Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

doi moi ppdh cac yeu to hinh hoc lop 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.28 KB, 21 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
I – LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1/ Xuất phát từ yêu cầu đặt ra trong việc đào tạo lớp người lao động
mới, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước :
Sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế
với những ảnh hưởng của xã hội tri thức và toàn cầu hoá tạo ra những cơ hội
nhưng đồng thời đặt ra những yêu cầu mới đối với giáo dục trong việc đào tạo
đội ngũ lao động. Giáo dục đứng trước một thử thách là tri thức của loài người
tăng ngày càng nhanh nhưng cũng lạc hậu ngày càng nhanh. Mặt khác thị trường
lao động luôn đòi hỏi ngày càng cao ở đội ngũ lao động về năng lực hành động,
khả năng sáng tạo, linh hoạt, tính trách nhiệm, năng lực cộng tác làm việc, khả
năng giải quyết các vấn đề phức hợp trong những tình huống thay đổi.
Đất nước ta đang trên đà phát triển từ một nền kinh tế lạc hậu tiến đến một
nền kinh tế công nghiệp hóa hiện đại hóa. Để đáp ứng được yêu cầu đó đòi hỏi
phải có một đội ngũ trí thức đủ trình độ, để tiếp cận với các loại máy móc trang
thiết bị hiện đại. Muốn giải quyết được vấn đề này, cần phải phối hợp chặt chẽ
với các nguồn nhân lực trong toàn xã hội, trong đó GD – ĐT giữ vai trò then
chốt. Như Đại hội IX tiếp tục khẳng định: GD – ĐT là quốc sách hàng đầu, phát
triển GD là một động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
điều kiện phát huy nguồn lực con người, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội,
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Cho nên các yêu cầu về đổi mới GD. Về
mục tiêu, về nội dung, về phương pháp, về hình thức tổ chức … nói chung là
điều tất yếu để góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội.
2/ Xuất phát từ yêu cầu đặt ra trong quá trình triển khai thực hiện đổi
mới giáo dục nói chung và đổi mới giáo dục tiểu học nói riêng :
- Giáo dục nói chung đổi mới để phù hợp với thời kỳ đổi mới kinh tế hiện
nay trong đó giáo dục tiểu học nói riêng. Vì lứa tuổi tiểu học là nền tảng ban đầu
có thể ví như chìa khóa tiếp nhận về tri thức, về thế giới quan, nhân sinh quan.
Cho nên đối với bậc tiểu học cần phải đổi mới về nội dung về phương pháp dạy
học, thực hiện rõ quan điểm “lấy học sinh làm trung tâm”.
- Những đường lối và quan điểm chỉ đạo về giáo dục của nhà nước là những


định hướng quan trọng cho việc phát triển và đổi mới giáo dục TH đã được quán
triệt và vận dụng trong việc xây dựng chương trình TH. Chương trình TH đòi
hỏi đổi mới PPDH nhằm đạt được những mục tiêu của chương trình. Trong đổi
mới PPDH cần chú trọng phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của HS, chú ý
tính phân hoá trong dạy học TH, phát triển năng lực hành động, tăng cường thực
hành, gắn nội dung dạy học với thực tiễn cuộc sống và nghề nghiệp.
3/ Xuất phát từ thực trạng việc dạy và học các yếu tố hình học lớp 1 ở
trường tiểu học hiện nay:
Dạy học toán ở bậc Tiểu học nhằm giúp học sinh : Có những kiến thức
cơ bản ban đầu về số học các số tự nhiên, phân số, số thập phân; các đại lượng
thông dụng; một số yếu tố hình học và thống kê đơn giản. Hình thành các kĩ
năng tính, đo lường giải bài toán có nhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống.

1


Góp phần bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lí và diễn
đạt đúng ( nói và viết ) cách phát hiện và cách giải quyết các vấn đề đơn giản,
gần gũi trong cuộc sống; kích thích trí tưởng tượng; gây hứng thú học tập toán;
góp phần hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch,
khoa học, chủ động linh hoạt, sáng tạo.
Qua nhiều năm dạy lớp 1, tôi nhận thấy kiến thức hình học có rất nhiều
ứng dụng trong đời sống hàng ngày. Ngay từ lớp 1, trẻ luôn tò mò, ham thích
tìm hiểu hình học, tìm hiểu không gian xung quanh. Khơi dậy những tiềm năng
này sẽ tạo nên hứng thú học toán, hỗ trợ cho các tuyến khác và thúc đẩy trí tuệ
của trẻ.
Dạy các yếu tố hình học lớp 1 như thế nào để đạt được hiệu quả cao nhất
phát huy được tính chủ động tích cực của học sinh phù hợp với yêu cầu đổi mới
của phương pháp dạy học đó là điều tôi luôn quan tâm và suy nghĩ. Chính vì
vậy, tôi đã lựa chọn và áp dụng “Đổi mới PPDH các yếu tố hình học cho học

sinh lớp 1” nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Toán.
II - MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đề tài nhằm
1. Tìm hiểu những vấn đề chung về đổi mới phương pháp dạy học môn toán tiểu
học
2. Tìm hiểu mục tiêu và nội dung dạy học môn toán ở lớp 1
3. Thiết kế các hoạt động dạy học về các yếu tố hình học theo yêu cầu đổi mới
nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập, góp phần nâng cao chất
lượng dạy học các yếu tố hình học nói riêng và môn toán lớp 1 nói chung.
III – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
Để hoàn thành đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu để tìm ra nguyên tắc sắp xếp các yếu tố
hình học; nghiên cứu cơ sở lý luận để tìm ra giải pháp dạy các yếu tố hình học.
- Phương pháp điều tra quan sát.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp tổng hợp kinh nghiệm.
IV – TÓM TẮT NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG ĐỀ TÀI
* Tóm tắt nội dung của đề tài:

2


- Phần mở đầu
- Phần nội dung đề tài gồm có các nội dung chính sau :
+ Những vấn đề chung về đổi mới phương pháp dạy học môn toán ở tiểu học.
+ Thiết kế các hoạt động dạy học về các yếu tố hình học ở lớp 1 theo yêu cầu
đổi mới PPDH.
+ Thiết kế các hoạt động về dạy các yếu tố hình học ở lớp 1 nhằm phát huy tích
cực của học sinh trong học tập.
- Phần thực nghiệm .

- Phần kết luận.
* Một số kết quả đạt được trong đề tài:
Qua việc nghiên cứu tài liệu, điều tra khảo sát tình hình thực tế cùng với
việc trực tiếp giảng dạy phần kiến thức về dạy các yếu tố hình học ở lớp 1 tôi đã
thu được một số kết quả sau :
- Những vấn đề chung về phương pháp dạy học môn toán ở tiểu học.
- Tìm hiểu nội dung và phương pháp dạy học về các yếu tố hình học ở lớp 1
- Thiết kế một số hoạt động dạy học theo pp đổi mới theo hướng tích cực hóa
hoạt động học của học sinh.
- Tìm hiểu nội dung cơ bản về phương pháp dạy học tích cực để đưa vào thực
tiễn các vấn đề đã nghiên cứu.
V – MỘT SỐ TRIỂN VỌNG NGHIÊN CỨU SAU ĐỀ TÀI :
Nghiên cứu tìm hiểu nội dung đổi mới phương pháp dạy học dạy các yếu tố
hình học ở lớp 1, theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, nhằm phục vụ
trong công tác dạy học Tiểu học nói chung môn toán lớp 1 nói riêng ngày một
tốt hơn.
PHẦN NỘI DUNG
A.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
MÔN TOÁN Ở TIỂU HỌC :
I – TẠI SAO PHẢI ĐỔI MỚI ?
1/ Sự chuyển đổi cơ cấu của nền kinh tế xã hội từ bao cấp sang nền kinh
tế thị trường :
Với sự phát triển của các mạng khoa học - công nghệ hiện nay, với những
bước nhảy vọt trong thời buổi hiện nay đã đưa thế giới chuyển từ kỷ nguyên
công nghệ sang kỷ nguyên thông tin và phát triển tri thức, đồng thời tác động tới
tất cả các lĩnh vực, làm biến đổi nhanh chóng và sâu sắc đời sống vật chất và
tinh thần của xã hội hiện nay.
.
Vì thế mà làm cho khoảng cách giữa các phát minh khoa học - công nghệ và áp
dụng vào thực tiễn ngày càng thu hẹp; kho tàng kiến thức của nhân loại ngày

càng đa dạng và phong phú và tăng theo cấp số nhân.
Với sự phát triển của các quốc gia hiện nay thì nó càng đòi hỏi phải tăng suất lao
động, năng suất lao động, nâng cao chất lượng hàng hóa và đổi mới công nghệ
một cách nhanh chóng. Các phương tiện truyền thông, mạng viễn thông, internet

3


đã tạo thuận lợi cho giao lưu và hội nhập văn hóa, đồng thời cũng đang diễn ra
cuộc đấu tranh gay gắt để bảo tồn bản sắc dân tộc.
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, sự phát triển năng động
của các nền kinh tế, quá trình hội nhập và toàn cầu hóa đang làm cho việc rút
ngắn khoảng cách về trình độ phát triển giữa các nước trở nên thực tiễn hơn và
nhanh chóng hơn. Khoa học - công nghệ trở thành động lực cơ bản của sự phát
triển kinh tế - xã hội. Giáo dục là nền tảng của sự phát triển khoa học - công
nghệ, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại và đóng vai
trò chủ yếu trong việc nâng cao ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiệm và năng
lực của các thệ hệ hiện nay và mai sau.
Phát huy tính tích cực của học sinh không phải là vấn đề mới mà đã được đặt ra
trong ngành giáo dục nước ta từ những năm 60 của thế kỷ trước. Những năm
vừa qua, trong phong trào đổi mới phương pháp dạy học một số không ít giáo
viên có tâm huyết với nghề, có hiểu biết sâu sắc về bộ môn, có tay nghề khá và
nhạy cảm trước yêu cầu của xã hội đã thực hiện nhiều giờ dạy tốt, phản ánh
được tinh thần của xu thế mới. Tuy nhiên, phổ biến hiện nay vẫn là cách dạy
thông báo kiến thức có sẵn, dạy học theo phương pháp thuyết trình có kết hợp
với đàm thoại là chủ yếu mà về thực chất vẫn là thầy truyền đạt, trò tiếp nhận và
ghi nhớ.
Một nét nổi bật hiện nay là nói chung học sinh chưa biết cách tự học, chưa học
tập một cách tích cực. Nếu tiếp tục cách dạy học thụ động như thế sẽ không đáp
ứng được những yêu cầu mới của xã hội. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước và sự thách thức trước nguy cơ tụt hậu trong cạnh tranh trí tuệ
đang đòi hỏi phải đổi mới giáo dục, trong đó có sự đổi mới căn bản về phương
pháp dạy học. Đây không phải là vấn đề của riêng nước ta mà là vấn đề đang
được quan tâm của mọi quốc gia trong chiến lược phát triển nguồn lực con
người phục vụ mục tiêu kinh tế- xã hội.
2/ Xuất phát từ chủ trương của Bộ GD & ĐT trong việc triển khai sách
giáo khoa năm 2000 :
- Với thực trạng hiện nay dư luận xã hội rất quan tâm đến giáo dục vì nó là
để phát triển theo hướng công nghiệp hhiện đại. Vì thế việc Bộ GD & ĐT xây
dựng chương trình sách giáo khoa năm 2000 để đào tạo thế hệ trẻ một cách toàn
diện. Nhằm giúp cho học sinh hình thành cơ sở ban đầu phát triển một cách
đúng đắn và lâu dài về: đạo đức, trí tuệ, thể chất thẩm mỹ, các kỹ năng cơ bản
mà trẻ em ở lứa tiểu Tiểu học cần phải có, góp phần hình thành nhân cách con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dụng tư cách và trách nhiệm
công nhân, chuẩn bị cho học sinh Tiểu học học tiếp ở các bậc cao hơn.
- Quán triệt mục tiêu yêu cầu ĐT- GD yêu cầu về nội dung về phương pháp,
giáo dục theo từng bậc học, cấp học đã được quy định.. trong Luật Giáo dục,
khắc phục những hạn chế chương trình SGK hiện hành.
- Đảm bảo tính thống nhất kế thừa trong đổi mới chương trình và phát triển
chương trình giáo dục, tăng cường tính hệ thống giữa giáo dục phổ thông với
giáo dục nghề nghiệp, đảm bảo sự thống nhất về chuẩn.

4


- Đảm bảo sự nâng cấp đổi mới trang thiết bị dạy và học.
- Thực hiện một cách đồng bộ việc đổi mới chương trình SGK, phương pháp
dạy và học với việc đổi mới phương pháp đánh giá; thi cử ; đổi mới đào tạo và
bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, đội ngũ quản lý công tác giáo dục .
3/ Xuất phát từ hạn chế của phương pháp dạy học truyền thống trong

nhà trường Tiểu học :
Giáo viên thường truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn trong
SGK, sách giáo viên. Vì vậy, giáo viên thường làm nhiều làm việc một cách
máy mó, rập khuông ít quan tâm đến sự sáng tạo của học sinh. Học sinh học tập
một cách thụ động, chỉ nghe giảng ghi nhớ, rồi làm theo mẫu. Từ đó học sinh ít
hứng thú trong học tập. Nội dung học tập thường nghèo nàn đơn điệu, các năng
lực sắn có của các em ít có cơ hội phát triển.
Qua việc đánh giá kết quả học tập : giáo viên là người duy nhất đánh giá kết
quả học tập của học sinh. Học sinh ít được tự đánh giá về bản thân và đánh giá
lẫn nhau, tiêu chuẩn đánh giá học sinh là kết quả ghi nhớ và tái hiện lại những
điều giáo viên đã giảng. Cách học như vậy đã cản trở phần nào việc đào tạo
những con người lao động năng nổ, linh hoạt sáng tạo chưa thích ứng với những
đổi mới đang diễn ra hằng ngày. Do đó phải đổi mới phương pháp dạy học là
điều tất yếu, để nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước.
4/ Xuất phát từ thực trạng dạy học môn toán hiện nay :
Phương pháp dạy học toán ở Tiểu học hiện nay còn một số nơi vẫn tồn tại
kiểu dạy học khó thì chấp nhận, đó là kiểu dạy “Thầy đọc, trò chép”, “Thầy nói
trò nghe”, “Thầy viết lên bảng trò viết vào tập” học sinh làm theo mẫu của giáo
viên, không kích thích sự tìm tòi sáng tạo của học sinh.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau, việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học chưa
được đồng bộ, cho chưa đổi mới phươngpháp dạy học một cách triệt để.
Trang thiết bị phục cho việc dạy học toán hiện nay đã đóng góp vào quá trình
nâng cao chất lượng việc dạy và học toán trong chương trình. Có thể nói hầu hết
các bài học toán ở lớp 1, 2 và nhiều bài học ở lớp 3, 4, 5 điều rất cần sự hỗ trợ
của đồ dùng dạy học, thậm chí không thể thiếu được. Hiện nay ở các trường
Tiêu học tự làm và bảo quản đồ dùng dạy học khá tốt. Qua các cuộc thi làm đồ
dùng dạy học, chứng tỏ giáo viên có nhiều suy nghĩ sáng tạo, tự chế các đồ dùng
vừa rẻ, vừa có thể sử dụng được nhiều nội dung.
II – ĐỔI MỚI CÁI GÌ ?

1 / Đổi mới về nhận thức
Đổi mới phương pháp dạy học là sử dụng hợp lý các phương pháp dạy
học để tổ chức quá trình dạy học nhằm phát huiy tính tích cực chủ động học tập
của học sinh; dạy cho học sinh phương pháp học tập, phát huy tốt các trụ cột của
việc học, giúp học sinh có khả năng tự học để có thể học suốt đời.
- Đổi mới nhận thức trong các đối tượng sau:
+ Các cấp lãnh đạo chính quyền và quản lý giáo dục
Đổi mới phương pháp dạy học được thể hiện trong quan điểm giáo dục của
Đảng ta, Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII đã xác định phải “khuyến khích tự
học”, phải “ áp dụng những phương pháp giảng dạy hiện đại để bồi dưỡng cho

5


học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề”. Nghị quyết
Trung ương 2 khóa VIII tiếp tục khẳng định phải “ Đổi mới phương pháp giáo
dục đào tạo, khắc phục lỗi truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng
tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương tiện tiên tiến và các phương
tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự
nghiên cứu cho học sinh”. Tiếp đó, chỉ thị 40 của Ban Bí thư trung ương ngày
15 tháng 6 năm 2004 về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục cũng khẳng định yêu cầu: “Đặc biệt đổi mới mạnh mẽ
và cơ bản phương pháp giáo dục nhằm khắc phục kiểu truyền thụ một chiều,
nặng lý thuyết, ít khuyến khích tư duy sáng tạo; bồi dưỡng năng lực tự học, tự
nghiên cứu, tự giải quyết vấn đề, phát triển năng lực thực hành sáng tạo cho
người học, đặc biệt là cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng. Tích cực áp
dụng một cách sáng tạo các phương pháp tiên tiến, hiện đại, ứng dụng công
nghệ thông tin vào hoạt động dạy và học”.
Định hướng trên được pháp chế hóa trong Luật giáo dục. Tại Điều 28 khoản 2
Luật Giáo dục sửa đổi 2010 khẳng định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải

phát huy tính tích cực, tự giác, tự giác, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc
điểm từng lớp, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú
học tập cho học sinh”.
+ Giáo viên và học sinh
Để đổi mới phương pháp giảng dạy có hiệu quả, Giáo viên là yếu tố quyết định
hàng đầu trong việc thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy. Với sự nhận thức
đúng đắn, với tinh thần trách nhiệm và sự quyết tâm cao, kỹ năng sử dụng thiết
bị dạy học và tổ chức hướng dẫn học sinh học tập tốt là những phẩm chất cần
thiết của người giáo viên trong nhà trường.
Tri thức của giáo viên là những đặc điểm quan trọng trong công tác giáo dục.
Giáo viên với bất cứ lớp học nào đều phải hội đủ các điều kiện về kiến thức, khả
năng giảng dạy hữu hiệu, lòng nhiệt thành và đức tính thân mật. Bên cạch đó
giáo viên phải phải có kỹ năng tổ chức hướng dẫn học sinh trong lớp học, có kỹ
năng sử dụng đồ dùng dạy học, có năng lực tự thu thập thông tin phong phú của
thời đại để phục vụ yêu cầu dạy học.
Người giáo viên phải có kiến thức đa dạng.
Giáo viên có kiến thức uyên thâm, có kiến thức sư phạm về các đề tài giảng
dạy đồng thời phải có khả năng truyền tải những kiến thức vào chương trình
giảng dạy, vào bài soạn, vào lối trình bày giản dị sáng tỏ, áp dụng vào bài làm,
vào bài ôn tập, vào đường lối đánh giá cũng như các hoạt động khác của việc
giảng dạy.
Giáo viên phải xác định được những vấn đề cần đổi mới.
Giáo viên muốn đổi mới phương pháp dạy học thì phải xác định trước mục
tiêu giáo dục được đổi mới, nội dung giáo dục đổi mới phương tiện dạy học,
hình thức tổ chức và phương thức đánh giá giáo dục phải đáp ứng được nhu cầu
đổi mới.Mục đích của nhà trường được xác định đào tạo những con người phát
triển toàn diện, có phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần dân tộc, có ý thức chấp
hành tổ chức kỷ luật tốt, chủ động sáng tạo....


6


Điều quan trọng là phải lưu ý một số lĩnh vực thực tế giảng dạy.
- Lập kế hoạch và chuẩn bị môi trường lớp học, giảng dạy và trách nhiệm
chuyên môn
- Cung cấp một khuôn khổ tuyệt vời cho cuộc đối thoại về kinh nghiệm lớp
học và sự phát triển giáo viên.
-Thúc đẩy hoạt động hiệu quả nhất việc sử dụng thời gian và làm cho cả
lớp tham gia
- Cung cấp đầu vào hay lập mô hình thích hợp để phổ biến tài liệu mới, kiểm
tra hiểu biết và thay đổi tiến độ giảng dạy phù hợp tạo ra cách sử dụng kiến thức
độc lập, theo hướng dẫn.
Giáo viên phải nắm vững kỹ năng truyền đạt kiến thức
Giáo viên phải nắm vững yêu cầu nội dung giáo dục, nắm vững kiến thức và
kỹ năng cần truyền đạt đến học sinh để thiết kế dẫn dắt học sinh đi từ dễ đến
khó, từ ít đến nhiều, dẫn dắt học sinh tự học.
Việc dạy cách học, học cách học hoặc hướng vào người học để phát huy
tính chủ động của người học.
Đổi mới phương pháp dạy học phụ thuộc vào đối tượng, điều kiện, hoàn cảnh
vì vậy nhà giáo cần phải chủ động và có sáng kiến.
* Làm cho học sinh biết tự học, tự vận dụng
* Luôn liên hệ với thực tiễn đang thay đổi
* Làm cho học sinh biết hợp tác và chia sẻ.
* Tận dụng sự hỗ trợ của phương tiện dạy học
* Học cách thức đi tới sự hiểu biết. Coi trọng sự khám phá và khai phá trong
học thuật.
* Học kỹ năng thực hành và thái độ thực tiễn trong nghề nghiệp
* Học phong cách độc lập, sáng tạo, linh hoạt trong nhận thức và hành động.
Biết mềm hóa tư duy và tuy cơ ứng biến.

* Học phương pháp nghiên cứu đi từ phân tích đối tượng và môi trường để
tìm giải pháp đồng bộ giải quyết những tình huống đa chiều.
- Đổi mới nhận thức của các bậc phụ huynh và dư luận rộng rãi ngoài xã
hội hiểu được sự cần thiết tác dụng tích cực trong việc đổi mới PPDH.
2 / Đổi mới chương trình nội dung sách giáo khoa các môn học :
Việc dạy học môn tóan ở tiểu học nói chung, ở lớp 3 nói riêng giáo viên
cần phải nắm được trọng tâm của từng dạng toán, bên cạnh truyền đạt những
khái niệm ban đầu phải kết hợp vận dụng thực hành.
Về nội dung của chương trình :
- Phối hợp một cách chặt chẽ, hữu cơ với nhau, sự thống nhất của toán
học, đảm bảo tính kế thừa và liên tục.
- Gắn bó chặt chẽ về các hoạt động như: tính nhẩm, tính viết, đếm, đọc,
… kết hợp giải quyết các vấn đề về nội dung và chương trình mới là phát huy
tính tích cực của học sinh, học đi đôi với hành, lý luận và thực tiễn.
- Trong chương trình mới các bài toán phải đòi hỏi học sinh tự thân vận
động, vận dụng những điều đã học để củng cố kiến thức và kỹ năng, tập tự giải
quyết các tình huống trong học tập và trong đời sống.

7


Chính vì thế thời gian học toán ở tiểu học chủ yếu là thời gian thực hành,
vận dụng.
3/ Đổi mới cơ sở vật chất, trang thiết bị và đồ dùng dạy học phục vụ việc
dạy và học toán:
Cần đổi mới trang thiết bị dạy học để có thể phát huy tối đa chứa năng của
các phương pháp dạy học tích cực . Sử dụng phương tiện dạy học hợp lý sẽ giảm
đi những thời gia chết của lớp học, thí dụ học sinh không phải chờ giáo viên viết
bảng quá lâu hay vẽ một hình ảnh nào đó, . . . Lớp học đủ rộng để thầy trò dễ
dàng tổ chức các hoạt động học tập như hoạt động nhóm, trò chơi, . . . và biên

chế cho học sinh mỗi lớp không nên quá 30 người, đặc biệt trẻ càng nhỏ càng
không nên học trong lớp đông người.
Phương tiện dạy học chính là công cụ đi đến thành công việc đổi mới phương
pháp dạy học. Chính vì thế đổi mới phương pháp dạy học là cần thiết, việc đổi
mới cần thực hiện theo các hướng :
- Tạo cho học sinh có những cơ sở vật chất theo hướng quy định.
- Xây dựng phổ biến các loại phương tiện dạy khác nhau như : các loại
phiếu học tập, các đồ dùng làm thí nghiệm, các đồ dùng trực quan, các phương
tiện kỹ thuật ( áp dụng công nghệ thông tin trong giờ dạy )
- Tổ chức hướng dẫn cho học sinh tập làm quen sử dụng dạy học để hình
thành tri thức mới.
4 / Đổi mới về các hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích
cực của học sinh trong học tập.
Phát huy tính tích cực của học sinh thông qua hàng loạt các tác động của giáo
viên là bản chất của phương pháp giảng dạy mới. Khi nói đến tính tích cực,
chúng ta quan niệm là lòng mong muốn hành động được nảy sinh từ phía học
sinh, được biểu hiện ra bên ngoài hay bên trong của sự hoạt động. Nhờ phát huy
được tính tích cực mà sinh viên không còn bị thụ động. học Sinh trở thành các
cá nhân trong một tập thể mang khát vọng được khám phá, hiểu biết. Muốn vậy,
điều khó khăn nhất với người giáo viên là: Trong một giờ lên lớp, phải làm sao
cho những học sinh tốt nhất cũng được thoả mãn nhu cầu tri thức, thấy tri thức
là một chân trời mới. Còn những học sinh học yếu nhất cũng không thấy bị bỏ
rơi, họ cũng tham gia được vào quá trình khám phá cái mới. Điều này là đặc biệt
cần thiết, vì học sinh sẽ hào hứng để đi tìm tri thức chứ không còn bị động, bị
nhồi nhét nữa. Như vậy, nguyện vọng hành động thế này hay thế khác là kết quả
của sự mong muốn của chúng ta.
- Giáo viên phải biết sử dụng phối hợp các hình thức dạy học để hướng dẫn học
sinh tự tìm tòi, phát hiện tự chiếm lĩnh kiến thức cho chính mình. Tổ chức
hướng dẫn các hoạt động học tập của học sinh không nói, viết, làm mẫu những
gì học sinh có thể làm được (cá nhân hoặc nhóm học sinh).


8


- Khi dạy học cần giúp học sinh tự nêu (phát triển) vấn đề, tự phát hiện các kiến
thức,kỹ năng đã có,với sự trợ giúp(nếu cần thiết) của các hình vẽ,mô hình thật
để giải quyết vấn đề(cá nhân hoặc nhóm học sinh) trao đổi ý kiến bình luân,thực
hành vận dụng ngay trong tiết học
Các hình thức tổ chức dạy học toán thường vận dụng là: hình thức nhóm (nhóm
đôi, nhóm ba, nhóm bốn…), hình thức cá nhân, hình thức học tập ngoài lớp học,
hình thức trò chơi…
5 / Đổi mới công tác kiểm tra đánh giá việc dạy của giáo viên và việc học
của học sinh :
Kiểm tra và đánh giá là hai khâu trong một quy trình thống nhất nhằm xác
định kết quả thực hiện mục tiêu dạy học. Kiềm tra là thu thập thông tin từ riêng
lẻ đến hệ thống về kết quả thực hiện mục tiêu dạy học. Đánh giá là xác định
mức` độ đạt được về thực hiện mục tiêu dạy học.
Đánh giá kết quả học tệp thực chất là việc xem xét mức độ đạt được của hoạt
động học của học sinh so với mục tiêu đề ra đối với từng môn học, lớp học, cấp
học. Mục tiêu của mỗi môn học được cụ thể hóa thành các chuẩn kiến thức, kỹ
năng. Từ các chuẩn này, khi tiến hành kiếm ta, đánh giá kết quả học tập môn
học, cần phải thiết kế những tiêu chí nhằm kiểm tra được đầy đủ cả về định tính
và định lượng kết quả học tap5 của học sinh.
Trong quá trình dạy học, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh là một
khâu quan trọng nhằm xác định thành tích học tập và mức độ chiếm lĩnh kiến
thức, kĩ năng, thái độ học tập của học sinh, nó vừa đóng vai trò bánh lái, vừa giữ
vai trò động lực của dạy học. Có nghĩa là nó tác dụng định hướng, thúa đẩy
mạnh mẽ hoạt động dạy học và hoạt động quản lý giáo dục.
Đối với học sinh, kiểm tra đánh giá có tác dụng thúc đẩy quá trình học tập phát
triển không ngừng. Qua kết quả kiếm tra, học sinh tự đánh giá mức độ chiếm

lĩnh tri thức, kĩ năng so với yêu cầu của môn học và tự mình ôn tập, củng cố bổ
sung, hoàn thành học vấn bằng phương pháp tự học với hệ thống các thao tác tư
duy của chính mình. Do đó, kiểm tra đánh giá chẳng những là biện pháp để hoàn
thiện nội dung học tập mà còn là điều kiện để rèn luyện phương pháp và hình
thành thái độ học tập tích cực cho học sinh.
Đối với giáo viên, kết quả kiểm tra đánh giá vừa phản ánh thành tích học tập của
học sinh vừa giúp giáo viên tự đánh giá vốn tri thức, trình độ chuyên môn, năng
lực sư phạm, nhân cách uy tín của mình trước học sinh. Trên cơ sở đó không
ngừng nâng cao và hoàn thiện cả về trình độ học vấn, về nghệ thuật sư phạm và
nhân cách người thầy giáo.
Đối với các cấp quản lý từ cơ sở trường học tới trung ương, kiểm tra đánh giá là
biện pháp để đánh giá kết quả đào tạo cả về định lượng và định tính. Đó là cơ sớ

9


để xây dựng chiến lược giáo dục về mục tiêu, về đội ngũ giáo viên, vấn đề đổi
mới nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động dạy học.
Yêu cầu của kiểm tra đánh giá cần phải dực vào mục tiêu của bài dạy, của
chương trình dạy. Cách kiểm tra đánh giá sẽ quy định cách dạy của thầy và cách
học của trò. Nếu quy trình đánh giá là đánh giá sự sáng tạo và đánh giá năng lực
thì quá trình đánh giá không dừng ở cấp độ đánh giá sự tái hiện kiến thức đơn
thuần. Theo chỉ đạo của Bộ Giáo dục và đào tạo, các trường cần tăng cường đổi
mới khâu kiểm tra, đánh giá thường xuyên, định kỳ. Phối hợp có hiệu quả giữa
các hình thức kiểm tra vấn đáp, tự luận và trắc nghiệm khách quan nhằm trang
bị cho học sinh kiến thức, kỹ năng đáp ứng yêu cầu đối với chương trình dạy
học. Đổi mới khâu kiểm tra nhằm phản ánh đúng chất lượng dạy và học cần đảm
bảo các yêu cầu:
- Kiểm tra, đánh giá phải căn cứ vào Chuẩn kiến thức, kỹ năng của từng môn
học ở từng lớp học.

- Kiểm tra, đánh giá phải thể hiện được vai trò chỉ đạo, kiểm tra tra việc thực
hiện chương trình, kế hoạch giảng dạy, học tập của nhà trường. Cần tăng cường
đổi mới khâu kiểm tra, đánh giá thường xuyên, định kì; đảm bảo chất lượng
kiểm tra, đánh giá thường xuyên, định kì chính xác, khách quan, công bằng.
- Áp dụng các phương pháp phân tích hiện đại để tăng cường tính tương đương
của các đề kiểm tra, thi.
- Đánh giá chính xác, đúng thực trạng.
- Đánh giá phải kịp thời để có tác dụng giáo dục và động viên sự tiến bộ của học
sinh, giúp học sinh sửa chữa thiếu sót.
- Đánh giá kết quả học tập, thành tích học tập của học sinh không chỉ đánh giá
kết quả cuối cùng, mà cần chú ý cả quá trình học tập.
- Đánh giá kết quả học tập kết hợp với đánh giá hoạt động dạy của giáo viên.
- Kết hợp thật hợp lí giữa đánh giá định tính và định lượng.
- Kết hợp đánh giá trong và đánh giá ngoài.
. Như vậy dạy học sẽ tránh nhồi nhét, giáo viên và học sinh buộc phải hình
thành cho được những năng lực của trò. Tóm lại đánh giá mang tính tích cực sẽ
dẫn đấn dạy và học tích cực.
III - MỘT SỐ HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC MÔN TOÁN NHẰM
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG HỌC TẬP:
Một số hình thức thường vận dụng trong dạy học toán nhằm phát huy tính tích
cực học tập của học sinh là:
1, Học cá nhân ở lớp ( học theo lớp )
Học sinh hoạt động theo sự hướng dẫn của giáo viên, giáo viên hướng dẫn
bằng lời bắt đầu bằng một hoạt động hoặc viết lời hướng dẫn dưới hình thức là
một câu hỏi, bài tập trong phiểu giao việc. Học sinh tự học toán, tự chiếm lĩnh
tri thức mới để luyện tập thực hành theo cá nhân, các em có thể tự đánh giá về
khả năng học tập của mình. Khi học giáo viên theo dõi, hướng dẫn các em đi
đến mục tiêu cần đạt.
2,Học theo nhóm:


10


Tuỳ theo tính chất và từng nội dung của bài học tiết học có thể chia nhóm
đẻ học môn toán:
- Nhóm hỗn hợp (tất cá các đối tượng giỏi, khá, trung bình, yếu)
- Nhóm theo trình độ (nhóm giỏi, nhóm khá, nhóm trung bình. nhóm yếu)
- Nhóm theo sở trường.
Tóm lại : hoạt động chủ yếu của tiết học toán nên tổ chức cho các em trao đổi
ý kiến để từ đó thống nhất cách đúng nhất, thông qua việc kiểm tra lẫn nhau
dưới sự điều khiển của giáo viên.
3, Tổ chức trò chơi học tập:
Trò chơi học tập bao gồm các trò chơi có mục đích học tập rõ rệt. Trong
việc dạy học toán ở tiểu học, đặc biệt là ở giai đoạn đầu ở bậc Tiểu học ( lớp 1,
2, 3 ) các trò chơi học tập toán có tác dụng gây hứng thú trong giờ học, góp phần
làm cho tiết học sinh động hẳn lên, kích thích được trí tưởng tượng, rèn luyện về
trí nhớ, huy động được nhiều tri thức trong một thời gian ngắn.
4, Học toán ngoài lớp học:
Thực hành đo diện tích một miếng ruông, đo diện tích một căn phòng, đo
diện tích một căn nhà… tiếp xúc với trang thiết bị hiện đại, tham quan trung tâm
máy tính, tham quan các cơ sở sản xuất thương nghiệp. Cần phải kết hợp với các
môn học khác những vấn đề về thực tế xã hội.
5, Hoạt động theo chủ đề:
Nghe báo cáo, xem triển lãm, đi thực tế, tiếp xúc trao đổi ý kiến những
vấn đề chủ yếu của chủ đề đã được đặt ra, tập ghi chép những gì mà các em thu
thập được.
6, Hoạt động chuyên biệt:
Bồi dưỡng học sinh giỏi toán, bồi dưỡng học kém toán, các hoạt động này
thường tiến hành ngoài giờ chính khóa, bằng các hình thức học tập theo nhóm,
học tập đôi bạn.

IV- MỘT SỐ THÔNG TIN VỀ ĐỔI MỚI PPDH Ở ĐỊA PHƯƠNG,
TRONG NƯỚC, TRONG KHU VỰC VÀ TRÊN THẾ GIỚI
Về phương pháp dạy và học Toán, các nước tiên tiến và ngay các nước ở
quanh ta như Thái Lan, Singapore, Malay-xia,... họ đã thay đổi nhiều, giáo viên
được đào tạo để đổi mới phương pháp dạy toán theo định hướng tích cực hóa
trong học tập của học sinh, vận dụng các phương pháp dạy học toán tiên tiến
phù hợp với xu thế chung trên thế giới, đưa Toán học vận dụng vào thực tế.
Ngày nay, công nghệ thông tin phát triển chóng mặt, nhiều phần mềm dạy và
học Toán hỗ trợ cho dạy và học Toán rất hiệu quả như Geometer’s Sketchpad,
Géospace W , Cabri, Geogebra, MAPLE, Auto Graph,... và nhiều công cụ khác
như máy tính điện tử cầm tay Casio, Vinacal,... đã làm cho việc dạy và học toán
phải thay đổi.
Đã có rất nhiều giáo viên áp dụng phương pháp mới vào trong quá trình dạy
học. Đó là PPDH hiện đại xuất hiện ở các nước phương Tây (ở Mỹ, ở Pháp...) từ
đầu thế kỷ XX và được phát triển mạnh từ nửa sau của thế kỷ, có ảnh hưởng sâu
rộng tới các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Đó là cách thức DH theo
lối phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Vì thế thường gọi PP này là
PPDH tích cực; ở đó, giáo viên là người giữ vài trò hướng dẫn, gợi ý, tổ chức,

11


giúp cho người học tự tìm kiếm, khám phá những tri thức mới theo kiểu tranh
luận, hội thảo theo nhóm. Người thầy có vai trò là trọng tài, cố vấn điều khiển
tiến trình giờ dạy. PPDH này rất đáng chú ý đến đối tượng học sinh, coi trọng
việc nâng cao quyền năng cho người học. Giáo viên là người nêu tình huống,
kích thích hứng thú, suy nghĩ và phân xử các ý kiến đối lập của học sinh; từ đó
hệ thống hoá các vấn đề, tổng kết bài giảng, khắc sâu những tri thức cần nắm
vững. Giáo án dạy học theo PP tích cực được thiết kế kiểu chiều ngang theo hai
hướng song hành giữa hoạt động dạy của thầy và học của trò. Ưu điểm của

PPDH tích cực rất chú trọng kỹ năng thực hành, vận dụng giải quyết các vấn đề
thực tiễn, coi trọng rèn luyện và tự học.
Tại sao phải đổi mới phương pháp dạy học?Đổi mối giáo dục đang diễn ra trên
quy mô toàn cầu. Bối cảnh trên tạo nên những thay đổi sâu sắc trong giáo dục,
từ quan niệm về chất lượng giáo dục, xây dựng nhân cách người học đến cách tổ
chức quá trình và hệ thống giáo dục. Nhà trường từ chỗ khép kín chuyển sang
mở cửa rộng rãi, đối thoại với xã hội và gắn bó chặt chẽ với nghiên cứu khoa
học- công nghệ và ứng dụng; nhà giáo thay vì chỉ truyền đạt tri thức, chuyển
sang cung cấp cho người học phương pháp thu nhận thông tin một cách hệ
thống, có tư duy phân tích và tổng hợp. Đầu tư cho giáo dục từ chỗ được xem
như là phúc lợi xã hội chuyển sang đầu tư cho phát triển.
Vì vậy, các quốc gia, từ những nước đang phát triển đến những nước phát triển
đều nhận thức được vai trò và vị trí hàng đầu của giáo dục, đều phải đổi mới
giáo dục để có thể đáp ứng một cách năng động hơn, hiệu quả hơn, trực tiếp hơn
những nhu cầu của sự phát triển đất nước. Trong giáo dục, quy trình đào tạo
được xem như là một hệ thống bao gồm các yêu tố: mục tiêu, chương trình đào
tạo, nội dung, hình thức tổ chức dạy học, phương pháp dạy học. Phương pháp
dạy học là khâu rất quan trọng bởi lẽ phương pháp dạy học có hợp lý thì hiệu
quả của việc dạy học mới cao, phương pháp có phù hợp thì mới có thể phát huy
được khả năng tư duy, sáng tạo của người học. Bởi vậy, việc đổi mới giáo dục
trước hết là việc đổi mới phương pháp dạy học.
Phương pháp dạy học được hiểu là phương pháp triển khai một quá trình dạy
học cụ thể. Tức là cách thức hình thành mục đích dạy học, cách thức soạn thảo
và triển khai nội dung dạy học, cách thức tổ chức hoạt động dạy và hoạt động
học nhằm hiện thực hóa mục đích, nội dung, dạy học và cách thức kiểm tra,
đánh giá kết quả của quá trình dạy học.
Thực chất của đổi mới PPDH là "lấy học sinh làm trung tâm" và khi đó người
dạy phải hiểu được yêu cầu của người học để cung cấp thông tin, định hướng
mục tiêu học tập, tổ chức, hướng dẫn người học chủ động tư duy, nhận thức,
thực hành, sáng tạo trong quá trình tiếp nhận tri thức. Do đó, để đổi mới PPDH

mỗi giáo viên phải tìm kiếm, lựa chọn các phương thức hoạt động chung cho
phù hợp với học sinh nhằm thực hiện 3 chức năng của PPDH, gồm nắm vững,
giáo dục, phát triển. Phương pháp giảng dạy phù hợp sẽ phát huy hiệu quả, trực

12


tiếp ảnh hưởng đến chất lượng giờ dạy. Một giờ dạy tốt của một người thầy giỏi
có khi in đậm trong trí nhớ của học sinh hàng mấy chục năm.
B. THIẾT KẾ CÁC HOẠT ĐỘNG VỀ DẠY CÁC YẾU TỐ HÌNH HỌC Ở
LỚP 1 THEO YÊU CẦU ĐỔI MỚI PPDH:
I. Tìm hiểu mục tiêu và nội dung dạy học các yếu tố hình học ở lớp 1 trong
trường tiểu học hiện nay.
1.Mục tiêu
Các yếu tố hình học là một trong 5 mạch kiến thức cơ bản trong chương trình
môn Toán ở tiểu học .
Mục tiêu của việc dạy học “ Các yếu tố hình học” trong môn Toán lớp 1 là
giúp học sinh :
- Hình thành biểu tượng ban đầu về một số hình đơn giản: điểm, đoạn
thẳng, hình vuông, hình tròn, hình tam giác; điểm ở trong, ở ngoài một hình.
- Bước đầu rèn luyện các kĩ năng : nhận dạng hình; vẽ đoạn thẳng có độ
dài cho trước.
- Bước đầu rèn luyện óc quan sát, trí tưởng tượng, phát triển vốn từ vựng
về hình học.
2. Nội dung của mạch kiến thức các yếu tố hình học ở lớp 1
- Toàn bộ chương trình Toán lớp 1 gồm 134 tiết, trong đó chỉ có 22 tiết là
có bài tập nội dung là yếu tố hình học và các bài tập được rải đều trên toàn bộ
chương trình Toán 1.

* Các dạng bài tập về “ Các yếu tố hình học” ở lớp 1 :

a, Nhận dạng hình
+ Tô màu các hình có dạng hình yêu cầu.
+ Cho sẵn số lượng cần nhận dạng, học sinh chỉ việc đếm đủ số hình đó.
+ Đếm số lượng hình cần nhận dạng.
+ Cho sẵn vài tình huống về số lượng hình cần nhận dạng , trong đó có
một vài tình huống đúng còn lại đều sai. Học sinh phải xác định được tình

13


huống đúng sai.
b, Vẽ hình:
+ Nối hai điểm cho trước để có đoạn thẳng hoặc vẽ đoạn thẳng bất kì
không kèm theo điều kiện về số đo độ dài.
+ Vẽ đoạn thẳng có độ dài cho trước
+ Nối các điểm để có hình vuông ( hình tam giác)
+ Kẻ thêm đoạn thẳng để có hình vuông ( hình tam giác)
c, Xếp hình theo mẫu
d, Ngoài ra còn trong vở bài tập toán còn đề cập tới các bài toán



ngầm” giới thiệu cho học sinh biết về “tính đối xứng”của hình như: vẽ nửa còn
lại của chữ cái , vẽ nửa còn lại của các hình
II. Tìm hiểu thực trạng việc dạy các yếu tố hình học lớp 1 trong trường
tiểu học hiện nay:
1/ Thực trạng của giáo viên.
Thực tế cho thấy giáo viên tuân thủ theo nội dung, phương pháp của
sách giáo viên hiện hành, ít có sự suy nghĩ cải tiến.
Mặt khác các bài tập có liên quan đến các yếu tố hình học thường được

sắp xếp vào cuối bài và xuất hiện rải rác, nên giáo viên thường coi đó là bài tập
khó dành cho học sinh khá giỏi.
2. Thực trạng học sinh
Qua nhiều năm dạy học các yếu tố hình học ở lớp 1, tôi nhận thấy:
Những khái niệm cơ bản của phần hình học lớp 1 là: Điểm, đoạn thẳng,
hình vuông, hình tròn, hình tam giác... Đó là những kiến thức rất đơn giản, nghe
qua, nhìn qua tưởng là nhớ ngay và các em cũng dễ thực hành ngay được.
Nhưng ngay chính ở những kiến thức này, các em dễ bộc lộ những chỗ hổng của
kiến thức. Với học sinh trung bình thì chỉ ít ngày sau khi học, các kiến thức trên
đã lẫn lộn, không nhớ hoặc nhớ không chính xác các kiến thức đó nữa. Vậy tại
sao có hiện tượng này?

14


Thiếu sót trên của học sinh bắt nguồn từ nguyên nhân sau:
- Chủ quan vì kiến thức đơn giản.
- Chưa chú ý tới những điểm cơ bản tưởng là nhỏ nhưng lại rất quan trọng
như :
+ Khi vẽ đoạn thẳng quên không đánh dấu hai đầu mút. Một đoạn thẳng
phải có hai đầu mút. Một điểm được gọi tên bằng một chữ cái A, B, C …Một
đoạn thẳng được gọi tên bằng hai chữ cái : AB, BC, CD,…
+ Khi học hình vuông, hình tròn, hình tam giác, học sinh nhận dạng hình
vuông, hình tròn hình tam giác đứng riêng thì dễ. Nhưng khi đặt các hình cạnh
nhau (Chẳng hạn, hình vuông đặt trong hình tròn) hoặc một hình được tạo bởi
nhiều hình ( chẳng hạn, một hình tam giác lớn được ghép bởi hai hình tam giác
nhỏ ) thì học sinh khó nhận ra.
Một số em còn hiếu động, nghịch ngợm, mải chơi, thiếu sự quan tâm, kèm
cặp của gia đình nên cô giáo khá vất vả trong việc tạo ra hứng thú và lôi cuốn
các em vào việc học toán.

Một số em có hoàn cảnh gia đình khó khăn ( Minh Phương, Hoàng Anh,
Hoành Đại….) nên đồ dùng học tập còn chưa đầy đủ .
Việc nắm các biểu tượng hình học cơ bản ở lớp mẫu giáo còn nhiều hạn
chế.
3. Thực trạng về cơ sở vật chất, trang thiết bị và đồ dùng dạy học:
- Giáo viên xây dựng phổ biến các loại phương tiện dạy khác nhau như :
các loại phiếu học tập, các đồ dùng làm thí nghiệm, các đồ dùng trực quan, các
phương tiện kỹ thuật ( áp dụng công nghệ thông tin trong giờ dạy )
- Tổ chức hướng dẫn cho học sinh tập làm quen sử dụng dạy học để hình
thành tri thức mới.
- Điều kiện cơ sở vật chất của trường lớp tương đối khang trang, lớp được
trang bị máy tính, máy chiếu đủ điều kiện cho các em học tập.
- Phòng trang thiết bị nhà trường có đủ đồ dùng cho các em vận dụng thực
hành trong học tập nhưng chưa được giáo viên sử dụng nhiều.

15


C. THIẾT KẾ CÁC HĐDH VỀ DẠY PHÉP TRỪ SỐ TỰ NHIÊN LỚP 3
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG HỌC
TẬP:
1. Thiết kế 3 hoạt động về bài mới:
Ví dụ 1: Dạy bài Hình vuông - Hình tròn ( Hình tam giác):
Hình vuông, hình tròn, hình tam giác được giới thiệu như một “ toàn thể”
gắn liền với hình dạng của chúng ( không yêu cầu phân tích các yếu tố đặc điểm
của hình)
Cụ thể với bài “ Hình tam giác”
* Mục tiêu của bài này là giúp học sinh:
- Nhận ra và nêu đúng tên hình tam giác
- Bước đầu nhận ra hình tam giác từ các vật thật

* Tôi hình thành biểu tượng hình tam giác như sau:
- Tôi đưa tấm bìa hình tam giác và giới thiệu tên hình: “ Đây là hình tam
giác” nhằm giúp học sinh nhận ra một “vật mẫu”. Sau đó tôi dịch chuyển mẫu
vật đến những vị trí khác nhau hoặc đưa ra một số hình tam giác khác, cho học
sinh quan sát và trả lời : “ Đó cũng là những hình tam giác”.
- Cho học sinh chọn trong hộp đồ dùng học toán một số hình tam giác.
Gọi một số giơ hình tam giác lên và nói “ Hình tam giác”. Sau đó tìm trong thực
tế những đồ vật có dạng hình tam giác như lá cờ đuôi nheo, biển báo giao
thông, …
Học sinh quan sát và thao tác trên các mẫu vật đồng thời tiếp nhận thông
tin của giáo viên, từ đó có biểu tượng cụ thể về “hình tam giác”.
Tôi vẽ hình tam giác trên bảng và nói “ Đây là hình tam giác " trên cơ sở
đó học sinh sẽ tri giác trên những mô hình hình học. Giáo viên cần chú ý xếp
đặt các hình cạnh nhau ( chẳng hạn , hình vuông đặt cạnh hình tròn) để học sinh
tập so sánh, đối chiếu các hình.
Ví dụ 2 : Dạy bài: Điểm - Đoạn thẳng:
* Mục đích của bài này là :
Giúp học sinh nhận biết được:

16


- Điểm và đoạn thẳng.
- Biết kẻ đoạn thẳng qua hai điểm.
- Biết đọc tên các đoạn thẳng.
* Tôi hình thành biểu tượng điểm, đoạn thẳng như sau:
Học sinh nhận biết được điểm, đoạn thẳng một cách trực giác thông qua
những hình ảnh cụ thể. Tập đọc tên các điểm và đoạn thẳng.
Để hình thành biểu tượng về điểm, tôi vẽ một chấm tròn trên bảng và hỏi :
“ Đây là cái gì?”

- Học sinh có thể trả lời: đây là dấu chấm, 1 dấu chấm tròn, 1 điểm …
- Tôi giới thiệu: “Đó chính là một điểm”. Sau đó tôi viết bên cạnh chấm
tròn chữ A ( A . ) và hướng dẫn học sinh đọc “điểm A”.
Để khắc sâu biểu tượng về điểm tôi so sánh : điểm nhỏ như một đầu cái
đinh hoặc đầu mũi kim…
Để hình thành biểu tượng về đoạn thẳng tôi vẽ hai điểm A và B, dùng thước nối A và B, hướng dẫn học sinh đọc “ đoạn thẳng AB”
A

B

( Lưu ý hướng dẫn học sinh đọc tên các điểm : B đọc là bê, C đọc là xê, D đọc là
đê. Đoạn thẳng BC đọc là “ đoạn thẳng bê xê”, không đọc là “ đoạn thẳng bờ
cờ”).
Tôi nhấn mạnh: “Cứ nối hai điểm ta được một đoạn thẳng”và cho nhiều
học sinh nhắc lại kết luận này.
Tôi cũng liên hệ so sánh cho các em dễ nhớ : đoạn thẳng: như một sợi chỉ,
một sợi len, một sợi dây cước, một sợi dây chun được căng giữa hai đầu đinh.
Ví dụ 3: Dạy bài “ Điểm ở trong, điểm ở ngoài một hình”
* Mục đích của bài này là: Giúp học sinh

- Củng cố biểu tượng về điểm, các hình

17


- Nhận biết được điểm m ở trong, điểm ở ngoài một hình, gọi tên các
điểm
- Vẽ và đặt tên được các điểm
Để giới thiệu điểm ở trong, ở ngoài hình vuông tôi làm như sau:
Bước 1: Giới thiệu phía trong và phía ngoài hình vuông.

- Tôi gắn hình vuông lên bảng và hỏi: Cô có hình gì đây? ( hình vuông)
- Tôi gắn bông hoa, con thỏ trong hình, con bướm ngoài hình vuông,
Hỏi: + Cô có hình gì nữa? ( bông hoa, con thỏ, con bướm).
+ Nhận xét xem, bông hoa và con thỏ nằm ở đâu? ( nằm trong hình
vuông)
+ Ai xung phong lên chỉ đâu là phía trong hình vuông? ( 1 học sinh lên
chỉ toàn bộ phía trong hình vuông ).
+ Nhận xét xem, con bướm nằm ở đâu? ( nằm ngoài hình vuông).
- Tôi tô màu lại cho cả lớp biết phía trong hình vuông và nói , những phần
còn lại không kể phần phía trong gọi là phía ngoài hình vuông.
Bước 2: Giới thiệu điểm ở phía trong ở phía ngoài hình vuông.
Tôi đánh dấu điểm A ở trong hình vuông và hỏi:
- Điểm A nằm ở vị trí nào trong hình vuông? ( Nằm trong hình vuông)
- Tôi gắn băng giấy: Điểm A nằm trong hình vuông.
- Học sinh đọc lại : Điểm A nằm trong hình vuông.
- Tôi vẽ tiếp điểm N ở ngoài hình vuông

- Điểm N ở vị trí nào của hình vuông? ( ở ngoài hình vuông).
- Học sinh đọc lại : Điểm N ở ngoài hình vuông.
- Nhắc lại cho cô vị trí của điểm A và điểm N so với hình vuông ( nhiều
học sinh nhắc lại.

18


Giới thiệu điểm ở trong ở ngoài hình tròn cũng làm tương tự như vậy.
2. Thiết kế 3 hoạt động về luyện tập các yếu tố hình học lớp 1
Ví dụ 1:
Ví dụ 2
Ví dụ 3:

3. Thiết kế 3 hoạt động về ôn tập các yếu tố hình học lớp 1
Ví dụ 1
Ví dụ 2
Ví dụ 3:

PHẦN THỰC NGHIỆM( 2 tiết)
1. Mục đích thực nghiệm
Sau khi nghiên cứu và để hoàn thành đề tài. Tôi đã tiến hành thực nghiệm nhằm
kiểm nghiệm tính khả thi và hiệu quả của phương pháp dạy học mới. Đồng thời
nhằm trao đổi với đồng nghiệp để học hỏi lẫn nhau về đổi mới phương pháp dạy
phép trừ các số tự nhiên ở lớp 3
2. Nội dung dạy thực nghiệm
- Tiết 1:
- Tiết 2:
3. Phương pháp tổ chức thực nghiệm
- Phương pháp gợi mở vấn đáp
- Phương pháp kiểm tra đánh giá
- Phương pháp thực hành luyện tập
- Phương pháp .....................
PHẦN KẾT LUẬN
1, Những bài học rút ra cho bản thân và đồng nghiệp sau quá trình thực
nghiệm đề tài:
Phần dạy các yếu tố hình học của Tiểu học nói chung và của lớp 1 nói
riêng là phần rất quan trọng. Nó góp phần xây dựng những kĩ năng nhận dạng

19


hình, trí tưởng tượng hình học không gian, tạo điều kiện cho trẻ em Tiểu học
học tiếp các cấp học sau. Do vậy, việc dạy học phần này phải hết sức coi trọng,

tránh việc dạy qua loa, hình thức đơn thuần, lí thuyết.
Từ kinh nghiệm thực tiễn dạy học và kết quả nghiên cứu, tôi rút ra một số
bài học kinh nghiệm sau:
+ Cần nắm xây dựng tốt các biểu tượng hình học tạo nền móng cho học
sinh học khái niệm hình học ở các lớp trên.
+ Cần áp dụng tốt các phương pháp dạy học toán trong dạy các yếu tố
hình học.
+ Khi giảng dạy cần có những đồ dùng thích hợp, vừa đảm bảo tính chính
xác, vừa đảm bảo tính thẩm mĩ.
2, Một số kiến nghị đối với chính quyền, cấp quản lí giáo dục về triển khai
kết quả đạt được trong đề tài.
+ Tăng cường chuyên đề thực tập môn toán để giáo viên học hỏi thêm
những kinh nghiệm giảng dạy, cách sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học.
+ Bổ sung các thiết bị, đồ dùng dạy học hiện đại ( máy chiếu đa năng
Projector…).
+ Bộ đồ dùng biểu diễn của giáo viên cần có thêm một số hình tam giác,
hình vuông, hình tròn với nhiều màu sắc và kích thước khác nhau với số lượng
nhiều hơn giúp giáo viên ghép được nhiều hình minh hoạ cách làm của học
sinh.
+ Bên cạnh Bộ thực hành Toán của học sinh cần có một số hình to hơn có
gắn nam châm giúp giáo viên tổ chức trò chơi thuận tiện hơn.
Rất mong được sự cộng tác của tất cả các đồng nghiệp, các cấp , các
ngành quan tâm đến việc tư duy, suy nghĩ độc lập của học sinh nhất là môn toán
lớp 3, Để giúp học sinh tiểu học nắm vững các kiến thức ngay từ những lớp đầu
cấp,giúp cho việc học tập đạt hiệu quả tốt nhất góp phần đổi mới phương pháp
dạy học thành công.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

20



NGƯỜI VIẾT
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Sách giáo khoa Toán 1– NXBGD
Sách giáo viên Toán 1– NXBGD
Các loại sách tham khảo bài tập Toán lớp 1
2/ Giáo trình Đổi mới PPDH Toán Tiểu học -NXB Đại học Sư phạm
3/ Đề tài của SV khoa Giáo dục tiểu học

21



×