Tải bản đầy đủ (.docx) (137 trang)

Bài giảng TCDN (Tài chính doanh nghiệp) mới nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (586.78 KB, 137 trang )

Tài chính doanh nghiệp

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Tài chính doanh nghiệp là gì và vai trò của nó quan trọng như thế nào?
Hoạt động tài chính doanh nghiệp không thể tách rời các hoạt động trao đổi tồn tại
giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế, do đó, không thể xem xét tài chính của
các doanh nghiệp nếu không đặt chúng trong một môi trường nhất định. Đó là
những vấn đề cần làm rõ trước khi nghiên cứu tài chính doanh nghiệp.
1.1. Doanh nghiệp và tài chính doanh nghiệp.
1.1.1. Doanh nghiệp.
1.1.1.1. Khái niệm.
Doanh nghiệp là một cách thức tổ chức hoạt động kinh tế của một nhóm đối
tượng nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu. Trong xã hội, có nhiều hoạt động
kinh tế chỉ có thể được thực hiện bởi một doanh nghiệp chứ không phải các cá
nhân.
Ở Việt Nam, theo luật doanh nghiệp số 60/2005/QH11 ban hành ngày 2911-2005, doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục
đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Các hoạt động kinh doanh có thể được hiểu là việc thực hiện liên tục một,
một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Có nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau trong nền kinh tế thị trường,
mỗi loại có những ưu, nhược điểm riêng và phù hợp với quy mô và trình độ phát
triển nhất định. Hầu hết các doanh nghiệp lớn hoạt động với tư cách là các công ty
(Corporation). Đây là loại hình phát triển nhất của doanh nghiệp. Tuy nhiên về
nguyên tắc, nội dung quản lý tài chính doanh nghiệp là thống nhất với mọi loại
hình doanh nghiệp.
1.1.1.2. Môi trường hoạt động của doanh nghiệp.
Để đạt được mức doanh lợi mong muốn, doanh nghiệp cần phải có những
quyết định về tổ chức sản xuất và vận hành quá trình trao đổi. Mọi quyết định đều
phải gắn kết với môi trường xung quanh. Bao quanh doanh nghiệp là một môi



1

Bộ môn: Kinh tế vận tải


Tài chính doanh nghiệp

trường kinh tế - xã hội phức tạp và luôn biến động. Có thể kể đến một số yếu tố
khách quan tác động trực tiếp tới hoạt động của doanh nghiệp.
Công nghệ là vấn đề doanh nghiệp luôn phải đối đầu. Sự phát triển của
công nghệ là một yếu tố góp phần đổi mới phương thức sản xuất, tạo ra nhiều kỹ
thuật mới dẫn đến những thay đổi mạnh mẽ trong quản lý tài chính doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là đối tượng quản lý của nhà nước. Sự thắt chặt hay nới
lỏng hoạt động của doanh nghiệp được điều chỉnh bằng hệ thống pháp luật và các
chính sách quản lý tài chính của nhà nước.
Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phải dự đoán được khả năng xảy
ra rủi ro, đặc biệt là rủi ro về tài chính để có cách ứng phó kịp thời và đúng cách.
Doanh nghiệp, với sức ép của thị trường cạnh tranh, phải sản xuất và cung cấp
những gì thị trường cần. Những đòi hỏi về chất lượng, mẫu mã, giá cả hàng hóa,
về chất lượng dịch vụ ngày càng cao hơn của khách hàng buộc doanh nghiệp phải
thường xuyên thay đổi chính sách sản phẩm, đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu
quả và chất lượng cao.
Muốn phát triển bền vững, các doanh nghiệp phải làm chủ và dự đoán trước
được sự thay đổi của môi trường để thích nghi với nó. Trong môi trường đó, quan
hệ tài chính doanh nghiệp được thể hiện rất phong phú và đa dạng.
1.1.2. Tài chính doanh nghiệp.
1.1.2.1. Khái niệm tái chính doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp là khâu cơ sở của hệ thống tài chính trong nền kinh
tế, một phạm trù kinh tế khách quan gắn liền với dự ra đời và phát triển của nền

kinh tế hàng hóa.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, bất kỳ một doanh nghiệp nào
cũng cần có lượng vốn tiền tệ tối thiểu nhất định. Quá trình hoạt động kinh doanh
nhìn từ góc độ tài chính cũng chính là quá trình phân phối để tạo lập và sử dụng
các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp nhằm thực hiện các mục tiêu của hoạt động kinh
doanh. Trong quá trình đó luôn diễn ra sự vận động và chuyển hóa các nguồn tài
chính, tạo ra luồng dịch chuyển giá trị mà biểu hiện của nó là các luồng tiền tệ đi
vào hoặc đi ra khỏi chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp.
Bản chất của tài chính doanh nghiệp được biểu hiện thông qua các mối quan hệ
tài chính sau:

2

Bộ môn: Kinh tế vận tải


Tài chính doanh nghiệp
-

Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước, được thể hiện thông qua việc
nhà nước đầu tư vốn, góp vốn để doanh nghiệp hoạt động, và doanh nghiệp
thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước như nộp các khoản thuế,
phí, lệ phí v.v... vào ngân sách nhà nước.

-

Quan hệ giữa doanh nghiệp với các chủ thể kinh tế khác như: Quan hệ vay
vốn với các tổ chức tín dụng và ngân hàng, quan hệ mua bán tài sản, vật tư
hàng hóa và các dịch vụ khác.


-

Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp được thể hiện trong việc doanh nghiệp
thanh toán tiền lương, tiền công, tiền thưởng, phạt với công nhân viên; quan
hệ trong phân phối lợi nhuận sau thuế như việc hình thành các quỹ của
doanh nghiệp, chia cổ tức cho cổ đông...

Từ những vấn đề nêu trên có thể rút ra kết luận cơ bản sau:
-

Tài chính doanh nghiệp xét về hình thức, phản ánh sự vận động và chuyển
hóa của các nguồn lực tài chính trong quá trình phân phối của cải dưới hình
thức giá trị để tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Xét về
bản chất, tài chính doanh nghiệp là các mối quan hệ phân phối dưới hình
thức giá trị gắn liền với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh
nghiệp trong quá trình kinh doanh.

1.1.2.2. Vai trò của tài chính doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp có vai trò to lớn trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Vai trò đó được thể hiện ở những nội dung chủ yếu như
sau:
-

Huy động và đảm bảo đầy đủ, kịp thời vốn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp

Vốn kinh doanh bao gồm vốn ngắn hạn và vốn dài hạn là điều kiện tiên
quyết của bất cứ doanh nghiệp nào muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
Vai trò của tài chính doanh nghiệp trước hết thể hiện ở chỗ xác định đúng đắn nhu
cầu vốn cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ, và tiếp đó

phải lựa chọn các phương pháp và thích hợp để huy động vốn đáp ứng kịp thời,
đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được diễn ra
thường xuyên, liên tục. Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đã nảy
sinh nhiều hình thức mới cho phép các doanh nghiệp có thể đa dạng hóa các kênh
huy động vốn. Do vậy vai trò của tài chính doanh nghiệp càng trở nên quan trọng
3

Bộ môn: Kinh tế vận tải


Tài chính doanh nghiệp

trong việc chủ động lựa chọn các hình thức và phương pháp huy động vốn đảm
bảo cho các doanh nghiệp hoạt động liên tục và có hiệu quả với chi phí huy động
vốn thấp nhất.
-

Tổ chức sử dụng vốn kinh doanh tiết kiệm và hiệu quả

Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất
lớn vào việc tổ chức sử dụng vốn. Tài chính doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng
trong việc đánh giá, và lựa chọn dự án đầu tư tối ưu trên cơ sở phân tích khả năng
sinh lời và mức độ rủi ro của các dự án. Việc huy động kịp thời các nguồn vốn có
ý nghĩa rất quan trọng để doanh nghiệp có thể nắm bắt được các cơ hội kinh
doanh. Mặt khác, việc huy động số vốn tối đa hiện có vào hoạt động kinh doanh
có thể giảm bớt và tránh được những thiệt hại do ứ đọng vốn gây ra, đồng thời
giảm được nhu cầu vay vốn, từ đó giảm chi phí lãi vay. Việc hình thành và sử
dụng tốt các quỹ của doanh nghiệp, cùng với việc sử dụng các hình thức thưởng,
phạt vật chất một cách hợp lý sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy người lao động gắn
bó với doanh nghiệp, từ đó nâng cao năng suất lao động, cải tiến kỹ thuật, nâng

cao hiệu quả kinh doanh nói chung của doanh nghiệp.
-

Giám sát, kiểm tra thường xuyên, chặt chẽ các hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.

Thông qua tình hình thu chi tiền tệ hàng ngày và tình hình thực hiện các chỉ
tiêu tài chính, lãnh đạo doanh nghiệp có thể đánh giá tổng hợp và kiểm soát hoạt
động của doanh nghiệp; phát hiện được kịp thời những tồn tại hay khó khăn trong
kinh doanh, từ đó có thể đưa ra những quyết định để điều chỉnh các hoạt động phù
hợp với diễn biến thực tế trong kinh doanh.
1.1.2.3. Nội dung của tài chính doanh nghiệp.
-

Tham gia đánh giá, lựa chọn các dự án đầu tư và kế hoạch kinh doanh.

Việc xây dựng và lựa chọn các dự án đầu tư do nhiều bộ phận trong doanh
nghiệp hợp tác thực hiện. Trên góc độ tài chính, điều chủ yếu là phải xem xét hiệu
quả tài chính của dự án, tức là cân nhắc giữa chi phí bỏ ra, những rủi ro có thể gặp
phải và khả năng thu lợi nhuận khi thực hiện dự án. Trên cơ sở tham gia đánh giá,
lựa chọn dự án đầu tư, cần tìm ra định hướng phát triển và tăng cường khả năng
cạnh tranh cho doanh nghiệp để đảm bảo đạt hiệu quả kinh tế trước mắt cũng như
lâu dài.

4

Bộ môn: Kinh tế vận tải


Tài chính doanh nghiệp

-

Xác định nhu cầu vốn, tổ chức huy động các nguồn vốn để đáp ứng cho
hoạt động của doanh nghiệp.

Mọi hoạt động của doanh nghiệp đòi hỏi phải có lượng vốn nhất định. Tài
chính doanh nghiệp cần xác định nhu cầu vốn cần thiết cho các hoạt động của
doanh nghiệp trong kỳ. Điều quan trọng là phải tổ chức huy động nguồn vốn đảm
bảo đáp ứng kịp thời và đầy đủ cho các hoạt động đó. Việc tổ chức huy động các
nguồn vốn ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động của một doanh nghiệp. Để đi
đến quyết định lựa chọn hình thức và phương pháp huy động vốn thích hợp cần
xem xét, cân nhắc trên nhiều mặt như: Kết cấu nguồn vốn, chi phí sử dụng vốn,
những điểm lợi và bất lợi của các hình thức huy động vốn.
-

Tổ chức sử dụng có hiệu quả số vốn hiện có; quản lý chặt chẽ các khoản
thu, chi; đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp

Tài chính doanh nghiệp cần tìm ra các biện pháp để huy động tối đa số vốn
hiện có vào hoạt động sản xuất kinh doanh, giải phóng các khoản vốn còn bị ứ
đọng. Theo dõi chặt chẽ các khoản chi tiêu phát sinh trong kỳ. Tìm các biện pháp
lập lại sự cân bằng giữa thu, chi bằng tiền để đảm bảo doanh nghiệp luôn có khả
năng thanh toán. Mặt khác cũng cần xác định rõ và phân biệt các khoản chi phí
phát sinh của doanh nghiệp. Những chi phí vượt quá định mức quy định hay
những chi phí đã thuộc về các nguồn kinh phí khác tài trợ thì không được tính vào
chi phí hoạt động kinh doanh.
-

Thực hiện phân phối lợi nhuận, trích lập và sử dụng các quỹ tài chính của
doanh nghiệp


Thực hiện phân phối hợp lý lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp như trích
lập và sử dụng tốt các quỹ của doanh nghiệp sẽ góp phần quan trọng vào việc phát
triển doanh nghiệp và cải thiện đời sống người lao động. Lợi nhuận là mục tiêu
kinh doanh mà doanh nghiệp cần đặc biệt quan tâm vì nó liên quan đến sự tồn tại,
phát triển và mở rộng doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần có phương án tối ưu trong
việc phân chia lợi tức, trong việc xác định tỷ lệ và hình thành các quỹ của doanh
nghiệp như: Quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ trợ cấp thất
nghiệp, quỹ khen thưởng phúc lợi...
-

5

Đảm bảo kiểm tra, kiểm soát thường xuyên đối với hoạt động của doanh
nghiệp, thực hiện phân tích tài chính doanh nghiệp

Bộ môn: Kinh tế vận tải


Tài chính doanh nghiệp

Thông qua tình hình thu, chi và thực hiện các chỉ tiêu tài chính hàng ngày,
cho phép thường xuyên kiểm tra, kiểm soát tình hình hoạt động của doanh nghiệp.
Mặt khác, định kỳ cần tiến hành phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp nhằm
đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu về tình hình tài chính và hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, qua đó cung cấp thông tin để lãnh đạo doanh nghiệp
đánh giá tổng quát tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Từ đó đưa ra những
quyết định đúng đắn về sản xuất và tài chính. Xây dựng kế hoạch tài chính khoa
học, đảm bảo mọi tài sản và nguồn tài chính của doanh nghiệp được sử dụng một
cách có hiệu quả cao nhất.

-

Thực hiện dự báo và kế hoạch hóa tài chính doanh nghiệp

Các hoạt động tài chính của doanh nghiệp cần được dự kiến và lên kế hoạch
từ trước thông qua công tác lập kế hoạch tài chính. Thực hiện tốt công tác này là
công việc cần thiết giúp cho doanh nghiệp có thể chủ động đưa ra những giải pháp
kịp thời trước sự biến động của thị trường. Quá trình lập kế hoạch tài chính cũng
là quá trình ra các quyết định tài chính thích hợp nhằm đạt tới các mục tiêu của
doanh nghiệp.
1.1.3. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến tài chính doanh nghiệp.
1.1.3.1. Hình thức pháp lý của tổ chức doanh nghiệp.
Theo hình thức pháp lý của tổ chức doanh nghiệp hiện hành, ở nước ta có
những loại hình doanh nghiệp sau đây:
-

Công ty trách nhiệm hữu hạn

-

Công ty cổ phần

-

Công ty hợp danh

-

Doanh nghiệp tư nhân


-

Nhóm công ty

Những đặc điểm riêng về hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp giữa các
doanh nghiệp trên có ảnh hưởng lớn đến quan hệ tài chính doanh nghiệp như việc
tổ chức huy động vốn; sử dụng vốn và phân phối lợi nhuận.
a. Công ty trách nhiệm hữu hạn.
Công ty trách nhiệm hữu hạn là doanh nghiệp, trong đó:
-

6

Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không vượt quá
năm mươi;
Bộ môn: Kinh tế vận tải


Tài chính doanh nghiệp
-

Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp;
Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo các quy định cụ
thể được nêu trong Luật doanh nghiệp.

Công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát hành cổ phần.
Vốn điều lệ của công ty do các thành viên đóng góp, có thể bằng tiền, tài

sản hoặc quyền sở hữu công nghiệp. Trong quá trình hoạt động, để tăng thêm vốn,
công ty có thể kết nạp thêm thành viên mới (đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn
từ hai thành viên trở lên). Đây cũng là điểm thuận lợi cho công ty khi mở rộng quy
mô sản xuất kinh doanh.
Việc phân phối lợi nhuận sau thuế do các thành viên quyết định và việc
phân chia lợi nhuận cho các thành viên tùy thuộc vào số vốn đã đóng góp.
b. Công ty cổ phần.
Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:
-

Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và
không hạn chế số lượng tối đa;
Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác
theo các quy định được nêu trong Luật doanh nghiệp.

Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh.
Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động
vốn.
Trong quá trình hoạt động, công ty cổ phần có thể phát hành thêm cổ phiếu
mới để tăng vốn, điều đó tạo điều kiện cho công ty có thể dễ dàng tăng vốn chủ sở
hữu trong kinh doanh
c. Công ty hợp danh.
Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó:

7


Bộ môn: Kinh tế vận tải


Tài chính doanh nghiệp
-

-

Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau
kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh); ngoài
các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn;
Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản
của mình về các nghĩa vụ của công ty;
Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong
phạm vi số vốn đã góp vào công ty.

Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh.
Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
Thành viên hợp danh có quyền quản lý công ty, nhân danh công ty để tiến
hành các hoạt động kinh doanh, liên đới chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của
công ty. Các thành viên góp vốn không được tham gia quản lý công ty và hoạt
động kinh doanh nhân danh công ty nhưng được chia lợi nhuận theo tỷ lệ được
quy định trong Điều lệ công ty.
d. Doanh nghiệp tư nhân.
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân.
Như vậy, doanh nghiệp tư nhân là người bỏ vốn đầu tư bằng vốn của mình

và cũng có thể huy động thêm từ bên ngoài dưới hình thức đi vay. Trong khuôn
khổ luật pháp, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tự do kinh doanh và chủ động
trong mọi hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, nguồn vốn của doanh nghiệp tư nhân
là hạn hẹp nên thường thích hợp với kinh doanh quy mô nhỏ.
e. Nhóm công ty.
Nhóm công ty là tập hợp các công ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với
nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác.
Nhóm công ty bao gồm các hình thức sau đây:
-

8

Công ty mẹ - công ty con;
Tập đoàn kinh tế;
Các hình thức khác.

Bộ môn: Kinh tế vận tải


Tài chính doanh nghiệp

Tuỳ thuộc vào loại hình pháp lý của công ty con, công ty mẹ thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình với tư cách là thành viên, chủ sở hữu hoặc cổ đông
trong quan hệ với công ty con theo quy định tương ứng của Luật doanh nghiệp và
pháp luật có liên quan.
1.1.3.2. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành.
Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành kinh doanh có ảnh hưởng không nhỏ
tới quản trị tài chính doanh nghiệp. Mỗi ngành kinh doanh có những đặc điểm về
mặt kinh tế kỹ thuật khác nhau, thể hiện ở các nội dung:
-


Ảnh hưởng của tính chất ngành kinh doanh

Ảnh hưởng này thể hiện trong thành phần và cơ cấu vốn kinh doanh của
doanh nghiệp, ảnh hưởng tới quy mô của vốn sản xuất kinh doanh, cũng như tỷ lệ
thích ứng để hình thành và sử dụng chúng, do đó có ảnh hưởng đến tốc độ luân
chuyển vốn, phương pháp đầu tư, phương thức thanh toán...
-

Ảnh hưởng của tính thời vụ và chu kỳ sản xuất kinh doanh

Tính thời vụ và chu kỳ sản xuất kinh doanh có ảnh hưởng trước hết đến nhu
cầu vốn sử dụng và doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Những doanh nghiệp sản xuất có
chu kỳ ngắn thì nhu cầu vốn lưu động giữa các thời kỳ trong năm thường không
biến động lớn, doanh nghiệp cũng thường xuyên thu được tiền bán hàng, điều đó
cũng giúp cho doanh nghiệp dễ dàng đảm bảo sự cân đối giữa thu, chi bằng tiền và
đảm bảo nguồn vốn cho nhu cầu kinh doanh. Những doanh nghiệp sản xuất có chu
kỳ dài phải ứng ra lượng vốn lưu động tương đối lớn; doanh nghiệp sản xuất có
tính thời vụ thì nhu cầu vốn lưu động giữa các kỳ trong năm có sự biến động lớn,
tiền thu về bán hàng cũng không được đều, tình hình thanh toán, chi trả cũng
thường gặp khó khăn. Cho nên việc đảm bảo nguồn vốn và đảm bảo sự cân đối thu
- chi cũng khó khăn hơn.
1.1.3.3. Môi trường kinh doanh.
Bất cứ doanh nghiệp nào cũng hoạt động trong môi trường kinh doanh nhất
định. Môi trường kinh doanh bao gồm tất cả những điều kiện bên ngoài ảnh hưởng
tới mọi hoạt động của doanh nghiệp trong đó có hoạt động tài chính.
Dưới đây là những tác động của môi trường kinh doanh đến tài chính doanh
nghiệp:
-


9

Môi trường kinh tế
Bộ môn: Kinh tế vận tải


Tài chính doanh nghiệp

Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp luôn diễn ra trong một bối cảnh
kinh tế cụ thể như tốc độ tăng trưởng hay suy thoái kinh tế, mức độ ổn định của
đồng tiền, tỷ giá hối đoái, các chỉ số của thị trường chứng khoán, lãi suất vay vốn,
tỷ suất đầu tư... Mỗi sự thay đổi của các yếu tố trên đều có tác động tích cực hay
tiêu cực đến hoạt động kinh doanh và hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Vì
vậy tài chính doanh nghiệp cần đánh giá và dự đoán xu hướng phát triển của các
yếu tố đó để tổ chức hoạt động tài chính một cách phù hợp.
-

Môi trường pháp lý

Môi trường pháp lý là tổng hòa các quy định luật pháp liên quan đến hoạt động
của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, các doanh nghiệp vừa chịu
sự chi phối của hệ thống pháp luật nói chung, lại vừa chịu sự chi phối, điều chỉnh
bởi các quy định riêng cho từng thành phần, lĩnh vực kinh doanh đặc thù. Một môi
trường luật pháp bình đẳng, thông thoáng, ổn định, đồng bộ sẽ tạo điều kiện kinh
doanh thuận lợi. Ngược lại, sẽ gây khó khăn, thậm chí có thể làm doanh nghiệp
suy thoái, phá sản.
-

Môi trường kỹ thuật công nghệ, môi trường thông tin


Ngày nay, khoa học kỹ thuật đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp đối với doanh nghiệp. Hàm lượng tri thức có khuynh hướng chiếm tỷ trọng
càng lớn trong giá bán của sản phẩm. Doanh nghiệp nào nắm bắt kịp thời các
thành tựu tiến bộ khoa học kỹ thuật sẽ có điều kiện thuận lợi trong cạnh tranh. Để
đầu tư kĩ thuật công nghệ mới đòi hỏi lượng vốn lớn, doanh nghiệp phải có các
phương thức huy động vốn đầu tư phù hợp, cách thức đầu tư cũng phải mạnh dạn
theo hướng đi tắt đón đầu mới tránh được nguy cơ tụt hậu về kỹ thuật công nghệ.
Về mặt thông tin cũng đòi hỏi doanh nghiệp phải nhạy bén khi tiếp cận và
xử lý thông tin trong nền kinh tế thị trường. Điều này cũng đòi hỏi tổ chức hoạt
động tài chính của doanh nghiệp phải tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp có
thể tiếp cận, khai thác và xử lý thông tin về thị trường, giá cả sản xuất và khả năng
nắm bắt cơ hội trên thị trường.
-

Môi trường hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế

Xu thế hợp tác, hội nhập kinh tế là xu thế khách quan đối với mọi quốc gia
trong điều kiện hiện nay, vì vậy, chủ động hội nhập, hội nhập có hiệu quả là một
thời cơ và thách thức đối với các doanh nghiệp. Xu thế hội nhập cũng làm thay đổi

10

Bộ môn: Kinh tế vận tải


Tài chính doanh nghiệp

và đa dạng hóa các mối quan hệ tài chính doanh nghiệp, điều đó đòi hỏi cách thức
tổ chức tài chính doanh nghiệp cần thay đổi cho phù hợp.
-


Các môi trường đặc thù

Môi trường đặc thù thường bao gồm các yếu tố tác động đến hoạt động
kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp một cách trực tiếp và rõ rệt.
Hơn nữa với các yếu tố này, doanh nghiệp có thể kiểm soát hoặc tác động đến
chúng một cách tương đối chủ động. Thuộc về môi trường đặc thù có các yếu tố
khách hàng, nhà cung cấp, các hãng cạnh tranh và sự kiểm tra, giám sát của các cơ
quan quản lý đối với doanh nghiệp. Các nhân tố này tác động tới hoạt động tài
chính doanh nghiệp ở các mức độ khác nhau. Sự nhận biết đầy đủ các ảnh hưởng
tích cực hoặc tiêu cực của các nhân tố đó được coi như điều kiện tiên quyết để tổ
chức tốt hoạt động tài chính trong các doanh nghiệp.
1.2. Nội dung cơ bản về quản lý tài chính doanh nghiệp.
Quản lý tài chính doanh nghiệp là việc lựa chọn và đưa ra các quyết định tài
chính, tổ chức thực hiện các quyết định đó nhằm đạt được mục tiêu hoạt động tài
chính của doanh nghiệp, đó là tối đa hoá giá trị cho chủ doanh nghiệp hay là tối đa
hóa lợi nhuận, không ngừng làm tăng giá trị doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp trên thị trường.
Quản lý tài chính là một trong các chức năng cơ bản của quản trị doanh
nghiệp. Chức năng quản trị tài chính có mối liên hệ mật thiết với các chức năng
khác trong doanh nghiệp như: chức năng quản trị sản xuất, chức năng quản trị
marketing, chức năng quản trị nguồn nhân lực.
Quản lý tài chính doanh nghiệp bao gồm các hoạt động liên quan đến đầu
tư, tài trợ và quản trị tài sản theo mục tiêu chung của doanh nghiệp. Vì vậy, chức
năng quyết định của quản trị tài chính có thể chia thành ba nhóm: quyết định đầu
tư, tài trợ và quản trị tài sản, trong đó quyết định đầu tư là quyết định quan trọng
nhất trong ba quyết định căn bản theo mục tiêu tạo giá trị cho các cổ đông.
Như vậy, “Quản lý tài chính doanh nghiệp là các hoạt động nhằm phân
phối và sử dụng các dòng tiền tệ trong doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu của
doanh nghiệp. Quản lý tài chính bao gồm các hoạt động làm cho luồng tiền tệ của

công ty phù hợp trực tiếp với các kế hoạch hoạt động của doanh nghiệp.”
1.3. Mục tiêu của quản lý tài chính doanh nghiệp.

11

Bộ môn: Kinh tế vận tải


Tài chính doanh nghiệp

Quản lý tài chính là sự tác động của nhà quản trị đến các hoạt động tài
chính trong doanh nghiệp. Trong các quyết định của doanh nghiệp, vấn đề cần
được nhà quản trị tài chính quan tâm giải quyết không chỉ là lợi ích của cổ đông và
nhà quản lý mà còn cả lợi ích của nhân viên, khách hàng, nhà cung cấp và Chính
phủ. Đó là nhóm người có nhu cầu tiềm năng về các dòng tiền của doanh nghiệp.
Do vậy, nhà quản trị tài chính, mặc dù có trách nhiệm nặng nề về hoạt động nội bộ
của doanh nghiệp vẫn phải lưu ý đến sự nhìn nhận, đánh giá của người ngoài
doanh nghiệp như cổ đông, chủ nợ, khách hàng, Nhà nước…
Quản lý tài chính là một hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ với các hoạt
động khác của doanh nghiệp. Quản lý tài chính tốt có thể khắc phục những khiếm
khuyết trong các lĩnh vực khác. Một quyết định tài chính không được cân nhắc,
hoạch định kĩ lưỡng có thể gây nên những tổn thất lớn cho doanh nghiệp và cho
nền kinh tế. Hơn nữa, do doanh nghiệp hoạt động trong một môi trường nhất định
nên các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát
triển. Bởi vậy, quản trị tài chính doanh nghiệp tốt có vai trò quan trọng đối với
việc nâng cao hiệu quả quản lý tài chính quốc gia.
1.4. Vai trò của quản lý tài chính doanh nghiệp.
Quản lý tài chính luôn giữ một vai trò trọng yếu trong hoạt động quản lý
doanh nghiệp. Quản trị tài chính quyết định tính độc lập, sự thành bại của doanh
nghiệp trong quá trình kinh doanh. Trong hoạt động kinh doanh hiện nay, quản trị

tài chính doanh nghiệp giữ những vai trò chủ yếu sau:
-

12

Huy động đảm bảo đầy đủ và kịp thời vốn cho hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp: Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp thường nảy
sinh các nhu cầu vốn ngắn hạn và dài hạn cho hoạt động kinh doanh thường
xuyên của doanh nghiệp cũng như cho đầu tư phát triển. Vai trò của tài
chính doanh nghiệp trước hết thể hiện ở chỗ xác định đúng đắn các nhu cầu
về vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong thời kỳ và tiếp đó
phải lựa chọn các phương pháp và hình thức thích hợp huy động nguồn vốn
từ bên trong và bên ngoài đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn cho hoạt động
của doanh nghiệp. Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đã nảy
sinh nhiều hình thức mới cho phép các doanh nghiệp huy động vốn từ bên
ngoài. Do vậy, vai trò của quản trị tài chính doanh nghiệp ngày càng quan
trọng hơn trong việc chủ động lựa chọn các hình thức và phương pháp huy
Bộ môn: Kinh tế vận tải


Tài chính doanh nghiệp

động vốn đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động nhịp nhàng và liên tục với
chi phí huy động vốn ở mức thấp.
-

Tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả: Quản trị tài chính doanh nghiệp
đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư trên
cơ sở phân tích khả năng sinh lời và mức độ rủi ro của dự án từ đó góp
phần chọn ra dự án đầu tư tối ưu. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh

nghiệp phụ thuộc rất lớn vào việc tổ chức sử dụng vốn. Việc huy động kịp
thời các nguồn vốn có ý nghĩa rất quan trọng để doanh nghiệp có thể nắm
bắt được các cơ hội kinh doanh. Việc hình thành và sử dụng tốt các quỹ của
doanh nghiệp, cùng với việc sử dụng các hình thức thưởng, phạt vật chất
hợp lý sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy cán bộ công nhân viên gắn liền với
doanh nghiệp từ đó nâng cao năng suất lao động, góp phần cải tiến sản xuất
kinh doanh nâng cao hiệu quả sử dụng tiền vốn.

-

Giám sát, kiểm tra chặt chẽ các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp: Thông qua các tình hình tài chính và việc thực hiện các chỉ
tiêu tài chính, các nhà quản lý doanh nghiệp có thể đánh giá khái quát và
kiểm soát được các mặt hoạt động của doanh nghiệp, phát hiện được kịp
thời những tồn tại vướng mắc trong kinh doanh, từ đó có thể đưa ra các
quyết định điều chỉnh các hoạt động phù hợp với diễn biến thực tế kinh
doanh.

1.5. Nguyên tắc quản lý tài chính doanh nghiệp.
1.5.1. Nguyên tắc tôn trọng pháp luật.
Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu chung của các doanh nghiệp là đều
hướng tới lợi nhuận. Vì lợi nhuận tối đa mà các doanh nghiệp có thể kinh doanh
với bất cứ giá nào có thể phương hại tới lợi ích quốc gia, đến lợi ích của các doanh
nghiệp khác. Do đó, song song với bàn tay vô hình của nền kinh tế thị trường phải
có bàn tay hữu hình của nhà nước để điều chỉnh nền kinh tế. Nhà nước đã sử dụng
hàng loạt các công cụ như luật pháp, chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả… để quản
lý vĩ mô nền kinh tế. Các công cụ đó một mặt tạo điều kiện kích thích mở rộng đầu
tư, tạo môi trường kinh doanh, mặt khác tạo ra khuôn khổ luật pháp kinh doanh rất
chặt chẽ. Vì vậy, nguyên tắc hàng đầu của tổ chức tài chính doanh nghiệp là phải
tôn trọng luật pháp. Doanh nghiệp phải hiểu luật để đầu tư đúng hướng – nơi được

Nhà nước khuyến khích (như giảm thuế, tài trợ tín dụng…)
13

Bộ môn: Kinh tế vận tải


Tài chính doanh nghiệp

1.5.2. Nguyên tắc hạch toán kinh doanh.
Hạch toán kinh doanh là nguyên tắc quan trọng nhất, quyết định tới sự sống
còn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Yêu cầu tối cao của nguyên
tắc này là lấy thu bù chi, có doanh lợi. Nó hoàn toàn trùng hợp với mục tiêu của
các doanh nghiệp là kinh doanh để đạt được lợi nhuận tối đa. Do có sự thống nhất
đó nên hạch toán kinh doanh không chỉ là điều kiện để thực hiện mà còn là yêu
cầu bắt buộc các doanh nghiệp phải thực hiện nếu như không muốn doanh nghiệp
bị phá sản. Thế nhưng hạch toán kinh doanh chỉ có thể được phát huy tác dụng
trong môi trường đích thực là nền kinh tế hàng hoá mà đỉnh cao của nó là nền kinh
tế thị trường và doanh nghiệp được tự chủ về mặt tài chính, tự chủ trong kinh
doanh. Doanh nhiệp được quyền sở hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình, chủ
động lựa chọn ngành nghề, địa bàn đầu tư, hình thức đầu tư kinh doanh, góp vốn
vào các doanh nghiệp khác; lựa chọn hình thức và cách thức huy động vốn, chủ
động tìm kiếm thị trường khách hàng và ký kết hợp đồng; tuyển thuê và sử dụng
lao động theo yêu cầu kinh doanh; chủ động áp dụng phương thức quản lý khoa
học hiện đại để nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh. Mục tiêu hiệu quả kinh
tế phải được coi là mục tiêu bao trùm chi phối hoạt động tài chính của doanh
nghiệp.
1.5.3. Nguyên tắc an toàn, phòng ngừa rủi ro.
Đảm bảo an toàn, phòng ngừa rủi ro bất trắc cũng được coi là nguyên tắc
quan trọng trong kinh doanh nói chung và tổ chức tài chính doanh nghiệp nói
riêng. Đảm bảo an toàn là cơ sở vững chắc cho việc thực hiện mục tiêu kinh doanh

có hiệu quả. Nguyên tắc an toàn cần được quán triệt trong mọi khâu của công tác
tổ chức tài chính doanh nghiệp: an toàn trong việc lựa chọn nguồn vốn, an toàn
trong việc lựa chọn đối tác đầu tư liên doanh, an toàn trong việc sử dụng vốn…An
toàn và mạo hiểm trong kinh doanh là hai thái cực đối lập nhau. Mạo hiểm trong
đầu tư thường phải chấp nhận nhiều rủi ro lớn, nhưng cũng thường thu được lợi
nhuận cao và ngược lại. Điều này đòi hỏi các nhà tài chính phải có những quyết
sách đúng đắn trong các thời cơ thích hợp để lựa chọn phương án đầu tư vừa đảm
bảo an toàn, vừa mang lại hiệu quả cao. Ngoài các giải pháp lựa chọn phương án
an toàn trong kinh doanh, cần thiết phải tạo lập quỹ dự phòng (quỹ dự trữ tài
chính) hoặc tham gia bảo hiểm. Mặt khác, việc thành lập công ty, hình thức phát
hành cổ phiếu cũng là biện pháp vừa để tập trung vốn, vừa để san sẻ rủi ro cho các
cổ đông nhằm tăng độ an toàn vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp.
14

Bộ môn: Kinh tế vận tải


Tài chính doanh nghiệp

1.5.4. Nguyên tắc giữ chữ tín.
Giữ chữ tín không chỉ là một tiêu chuẩn đạo đức trong cuộc sống đời
thường mà còn là nguyên tắc nghiêm ngặt trong kinh doanh nói chung và trong tổ
chức tài chính doanh nghiệp nói riêng. Trong thực tế kinh doanh cho thấy, kẻ làm
mất chữ tín, chỉ ham lợi trước mắt sẽ bị bạn hàng xa lánh. Đó là nguy cơ dẫn đến
phá sản. Do đó trong tổ chức tài chính doanh nghiệp để giữ chữ tín cần tôn trọng
nghiêm ngặt các kỉ luật thanh toán, chi trả các hợp đồng kinh tế, các cam kết về
góp vốn đầu tư, và phân chia lợi nhuận. Mặt khác để giữ chữ tín doanh nghiệp
cũng cần mạnh dạn đầu tư, đổi mới công nghệ, cải tiến kĩ thuật để nâng cao chất
lượng sản phẩm để luôn giữ được giá trị của nhãn hiệu hàng hoá của doanh
nghiệp.

1.6. Bộ máy quản lý tài chính.
Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá
trình phân phối các nguồn tài chính gắn liền với việc tạo lập và sử dụng các quỹ
tiền tệ của doanh nghiệp để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó,
bộ máy tài chính sẽ điều hành toàn bộ hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Chính vì thế, vai trò của bộ máy quản lý tài chính rất quan trọng, nó tồn tại và tuân
theo các quy luật khách quan, bị chi phối và tuân theo các mục tiêu và phương
hướng kinh doanh của công ty.
Bộ máy quản lý tài chính có nhiệm vụ tổng hợp, phân tích, đánh giá thực
trạng về tài chính và đưa ra những quyết định về mặt tài chính ngắn hạn cũng như
dài hạn cho doanh nghiệp. Giúp cho lãnh đạo doanh nghiệp hoạch định sự đánh
giá tổng quát cũng như từng khía cạnh cụ thể các nhân tố tài chính có ảnh hưởng
quan trọng đến sự tồn tại và phát triển của công ty, bao gồm: Chiến lược tham gia
vào thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường chứng khoán, xác định chiến lược
tài chính cho các chính sách của công ty trong các quyết định về việc mở rộng hay
thu hẹp quy mô sản xuất... Thông qua đó đánh giá và dự đoán có hiệu quả các dự
án đầu tư, các hoạt động liên doanh liên kết, chia tách, sáp nhập hay giải thể doanh
nghiệp.
Bộ máy quản lý tài chính tốt phải bao gồm các chuyên gia quản lý tài chính
có năng lực, trình độ chuyên môn, đáp ứng các yêu cầu của hoạt động sản xuất
kinh doanh. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần xây dựng hệ thống thông tin quản lý
tài chính có hiệu quả để quản lý được quá trình cạnh tranh ngày một cao trong nền
kinh tế thị trường.
15

Bộ môn: Kinh tế vận tải


Tài chính doanh nghiệp


16

Bộ môn: Kinh tế vận tải


Tài chính doanh nghiệp

Chương 2. VỐN CỐ ĐỊNH CỦA DOANH NGHIỆP
2.1. Tài sản cố định và vốn cố định của doanh nghiệp.
2.1.1. Tài sản cố định của doanh nghiệp.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp phải có các
yếu tố: Sức lao động, Tư liệu lao động và đối tượng lao động.
Khác với các đối tượng lao động (nguyên nhiên vật liệu, sản phẩm dở dang,
bán thành tải…) là những phương tiện vật chất mà con người sử dụng để tác động
vào đối tượng lao động, biến đổi nó theo mục đích của mình.
Bộ phận quan trọng nhất trong các tư liệu lao động sử dụng trong quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là các tài sản cố định. Đó là những tư liệu
lao động chủ yếu được sử dụng một cách trực tiếp hay gián tiếp trong quá trình sản
xuất kinh doanh như máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, nhà xưởng, các công
trình kiến trúc, các khoản chị phí đầu tư mua sắm các tài sản cố định vô hình…
Thông thường một tư liệu lao động được coi là một TSCĐ phải đồng thời thỏa
mãn hai tiêu chuẩn cơ bản:


Một là phải có thời gian sử dụng tối thiểu, thường từ một năm trở lên.



Hai là phải đạt giá trị tối thiểu ở một mức quy định. Mức giá trị cụ thể được
chính phủ quy định phù hợp với tình hình kinh tế của từng thời kỳ.


Đây là hai tiêu chuẩn định lượng, ngoài ra còn tùy theo từng quốc gia còn
có tiêu chuẩn định tính
Những tư liệu lao động không đủ các tiêu chuẩn quy định trên được coi là
những công cụ lao động nhỏ, được mua sắm bằng nguồn vốn lưu động của doanh
nghiệp. Tuy nhiên trong thực tế việc xem xét tiêu chuẩn và nhận biết TSCĐ của
doanh nghiệp là phức tạp hơn.
Trong điều kiện phát triển nhanh chóng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và
công nghệ như hiện nay, trong một số trường hợp doanh nghiệp phải đầu tư một
lượng giá trị lớn, kết quả đầu tư không tạo ra một thực thể vật chất cụ thể, nhưng
khoản đầu tư đó phục vụ cho nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh như: quyền phát
hành, bằng phát minh sáng chế…vv. Những khoản đầu tư như vậy đã tạo ra một
loại tài sản không có hình thái vật chất và nếu thỏa mãn tất cả các tiêu chuẩn quy
định là tài sản cố định thì được coi là tài sản cố định vô hình của doanh nghiệp

17

Bộ môn: Kinh tế vận tải


Tài chính doanh nghiệp

Như vậy tài sản cố định của doanh nghiệp là những tài sản có giá trị lớn, có
thời gian sử dụng dài cho các hoạt động của doanh nghiệp và phải thỏa mãn đồng
thời tất cả các tiêu chuẩn của tài sản cố định
Đặc điểm chung của các TSCĐ trong doanh nghiệp là tham gia vào nhiều
chu kỳ sản xuất sản phẩm với vai trò là các công cụ lao động. Trong quá trình đó
hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu của TSCĐ là không thay đổi. Song
giá trị của nó lại được chuyển dịch dần từng phần vào giá trị sản phẩm sản xuất ra.
Bộ phận giá trị chuyển dịch này cấu thành một yếu tố chi phí sản xuất kinh doanh

của doanh nghiệp và được bù đắp mỗi khi sản phẩm được tiêu thụ.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các TSCĐ của doanh nghiệp cũng
được coi như một loại hàng hóa như mọi hàng hóa thông thường khác. Nó không
chỉ có giá trị mà còn có giá trị sử dụng. Thông qua mua bán, trao đổi các TSCĐ có
thể được chuyển dịch quyền sở hữu và quyền sử dụng từ chủ thể này sang chủ thể
khác trên thị trường.
2.1.2. Phân loại TSCĐ của doanh nghiệp.
Phân loại TSCĐ là việc phân chia toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp
theo những tiêu thức nhất định nhằm phục vụ yêu cầu quản lý của doanh nghiệp.
Thông thường có những cách phân loại chủ yếu sau đây:
2.1.2.1. Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện.
Theo phương pháp này TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành hai loại:
TSCĐ có hình thái vật chất (TSCĐ hữu hình) và TSCĐ không có hình thái vật
chất (TSCĐ vô hình).
• Tài sản cố định hữu hình: Là những tư liệu lao động chủ yếu được biểu

hiện bằng các hình thái vật chất cụ thể như nhà xưởng, máy móc thiết bị, phương
tiện vận tải, các vật kiến trúc…Những TSCĐ này có thể là từng đơn vị tài sản có
kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với nhau
để thực hiện một hay một số chức năng nhất định trong quá trình sản xuất kinh
doanh.
• Tài sản cố định vô hình: Là những TSCĐ không có hình thái vật chất cụ

thể, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu
ly kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí về đất
sử dụng, chi phí mua bằng sáng chế, phát minh hay nhãn hiệu thương mại, giá trị
lợi thế thương mại…
18

Bộ môn: Kinh tế vận tải



Tài chính doanh nghiệp

Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu đầu tư vào TSCĐ
hữu hình và vô hình. Từ đó lựa chọn các quyết định đầu tư hoặc điều chỉnh cơ cấu
đẩu tư sao cho phù hợp và hiệu quả nhất.
2.1.2.2. Phân loại TSCĐ theo mục đích sử dụng.
Theo tiêu thức này toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành 3 loại:
• Tài sản cố định dùng cho mục đích kinh doanh: Là những TSCĐ dùng

trong hoạt động sản xuất kinh doanh cơ bản và hoạt động sản xuất kinh doanh phụ
của doanh nghiệp.
• Tài sản cố định dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh, quốc

phòng: Đó là những TSCĐ do doanh nghiệp quản lý và sử dụng cho các hoạt động
phúc lợi, sự nghiệp (như các công trình phúc lợi), các TSCĐ sử dụng cho hoạt
động đảm bảo an ninh, quốc phòng của doanh nghiệp.
Cách phân loại này giúp cho người quản lý doanh nghiệp thấy được kết cấu
TSCĐ của mình theo mục đích sử dụng. Từ đó có biện pháp quản lý TSCĐ theo
mục đích sử dụng sao cho có hiệu quả nhất, và đưa ra những biện pháp quản lý
phù hợp với mỗi loại tài sản cố định.
2.1.2.3. Phân loại TSCĐ theo tình hình sử dụng.
Căn cứ vào tình hình sử dụng TSCĐ người ta chia tài sản cố định của
doanh nghiệp thành các loại:
• Tài sản cố định đang sử dụng: Đó là những TSCĐ của doanh nghiệp đang

sử dụng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc các hoạt động phúc lợi, sự
nghiệp, hay an ninh, quốc phòng của doanh nghiệp.
• Tài sản cố định chưa cần dùng: Là những TSCĐ cần thiết cho hoạt động


sản xuất kinh doanh hay các hoạt động khác của doanh nghiệp, song hiện tại chưa
cần dùng, đang được dự trữ để sử dụng sau này.
• Tài sản cố định không cần dùng chờ thanh lý: Là những TSCĐ không cần

thiết hay không phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cần
được thanh lý, nhượng bán để thu hồi vốn đầu tư đã bỏ ra ban đầu.
Cách phân loại này cho thấy mức độ sử dụng có hiệu quả các TSCĐ của
doanh nghiệp như thế nào, từ đó có biện pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng
chúng.

19

Bộ môn: Kinh tế vận tải


Tài chính doanh nghiệp

Mỗi cách phân loại trên đây cho phép đánh giá, xem xét kết cấu TSCĐ của
doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau. Kết cấu TSCĐ là tỷ trọng giữa nguyên
giá của một TSCĐ nào đó so với tổng nguyên giá các loại TSCĐ của doanh
nghiệp tại một thời điểm nhất định.
Kết cấu TSCĐ giữa các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất khác nhau
hoặc thậm chí trong cùng một ngành sản xuất cũng không hoàn toàn giống nhau.
Sự khác biệt hoặc biến động của kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp trong các thời kỳ
khác nhau chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như quy mô sản xuất, khả năng thu
hút vốn đầu tư, khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, trình độ tiến bộ khoa
học kỹ thuật trong sản xuất….Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp, việc phân loại
và phân tích tình hình kết cấu TSCĐ là một việc làm cần thiết giúp doanh nghiệp
chủ động điều chỉnh kết cấu TSCĐ sao cho có lợi nhất cho việc nâng cao hiệu quả

sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp.
2.1.3. Vốn cố định và đặc điểm luân chuyển của vốn cố định vốn.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, việc mua sắm, xây dựng hay lắp đặt
các TSCĐ của doanh nghiệp đều phải thanh toán, chi trả bằng tiền. Số vốn đầu tư
ứng trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các TSCĐ hữu hình và vô hình được
gọi là vốn cố định của doanh nghiệp. Đó là số vốn đầu tư ứng trước vì số vốn này
nếu được sử dụng có hiệu quả sẽ không mất đi, doanh nghiệp sẽ thu hồi lại được
sau khi tiêu thụ các sản phẩm, hàng hóa hay dịch vụ của mình.
Là số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng các TSCĐ nên quy mô
của vốn cố định nhiều hay ít sẽ quyết định quy mô của TSCĐ, ảnh hưởng rất lớn
đến trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, năng lực sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Song ngược lại những đặc điểm kinh tế của TSCĐ trong quá trình
sử dụng lại có ảnh hưởng quyết định, chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển
của vốn cố định. Có thể khái quát những nét đặc thù về sự vận động của vốn cố
định trong quá trình sản xuất kinh doanh như sau:
Một là: Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm, điều này
do đặc điểm của TSCĐ được sử dụng lâu dài, trong nhiều chu kỳ sản xuất quyết
định.
Hai là: Vốn cố định được luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ sản
xuất

20

Bộ môn: Kinh tế vận tải


Tài chính doanh nghiệp

Khi tham gia vào quá trình sản xuất, một bộ phận vốn cố định được luân chuyển
và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức chi phí khấu hao) tương

ứng với phần giá trị hao mòn của TSCĐ.
Ba là: Sau nhiều chu kỳ sản xuất vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân
chuyển
Sau mỗi chu kỳ sản xuất vốn được luân chuyển vào giá trị sản phẩm dần
dần tăng lên, song phần vốn đầu tư ban đầu vào TSCĐ lại dần giảm xuống cho đến
khi TSCĐ hết thời gian sử dụng, giá trị của nó được chuyển dịch hết vào giá trị
sản phẩm đã sản xuất thì vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Những đặc điểm luân chuyển trên đây của vốn cố định đòi hỏi việc quản lý
vốn cố định phải luôn gắn liền với việc quản lý hình thái hiện vật của nó là các
TSCĐ của doanh nghiệp.
Từ những phân tích nêu trên có thể đưa ra khái niệm về vốn cố định như
sau:
Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về TSCĐ
mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất
và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời gian sử dụng, (hoặc khi tái
sản xuất được tài sản cố định về mặt giá trị).
2.2. Khấu hao tài sản cố định.
2.2.1. Hao mòn TSCĐ.
Trong quá trình sử dụng, do chịu ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân khác
nhau TSCĐ của doanh nghiệp bị hao mòn dưới hai hình thức: Hao mòn hữu hình
và hao mòn vô hình.
2.2.1.1. Hao mòn hữu hình của TSCĐ.
Hao mòn hữu hình của TSCĐ là sự hao mòn về vật chất, về giá trị sử dụng
và giá trị của TSCĐ trong quá trình sử dụng. Về mặt vật chất đó là sự hao mòn có
thể nhận thấy được từ sự thay đổi trạng thái vật lý ban đầu ở các bộ phận, chi tiết
TSCĐ dưới sự tác động của ma sát, tải trọng, nhiệt độ, hóa chất, môi trường… Về
giá trị sử dụng đó là sự giảm sút về chất lượng, tính năng, kỹ thuật ban đầu trong
qua trình sử dụng và cuối cùng không còn sử dụng được nữa. Muốn khôi phục lại
giá trị sử dụng của nó phải tiến hành sửa chữa, thay thế. Về mặt giá trị đó là sự


21

Bộ môn: Kinh tế vận tải


Tài chính doanh nghiệp

giảm dần giá trị của TSCĐ cùng với quá trình chuyển dịch dần từng phần giá trị
hao mòn vào giá trị sản phẩm sản xuất.
Nguyên nhân và mức độ hao mòn hữu hình trước hết phụ thuộc vào các
nhân tố trong quá trình sử dụng TSCĐ như thời gian và cường độ sử dụng, việc
chấp hành các quy phạm kỹ thuật trong sử dụng và bảo dưỡng TSCĐ. Tiếp đến là
các nhân tố về tự nhiên và môi trường sử dụng TSCĐ. Ví dụ như độ ẩm, nhiệt độ
môi trường, tác động của các chất hóa học… Ngoài ra mức độ hao mòn hữu hình
cũng còn phụ thuộc vào chất lượng chế tạo TSCĐ. Ví dụ như chất lượng nguyên
vật liệu được sử dụng; trình độ kỹ thuật, công nghiệp chế tạo…
Việc nhận thức rõ các nguyên nhân ảnh hưởng đến mức hao mòn hữu hình
TSCĐ sẽ giúp các doanh nghiệp có biện pháp cần thiết, hữu hiệu để hạn chế nó.
2.2.1.2. Hao mòn vô hình.
Ngoài sự hao mòn hữu hình, trong quá trình sử dụng các TSCĐ còn bị hao
mòn vô hình. Hao mòn vô hình là sự hao mòn thuần túy về mặt giá trị của TSCĐ,
biểu hiện sự giảm sút về giá trị trao đổi của TSCĐ do ảnh hưởng của tiến bộ khoa
học kỹ thuật.
Tài sản cố định bị giảm giá trị trao đổi do đã có những TSCĐ như cũ song
giá mua lại rẻ hơn. Do đó trên thị trường các TSCĐ cũ bị mất đi một phần giá trị
của mình.
Tài sản cố định bị giảm giá trị trao đổi do có những TSCĐ mới tuy mua với
giá trị như cũ nhưng lại hoàn thiện hơn về mặt kỹ thuật. Như vậy do có TSCĐ mới
tốt hơn mà TSCĐ cũ bị mất đi một phần giá trị của mình. Đó chính là phần giá trị
TSCĐ cũ không chuyển dịch được vào giá trị sản phẩm kể từ khi có TSCĐ mới

xuất hiện. Bởi vì khi TSCĐ mới xuất hiện và được sử dụng phổ biến thì điều kiện
sản xuất sẽ do các TSCĐ mới quyết định. Phần giá trị chuyển dịch được tính vào
giá trị sản phẩm sẽ được tính theo mức của TSCĐ mới. Do đó nếu doanh nghiệp
còn dùng TSCĐ cũ để sản xuất thì cứ một sản phẩm sản xuất ra, doanh nghiệp sẽ
mất đi phần giá trị chênh lệch giữa mức giá trị chuyển dịch của TSCĐ cũ và
TSCĐ mới do không được xã hội chấp nhận tính vào giá trị sản phẩm
Tài sản cố định bị mất giá hoàn toàn do chấm dứt chu kỳ sống của sản
phẩm, tất yếu dẫn đến những TSCĐ sử dụng để chế tạo các sản phẩm đó cũng bị
lạc hậu, mất tác dụng. Hoặc trong các trường hợp các máy móc thiết bị, quy trình
công nghệ… còn nằm trên các dự án thiết kế, các bản dự thảo phát minh song đã
22

Bộ môn: Kinh tế vận tải


Tài chính doanh nghiệp

trở nên lạc hậu tại thời điểm đó. Điều này cho thấy hao mòn vô hình không chỉ
xảy ra đối với các TSCĐ hữu hình mà còn với cả các TSCĐ vô hình.
Nguyên nhân cơ bản của hao mòn vô hình là sự phát triển của tiến bộ khoa
học kỹ thuật. Do đó biện pháp có hiệu quả nhất để khắc phục hao mòn vô hình là
doanh nghiệp phải coi trọng đổi mới kỹ thuật công nghệ sản xuất, ứng dụng kịp
thời các thành tựu tiến bộ khoa học kỹ thuật. Điều này có ỹ nghĩa rất quyết định
trong việc tạo ra các lợi thế cho doanh nghiệp trong cạnh tranh trên thị trường.
2.2.2. Khấu hao TSCĐ và các phương pháp tính khẩu hao TSCĐ.
2.2.2.1 .Khái niệm.
Để bù đắp giá trị tài sản cố định bị hao mòn trong quá trình sản xuất kinh
doanh, doanh nghiệp phải chuyển dịch dần dần phần giá trị hao mòn đó vào giá trị
sản phẩm sản xuất trong kỳ gọi là khấu hao tài sản cố định. Vậy khấu hao tài sản
cố định là việc chuyển dịch phần giá trị hao mòn của TSCĐ trong quá trình sử

dụng vào giá trị sản phẩm sản xuất ra theo các phương pháp tính toán thích hợp.
Mục đích của khấu hao TSCĐ là nhằm tích lũy vốn để tái sản xuất giản đơn
hoặc tái sản xuất mở rộng TSCĐ. Bộ phận giá trị hao mòn được chuyển dịch vào
giá trị sản phẩm được coi là một yếu tố chi phí sản xuất sản phẩm được biểu hiện
dưới hình thức tiền tệ gọi là tiền khấu hao TSCĐ. Sau khi sản phẩm hàng hóa
được tiêu thụ, số tiền khấu hao được tích lũy lại hình thành quỹ khấu hao TSCĐ
của doanh nghiệp. Quỹ khấu hao TSCĐ là một nguồn tài chính quan trọng để tái
sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng TSCĐ trong các doanh nghiệp. Trên
thực tế khi chưa có nhu cầu đầu tư mua sắm TSCĐ các danh nghiệp cũng có thể sử
dụng linh hoạt quỹ này để đáp ứng các nhu cầu vốn kinh doanh của mình..
Về nguyên tắc, việc tính khấu hao TSCĐ phải phù hợp với mức độ hao
mòn của TSCĐ và đảm bảo thu hồi đầy đủ giá trị vốn đầu tư ban đầu vào tài sản
cố định.
Thực hiện khấu hao tài sản cố định một cách hợp lý có ý nghĩa kinh tế lơn
đối với doanh nghiệp:
-

23

Khấu hao hợp lý tài sản cố định là một biện pháp quan trọng để thực hiện
việc bảo toàn vốn cố định. Thông qua việc khấu hao tài sản cố định hợp lay
doanh nghiệp có thể thu hồi đầy đủ vốn khi tài sản cố định hết thời hạn sử
dụng.
Bộ môn: Kinh tế vận tải


Tài chính doanh nghiệp
-

Khấu hao hợp lý tài sản cố định giúp doanh nghiệp có thể tập trung được

vốn từ tiền khấu hao để có thể kịp thời đổi mới máy móc, thiết bị và công
nghệ.

-

Việc khấu hao hợp lý tài sản cố định là nhân tố quan trọng để xác định
đúng đắn giá thành sản phẩm và đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.

2.2.2.2. Các phương pháp khấu hao TSCĐ trong doanh nghiệp.
Việc tính khấu hao TSCĐ trong các doanh nghiệp có thể được thực hiện
theo nhiều phương pháp khác nhau. Mỗi phương pháp khấu hao có những ưu
nhược điểm riêng. Việc lựa chọn đúng đắn các phương pháp khẩu hao TSCĐ là
nội dung quan trọng của công tác quản lý vốn cố định trong các doanh nghiệp.
Thông thường có các phương pháp khấu hao cơ bản như sau:
a) Phương pháp khấu hao bình quân (còn gọi là phương pháp khấu hao tuyến
tính cố định)
Đây là phương pháp khấu hao đơn giản nhất, được sử dụng khá phổ biến để
tính khấu hao các loại TSCĐ. Theo phương pháp này tỷ lệ khấu hao và mức khấu
hao hàng năm được xác định theo mức không đổi trong suốt thời gian sử dụng
TSCĐ. Mức khấu hao hàng năm và tỷ lệ khấu hao hàng năm được xác định theo
công thức sau:
* Mức khấu hao tài sản cố định:
Các ký hiệu như sau:
MKH: Mức khấu hao trung bình hàng năm
NG: Nguyên giá của TSCĐ
T: Thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ (năm)
Giá trị phải khấu hao TSCĐ = Nguyên giá – Giá trị thanh lý ước tính
Trong đó:
- Nếu doanh nghiệp trích khấu hao hàng tháng thì lấy mức khấu hao hàng

năm chia cho 12 tháng.
- Nguyên giá TSCĐ là toàn bộ các chi phí thực tế của doanh nghiệp đã chi
ra để có được TSCĐ cho tới khi đưa tài sản cố định vào trạng thái sẵn sàng sử
dụng. Thông thường khoản chi phí này bao gồm chi phí theo giá mua thực tế (giá
24

Bộ môn: Kinh tế vận tải


Tài chính doanh nghiệp

ghi trên hóa đơn trừ đi các khoản giảm giá, chiết khấu mua hàng...) và các khoản
chi phí kèm theo trước khi đưa tài sản cố định vào sử dụng như các chi phí vận
chuyển, bốc dỡ, lắp đặt, chạy thử, các khoản lãi vay đầu tư cho TSCĐ khi chưa
bàn giao và đưa vào sử dụng, các khoản thuế không được hoàn và lệ phí trước bạ
(nếu có). Đối với tài sản cố định doanh nghiệp tự xây dựng thì nguyên giá là giá trị
thực tế đã chi ra để xây dựng tài sản cố định. Đối với tài sản cố định vô hình thì
nguyên giá là tổng chi phí thực tế đã đầu tư vào tài sản đó.
- Thời gian sử dụng hữu ích của tài sản cố định là thời gian doanh nghiệp
dự kiến sử dụng TSCĐ vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong điều kiện bình
thường. Nó được xác định căn cứ vào tuổi thọ kỹ thuật và tuổi thọ kinh tế của
TSCĐ. Tuổi thọ kỹ thuật là khoảng thời gian có thể sử dụng TSCĐ được tính theo
các thông số về mặt kỹ thuật khi chế tạo chúng. Còn tuổi thọ kinh tế được xác định
căn cứ vào thời gian mà TSCĐ còn sử dụng có hiệu quả nhằm loại trừ những ảnh
hưởng bất lợi của hao mòn vô hình. Thông thường tuổi thọ kinh tế luôn nhỏ hơn
tuổi thọ kỹ thuật của TSCĐ.
- Giá trị thanh lý ước tính được xác định bằng kết quả thanh lý ước tính trừ
đi chi phí thanh lý ước tính. Để đơn giản hóa vấn đề người ta quy định thu thanh lý
bằng chi phí thực hiện thanh lý tài sản cố định nên ta có công thức
Ví dụ: Một doanh nghiệp mua một TSCĐ, nguyên giá được xác định là 240

triệu đồng. Tài sản cố định có tuổi thọ kỹ thuật là 12 năm, tuổi thọ kinh tế là 10
năm, doanh nghiệp dự kiến sử dụng hữu ích của tài sản cố định là 10 năm, giá tri
thanh lý không đáng kể.
Mức khấu hao trung bình hàng năm là:
Mức trích khấu hao hàng tháng là:

* Tỷ lệ khấu hao tài sản cố định.
Tỷ lệ khấu hao năm của tài sản cố định (T KH) là tỷ lệ phần trăm giữa mức
khấu hao (MKH) và nguyên giá của tài sản cố định (NG).
Công thức tính:

25

Bộ môn: Kinh tế vận tải


×