phán chính xác,
khách quan những quan điểm khơng đúng đắn, chỉ ra được sự vơ
căn cứ của quan điểm nầy, ngun nhân của nó là sự yếu kém trong
khoa học, hay là sự biện hộ tự giác cho tính giai cấp.
Nêu vấn đề mang tính chất so sánh, tổng hợp: Là kiểu nêu
vấn đề gắn với việc sử dụng số liệu thống kê để phân tích và rút ra
kết luận. Phương pháp này có ưu thế rõ rệt, thơng qua các số liệu,
dữ kiện thống kê, cho phép thể hiện một cách ngắn gọn q trình và
hiện tượng kinh tế- xã hội. Mặt khác, nó góp phần làm tăng tính
chính xác, tính thuyết phục vấn đề; Đồng thời tạo điều kiện rèn
luyện cho sinh viên biết phân tích, khai thác những tri thức thực
tiễn…
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 2015

449


Tóm lại: để thực hiện và phát huy tối đa hiệu quả phương
pháp nêu vấn đề như đã nói ở trên, cả “thầy và trò” đều phải có sự
chuẩn bị thật chu đáo phù hợp với những điều kiện cho phép của lớp
học, thời gian, tài liệu, phương tiện kỹ thuật được trang bị…
3.Phương pháp Semina:
Semina là một hình thức dạy và học mà ở đó sinh viên tranh
luận những vấn đề khoa học đã được chuẩn bị trước dưới sự hướng
dẫn của giáo viên.
Cùng với bài giảng, semina là một hình thức quan trọng cho
việc dạy và hoc .Do đó, trong chương trình hiện nay Bộ Giáo dục &
ĐT đã chỉ đạo dành ra 50% cho semina, vì tính chất quan trọng của
nó như sau:
Thứ nhất, đối với sinh viên: Semina góp phần củng cố và

khắc sâu những kiến thức khoa học về kinh tế, giúp sinh viên mở
rộng và nâng cao những kiến thức kinh tế ngồi chương trình đã
học, vận dụng lý luận kinh tế học để phân tích, lý giải, các hiện
tượng, các q trình kinh tế trong thực tiễn kinh tế- xã hội, bước đầu
làm quen với nghiên cứu khoa học, rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ sư
phạm.
Thứ hai, tác dụng đối với giảng viên: Semina giúp giảng viên
có điều kiện để bổ sung và mở rộng những kiến thức, đánh giá phân
loại một cách khá chính xác khả năng tiếp thu của sinh viên và trình
độ tư duy của họ, có điều kiện trực tiếp uốn nắn những tri thức sai
lệch, khơng chuẩn xác; định hướng kiến thức cho sinh viên.
Để thực hiện tốt semina, u cầu đối với sinh viên và giảng
viên như sau:
Thứ nhất, u cầu đối với sinh viên:
Trong semina, sinh viên vừa đóng vai trò khách thể, vừa
đóng vai trò chủ thể, do đó sự chuẩn bị trước của sinh viên là điều
kiện bắt buộc.

450

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO


u cầu trước hết là sinh viên phải tích lũy được lượng kiến
thức đủ để giải quyết vấn đề đã đặt ra. Những kiến thức đó có thể là
do sinh viên tiếp thu trên lớp hay do họ tự nghiên cứu. Đây là vấn
đề quan trọng nhất, nếu chưa nắm được kiến thức cơ bản thì semina
chỉ là hình thức đọc lại vở ghi hay sách giáo khoa mà thơi. u cầu

này, đòi hỏi sinh viên phải nắm kiến thức cơ bản, là dịp để giúp sinh
viên củng cố và nâng cao kiến thức đã có.
Sinh viên phải có đầy đủ các điều kiện vật chất cho semina
như giáo trình, tạp chí chun ngành. Song song đó, u cầu sinh
viên còn phải có những hiểu biết về thực tiễn thơng qua các đợt thực
tế chun mơn có sự hướng dẫn của giáo viên hoặc do họ tự tích lũy
được trong cuộc sống. Đồng thời, sinh viên phải có động cơ học tập
đúng đắn, siêng năng, tích cực, ham học hỏi hiểu biết…
Thứ hai, u cầu đối với giảng viên: Lập kế hoạch cho buổi
semina như giáo án lên lớp; lựa chọn các cách thức semina phù hợp
với từng đối tượng sinh viên, phân lớp, chia tổ; có trình dộ chun
mơn sâu rộng, có kinh nghiệm trong điều khiển semina; chuẩn bị hệ
thống câu hỏi một cách chu đáo, gồm nhiều dạng như: câu hỏi dùng
để củng cố bài, câu hỏi suy luận, câu hỏi liên hệ thực tiễn kinh tếxã hội, giảng viên cần chủ động điều khiển nhận thức của sinh viên
theo u cầu của semina; phải nắm được bức tranh tổng thể của buổi
semina và dự kiến trước được những diễn biến xảy ra trong buổi
semina, để chuẩn bị tình huống giải quyết và kết luận vấn đề.
Với mục tiêu lấy người học làm trung tâm , người giảng viên
ngồi kiến thức mơn học chính cần có những hiểu biết sâu rộng về
lĩnh vực có liên quan gần, phải có phương pháp dẫn dắt người học
cùng tham gia vào giờ giảng , khái niệm người học người dạy có khi
khơng ‘‘phân biệt” tạo cảm hứng khoa học cho người học, sinh
viên, qua nhiều năm cơng tác khảo sát mơn học trong các trường
Đại học đã chứng minh điều đó.

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 2015

451




×