Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

ảnh hưởng của văn học dân gian đến văn học Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.29 KB, 13 trang )

Ảnh hưởng của Văn học dân gian đối với Văn học viết Việt Nam?
Lịch sử văn học dân tộc bao gồm hai bộ phận chính dựa theo hai phương thức sáng tác
khác nhau, truyền miệng và thành văn, nhưng lại còn liên quan đến hai loại hình tác giả có
vị trí xã hội, hoàn cảnh sinh sống, quan niệm nhân sinh, tư tưởng, tình cảm, kể cả hoàn cảnh
sáng tác, tâm thế sáng tác, động cơ sáng tác có mặt khác nhau. Hai bộ phận văn học đó có
quan hệ với nhau. ♦ ♦ ♦
- Đúng là chưa bao giờ văn học dân gian cổ truyền của dân tộc lại sống dậy huy hoàng và
được nhận thức sâu sắc về giá trị và vai trò của nó như trong thời đại ngày nay.
- Trong những thành tựu hiện đại về việc nghiên cứu văn học dân gian cổ truyền của dân tộc,
có một luận điểm khoa học cực kỳ quan trọng được nhiều người thừa nhận là: chính văn học
dân gian là nền tảng của sự phát triển, kết tinh của nền văn học dân tộc.
- Luận điểm này vừa là sự khẳng định vai trò của văn học dân gian, vừa là điều cốt lọi nhất
khi nói về mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết,vừa là phương pháp luận đối
với việc nghiên cứu lịch sử văn học dân tộc nói chung.
“Văn học dân gian là cội nguồn, là bầu sữa mẹ nuôi dưỡng nền văn học dân tộc Việt Nam.
Nhiều thể loại văn học viết được xây dựng và phát triển dựa trên sự kế thừa các thể loại văn
học dân gian.
- Nhiều tác phẩm , nhiều hình tượng do văn học dân gian tạo nên là nguồn cảm hứng, là thi
liệu, văn liệu của văn học viết. Nhiều nhà thơ , nhà văn lớn của dân tộc (Nguyễn Trãi ,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du , Hồ Xuân Hương , Phan Bội Châu , Nguyễn Bính, Hồ Chí
Minh, Nguyễn Duy….) đã tiếp thu có kết quả văn học dân gian để sáng tạo nên những tác
phẩm văn chương ưu tú”.

Lê Thùy Hương

Trang 1


Đó là một nhận định xác đáng thể hiện rõ mối quan hệ máu thịt gắn bó giữa văn học dân gian
và văn học thành văn trong suốt tiến trình phát triển của văn học dân tộc. VHDG chính là nền
tảng của VHV và có tác động lớn đến sự hình thành và phát triển của VHV, là nguồn cảm


hứng dồi dào, tiếp thêm chất liệu và cảm hứng sáng tạo cho văn học viết.

+ Về phương diện nội dung: VHDG cung cấp cho các nhà văn của mọi thời đại những quan
niệm xã hội, đạo đức của nhân dân lao động, của các dân tộc. Ngoài ra, nó còn cung cấp
những tri thức hữu ích về tự nhiên xã hội, góp phần quan trọng về sự hình thành nhân cách
con người.
- Nó bảo tồn, phát huy những truyền thồng tốt đẹp của dân tộc như: truyền thống yêu nước,
tinh thần hướng thiện, trọng nhân nghĩa, giàu tình thương,...Biểu hiện rõ nhất là ở đề tài,
nguồn cảm hứng, tư tưởng nhân ái, tình cảm lạc quan, yêu đời, tình yêu thiên nhiên, đất nước,
tình yêu
Ví như: với Truyện Kiều chẳng hạn. Từ lâu, các nhà nghiên cứu đã nói đến mối quan hệ
giữa Truyện Kiều với văn học dân gian. Nhưng từ chỗ chỉ giới hạn mối quan hệ đó trong
phạm vi một số yếu tố nghệ thuật là thể tài lục bát và thành ngữ tục ngữ... như lâu nay vẫn
thấy đến chỗ kết luận rằng: Truyện Kiều đã kết tinh trên cơ sở văn học dân gian(3) quả là một
điều hoàn toàn không đơn giản bởi nó đã thay đổi chất lượng của sự nhận thức, có thể nói là
thay đổi qui mô của vấn đề. con người,...

- Đề tài tiêu biểu trong văn học dân gian: Số phận người phụ nữ, thân phận người lao động
nói chung, tình yêu đôi lứa, những kinh nghiệm sống quý báu, đặc biệt ngợi ca tình cảm gắn
bó với quê hương, đất nước,...

Lê Thùy Hương

Trang 2


- Nguồn cảm hứng : Văn học dân gian thường lấy nguồn cảm hứng từ thiên nhiên, cuộc sống
xã hội, lao động sản xuất,... .Đặc biệt, ca dao Việt Nam đã đưa ra những tiêu chí về vẻ đẹp
người


con

gái

truyền

thống.

- Tư tưởng nhân ái : Văn học dân gian đề cao tình cảm yêu thương con người nhất là thân
phận người phụ nữ, người lao động cùng khổ,...
ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN ĐỐI VỚI VĂN HỌC VIẾT (NỘI DUNG)

Phương
diện

Văn học dân gian

Văn học viết

nội dung
“Tay làm hàm nhai, tay
quai miệng trễ”,
“Miệng ăn núi lở”
(Tục ngữ)

Đề tài

“Anh em như thể tay
chân
Rách lành đùm bọc, dở

hay đỡ đần”

“Tay ai thì lại làm nuôi miệng
Làm biếng ngồi ăn lở núi non.”
(Bảo kính cảnh giới số 22”
- Nguyễn Trãi)
“Chân tay gẫm lại ai hơn nữa
Tranh cạnh làm chi, lỗi phép nhà”
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)

(Ca dao)
Mười Thương

Lê Thùy Hương

Chân quê

Trang 3


Một thương tóc bỏ đuôi

Hai thương ăn nói mặn
mà có duyên
Ba thương má lúm đồng
Nguồn
cảm

Hôm qua em đi tỉnh về ?
Đợi em ở mãi con đê đầu làng

Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng
Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi !

tiền

Nào đâu có yếm lụa sồi ?

Bốn thương răng lánh

Cái dây lưng đũi nhuộn hồi sang xuân ?

hứng

hạt huyền
kém thua
Năm thương cổ yếm
đeo bùa
Sáu thương nón thượng

Nào đâu cái áo tứ thân ?
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen ?
Nói ra sợ mất lòng em
Van em em hãy giữ nguyên quê mùa

quai tua

Như hôm em di lễ chùa

dịu dàng


Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh

Bảy thương nết ở khôn

Hoa chanh nở giữa vườn chanh

ngoan
Tám thương ăn nói lại
càng thêm xinh
Chín thương cô ở một
mình

Lê Thùy Hương

Thầy u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về?
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều?
Nguyễn Bính - 1936

Trang 4


Mười thương con mắt
hữu tình với ai
“Thương người như thể
Tư tưởng

Bài thơ “Tôi yêu chuyện cổ nước tôi”

thương thân”


– Lâm Thị Mỹ Dạ

(Tục ngữ)

nhân ái

Truyện cổ tích “Thạch
Sanh”,
“Tấm Cám”,....
Tháng giêng , tháng

“...Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại.

hai , tháng ba ,

Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau

tháng bốn , tháng khốn ,
tháng nạn
Đi vay đi dạm , được
một quan tiền
Ra chợ Kẻ Diên mua
con gà mái

Tình cảm
lạc quan

Về nuôi ba tháng , hắn


yêu đời

đẻ ra mười trứng
Một trứng ung ; Hai

chuối thái rối,và một đĩa muối ăn với cháo,
nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Bà cụ
vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với
con dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn
chuyện

sung

sướng

về

sau

này

:

- Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi
gà. Tao tin rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái
chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi
ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho
mà xem...”
(Vợ nhặt – Kim Lân)


trứng ung ;

Lê Thùy Hương

Trang 5


Ba trứng ung
Bốn trứng ung ; Năm
trứng ung ;
Sáu trứng ung
Bảy trứng cũng ung
Còn ba trứng nở ra ba
con
Con diều tha, con quạ
quắp,
con mặt cắt xơi
Chớ than phận khó ai ơi
!
Còn da lông mọc, còn
chồi nảy cây
(Ca dao “Mười quả
trứng”)
“Chẳng thơm cũng thể
hoa nhài
Dẫu không lịch sự cũng
người

Lê Thùy Hương


“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không lịch sự cũng người Trường An
Hồi thủ khả lân ca vũ địa

Trang 6


Trường An”

Đất Trường An là chốn đế kinh

(Ca dao)

Nước non một dải hữu tình

Rủ nhau chơi khắp

Giời Nam Việt trước gây đồ đế kỉ,

Long Thành
Ba mươi sáu phố rành
rành chẳng sai
Hàng Bồ, Hàng Bạc,
Tình
yêu thiên
nhiên, đất

Người thôn ổ, dấu phong lưu thành thị.
Đất kinh kì riêng một áng lâm tuyền
Men sườn non tiếng mục véo von


Hàng Gai

In mặt nước buồm ngư lã chã

Hàng Buồm, Hàng

Hoa thảo kỉ kinh xuân đại tạ

Thiếc,

nước

Hàng Bài, Hàng Khay
Mã Vĩ, Hàng Điếu,
Hàng Giày
Hàng Lờ, Hàng Cót,

Giang sơn trầm tiếu cổ hưng vương
Đồ thiên nhiên riêng một bức tang thương
Khách du lãm coi chừng thăm hỏi
Đã mấy độ sao dời vật đổi

Hàng Mây,

Nào vương cung, đế miếu đâu nào ?

Hàng Đàn

Mỉa mai vượn hót anh chào.”


Phố Mới, Phúc Kiến,

(Vịnh cảnh Hà Nội - Nguyễn Công Trứ)

Hàng Than
Hàng Mã, Hàng Mắm,
Hàng Ngang, Hàng

Lê Thùy Hương

Trang 7


Đồng
Hàng Muối, Hàng Nón,
Cầu Đông
Hàng Hòm, Hàng Đậu,
Hàng Bông,
Hàng Bè
Hàng Thùng, Hàng Bút,
Hàng Tre
Hàng Vôi, hàng Giấy,
Hàng The,
Hàng Gà
Quanh đi đến phố Hàng
Da
Trải xem phường phố
thật là cũng xinh
Phồn hoa thứ nhất Long

Thành
Phố Giăng mắc cửi,
đường quanh bàn cờ
Người về nhớ cảnh

Lê Thùy Hương

Trang 8


ngẩn ngơ
Bút hoa xin chép nên
thơ lưu truyền.
(Ca dao)
Tình yêu

“Thân em cúc mọc bờ
rào,

con
người

Kẻ

“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường...”

qua

ngắt


nhụy,

người vào bẻ bông”

(Truyện Kiều - Nguyễn Du)

(Ca dao)
+ Về phương diện nghệ thuật: VHDG cung cấp cho các nhà văn một kho tàng các truyền
thống nghệ thuật dân tộc, từ ngôn ngữ đến các hình thức thơ ca, các phương pháp xây dựng
nhân vật, hình ảnh, cách nói, các biện pháp tu từ, thể loại, chất liệu dân gian,...
- Ngôn ngữ : ngôn ngữ văn học dân gian mang đậm tính triết lí, giàu chất thơ song hình thức
biểu đạt lại gần gũi, dễ hiểu. Người dân lao động thường dùng những cách nói trong giao tiếp
hàng ngày để diễn đạt tư tưởng, tình cảm cũng như đúc kết kinh nghiệm sống.
VD : Truyền thống lấy lá trầu để làm ngôn ngữ bày tỏ tình cảm :
“Anh thương em trầu hết lá lươn”.
“Bắc thang lên hái ngọn trầu vàng
Trầu em cao số muộn màng anh thương”.
“Bây giờ em mới hỏi anh
Trầu vàng nhá với cau xanh thế nào ?

Lê Thùy Hương

Trang 9


“Cau xanh nhá với trầu vàng,
Tình anh sánh với duyên nàng đẹp đôi.”
→ Tiếp nối truyền thống ấy, Hồ Xuân Hương cũng sử dụng ngôn ngữ trầu cau để bày tỏ khát
vọng hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến :

“Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi” (Mời trầu)
- Hình ảnh : Trong văn học dân gian phần lớn là cảnh thiên nhiên hay sinh hoạt rất quen
thuộc với người bình dân. Trong cuộc sống hàng ngày, người dân lao động rất thân thuộc với
mái đình, cây đa, bến nước,... vì vậy, trong tình yêu đôi lứa, trong nỗi nhớ quê hương,... người
lao động đã tái hiện lại những không gian thân thuộc ấy trong lời ca của mình :
“Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao”.
(Ca dao)
→ Rau muống, con thuyền,... cũng là những hình ảnh không thể thiếu trong thơ Nguyễn Trãi
“...Ao cạn vớt bèo cấy muống,
Đìa thanh phát cỏ ương sen
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,
Thuyền chở yên hà nặng vạy then...”
(Thuật hứng 24 - Nguyễn Trãi)
- Cách nói : Các hình thức lặp lại là đặc trưng nghệ thuật tiêu biểu trong ca dao: lặp lại kết
cấu,

hình

ảnh,

lặp

lại

dòng

thơ


mở

đầu

hoặc

một

từ,

một

cụm

từ,...

Ví dụ :

Lê Thùy Hương

Trang 10


+ Vì thuyền, vì bến, vì sông
Vì hoa nên bận cánh ong đi về.
+ Còn non còn nước còn trời
Còn cô bán rượu còn người say sưa.
+ Yêu nhau mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.

(Ca dao)
Trong “Truyện Kiều” (Nguyễn Du) cũng có những câu thơ có kiểu dùng từ tương ứng:
+ Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa
+ Còn non, còn nước, còn dài
Còn về còn nhớ đến người hôm nay
- Các biện pháp tu từ : Văn học dân gian thường sử dụng các biện pháp tu từ như: so sánh,
ẩn dụ, nhân hoá,... để giúp hình dung một cách cụ thể thông qua những hình ảnh quen thuộc
như : hạt mưa, tấm lụa đào, cái giếng, cây đa, bến nước, con thuyền, con đò,...
Trong ca dao :
“Thuyền về có nhớ bến chăng ?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”.
“Trúc dặn dò mai, bến dặn dò thuyền
Nghe ai quyến rũ bỏ lời nguyền của anh
Bến dặn dò thuyền, trúc dặn dò mai
Nghe ai quyến rũ, không vãng lai chốn này”.
“Lênh đênh một chiếc thuyền tình
Mười hai bến nước biết gửi mình vào đâu”.

Lê Thùy Hương

Trang 11


→ “Thuyền - bến” còn là nguồn cảm hứng của các nhà thơ giúp họ sáng tác nên những tác
phẩm mang đậm tính truyền thống như trong thơ Xuân Diệu :
“Tình giai nhân: bến đợi dưới cây già
Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt”.
Và thơ Hàn Mặc Tử :
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?”.

Hay với sự cách tân của Chế Lan Viên “thuyền - bến” lại là :
“Buổi sáng em xa chi
Cho chiều, mùa thu đến
Để lòng anh ghé bến
Nghe thuyền em ra đi”.
- Thể loại : Hơn 90% số bài ca dao sử dụng thể thơ lục bát hoặc lục bát biến thể. Trong ca dao
còn có thể thơ khác, như : song thất lục bát, vãn bốn, vãn năm. Nguyễn Du đã rất thành công
trong việc sử dụng thể thơ lục bát của dân tộc với tác phẩm “Truyện Kiều”. Ngoài, còn có một
số tác phẩm văn học viết cũng được sử dụng thể thơ dân tộc này : “Lục Vân Tiên” (Nguyễn
Đình

Chiểu),

“Lỡ

bước

sang

ngang”

(Nguyễn

Bính),....

- Chất liệu dân gian : Các nhà thơ đã sử dụng rất linh hoạt chất liệu dân gian vào tác phẩm của
mình

:


VD

:

Câu thơ :

Lê Thùy Hương

Trang 12


“Tay ai thì lại làm nuôi miệng
Làm biếng ngồi ăn lở núi non.”
(Nguyễn Trãi)
→ Gợi liên tưởng tới 2 câu tục ngữ : “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”, “Miệng ăn núi
lở”.
Câu thơ :
“Gần son thì đỏ, mực thì đen
Sáng, biết nhờ ơn thuở bóng đè”
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
→ Làm chúng ta nhớ đến câu tục ngữ “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.
Như vậy, trong quá trình phát triển, hai bộ phận văn học dân gian và văn học viết luôn có mối
quan hệ biện chứng, tác động, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau để cùng phát triển. Văn học dân gian là
nền tảng cho văn học viết tiếp thu. Trái lại, văn học viết có tác động trở lại làm văn học dân
gian thêm phong phú, đa dạng.

Lê Thùy Hương

Trang 13




×