Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

MỘT số vấn đề có LIÊN QUAN đến VIỆC dạy và học các môn lý LUẬN CHÍNH TRỊ và VAI TRÒ của GIẢNG VIÊN TRONG GIẢNG dạy, học tập các môn này TRONG các TRƯỜNG đại học, CAO ĐẲNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.05 KB, 9 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CĨ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC DẠY VÀ HỌC
CÁC MƠN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VÀ VAI TRỊ CỦA
GIẢNG VIÊN TRONG GIẢNG DẠY, HỌC TẬP CÁC MƠN
NÀY TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG
Hà Trọng Thà*

Hiện nay, việc nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập các
mơn lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng có rất
nhiều vấn đề đáng để bàn thảo. Song, trong khn khổ hội thảo này,
bài viết chỉ đề cập đến một số vấn đề có liên quan đến việc dạy và
học các mơn lý luận chính trị và vai trò của giảng viên trong giảng
dạy, học tập các mơn này trong các trường đại học, cao đẳng. Trước
hết, bài viết bàn về những yếu tố có liên quan đến việc dạy và học
các mơn này, bởi vì q trình dạy – học là một q trình tương tác.
1. Đặc điểm của q trình dạy - học.
Khi nói đến hoạt động dạy và học thì bao giờ cũng bao gồm
3 yếu tố: người dạy, người học và tri thức. Nếu khơng có sự liên kết
của 3 yếu tố này thì khơng thể nói đến việc dạy học. Dạy - học là
hai hoạt động khác nhau, song có mối quan hệ chặt chẽ với nhau do
chủ thể hoạt động dạy là người thầy và chủ thể hoạt động học là trò.
Người thầy dùng tri thức như những cơng cụ, phương tiện để truyền
đạt. Tri thức của người thầy là của nhân loại được lựa chọn sao cho

*

Tiến sĩ Triết học, Phó trường bộ mơn Mác-Lênin và KHXHNV, Trường ĐH An ninh
nhân dân.

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 2015

499




phù hợp với trò. Nếu người thầy chưa làm được điều này thì hiệu
quả giảng dạy khơng cao. Người thầy phải có nhiệm vụ nhào nặn,
chế biến tri thức nhân loại cho phù hợp với người học. Còn người
học phải thu nạp, lĩnh hội tri thức khoa học cho mình.
Hoạt động dạy - học khơng phải là tác động vào tri thức để
thay đổi tri thức mà tác động tri thức để biến những tri thức ấy vào
trong người học. Dạy là dạy tri thức, song tri thức khơng tự chuyển
từ nơi này sang nơi khác và cũng khơng chuyển từ người này sang
người khác. Q trình dạy học tức là q trình chuyển tri thức của
lồi người từ bên ngồi vào bên trong. Kết quả của hoạt động dạy
học là tri thức đọng lại ở người học. Song cũng cần thấy rằng, mục
đích chính của q trình giáo dục để hình thành nhu cầu ở người
học chứ khơng phải là truyền đạt kiến thức.
Nghệ thuật của người dạy là khơng phải làm cho người học
chép nhiều, làm cho người học thấy khó và phức tạp mà làm sao cho
người học hiểu nhiều và thấy dễ dàng. Trong dạy học, dạy là dạy
bản chất của vấn đề chứ khơng dạy khái niệm, định nghĩa, tên gọi
bề ngồi. Muốn dạy bản chất cho người học thì người thầy phải
chiếm lấy bản chất đó vào trong đầu óc của mình. Sau đó, người
thầy đưa bản chất đó ra ngồi, đến nơi xuất phát của bản chất ấy mà
người thầy đã lĩnh hội được. Từ đó, người thầy phải tổ chức, hướng
dẫn để cho người học lĩnh hội, khám phá, tìm ra bản chất vấn đề.
Chỉ có thế thì người học mới có thể tìm ra bản chất chứ người thầy
khơng làm thay trò trong khám phá bản chất vì bản chất của vấn đề.
Nói cách khác là khơng ai có thể học thay cho người khác. Chính vì
vậy khơng thể thay thế vai trò của người thầy và nhiệm vụ của trò
trong dạy và học.
Q trình dạy và học có thể khái qt thành cơng thức như

sau: A --> a. Trong đó: A là tri thức khoa học của nhân loại; --> là
quy trình người thầy tổ chức, hướng dẫn và trò tích cực tiếp thu; a là
tri thức người học. Với cơng thức này, nhiệm vụ của người thầy là
làm sao A gần bằng a, làm sao cho kiến thức khoa học của nhân loại
phù hợp với kiến thức người lĩnh hội, chứ khơng làm cho người học
rối thêm. A và a càng phù hợp bao nhiêu thì càng thể hiện kinh
nghiệm, trình độ của người thầy. Người thầy giỏi là người thầy làm
cho người học hiểu và nắm được bản chất của vấn đề chứ khơng

500

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO


phải là làm rối thêm vấn đề cần giảng cho người học. Do đó, để
chuyển A gần bằng a thì người thầy phải soạn giáo án, khi soạn giáo
án cần chú ý đến đối tượng là người học. Nếu khơng thực hiện được
điều này thì người học khó mà tiếp thu được. Sau khi người thầy lựa
chọn, chế biến, nhào nặn kiến thức thành giáo án, người thầy phải
biết tổ chức, hướng dẫn và điều khiển cho người học chiếm lĩnh
kiến thức. Người thầy tạo cho người học nhu cầu và tuyệt đối khơng
triệt tiêu hứng thú, nhu cầu của người học. Song song đó, người học
cũng phải tích cực lĩnh hội để người thầy có hứng thú trong dạy học.
Tóm lại, q trình dạy - học là q trình hợp tác giữa người
dạy và người học. Dạy và học đều là trung tâm giống như 2 tâm
trong một hình elip. Việc giảng dạy, học tập các mơn lý luận chính
trị phải tn theo q trình tương tác này.
2. Đặc điểm của sinh viên năm thứ nhất và của các mơn

lý luận chính trị.
Theo chương trình đào tạo của nhiều đại học, cao đẳng, các
mơn lý luận chính trị được giảng dạy vào năm thứ nhất. Do đó để
thấy được vai trò của giảng viên trong q trình giảng dạy, học tập
các mơn này thì cần nắm được đặc điểm của sinh viên năm nhất và
đặc điểm của các mơn lý luận chính trị (chủ yếu là 3 mơn Những
ngun lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam).
Sinh viên năm thứ nhất là lớp người nằm trong giai đoạn
hồn thiện về thể chất, trí tuệ và đạo đức, có những đặc điểm tâm,
sinh lý đặc trưng của lứa tuổi. Về sinh lý, tuổi sinh viên là lứa tuổi
có sự phát triển hồn thiện về thể chất. Sự trưởng thành về thể chất
của sinh viên cho phép họ có đủ sức khỏe để tiến hành đồng thời
nhiều hoạt động học tập, lao động, thể thao, vui chơi, giải trí và các
hoạt động xã hội khác. Về tâm lý, tuổi sinh viên được đặc trưng bởi
tính phân hóa sâu so với thiếu niên của những phản ứng xúc cảm và
những phương thức biểu hiện trạng thái cảm xúc, bởi sự nâng cao
tính tự kiểm tra, tự điều chỉnh. Ở sinh viên, sự quan tâm tới thế giới
bên ngồi trong thời thiếu niên đang chuyển vào thế giới nội tâm
nên sự tự ý thức về bản thân, tự phê bình, tự thể nghiệm, tự kiểm
tra, tự kiểm sốt tăng lên. Biểu hiện là lòng tự tin, tính hiếu thắng
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 2015

501


tăng lên rõ rệt. Sinh viên u cầu người khác tơn trọng và tin tưởng
ở họ. Nắm được những điều này, giảng viên giảng dạy các mơn lý
luận chính trị tác động đến sinh viên sao cho hợp lý để nâng cao
chất lượng giảng dạy.

Sinh viên năm thứ nhất cũng là lứa tuổi nhạy cảm với cuộc
sống, nhất là những cái mới lạ. Tuy nhiên, sinh viên thường có tâm
lý hấp tấp, vội vàng, dễ bị kích động, nhẹ dạ cả tin, thiếu tự chủ
nhưng cũng rất hay tự phụ, chủ quan nên nếu khơng được định
hướng đúng đắn, kịp thời thì sự lựa chọn tiếp nhận cái mới dễ dẫn
tới sai lầm, thái q. Sinh viên thường nhạy cảm với cái mới nên
thường chịu ảnh hưởng của các giá trị hiện đại hơn các giá trị đạo
đức truyền thống. Đây vừa là ưu điểm vừa là hạn chế của sinh viên.
Nhờ đặc điểm này mà sinh viên ln là người đi trước tiếp thu
những giá trị tiên tiến của thời đại, của nhân loại, chống lại cái bảo
thủ, lạc lậu. Nhưng đặc điểm này có hạn chế là làm cho sinh viên có
xu hướng chạy theo cái mới dễ sao nhãng, làm mai một các giá trị
đạo đức truyền thống, đồng thời dễ tiêm nhiễm những tư tưởng thói
xấu bởi vì cái mới là cái chưa được đánh giá, chọn lọc, mà thanh
niên chưa đủ từng trải nên khó phân biệt được tốt xấu, đúng sai. Từ
đó cho thấy sinh viên ln cần có giáo viên, hướng dẫn trong tiếp
nhận tri thức, nhất là các mơn lý luận trang bị thế giới quan, phương
pháp luận và nhân sinh quan.
Lứa tuổi sinh viên là giai đoạn phải tự lập, tự định vị và điều
chỉnh bản thân. Có thể nói khả năng tự ý thức, tự giáo dục là một
trong những đặc trưng của sinh viên. Sự tự giáo dục là một biểu
hiện tốt, thể hiện sự trưởng thành trong đạo đức của sinh viên. Tuy
nhiên, khả năng tự ý thức của sinh viên còn nhiều bất cập do nhận
thức còn hạn chế và thiếu kinh nghiệm thực tiễn nên tự giáo dục ở
sinh viên đơi khi khơng giáo dục cho mình phẩm chất tốt mà lại
giáo dục cho mình phẩm chất xấu. Q trình tự giáo dục của sinh
viên cần được sự hỗ trợ bởi giảng viên trong mơi trường sự phạm.
Bên cạnh đặc điểm của sinh viên thì đặc điểm của các mơn lý
luận chính trị cũng góp phần tạo nên vai trò của giảng viên đối với
việc giảng dạy, học tập các mơn học này.


502

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO


Thứ nhất, dung lượng kiến thức ở các mơn lý luận chính trị
nói chung là lớn. Nhiều vấn đề đòi hỏi giảng viên phải phân tích,
chứng minh, luận giải để làm sáng tỏ là q nhiều so với quỹ thời
gian được ấn định.
Thứ hai, đặc thù của các mơn lý luận chính trị là tính khái
qt hóa, trừu tượng hóa cao và được diễn đạt với hệ thống các khái
niệm, phạm trù, ngun lý, quy luật. Điều đó đòi hỏi khả năng tổng
hợp, khái qt cao của người học. Ngay cả trong hệ thống các mơn
học, việc lựa chọn phương pháp tiếp cận, thời lượng đầu tư sao cho
hợp lý cũng đòi hỏi phải có sự tính tốn một cách khoa học. Điều
này, trên thực tế khơng phải sinh viên nào cũng làm được nên rất
cần đến giảng viên.
Thứ ba, việc giảng dạy, học tập các mơn lý luận chính trị đòi
hỏi phải bảo đảm tính đảng, tính khoa học. Trong đó, tính đảng là
một ngun tắc đòi hỏi người dạy và người học phải tn theo, vì nó
là vũ khí để đấu tranh tư tưởng và đấu tranh chính trị. Giảng viên
chính trị là những chiến sĩ tiên phong trong tun truyền chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam cho sinh viên. Giảng viên phải đứng trên
lập trường, quan điểm giai cấp cơng nhân để nghiên cứu, giảng dạy
các mơn lý luận chính trị; đứng trên lập trường lý luận và phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin; phục tùng tổ chức và giữ

vững ngun tắc phát ngơn của Đảng. Nếu khơng có sự định hướng
của giảng viên thì sinh viên khơng hiểu thấu đáo nội dung các mơn
học, từ đó sẽ sai lạc trong nhận thức và hành động.
3. Mục đích của việc học tập, nghiên cứu các mơn lý luận
chính trị.
Nói đến vai trò của giảng viên trong giảng dạy, học tập các
mơn lý luận chính trị khơng thể khơng nói đến mục đích của các
mơn học này. Mục đích của việc học tập, nghiên cứu các mơn lý
luận chính trị là nắm vững những quan điểm khoa học, cách mạng,
nhân văn của chủ nghĩa Mác – Lênin; hiểu rõ những nội dung cơ
bản của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Trên cơ sở đó xây dựng thế giới quan, phương
pháp luận khoa học, nhân sinh quan cách mạng, xây dựng niềm tin
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 2015

503


và lý tưởng cách mạng; vận dụng sáng tạo nó trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn, trong rèn luyện và tu dưỡng đạo đức, đáp ứng u
cầu của con người Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây
dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội.
Cùng với mục đích đó, khi học tập, nghiên cứu các mơn lý
luận chính trị còn phải đảm bảo các u cầu như: phải thống nhất
giữa tính đảng và tính khoa học, lý luận gắn liền với thực tiễn, qn
triệt các quan điểm tồn diện, lịch sử - cụ thể,… đồng thời phải
chống xu hướng kinh viện, giáo điều, rập khn...
Với những vấn đề được đề cập như trên, cho thấy vai trò của
giảng viên đối với việc giảng dạy, học tập mơn Những ngun lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác – Lênin là rất quan trọng.

4. Vai trò của giảng viên đối với việc giảng dạy, học tập
các mơn lý luận chính trị
Một là, giảng viên giữ vai trò quyết định chất lượng giảng
dạy các mơn lý luận chính trị với phương pháp lấy người dạy làm
trung tâm.
Các mơn lý luận chính trị thường được cho rằng là những
mơn học nghiêng về mặt lý thuyết, trừu tượng, khơ khan nên dễ gây
ra nhàm chán cho người học, khó tiếp thu, nhất là với đặc điểm của
sinh viên năm nhất. Chính vì thế, phương pháp thuyết trình, diễn
giảng của giảng viên, nhất là giảng viên lâu năm có kinh nghiệm,
kiến thức sâu thì ln chứa đựng những yếu tố tích cực và khơng
thể thay thế được. Đối với các mơn này, việc lạm dụng các phương
pháp tự khám phá của sinh viên đơi khi dẫn tới các tác dụng ngược
lại với mong muốn. Bên cạnh đó, việc u cầu tất cả mọi giảng viên
đều sử dụng có hiệu quả phương pháp dạy học lấy người học làm
trung tâm đối với các mơn này là điều khơng thể thực hiện được
trong thời gian ngắn, đặc biệt đối với giáo viên trẻ khi kiến thức
mơn học và năng lực sư phạm còn có hạn chế.
Trong phương pháp giảng dạy này, giảng viên là yếu tố quyết
định chất lượng giảng dạy, học tập bởi vì giảng viên đóng vai trò là
người dẫn dắt người học tiếp cận các tri thức lý luận chính trị theo

504

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO


mục đích của mơn học. Thực tế cho thấy, nhiều giảng viên khơng

chỉ nắm vững nội dung bài học mà mình truyền đạt mà còn nắm
được kiến thức của cả chương trình mơn học, thậm chí cả các mơn
lý luận chính trị. Có như vậy giảng viên mới liên kết, hệ thống hóa
kiến thức cần thiết giúp người học dễ nắm bắt những nội dung chính
của bài học, mơn học và cả chương trình các mơn lý luận chính trị.
Khi giảng viên chuẩn về kiến thức chun mơn thì sẽ tự tin trong
q trình truyền thụ, tránh được sự phụ thuộc vào giáo án, chủ động
dẫn dắt người học tiếp cận tri thức theo u cầu và mục đích của
mơn học.
Ngồi việc trang bị kiến thức chun mơn, giảng viên (nhất
là những giảng viên lớn tuổi) có kinh nghiệm và kiến thức thực tiễn
sẽ tạo nên bài giảng sinh động, gắn kết giữa nội dung bài giảng với
thực tiễn thơng qua những minh hoạ, ví dụ từ thực tiễn. Từ đó,
người học dễ tiếp thu bài, dễ nhớ bài và điều quan trọng là người
học thấy nội dung bài giảng gắn liền với cuộc sống chứ khơng phải
xa rời, khó hiểu. Ngồi ra, vai trò quyết định của giảng viên còn thể
hiện ở phong thái, tác phong, tư cách, tâm tư, tình cảm của người
thầy. Những yếu tố này cũng tác động đến sinh viên làm họ thích
học hay khơng thích học, bị lơi cuốn hay khơng bị lơi cuốn vào mơn
học. Khi người giảng nhiệt huyết, “thổi hồn” được mơn học sẽ thu
hút được người học, từ đó nâng cao chất lượng học tập các mơn lý
luận chính trị.
Hai là, giảng viên giữ vai trò định hướng trong giảng dạy
bằng phương pháp lấy người học làm trung tâm.
Dạy học với phương pháp “lấy người học làm trung tâm”
nhấn mạnh tới vai trò chủ đạo của người học và ở một chừng mực
nhất định, người học có trách nhiệm về nội dung học và cách học.
Trong cách dạy học này, người học được phép tự thử nghiệm và
khám phá, kiến thức thường được sinh viên xây dựng với sự chỉ đạo
của giảng viên. Ngày nay, phương pháp lấy người học làm trung

tâm gắn liền với quan điểm kiến tạo. Quan điểm này cho rằng,
người học cần dựa trên kinh nghiệm để xây dựng sự hiểu biết của
mình về thế giới, tạo dựng nên vốn kiến thức vững chắc. Mặc dù đề
cao vai trò tích cực, chủ động của người học trong q trình học tập,
nhưng quan điểm kiến tạo khơng loại bỏ vai trò tích cực của giảng
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 2015

505


viên cũng như giá trị kiến thức mà họ mang đến cho người học.
Thuyết kiến tạo đã điều chỉnh vai trò của người dạy và người học,
người dạy sẽ là người hướng dẫn người học xây dựng nên kiến thức
thay vì chỉ tái tạo kiến thức. Với quan điểm kiến tạo, giảng viên
giảng dạy các mơn lý luận chính trị sẽ lựa chọn các phương pháp
giảng dạy tích cực, giúp người học phát hiện và giải quyết vấn đề,
chia sẻ tri thức trong một mơi trường học tập hợp tác.
Với phương pháp lấy người học làm trung tâm, giảng viên lý
luận chính trị cần phải đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng
tích cực hóa hơn nữa q trình học tập của sinh viên, phải tạo ra
được cơ chế buộc sinh viên phải tham khảo tài liệu, chủ động nắm
bắt nội dung mơn học, nhằm hiểu sâu hơn nữa kiến thức. Đồng thời,
giảng viên cần cải tiến phương pháp học tập của sinh viên, bởi hoạt
động của giảng viên trên lớp đã bao hàm hoạt động của sinh viên;
cũng như vậy, hoạt động học của sinh viên ln chứa đựng vai trò
giảng dạy của giảng viên.
Ba là, giảng viên nâng cao chất lượng giảng dạy các mơn
lý luận chính trị thơng qua hoạt động nghiên cứu khoa học và
xêmina.
Để nâng cao chất lượng giảng dạy thì giảng viên lý luận

chính trị cần chú trọng nghiên cứu khoa học và xem đây là một
nhiệm vụ khơng thể thiếu. Đây là con đường ngắn nhất để giảng
viên khơng ngừng tích lũy kiến thức, nâng cao trình độ, gọt sắc tư
duy, góp phần tìm ra những hình thức, biện pháp thích hợp truyền
đạt tri thức tới người học. Nghiên cứu khoa học là động lực thúc đẩy
say mê nghề nghiệp, giúp cho giảng viên làm chủ được tri thức trên
cơ sở độc lập suy nghĩ, sáng tạo, biết vận dụng tri thức vào bài
giảng cũng như thực tiễn cuộc sống. Mỗi bài viết, mỗi vấn đề
nghiên cứu đòi hỏi giảng viên phải vạch ra đề cương, đọc những tài
liệu liên quan…vì thế, giảng viên có q trình tích lũy về lượng để
biến đổi về chất; tri thức ngày càng được mở rộng và chun sâu.
Giảng viên sẽ thực sự chủ động trước mọi vấn đề đặt ra và sẽ kết
hợp tốt, sử dụng nhuần nhuyễn các phương pháp trong mỗi giờ
giảng để nâng cao kết quả giảng dạy.

506

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO


Cùng với nghiên cứu khoa học, giảng viên cần coi trọng và
tăng cường thực hiện xêmina của học viên, vì thơng qua xêmina học
viên có điều kiện trực tiếp trao đổi, thảo luận đưa ra những chính
kiến của mình cả về lý luận và thực tiễn; cả những vấn đề đúng và
chưa đúng…Thơng qua xêmina, giảng viên kiểm nghiệm được học
viên đã nắm được bài giảng đến mức độ nào; phương pháp giảng
dạy của giảng viên đã đạt được hiệu quả hay khơng? Kiến thức của
giảng viên còn có chỗ nào chưa thật vững để tự mình điều chỉnh bổ

sung. Thực hiện xêmina, giảng viên là người trọng tài, nghe các ý
kiến phát biểu, tổng hợp và giải đáp khi học viên thảo luận đưa ra
các ý kiến khơng phân thắng bại. Thực hiện tốt xêmina buộc học
viên phải đọc tài liệu, nghiên cứu, chuẩn bị, từ đó sẽ tạo nên động
lực và hứng thú của người học, giúp cho họ nắm vững được lý luận
vận dụng vào thực tiễn được tốt và có hiệu quả.
Tóm lại, q trình giảng dạy, học tập các mơn lý luận chính
trị phụ thuộc vào nhiều yếu tố như đặc điểm mơn học, đặc điểm sinh
viên, phẩm chất và năng lực của giảng viên…. Chính vì thế, khơng
bao giờ có một phương pháp tốt nhất đối với việc nâng cao chất
lượng giảng dạy các mơn học này trong mọi trường hợp. Chỉ có
những phương pháp hợp lý và hiệu quả đối với từng trường hợp của
q trình day học. Một phương pháp là hợp lý và hiệu quả khi dựa
trên sự tác động qua lại giữa người dạy, người học và mơi trường sư
phạm, khai thác vai trò trung tâm của người học, tận dụng triệt để sự
can thiệp có lợi của người dạy. Thực hiện tốt điều này sẽ nâng cao
chất lượng, giảng dạy các mơn lý luận chính trị trong các trường đại
học, cao đẳng hiện nay.

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 2015

507



×