Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

NGHIÊN cứu BIẾN TÍNH ỐNG NANO CACBON BẰNG 8 – HYDROXYQUINOLINE và ỨNG DỤNG để TÁCH một số KIM LOẠI NẶNG KHỎI nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (701.37 KB, 17 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
---------------------

Cao Thị Diệu

NGHIÊN CỨU BIẾN TÍNH ỐNG NANO CACBON
BẰNG 8 – HYDROXYQUINOLINE VÀ ỨNG DỤNG
ĐỂ TÁCH MỘT SỐ KIM LOẠI NẶNG KHỎI NƯỚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Hà Nội – 2014

1

Cao häc Hãa – K23


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
---------------------

Cao Thị Diệu

NGHIÊN CỨU BIẾN TÍNH ỐNG NANO CACBON
BẰNG 8 – HYDROXYQUINOLINE VÀ ỨNG DỤNG
ĐỂ TÁCH MỘT SỐ KIM LOẠI NẶNG KHỎI NƯỚC
Chuyên ngành: Hóa môi trường
Mã số: 60440120


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. Nguyễn Mạnh Tường
PGS.TS. Nguyễn Văn Nội

Hà Nội - 2014

2

Cao häc Hãa – K23


LỜI CẢM ƠN

Với lòng biết ơn sâu sắc em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Văn
Nội – trường Đại học Khoa học Tự nhiên và TS. Nguyễn Mạnh Tường - Viện Hóa
học Vật liệu/ Viện Khoa học và Công nghệ Quân sự đã giao đề tài nghiên cứu và
tạo điều kiện thí nghiệm thuận lợi giúp em hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn TS Nguyễn Thị Hòa đã tận tình hướng dẫn giúp
đỡ em trong suốt quá trình làm nghiên cứu khoa học.
Em cũng xin cảm ơn tập thể các anh chị em trong phòng vật liệu Nano –
Viện Hóa học – Vật liệu – Viện khoa học quân sự đã tạo cho em một môi trường
nghiên cứu thuận lợi và động viên em trong suốt thời gian qua.

Hà nội, ngày 15 tháng 11 năm 2014
Học viên

Cao Thị Diệu


3

Cao häc Hãa – K23


MỞ ĐẦU
Nước là nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng cho tất cả các sinh vật trên trái
đất, trong đó có con người với 80% cơ thể là nước. Song thực tế hiện nay nguồn
nước đang bị ô nhiễm nghiêm trọng do các hoạt động của con người, đặc biệt là các
nguồn ô nhiễm từ hoạt động công nghiệp. Nguồn nước bị ô nhiễm thường chứa các
hợp chất có hại cho sức khỏe của con người như các hợp chất hữu cơ, vô cơ, các
nguyên tố phóng xạ… Trong đó đáng lưu ý là các ion kim loại nặng. Một số kim
loại nặng như sắt, kẽm có trong nước là cần thiết cho sinh vật và con người vì
chúng là những nguyên tố vi lượng mà sinh vật cần tuy nhiên với hàm lượng cao nó
lại là nguyên nhân gây độc cho con người, gây ra nhiều bệnh hiểm nghèo như ung
thư, đột biến. Đặc biệt đau lòng hơn là nó là nguyên nhân gây nên những làng ung
thư.
Hiện nay trên thế giới có nhiều phương pháp để xử lý ion kim loại nặng
trong nước, trong đó đáng lưu ý là phương pháp hấp phụ với các ưu điểm nổi trội
như công nghệ xử lý đơn giản, hiệu quả và tốc độ xử lý nhanh[21]. Một trong
những vật liệu đang được quan tâm làm vật liệu hấp phụ là ống nano cacbon (CNT).
Tuy nhiên hiệu quả xử lý, mức độ chọn lọc và độ nhậy của vật liệu này vẫn còn hạn
chế. Việc sử dụng các ống nano cacbon biến tính là biện pháp quan trọng nhằm tăng
cường hiệu quả xử lý, độ chọn lọc các kim loại nặng. Bề mặt của ống nano cacbon
có thể được biến tính bằng nhiều cách khác nhau, chẳng hạn như hình thành liên kết
hóa học giữa các chất biến tính với bề mặt CNT hoặc hấp phụ vật lý của các chất
biến tính lên CNT.
Với mục đính khai thác tiềm năng ứng dụng của CNT trong việc xử lý nước
sinh hoạt, đặc biệt là loại bỏ kim loại nặng trong nước; tôi đã chọn hướng nghiên

cứu biến tính ống nano cacbon bằng 8 – hydroxyquinoline và thử nghiệm xử lý với
hai đại diện của kim loại nặng là kim loại đồng, chì trên đề tài “Nghiên cứu biến
tính ống nano cacbon bằng 8 – hydroxyquinoline và ứng dụng để tách một số
kim loại nặng khỏi nước”.

4

Cao häc Hãa – K23


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1.

Tổng quan về vật liệu nano cacbon

1.1.1. Giới thiệu về vật liệu nano cacbon
Vật liệu nano cacbon là một trong những vật liệu có kích thước nano đã được
nghiên cứu và có khả năng ứng dụng cao, thường tồn tại ở hai dạng: ống nano
cacbon (CNT) và sợi nano cacbon (CNF). Năm 1991 Sumio Lijma làm việc ở hãng
NEC (Nhật) trong khi theo dõi các loại bụi trong bình kín để chế tạo fulleren theo
cách phóng điện hồ quang trong khí trơ với các điện cực than (cacbon) ông đã phát
hiện thấy có những tinh thể nhỏ dạng như cái ống rỗng đường kính ống vào cỡ 1,4
nanomet còn dài có thể đến micromet, thậm chí milimet. Ống này có thể xem như từ
lá graphen cắt thành dải cuốn tròn lại thành ống. Ở hai đầu ống có thể là hở, có thể
là kín như có hai nửa quả cầu fulơren úp lại. Như vậy bề mặt bao quanh ống gồm
toàn là nguyên tử cacbon xếp theo hình lục giác, hai đầu cũng là nguyên tử cacbon
nhưng có một số chỗ không phải là xếp theo hình 6 cạnh mà là hình 5 cạnh để khép
kín lại được… Ngay sau đó phát hiện này được công bố trên tạp chí Nature và
người ta gọi đó là ống nano cacbon (CNT).
Với cấu trúc tinh thể đặc biệt, ống cacbon nano có nhiều tính năng đặc biệt

như: độ dẫn điện thay đổi theo kích thước và cấu trúc của ống, nhẹ hơn thép 6 lần
nhưng lại bền hơn thép cỡ 100 lần, chịu được nhiệt độ rất tốt (~2800 0C trong chân
không và ~700 0C trong không khí), có tính đàn hồi tốt, độ dẫn điện cao, diện tích
bề mặt mặt lớn, có khả năng phát xạ điện từ ở từ trường thấp. Bên cạnh khả năng
tạo được vật liệu compozit tiên tiến và các thiết bị điện tử kích thước nano thì CNT
còn có thể sử dụng làm chất mang cho xúc tác.
Xét về cấu trúc, do diện tích bề mặt lớn và có cấu trúc rỗng nên CNT được
sử dụng như là vật liệu hấp phụ [23]. Hơn nữa cấu trúc bề mặt của CNT có thể hoạt
hóa bằng cách oxy hóa hoặc bằng các chất hoạt động bề mặt, mở đáy của ống nano

5

Cao häc Hãa – K23


cacbon, bề mặt có thể gắn thêm các kim loại, oxit kim loại hoặc các tác nhân hữu cơ
làm tăng khả năng ứng dụng của chúng trong việc chế tạo vật liệu hấp phụ.
1.1.2. Cấu trúc và tính chất của ống nano cacbon
Bản chất của liên kết trong ống nano cacbon được giải thích bởi hóa học
lượng tử, cụ thể là sự xen phủ orbital. Liên kết hóa học của các ống nano cacbon
được cấu thành hoàn toàn bởi các liên kết sp2, tương tự than chì. Cấu trúc liên kết
này mạnh hơn các liên kết sp3 trong kim cương, tạo ra những phân tử có độ bền đặc
biệt. Các ống nano cacbon thông thường được xếp thành các “sợi dây thừng” được
giữ với nhau bằng lực Van der Waals.
Để tìm hiểu cấu trúc của CNT, trước hết cần tìm hiểu về cấu trúc của graphit.
Graphit bao gồm nhiều lớp nguyên tử cacbon sắp xếp song song với nhau, mỗi lớp
này ta gọi là mặt graphen.

Hình 1.1. Cấu trúc graphit tạo bởi các mặt graphen
Trong mỗi mặt này, một nguyên tử C chia ra 3 liên kết cộng hóa trị để nối

với 3 nguyên tử gần nhất ở xung quanh. Góc của các mối liên kết là 120o, do đó các
nguyên tử nằm trong một lớp tạo thành một mạng lưới hình 6 cạnh khá bền vững.
Các mặt graphen này cách nhau một khoảng khá xa so với khoảng cách giữa các
nguyên tử trong một mặt.
Chúng ta quan tâm đến các mặt graphen vì có thể coi CNT được tạo thành
bằng cách cắt tấm graphen ra, sau đó cuộn tròn lại. Có rất nhiều kiểu cuộn khác

6

Cao häc Hãa – K23


nhau dựa theo hướng cuộn, chính sự khác nhau này làm cho CNT có các tính chất
vật lý, hóa học phong phú, đa dạng và có thể thay đổi, như về tính dẫn điện nó có
thể mang tính đẫn điện của dung môi, của chất bán dẫn hay kim loại tùy thuộc vào
cấu trúc của ống.

Hình 1.2. Mô tả cách cuộn tấm graphen để có được CNT
Tuy nhiên, không phải lúc nào ống nano cacbon cũng có hình dạng giống
như hình dạng của tấm graphen cuộn lại. Bởi vì tấm graphen gồm các nguyên tử
cacbon xếp trên 6 đỉnh của hình lục giác, còn CNT lại có sự xuất hiện của các đa
giác là ngũ giác.
Có hai loại ống nano cacbon là: ống nano cacbon đơn lớp (SWCNT), được
cấu tạo bởi một lớp duy nhất các nguyên tử cacbon và ống nano cacbon đa lớp
(MWCNT), được cấu tạo như thể bao gồm nhiều ống đơn lớp lồng vào nhau.

Hình 1.3. Mô tả cấu trúc của SWCNT và MWCNT

7


Cao häc Hãa – K23


Hình 1.4. Mô tả cấu trúc của SWCNT [16]
Đường kính của ống nano cacbon tùy thuộc vào từng loại ống. Thông thường
một ống nano cacbon đơn lớp có đường kính vào khoảng 1-2 nm. Còn các ống nano
cacbon đa lớp thì có đường kính ngoài vào khoảng 2-25 nm, và đường kính ống
trong cùng dao động trong khoảng 1-8 nm. Cấu trúc của MWCNT bao gồm từ 2 đến
30 SWCNT có đường kính khác nhau lồng vào nhau, và khoảng cách giữa các lớp
trong cùng một ống nano cacbon đa lớp từ 0,34 – 0,36 nm [28] tức là gần bằng
khoảng cách giữa các mặt graphen trong graphit tự nhiên. Chiều dài của mỗi ống
nano cacbon có thể từ vài trăm nanomet đến micromet. Ngày nay người ta đã làm
được những ống nano cacbon dài đến hàng centimet….
CNT hoạt động mạnh hơn so với graphite nhưng trên thực tế nó vẫn tương
đối trơ về mặt hóa học.
1.1.3. Các phương pháp chế tạo ống nano cacbon
1.1.3.1.

Cơ chế hình thành ống nano cacbon

Có thể hiểu một cách đơn giản quá trình mọc CNT như sau:
Hạt xúc tác được tạo trên đế. Khí chứa cacbon (CnHm) sẽ bị phân ly thành
nguyên tử cacbon và các sản phẩm phụ khác do năng lượng nhiệt, năng lượng
plasma có vai trò của xúc tác [7].
Các sản phẩm sau phân li sẽ lắng đọng trên các hạt xúc tác. Ở đây sẽ xảy ra
quá trình tạo các liên kết C – C và hình thành CNT. Kích thước của ống CNT về cơ

8

Cao häc Hãa – K23



bản phụ thuộc kích thước hạt xúc tác. Liên kết giữa các hạt xúc tác và đế mà ống
nano cacbon quyết định cơ chế mọc: mọc từ đỉnh của hạt lên hay mọc từ đế lên tạo
thành CNT. Kích thước của hạt xúc tác kim loại và các điều kiện liên quan khác
quyết định ống nano cacbon là đơn lớp (SWCNT) hoặc đa lớp (MWCNT).

Hình 1.5. Cơ chế mọc ống nano cacbon
1.1.3.2.

Một số phương pháp được dùng để chế tạo ống nano cacbon

a) Phương pháp phóng điện hồ quang
Phương pháp này được Thomas Ebbesen và Pulickel M.Ajayan ở phòng
nghiên cứ của hãng NEC tại Tsukuba ( Nhật Bản) công bố vào năm 1992 với kết
quả tạo được ống nano cacbon ở số lượng vĩ mô.
Phương pháp phóng điện hồ quang được thực hiện với hai điện cực than
được đặt trong môi trường Argon hay Heli. Khi phóng điện khí giữa hai cực than bị
ion hóa trở thành dẫn điện. Đó là plasma, vì vậy phương pháp này còn được gọi
dưới một cái tên khác là hồ quang plasma. Hồ quang plasma làm cho than ở điện
cực anot bị bốc bay và bám vào điện cực đối diện, tức là bám vào catot, khi đó ống
nano cacbon được hình thành. Thông thường khi cho dòng hồ quang là 100A thì ta
thu được hiệu suất khoảng 30% về khối lượng. Nhược điểm của phương pháp là
ống nano thu được ngắn, chỉ khoảng dưới 50 micromet.

9

Cao häc Hãa – K23



Hình 1.6. Hệ thiết bị chế tạo CNT bằng phương pháp hồ quang điện
b) Phương pháp phóng điện hồ quang có Coban
Cũng dùng phóng điện hồ quang, nhưng có thêm khoảng 3% coban. Phương
pháp này cho sản phẩm là nhiều ống nano cacbon một lớp liên kết lại, trong sợi có
lẫn một chút coban rất nhỏ, một số hạt cacbon vô định hình v.v…
c) Phương pháp dùng laser
Người ta cho tia laser chiếu vào một thanh graphit có pha hạt Co và Ni với tỉ
lệ 50:50, kích thước hạt cỡ 1 micromet. Thanh graphit được đặt trong môi trường
khí trơ Ar, tia laser năng lượng cao (xung hoăc liên tục) chiếu vào làm graphit nóng
đến 1200oC và graphit bị bốc bay tạo thành các sản phẩm nano cacbon. Tiếp đó là
gia công nhiệt ở 1000oC để lấy đi C60 và các fulơren khác để thu được ống nano
cacbon. Phương pháp này chủ yếu sản xuất ra những ống nano cacbon 1 lớp, hiệu
suất >70%. Tuy nhiên hạn chế của phương pháp này là cần những nguồn laser có
cường độ cực lớn, và vì vậy mà nó rất tốn kém.

Hình 1.7. Hệ chế tạo CNTs bằng phương pháp dùng chùm laser

10

Cao häc Hãa – K23


d) Phương pháp nghiền bi
Dùng một bình thép không gỉ bên trong có chứa các hòn bi cũng bằng thép
không gỉ và thật cứng. Đổ vào bình thép này bột graphit tinh khiết (99,8%), sau đó
cho khí Ar thổi qua với áp suất khoảng 300kPa. Bước tiếp theo là cho quay bình
thép để có các hòn bi bên trong nghiền bột graphit, thời gian nghiền kéo dài trong
150 giờ. Sau đó ta thu được sản phẩm. Sản phẩm của phương pháp này là các ống
nano cacbon nhiều lớp. Đây là phương pháp rất kinh tế, công nghệ không quá phức
tạp nhưng không đạt được những ống nano có kích thước đều đặn.

e) Phương pháp tổng hợp từ ngọn lửa
Nguyên tắc của phương pháp này là dùng khí hydro cacbon đốt thành ngọn
lửa tạo ra nhiệt độ cao, khi đó phần khí chưa cháy hết sẽ bị phân hủy, sau đó kết
hợp lại tạo thành ống nano cacbon. Tuy nhiên sản phẩm tạo thành có kích thước
không đều đặn, nhưng có hiệu suất cao thích hợp cho công nghiệp.
f) Phương pháp CVD ( Chemical vapour deposition)
Trong phương pháp lắng đọng pha hơi hoá học (CVD) thường sử dụng
nguồn carbon là các hyđrocarbon (CH4, C2H2) hoặc CO và sử dụng năng lượng
nhiệt hoăc plasma hay laser để phân ly các phân tử khí thành các nguyên tử carbon
hoạt hóa. Các nguyên tử cacbon này khuếch tán xuống đế, lắng đọng trên các hạt
kim loại xúc tác (Fe, Ni, Co), và CNT được tạo thành. Nhiệt độ vào khoảng 650oC –
900oC

Hình 1.8. Hệ thiết bị chế tạo CNTs bằng phương pháp CVD

11

Cao häc Hãa – K23


Yêu cầu của phương pháp CVD là phải sử dụng xúc tác trong quá trình
lắng đọng, tùy theo từng loại xúc tác khác nhau mà ta có các sản phẩm ống nano
cacbon khác nhau, như đơn lớp hay đa lớp, xếp trật tự hay không trật tự. Để chế
tạo được một lượng lớn ống nano cacbon, ta thường sử dụng xúc tác là các kim
loại Co và Fe.

12

Cao häc Hãa – K23



TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Nguyễn Đình Bảng (2004), Giáo trình các phương pháp xử lý nước, nước thải,
Trường ĐHKHTN, ĐHQG HN.
2. Phùng Văn Bé, Lê Tự Hải (2011), “Nghiên cứu tách ion Pb2+ trong dung dịch
nước bằng vật liệu hấp phụ tanin chiết tách từ vỏ keo tai tượng”, Tạp chí Khoa
học và công nghệ Đại học Đà Nẵng, tập 42(số 01).
3. Nguyễn Xuân Chánh, Vũ Đình Cự (2004), Công nghệ nano điều khiển đến
từng phân tử, NXB khoa học kỹ thuật – Hà Nội.
4. PGS.TS. Trần Thị Đà( Chủ Biên)- GS.TS. Nguyễn Hữu Đĩnh (2007), Phức
chất - Phương pháp tổng hợp và nghiên cứu cấu trúc, Nhà xuất bản khoa học
và kĩ thuật, tr. 156-162.
5. Nguyễn Ngọc Linh, Nguyễn Thị Thanh Thủy, Lê Đức Trung (2007), “Sử dụng
vật liệu hấp phụ tự nhiên để xử lý kim loại nặng trong bùn thải công nghiệp”,
Tạp chí Phát triển KH&CN, tập 10 (số 01).
6. Nguyễn Thị Nhung, Nguyễn Thị Kim Thường (2008), “Nghiên cứu khả năng
tách loại Pb2+ trong nước bằng nano sắt kim loại”, Tạp chí Khoa học
ĐHQGHN, Khoa học tự nhiên và Công nghệ, 24, tr. 305-309.
7. Nguyễn Mạnh Tường, Trần Sơn Hải, Hà Quốc Bảng, Trần Danh Tuấn (122011), “Nghiên Cứu Tổng Hợp Ống Nano Cacbon Mỏng Đa Lớp Trên Xúc
Tác Co-Mo/MgO”, Tạp chí Khoa học và Kỹ thuật, (số 145).
8. Nguyễn Mạnh Tường,… (4-2012) “Cơ sở dữ liệu cho Qúa Trình Tổng Hợp
Xúc Tác Để Điều Chế Ống Nano Cacbon Theo Phương Pháp Cháy Ướt”, Tạp
chí Nghiên cứu khoa học và công nghệ quân sự, (số 18).
9. Trịnh Thị Thanh (2000), Độc học, Môi trường và Sức khỏe con người, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội

13

Cao häc Hãa – K23



10. Đỗ Thị Thủy (2012), “Nghiên cứu chế tạo vật liệu tổ hợp trên cơ sở
CNT/Al2O3 ứng dụng trong xử lý nước”, đề tài khoa học công nghệ cấp viện
Hóa học Vật liệu – viện Khoa học và công nghệ quân sự.
Tài liệu tiếng Anh
11. A. Borrell, V.G. Rocha, R.Torecillas, A. Fernánder (2011), “Surface coating
on carbon nanofibers with alumina precursor by different synthesis routes”,
Composites Science and Technology, pp 18-22.
12. A. Ozcan, O. Gok, A. Ozcan (2009), Adsorption of lead(II) ions onto 8-hydroxy
quinoline- immobilized bentonite, J. Hazard. Mater, 161, pp.499–509.
13. B.Xing, K.Yang, L.Zhu (2006), “Pollution prevention and treatment using
nanotechnology”, Environ.Sci.Technol, 40, pp.18-55.
14. G Roy Chaudhury, PK Dash, VN Misra, K Srinivasa Rao, D Sarangi (2005),
“Treatment of waste water containing Pb and Fe using ion-exchange
techniques”, Journal of Chemical Technology and Biotechnology, 80, 892898.
15. H. Dierssen, W. Balzer (2001), Landing simplified synthesis of an 8hydroxyquinoline chelating resin and a study of trace metal profiles from
Jellyfish Lake, Palau, Mar. Chem. 73, 173–192.
16. H. S. Nalwa. “Handbook of Nanostructure Materials and Nanotechnology,
Volume 5: Organics Polymers, and Biological Materials”, Copyright 2000 by
Academic Press.
17. J.Carletto, K. Roux, H. Maltez, E. Martendal, E. Carasek (2008), Use of 8hydroxyquinoline-chitosan chelating resin in an automated on-line preconcentration system for determination of zinc(II) by FAAS, J. Hazard. Mater,.
157, 88–93.
18. K.B.Ashim, K.N Tarun, K.D. Sudip (2009), “Adsorption of Cd(II) and Pb(II)
from aqueous solution on activated alumina”. Colloid Interface Sci, 333, pp.
14-26.

14

Cao häc Hãa – K23



19. M.Atieh, Removal of chromium (VI) from polluted water using carbon
nanotubes supported with activated carbon, Procedia Environ. Sci. 4
(2011) 281–293
20. M. Janik Czachor, J. Tasny (1992), “A SER investigation of Fe(bpy)3+
complex on silver”, Electrochimica Acta, 37(12), pp. 2347 – 2352.
21. M. Wilson et al (2002), “Nanotechnology-basic science and emerging
technologies”, CRC Press.
22. M.T Laumakis, P.J Martin, K. Owens, S. Pamucku (1995), “Proceeding of the
International Conference on Hazard Waste Management”, New York: ASCE,
, pp. 528-535
23. P.J.F. Haris (1990), “Carbon nanotubes and related structure – new materials
for the twenty-first century”, Cambridge, Cambridge University Press.
24. Poinern (2010),“Preparation, characterization and As(V) adsorption behavior
of CNT-ferrihydrite composite” International Journal of Engineering, Science
and Technology, pp. 13-24.
25. R.Q.Long, R.T.Yang (2001), “Carbon nanotubes as superior sorbent for
dioxin removal”, J.Am.Chem.Soc, 123, pp. 20-58.
26. Renata S. Amais, Juliana S.Ribeiro, Mariana G.Segatelli, InezV.P.Yoshida,
Pedro O.Luccas, Cesar R.T.Tarley (2007), “Aseessment of nanocomposite
alumina supported on multi-wall carbon nanotubes as sorbent for on-line nikel
preconcentration in water samples”, Separation and Purification Technology
58, pp 122-128.
27. Ren-Jang Wu, Yu-Ching Huang, Ming-Ru Yu, Tzu Hsuan Lin and Shih-Lin
Hung (2008), “Application of m-CNTs/NaClO4/Ppy to a fast response, room
working temperature ethanol sensor”, Sensors and Actuators B: Chemical,
134, pp. 213-218.
28. S. Iijima (2002). Phiscal B 323, pp. 1-5.
29. Samia A. Kosa, Ghalia Al-Zhrani, Mohamed Abdel Salam (2012) “Removal

of heavy metals from aqueous solutions by multi-walled carbon nanotubes
modified with 8-hydroxyquinoline” Chemical Engineering Journal, pp159-168.

15

Cao häc Hãa – K23


30. Seung Mi Lee, Ki Soo Park, Young Chul Choi, Young Soo Park, Jin Moon
Bok, Dong Jae Bae, Kee Suk Nahm, Yong Gak Choi, Soo Chang Yu, Namgyun Kim, Thomas Frauenheim, Young Hee Lee (2000), “Hydrogen
adsorption and storage in carbon nanotubes”, Synthetic Metals, 113, pp. 209–
216.
31. Seung Woo Lee, Naoaki Yabuuchi, Betar M. Gallant, Shuo Chen, Byeong-Su
Kim,Paula T. Hammond, Yang Shao-Horn ( 2010), “High-power lithium
batteries from functionalized
Nanotechnology , 5, pp.531-537.

carbon-nanotube

electrodes”,

Nature

32. Shu Guang Wang (2007), “Removal of lead (II) from aqueous solution by
adsorption onto manganese oxide coated carbon nanotubes”, Separation and
Purification Technology, 58, pp. 17-23.
33. Somayeh Tajik, Mohammad Ali Taher (2011), “A new sorbent of modified
MWCNTs for column preconcentration of ultra trace amounts of zinc in
biologiacl and water samples”, Desalination, pp 1-8.
34. T. Milja, K. Prathish, T. Rao, Synthesis of surface imprinted nanospheres for

selective removal of uranium from simulants of Sambhar Salt Lake and
ground water, J. Hazard. Mater. 188 (2011) 384–390
35. V.K. Gupta, D. Mohan, S. Sharma S, K. Srivastava (1997), “Design
parameters for fixed bed reactors of activated carbon developed from
fertilizer waste for the removal of some heavy metal ions”, 17, pp. 517-522.
36. V.K.Gupta, M. Gupta, S. Sarma (2011), “Process development for the
removal of lead and chromium from aqueous solutions using red mud-an
aluminium industry waste”, Water Res, 35, pp. 1125-1134.
37. X.L.Wang, B.S.Xing, K.Yang, L.Z.Zhu (2006), “Competitive sorption of
pyrene, phenanthrene, and naphthalene on multiwalled carbon nano tubes”,
Environ.Sci.Technol, 40, pp. 58-04.
38. Y. Jei-Won, S. Rengaraj, K. Won-ho, K. Younghun (2007), “Application of
mg-mesoporous alumina prepared by using magnesium stearate as a
template for the removal of nickel: kinetics, isotherm and error analysis”,
Ind. Eng. Chem. Res, 46, pp. 2834-2842.

16

Cao häc Hãa – K23


39. Yan Hui Lia, Zechao Di, Jun Ding, Dehai Wu,Zhaokun Luan, Yanqiu Zhu
(2005), “Adsorption thermodynamic, kinetic and desorption studies of Pb2+
on carbon nanotubes”, Water Research 39, pp. 605–609.
40. Yunfei Xi, Megharaj Mallavarapu, Ravendra Naidu (2010), “Reduction and
adsorption of Pb2+ in a queous solution by nano-zero-valent-A SEM, TEM
and XPS study”, Material Research Bullentin 45, pp 1361-1367.
41. Y. Li, F.Liu, B.Xia, Q.Du, P.Zhang, D.Wang, Z.Wang, Y.Xia (2010),
Removal of copper from aqueous solution by carbon nanotube/calcium
alginate composites, J.Hazard. Mater, 177, pp.876–880.


17

Cao häc Hãa – K23



×