Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết miền hoang của sương nguyệt minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.2 KB, 108 trang )

Bô GIÁO DUC VÀ ĐÀO TAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THỊ MAI

CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT “MIỀN HOANG”
CỦA SƯƠNG NGUYỆT MINH
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC sĩ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS La Khắc Hòa

HÀ NỘI, 2016


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tói PGS.TS La Khắc Hòa, người thày
đã tận tình hướng dẫn ,chỉ bảo và giúp đỡ tôi thực hiện luận văn này bằng tinh
thần khoa học nhiệt tình và nghiêm túc.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo đã nhiệt tình giảng dạy
ữong quá trình tôi học tập tại trường, phòng Sau Đại học - trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2 đã tạo mọi điều kiện thuận lọi ưong quá trình học tập và nghiên
cứu.
Xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ động viên của gia đình,bạn bè và đồng
nghiệp đã giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, ngày 6 tháng 7 năm 2016
Người viết



Nguyễn Thị Mai


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung tôi trình bày trong luận văn là kết quả
quá trình nghiên cứu của bản thân tôi.
Trong quá trình nghiên cứu, tôi có tìm hiểu, tham khảo thành quả khoa
học của các tác giả với sự trân trọng và biết ơn, nhưng những nội dung tôi
nghiên cứu không trùng vói kết quả nghiên cứu của các tác giả khác.
Hà Nội, tháng 7 năm 2016
Người viết

Nguyễn Thị Mai


MUC LUC
••

MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài..........................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề..........................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu..................................................................................5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................................6
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..............................................................6
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................6
7. Đóng góp mói của đề tài.............................................................................6
8. Bố cục của luận văn....................................................................................7
NỘI DUNG...........................................................................................................8
Chương 1. SƯƠNG NGUYỆT MINH TRONG BỐI CẢNH VĂN XUÔI VIỆT

NAM CUỐI THẾ KỈ XX ĐẦU THẾ KỈ XXI.....................................................8
1.1. Những hiện tượng nổi bật trên bức tranh văn xuôi Việt Nam cuối
thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI...............................................................................8
1.1.1. Thể loại truyện ngắn.....................................................................12
1.1.2. Thể loại tiểu thuyết.......................................................................14
1.2. Sương Nguyệt Minh trong bối cảnh vãn xuôi Việt Nam cuối thế kỉ
XX đầu thế kỉ XXI..........................................................................................22
1.2.1.......................................................................................................... T
ruyện ngắn Sương Nguyệt Minh...............................................................22
1.2.2.......................................................................................................... Ti
ểu thuyết Sương Nguyệt Minh...................................................................25
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1.................................................................................28
Chương 2. NHỮNG CÁCH TÂN CỦA SƯƠNG NGUYỆT MINH
TRONG TỔ CHỨC TRUYỆN KỂ VÀ XÂY DựNG NHÂN VẬT.................29
2.1. Tổ chức truyện kể ữong Miền hoang của Sương Nguyệt Minh...........29


2.1.2. Tổ chức truyện kể trong Miền hoang của Sương Nguyệt Minh....32
2.1.2.1. Tổ chức sự kiện......................................................................32
2.1.2.2. Tổ chức không gian................................................................36
2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Miền hoang của Sương Nguyệt
Minh 42
2.2.1. Khái lược về nhân vật....................................................................42
2.2.2. Cách tân về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Miền hoang
của Sương Nguyệt Minh...........................................................................45
2.2.2.1. Nghệ thuật miêu tả gợi bản chất nhân vật...............................45
2.2.2.2. Ngôn ngữ nhân vật..................................................................55
TIÊU KẾT CHƯƠNG 2.................................................................................63
Chương 3. CÁCH TÂN TỔ CHỨC ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT TRONG
MIỀN HOANG CỦA SƯƠNG NGUYỆT MINH..............................................64

3.1. Khái lược về điểm nhìn trần thuật.........................................................64
3.2. Cách tân tổ chức điểm nhìn ương Miền hoang của Sương Nguyệt
Minh................................................................................................................72
3.2.1. Điểm nhìn gẳn với ngôi kể............................................................74
3.2.1.1. Ngôi kể thứ nhất......................................................................74
3.2.1.2. Ngôi kể thứ ba.........................................................................89
3.2.2. Tính luân phiên giữa điểm nhìn nhân vật và điểm nhìn người
kể chuyện..................................................................................................94
TIÊU KẾT CHƯƠNG 3.................................................................................97
KẾT LUẬN.........................................................................................................99
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................102


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chon đề tài
Sương Nguyệt Minh xuất hiện trên văn đàn vào khoảng những năm đầu
của thập niên chín mươi của thế kỉ XX, cho tới nay với sự đam mê và lao động
nghệ thuật nghiêm túc, nhà văn đã cho ra đòi bảy tập truyện ngắn, rất nhiều bài
bút ký, tùy bút... định hình được một phong cách riêng vừa ổn định lại không
ngừng đổi mới. Trong những năm gần đây, Sương Nguyệt Minh đã nhận được
rất nhiều giải thưởng khẳng định đóng góp của anh vói nền văn học đương đại
nước nhà. Sương Nguyệt Minh là một hiện tượng lạ, mỗi tác phẩm của anh ra
đời luôn tạo được tiếng vang, được bạn đọc, những nhà lí luận phê bình văn học
quan tâm đánh giá nhiều chiều. Với vốn sống phong phú của một người lính đã
từng đi nhiều, đọc nhiều, ừăn trở nhiều, cộng thêm một tấm lòng nhân hậu luôn
hướng về cuộc đời và con người vói cái nhìn trìu mến và lo lắng, các sáng tác
của Sương Nguyệt Minh cho người đọc thấy được nhiều điều trong cuộc sống:
những được - mất, vui buồn trong chiến ừanh hay khi đã hòa bình; những mặt

sáng - tối của đòi sống nông thôn, thành thị; những góc khuất trong đòi sống
riêng tư con người... Đọc văn của Sương Nguyệt Minh, người đọc được bước
vào một thế giới nghệ thuật riêng, phong phú, đa chiều vói một phong cách văn
chương giản dị nhưng luôn không ngừng tìm tòi, đổi mới.
Miền hoang là tiểu thuyết đầu tay của Sương Nguyệt Minh, đồng thời
cũng là cuốn tiểu thuyết xuất sắc của nền văn học đương đại Việt Nam, đã đoạt
giải Sách hay 2015. Miền hoang là câu chuyện viết về chiến tranh, khi nền văn
học dân tộc lại đang thiếu vắng những tác phẩm mới về chiến tranh, về trải
nghiệm đày gian truân, sống chết của người lính. Miền hoang ra đời giữa
những kì vọng đó, điều đặc biệt hơn là cuốn tiểu thuyết này được tác giả trăn
trở viết nên chính từ những trải nghiệm của mình trong những năm tháng


2

người lính chiến đấu trên Biên giói Tây Nam và làm người lính quân tình
nguyện Việt Nam ở Campuchia. Bên cạnh đó, trên phương diện nghệ thuật tác
phẩm cũng có những nét đặc sắc, những đổi mới đáng kể trong cách tổ chức
truyện kể và nhân vật, tổ chức điểm nhìn tạo nên sức hấp dẫn, dấu ấn riêng biệt
cho tiểu thuyết này.
Vậy dưới góc nhìn nghệ thuật, tác phẩm đem đến cho người đọc điều gì
đặc sắc? Hiện nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về tiểu thuyết này
song chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu Miền hoang trên
phương diện những cách tân nghệ thuật. Do vậy, chúng tôi mạnh dạn tìm hiểu,
nghiên cứu đề tài: “Cách tân nghệ thuật trong tiầt thuyấ Miền hoang của
Sương Nguyệt Minh”. Chúng tôi mong muốn rằng, đề tài này sẽ góp một phần
nhỏ vào kết quả nghiên cứu về những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết
Miền hoang, cũng như việc đọc - hiểu tác giả, tác phẩm.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Sương Nguyệt Minh là nhà văn mặc áo lính và có 25 năm cầm bút. số

lượng những bài phê bình, giới thiệu về tác phẩm của Sương Nguyệt Minh
tương đối nhiều. Điều đó chứng tỏ và khảng định sức hút từ những trang văn
của ông. Không quá lạ lùng, không quá đột ngột... nhưng những tác phẩm của
Sương Nguyệt Minh vẫn gây ấn tượng với độc giả. Nhận xét về cách viết của
Sương Nguyệt Minh, nhà văn Phong Điệp ữên tờ Văn nghệ ữẻ (2002) đã từng
khẳng định: “Truyện của anh viết kỹ đến từng câu chữ, từng chi tiết. Đặc biệt
anh rất dụng công trong việc dựng cốt truyện”... Nhà văn - nhà phê bình Văn
Chinh trong bài viết Tôi muốn cái lục lạc ấy bằng đất nung cũng cho rằng:
“Một trong những yếu tổ đảm bảo cho thành công của Sương Nguyệt Minh là
sự tích tụ các chi tiết và tình huống khác lạ” [52]. Nhìn nhận khái quát về quá
trình sáng tác của Sương Nguyệt Minh, các nhà phê bình đều nhận ra những
bước chuyển đáng mừng trong văn phong của nhà văn quân đội này.


3

Nếu trong những tập truyện đầu tay như Đêm làng Trọng Nhân, Người ở bến
sông Châu, Đi qua đồng chiều, Sương Nguyệt Minh được đánh giá là: “mang
đến cho người đọc một khuôn mặt văn chương theo lối truyền thống, nhuần
nhụy từ giọng văn cho tới tên của các nhân vật trong tác phẩm” [53], thì càng
về sau với các tập truyện Mười ba bến nước, Chợ únh và đặc biệt là Dị
hương, Sương Nguyệt Minh càng thể hiện những tìm tòi, bứt phá mới như
chính anh quan niệm: “Nhà văn là người sáng tạo không ngừng như dòng sông
chảy liên tục chở nặng phù sa tươi tốt bồi đắp cho bờ bãi, ruộng đồng. Dòng
sông không chảy là dòng sông lấp, sông chết. Nhà văn ngừng sáng tạo là nhà
văn rơi vào lãng quên trong lòng bạn đọc”.
Miền hoang của Sương Nguyệt Minh ra mắt bạn đọc vào năm 2014, sau
đó được Nhà xuất bản Trẻ in thành sách cùng tên. Nếu chỉ tính tiểu thuyết, nó
là đứa con đàu lòng của tác giả. Trước đó, ông thành danh nhờ truyện ngắn. Đặt
bên cạnh những tập truyện ngắn trước kia của ông, thấy Miền hoang vẫn nằm

trong văn mạch của một cây bút đã định hình phong cách.
Trong buổi tọa đàm mang tên "Nhà văn Sương Nguyệt Minh với tiểu
thuyết Miền hoang" được tổ chức vào 8h30 phút ngày 17/12/2014 tại Đại học
Văn hóa Hà Nội, nhiều nhà nghiên cứu, phê bình vãn học đã có những nhận
xét, nhận định về tiểu thuyết Miền hoang của Sương Nguyệt Minh. Phạm Xuân
Nguyên nhận định Miền hoang là cuốn tiểu thuyết công phu, tâm huyết; môtíp
“lạc rừng” tuy không mới nhưng với tư cách là một người từng trực tiếp can dự
vào cuộc chiến trên đất bạn Campuchia như Sương Nguyệt Minh thì đây có lẽ
là sự lựa chọn khả dĩ nhất để nhà văn trút vào đấy một phần đời của mình vói
tất cả những trải nghiệm, suy tư, ám ảnh đày ứ chật căng trong mình. Nhà thơ
Phạm Sỹ Sáu, vừa là đồng đội cũ, vừa là người biên tập cuốn sách này, rất đồng
cảm với những gì nhà văn Sương Nguyệt


4

Minh hồi ức, tái hiện, gửi gắm trong Miền hoang, một cuốn tiểu thuyết ám gọi,
vừa có Campuchia vừa không có Campuchia.
Nhà văn Lê Minh Khuê và nhà phê bình Mai Anh Tuấn lại muốn tác giả
Miền hoang viết tốc độ hơn, cô nén hơn, gợi nhiều hơn tả thực. Mai Anh Tuấn
tỏ ra không muốn ngày hôm nay một câu chuyện lớn về chiến tranh được viết
bằng một hình thức cổ điển. Nhà phê bình này ưa hư cấu, suy tư về cuộc chiến,
phơi mở tâm tư hậu chiến hơn là tái hiện, tả thực về cuộc chiến. Tóm lại, đường
đi của một tác phẩm lớn viết về chiến tranh theo Mai Anh Tuấn là tác phẩm đó
phải được viết bằng tâm thế trí thức thay vì tâm thế của người trực tiếp can dự,
và từ một cuộc chiến cụ thể phải nâng lên thành phạm trù mang tính phổ quát,
mang tầm nhân loại.
Bên cạnh đó, ừên phương diện nghệ thuật, nhà văn Nguyễn Văn Thọ và
nhà văn Đỗ Bích Thúy tâm đắc với việc nhà văn Sương Nguyệt Minh biết tận
dụng lợi thế của một tác giả truyện ngắn có nghề để viết tiểu thuyết, đó là nghệ

thuật chọn lựa, xử lý, phân bố và xâu chuỗi hệ thống chi tiết. Nhà văn Nguyễn
Văn Thọ đánh giá cao sự “khôn ngoan” của tác giả Miền hoang trong việc lựa
chọn nhiều ngôi kể, quy chiếu được nhiều góc nhìn, điểm nhìn, nhờ đó nội
dung câu chuyện được kể thoải mái hơn, thật hơn, khách quan hơn. Nhà văn Đỗ
Bích Thúy cho rằng mình bị cuốn sách của nhà văn Sương Nguyệt Minh hấp
dẫn ngay lần đọc bản thảo đầu tiên, và cảm thấy mình là người phụ nữ dũng
cảm khi đọc tiểu thuyết này bởi tính chất tàn bạo, man rợ ngoài sức tưởng
tượng của bản thân về một cuộc chiến đã được tác giả phơi trần. Nữ nhà văn
này hoàn toàn tin tưởng rằng nhà văn Sương Nguyệt Minh có thể làm chủ thể
loại tiểu thuyết.
Nhà văn Đỗ Tiến Thụy cũng đánh giá cao nghệ thuật tự sự của Miền
hoang khi cho rằng, tuy là lần đầu viết tiểu thuyết nhưng Sương Nguyệt Minh
đã trổ hết những “ngón nghề” của thể loại. Cả nhà văn Đỗ Tiến Thụy và nhà


5

phê bình Nguyễn Chí Hoan đều cho rằng tác giả Miền hoang “khôn ngoan” khi
dùng những bản tin thông tấn ngắn gọn làm đề từ như một sự hỗn dung thể loại:
văn chương - báo chí, tiểu thuyết tư liệu - tiểu thuyết phiêu lưu; bản thân những
bản tin đã có sức khơi tạo được không khí, bối cảnh của sự kiện, tiết kiệm được
công sức của nhà văn.
Nhận xét về sự sáng tạo, đổi mới nghệ thuật trong tiểu thuyết “Miền
hoang”, nhà văn Nguyên Ngọc chia sẻ: " Với đời sống văn học, chiến tranh
luôn là một đề tài lớn, trong đó, đề tài về cuộc chiến của người linh Việt Nam
trên chiến trường Campuchia là cuộc chiến vơ cùng ác liệt, phức tạp, khắc
nghiệt và gay gắt. Sự sáng tạo trong bút pháp của Sương Nguyệt Minh đã góp
phần giúp cho độc giả hiểu thêm về bản chất của cuộc chiến này" [54].
Những nhận định, ý kiến của các nhà phê bình, nghiên cứu văn học đã
góp phần giúp bạn đọc dần dàn khám phá những nét đặc sắc trong sáng tác của

Sương Nguyệt Minh nói chung và tiểu thuyết Miền hoang nói riêng. Tuy nhiên
hiện chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu và tìm hiểu về những đổi
mới trên phương diện nghệ thuật trong tiểu thuyết của ông. Do vậy, tôi mạnh
dạn tìm hiểu, nghiên cứu đề tài: “Cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyầ "Miền
hoang" của Sương Nguyệt Minh”. Tôi mong muốn rằng, đề tài này sẽ góp một
phần nhỏ vào kết quả nghiên cứu về cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết
“Miền hoang” nói riêng, cũng như vào việc đọc và hiểu tác giả và tác phẩm
hiện nay nói chung.
3. Mục đích nghiên cứu
Phân tích những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của Sương Nguyệt
Minh, luận văn này nhằm hướng tới hai mục đích sau đây:
- Thứ nhất: Mục đích lí thuyết. Ở khía cạnh này,luận văn hi vọng sẽ góp
phần làm rõ đặc trưng của tiểu thuyết như một phạm trù năng động,không
ngừng biến đổi.


6

- Thứ hai: Mục đích văn học sử. Ở bình diện này, luận văn góp phấn xác
định sự phát triển của văn xuôi đương đại Việt Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đặt ra hai nhiệm vụ cơ bản:
- Thứ nhất: Phân tích những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Miền
hoang của Sương Nguyệt Minh ở bình diện tổ chức truyện kể và xây dựng nhân
vật.
- Thứ hai: Phân tích những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Miền
hoang của Sương Nguyệt Minh ở bình diện tổ chức điểm nhìn.
5. Đổi tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Miền

hoang của Sương Nguyệt Minh.
5.2. Phạm vỉ nghiên cứu
Nghiên cứu toàn bộ sáng tác của Sương Nguyệt Minh và văn xuôi Việt
Nam sau 1986.
6. Phương pháp nghiền cứu
Luận văn tiếp cận đề tài từ các nguyên tắc ,phương pháp luận sau đây:
6.1. Quan điểm hệ thống, xem văn bản tiểu thuyết là một cấu trúc chỉnh
thể.
6.2. Tiếp cận đề tài từ lý thuyết trần thuật học.
6.3. Vận dụng thao tác nghiên cứu của thi pháp học.
7. Đóng góp mới của đề tài
Trên cơ sở kế thừa những thành quả của các công trình nghiên cứu trước,
chúng tôi mong muốn luận văn sẽ góp phần bổ sung vào các kết quả nghiên cứu
về cách tân nghệ thuật thể loại tiểu thuyết. Đồng thời, kết quả nghiên cứu của
đề tài sẽ góp phần hữu ích cho việc tìm hiểu tác giả Sương Nguyệt Minh và tiểu
thuyết Miền hoang.


7

8.
Bổ cuc
của luân văn • •
Ngoài phàn mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, luận văn bao
gồm 3 chưomg:
Chương 1: Sương Nguyệt Minh trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam cuối
thế kỉ XX đầu TK XXI.
Chương 2: Những cách tân của Sương Nguyệt Minh trong tổ chức truyện
kể và xây dựng nhân vật
Chương 3: Cách tân ữong tổ chức điểm nhìn ưong tiểu thuyết “Miền

hoang” của Sương Nguyệt Minh


8

NÔIDUNG
Chương 1
SƯƠNG NGUYỆT MINH TRONG BỐI CẢNH VĂN XUÔI VIỆT NAM
CUỐI THẾ KỈ XX ĐÀU THẾ KỈ XXI
1.1. Những hiên tương nổi bât trên bức tranh văn xuôi Viêt Nam cuối thế kỉ
XX đầu thế kỉ XXI
Sau chiến thắng lịch sử năm 1975, đặc biệt từ sau thòi kì đổi mói (1986)
cùng với quá trình đổi mới đất nước, nền văn học của chúng ta nói chung và
văn xuôi nói riêng đã có những chuyển mình lớn lao làm nên diện mạo mói của
nền văn học nước nhà.
Nền văn học Việt Nam trong ba mươi năm 1945 - 1975 đã hoàn thành sứ
mệnh của một nền văn học phục vụ cách mạng, cổ vũ chiến đấu. Đó là nền văn
học theo khuynh hướng sử thi, được thể hiện ưên sự thống nhất toàn diện các
mặt, từ cảm hứng, đề tài, chủ đề, thế giới nhân vật đến kết cấu, giọng điệu...
Những đặc trưng về dấu ấn của nền văn học ấy có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền
văn học Việt Nam nửa cuối thập niên 70 và đàu thập niên 80. Những chuyển
biến của đòi sống xã hội, văn hóa, tư tưởng tất yếu dẫn đến sự thay đổi về nhu
cầu và quan niệm thẩm mĩ, đòi hỏi văn học phải đổi mới. Cuối những năm 70
đã xuất hiện nhu cầu nhìn lại, chỉ ra những giới hạn của nền văn học trước đó
để hình thành hướng đi mới. Cuộc kháng chiến chống Mĩ cam go và quyết liệt
của dân tộc vẫn là một đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều cây bút, nhưng có
điều họ không muốn và cũng không thể viết như cách viết trước đây được nữa.
Trong bài tiểu luận Viết về chiến tranh đăng trên tạp chí Văn nghệ quân đội số
11 - 1978, Nguyễn Minh Châu đã đặt ra câu hỏi và tự ữả lời: Con người hay sự
kiện? Câu ữả lời dường như không phải lựa chọn nữa: Phải viết về con người,

tất nhiên con người không tách ròi sự kiện chiến


9

ừanh... Rồi trước sau con người cũng đã leo lên trên các sự kiện để đòi quyền
sống. Bộ tiểu thuyết Đất trắng (1979) của Nguyễn Trọng Oánh gây được sự
chú ý của dư luận không phải chỉ YÌ nó viết về một giai đoạn đầy khó khăn của
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc mà vì tác giả đã chú ý diễn tả tác động nhiều
mặt của hoàn cảnh chiến tranh đến tính cách và con đường đi của nhân vật,
trong đó có cả những tác động mang chiều hướng tiêu cực. Đòi hỏi văn học
phải tiếp cận và nói lên sự thật toàn diện được nhà phê bình Ngô Thảo diễn tả
bằng hình ảnh so sánh: một nửa cái bánh mì vẫn là bánh mì nhưng một nửa sự
thật có khi lại là giả dối. Yêu cầu nhìn lại, đánh giá văn học thòi kì chống Mĩ,
chỉ ra những hạn chế của nó để khắc phục đã được nêu ra trong Báo cáo đề dẫn
tại Đảng đoàn Hội nghị các nhà văn đảng viên (1979). Những tiếng nói tiên
phong trước đòi hỏi đổi mới này đã gặp phải không ít khó khăn, trở ngại từ hạn
chế trong nhận thức, quan niệm, thói quen của số đông người viết và người đọc
cũng như một bộ phận lãnh đạo văn nghệ lúc đó.
Sang những năm 80, đặc biệt là sau đại hội lần VI của Đảng (1986), nhu
cầu đổi mới văn học đã dần trở thành đòi hỏi chung của cả giới sáng tác, lí luận
phê bình và công chúng. Trong bài báo Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn
văn nghệ minh họa [13], Nguyễn Minh Châu viết: “Tôi không hề nghĩ rằng
mẩy chục năm qua nền văn học cách mạng - nền văn học ngày nay có được là
nhờ bao nhiêu trí tuệ, mồ hôi và cả máu của bao nhiêu nhà văn - không có
những cái hay, không để lại được những tác phẩm chân thực. Nhưng về một
khía cạnh khác, cũng phải nói thật với nhau rằng: mẩy chục năm qua, tự do
sáng tác chỉ có đổi với lổỉ viết minh họa, văn học minh họa, với những cây bút
chỉ quen việc cài hoa, kết lá, vờn mây cho những khuôn khổ đã có sẵn mà
chúng ta quy cho đẩy đã là tất cả hiện thực đời sống đa dạng và rộng lớn. Nhà

văn chỉ được giao phó công việc như một cán bộ truyền đạt đường lổỉ chính
sách bằng hình tượng văn học sinh động và do


10

nhiều lí do từ những ngày đầu cách mạng, các nhà văn cũng tự nguyện tự giác
thấy nên và cần làm như thế. Từ đẩy rồi trở thành thói quen. Thói quen của một
người vốn quen đi trong một hành lang hẹp, vừa hẹp vừa thấp. Lần lượt bắt đầu
là các nhà văn tiền chiến rồi hết lớp người cầm bút này đến lớp người cầm bút
khác, với một khả năng thích nghỉ hết sức ghê gớm, các nhà văn đã thích nghỉ
với văn học minh họa như thích nghi với cách sổng gian khổ, thiểu thổn trong
chiến tranh. Những nhà văn tuy đều cảm thấy thiếu thổn và bức bổi nhưng lại tự
dụ dỗ mình và khuyên nhủ lẫn nhau tự bạt chiều cao cho thấp để khỏi chạm
trần, tự ép khuôn khổ chiều ngang lại để khỏi kềnh càng, để đì lại được thoải
mái trong cái hành lang kia” [13]. Vói bài viết này, Nguyễn Minh Châu không
hướng đến việc phủ định thành tựu văn học quá khứ mà mong muốn vãn học
được ttở về vói chính mình, chống lại nguy cơ nhà văn đánh mất cái đầu và
những tác phẩm đánh mất tư tưởng, nghĩa là những tư tưởng mới và độc đáo,
mang tính khái quát cuộc đời của riêng nhà văn.
Bằng những tìm tòi và thể nghiệm trên nhiều phương diện, văn học giai
đoạn này đã từng bước hình thành một tư duy nghệ thuật mới trên cơ sở đổi
mới toàn diện các quan niệm về hiện thực, về nhà văn, về văn chương, về công
chúng văn học... Đổi mói trong quan niệm về nhà văn đã đem đến sự mới mẻ
trong mối quan hệ giữa nhà văn với hiện thực, với công chúng, với chính mình.
Quan niệm nghệ thuật về con người cũng có những biến đổi to lớn. Từ quan
niệm con người lịch sử, con người cộng đồng đã dần chuyển sang quan niệm
con ngưòi cá nhân phức tạp và bí ẩn, đồng thời con người cũng được khám phá
trên nhiều bình diện: con người như sản phẩm của lịch sử, con người duy ý chí,
ảo tưởng, con người mang thuộc tính nhân loại, con người là sản phẩm của tự

nhiên, con người và đời sống tâm linh... Và tất nhiên, về phương diện thể loại,
văn học giai đoạn này cũng có nhiều biến đổi, như: xu hướng nhạt dàn chất sử
thi và tăng dần chất tiểu thuyết, sự trần thuật


11

từ nhiều điểm nhìn và sự đổi mói về mặt ngôn ngữ. Văn học giai đoạn này vì
thế đa giọng điệu, đa sắc màu và nhiều tranh cãi hơn.
Các tác giả nghiên cứu văn học thời kì này đã khẳng định, văn học đương
đại phát triển theo hướng dân chủ hóa, có ý nghĩa bổ sung, hoàn thiện những
quan niệm hiện thực về con người cho văn học gia đoạn trước. Trong chuyên
luận Văn học Việt Nam hiện đạỉ - Nhận thúc và thẩm định, tác giả Vũ Tuấn
Anh cho biết: “Nếu như cách nhìn sử thi là thích hợp thể hiện tầm rộng lớn của
những vẩn đề lịch sử xã hội và cộng đồng thì cách nhìn tiểu thuyết là cách nhìn
tập trung, xoáy sâu vào những vẩn đề của con người cá nhân cũng như mối
quan hệ cá nhân - xã hội trên hành trình tìm kiểm và khẳng định giá trị nhân
văn” [7; tr.54]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Bình cũng cùng chung nhận định:
“Văn xuôi sau 1975 phát triển trong bối cảnh đất nước chuyển đổi kinh tế, giao
lưu văn hóa nhiều chiều. Ý thức cá nhân được sự cổ vũ của cơ chế thị trường
trỗi dậy mạnh mẽ. Nhu cầu thức tỉnh gắn liền với cảm hứng khám phá, nghiền
ngẫm hiện thực, nhu cầu công bố tư tưởng riêng trong thái độ nhập cuộc của
nhà văn ” [12; tr.l 1].
Trong bài viết Văn học Việt Nam những năm đàu đổi mới tại cuộc hội
thảo quốc tế Văn học Việt Nam trong bối cảnh giao lưu văn hóa khu vực và
quốc tế, nhà lí luận Lê Ngọc Trà đã nêu ra ba đặc điểm của văn học sau 1986.
Đặc điểm nổi bật theo ông là tính chất phê phán. Đặc điểm thứ hai là tinh thần
phân tích xã hội với sự chiêm nghiệm lại lịch sử. Đặc điểm thứ ba là sự trở lại
với đời thường, với những sổ phận riêng.
Có thể nói, các nhà nghiên cứu đã có thống nhất khá cao về những đặc

điểm nội dung của giai đoạn văn học 1986 đến nay (cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ
XXI).
về đổi mới thi pháp, tuy chưa đi sâu vào nghiên cứu một cách sâu rộng
vấn đề thi pháp của văn xuôi sau 1986, song các bài nghiên cứu gần đây nhấn


12

mạnh vào hình thức biểu đạt của tác phẩm như: sự suy giảm vai trò của cốt
truyện, sự đa dạng trong hình thức kết cấu tác phẩm, tính chất đa thanh trong
nghệ thuật tràn thuật, những khám phá về hệ thống nhân vật... Từ đó, các nhà
nghiên cứu bước đầu đi đến kết luận về khả năng mở rộng, gia tăng tính đối
thoại của tự sự đương đại trước các vấn đề hiện thực và lịch sử.
Tóm lại, đường lối mở cửa và hội nhập mà Đảng đề ra đã tạo cơ hội để
mở rộng và giao lưu văn hóa, văn học giữa nước ta với các nước trên thế giới,
đặc biệt là các nước phương Tây. Nhờ vậy, nhiều ừào lưu, khuynh hướng lí
luận văn học hiện đại của thế giới đã ảnh hưởng đến Việt Nam, tác động đến sự
tìm tòi, thể nghiệm và sáng tạo của nhà văn cũng như mang lại luồng gió mới
mẻ trong thị hiếu tiếp nhận của độc giả.
1.1.1. Thể loại truyện ngắn
Sự đổi mới quan niệm và ý thức nghệ thuật của văn học sau 1986 được
đánh giá là nhân tố đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng chi phối mọi thể loại,
ừong đó có truyện ngắn. Với đặc thù là một thể loại nhỏ, gọn và cơ động,
truyện ngắn bắt nhịp rất nhanh với những vấn đề của đời sống. Truyện ngắn
nhanh nhạy, len lỏi vào mọi ngóc ngách của xã hội, phản chiếu mọi tâm điểm
nóng bỏng của hiện thực. Nhà nghiên cứu Nguyên Ngọc nhận xét: “Đây cỏ thể
coi là một thời kì có nhiều truyện ngắn hay trong văn học Việt Nam, tiếp theo
“vụ được mùa truyện ngắn” năm 1960 và những vụ mùa khác, trong chiến
tranh ”. Tuy nhiên truyện ngắn làn này có những nét khác biệt rõ rệt: “Những
năm 1960 từng để lại nhiều truyện ngắn đẹp như thơ, trong veo, trữ tình.

Truyện ngắn thời chiến tranh thì vạm vỡ, chắc chắn. Đặc điểm nổi bật lần này
là cầm cái truyện ngắn trong tay có thể cảm thấy cái dung lượng của nó nặng
trĩu. Có những truyện ngắn chỉ mươi, mười lăm trang thôi mà sức nặng có vẻ
còn hơn cả một cuốn tiểu thuyết trường niên ” [12; tr.71].


13

Không được coi là thể loại chủ đạo trong đòi sống văn học như tiểu thuyết
nhưng khả năng khái quát hiện thực của truyện ngắn sau 1986 đến nay không
hề thua kém phương thức tự sự cỡ lớn này. Trước sự chín muồi của đội ngũ cây
bút đã có thành tựu và sự nở rộ của lớp nhà văn mới 1986 đến nay được coi là
một trong những giai đoạn hoàng kim của lịch sử truyện ngắn Việt Nam. Nhà
nghiên cứu Bùi Việt Thắng khẳng định: “Nhìn tổng thể, truyện ngắn 1975 2000 vượt trội so với thơ và kịch vì nhiều lý do, trong đó phải kể đến sự ưu ái
của đời sổng là mảnh đất màu mỡ cho các thể của văn xuôi phát triển. Nếu có
so sánh thì truyện ngắn Việt Nam trong thế kỉ XX có hai thời hoàng kim của nó:
1930 - 1945 và 1986 - 2000” [42; tr.l 13]. Nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên
trong bài “ Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay” đánh giá: “truyện ngắn hôm
nay tiếp xúc, xới lật các mảng hiện thực ở cả hai chiều quá khứ và hiện tại để
mong đóng góp một tiếng nói định vị cho người đọc, một thái độ nhìn nhận
đảnh giá những việc, những người của bây giời, nơi đây”. Còn trong bài viết
“Từ một góc nhìn về sự vận động của truyện ngắn chiến tranh”, tác giả Tôn
Phương Lan lí giả chi tiết hơn: “Những truyện ngắn đã khai thác yếu tổ tâm
lỉnh và tạo ra những chi tiết, cảnh huống, li kì, hấp dẫn đem lại cho các truyện
một vóc dáng hiện thực mới khiến người đọc không chỉ cảm mà còn thấy”.
Những đổi mới về nội dung tất yếu dẫn đến đổi mới về hình thức thể loại
truyện ngắn. Nhà phê bình Bùi Việt Thắng nhận xét: “về khía cạnh thỉ pháp,
truyện ngắn 1986 — 2006 đã trở nên phong phú về hình thức, phong cách và
bút pháp. Đã cỏ thể tách ra các dòng bút pháp chủ yểu sau: phong cách cổ điển
(ứng với lớp nhà văn như Nguyễn Thành Long, Nguyên Ngọc, Nguyễn Kiên, Ma

Văn Kháng, Nguyễn Khải...), phong cách trữ tình (ứng với Y Ban, Phạm Ngọc
Tiến, Nguyễn Thị Thu Huệ...), về hình thức, truyện ngắn giai đoạn này khá đa
dạng, có thể nói đến một kiểu truyện kỳ hiện đại (Ben trần


14

gian của Lìm Sơn Minh, Hai người đàn bà xóm Trai của Nguyễn Quang
Thiều), kiểu truyện giả cổ tích (Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy
Thiệp), truyện ngắn kịch ịKịch câm của Phan Thị Vàng Anh), truyện rất ngắn
(Vùng lặng của Phạm Sông Hồng), truyện ngắn triết luận (Tâm tưởng của Bùi
Hiển, Sắng mãi vớỉ cây xanh của Nguyễn Minh Châu...). Trong tiến trình phát
triển lịch sử văn học nói chung và thể loại truyện ngắn nói riêng, truyện ngắn
nữ cũng có thành tựu đáng ghi nhận” [42; tr.34].
1.1.2. Thể loại tiểu thuyết
Sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), đất nước đã có nhiều thay đổi lớn lao
trên mọi mặt văn hóa, chính trị,... Điều đó đã tạo ra những thay đổi lớn ừong
văn học nhất là ở Văn Xuôi. Khi vấn đề tự do, dân chủ ttong sáng tạo văn hóa,
văn học được Đảng đặc biệt chú ttọng, xem đó như “điều kiện sổng còn để tạo
nên giá trị đích thực trong văn hóa, văn nghệ để phát triển tài năng” thì sự đổi
mới văn học mới thực sự diễn ra ở bề sâu với một quan niệm đa dạng, nhiều
chiều về đòi sống [47]. Đối với tiểu thuyết, mọi phương diện đều có sự thay đổi
như: điểm nhìn, cảm hứng, đề tài, chủ đề, thi pháp thể loại. Tất cả đã và đang có
những nỗ lực cách tân đáng được ghi nhận của một loạt các tác giả tài năng. Họ
không chỉ dừng lại ở cảm hứng ngợi ca mà còn đi sâu vào khám phá hiện thực
bằng cái nhìn phân tích, chiêm nghiệm phê phán. Đồng thời, họ còn đi sâu
khám phá những chiều sâu tâm lý, những biểu hiện tâm linh sâu thẳm của con
người. Đúng như PGS. TS Nguyễn Thị Bình nhận xét:
“Cỏ một dòng mạch mới, lúc đầu âm thầm lặng lẽ, càng về sau càng mạnh
mẽ hơn, trong đó chứa đựng nhận thức khoa học hơn, đầy đủ hơn về hiện thực.

Từ những truyện ngắn mang tính thể nghiệm của Nguyễn Minh Châu, đến các
tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Thời xa vắng của Lê
Lựu, Vòng sóng đến vô cùng, Một cõi nhân gian bé tí của Nguyễn Khải,... và
hàng loạt các tác phẩm ra đời sau năm 1986, đã xuát hiện


15

cái nhìn hiện thực đa dạng, nhiều chiều, đặc biệt là mối quan hệ tự do với hiện
thực” [12; tr.20].
Từ thời điểm cao trào đổi mới (1986) đến cuối thế kỷ XX, tiểu thuyết nở
rộ, đội ngũ người viết ngày càng đông đúc, số lượng tác phẩm dồi dào, nhiều
cuốn nhận được giải thưởng từ các cuộc thi hoặc giải thường niên của Hội Nhà
văn, có cuốn không được giải nhưng làm xôn xao dư luận: Thời xa vắng (Lê
Lựu), Bên kia bờ ảo vọng (Dương Thu Hương), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài),
Đám cưới không có giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ, Côi cút giữa cảnh đời
(Ma Văn Kháng), Một cõi nhân gian bé tý (Nguyễn Khải), Mảnh đất tình yêu
(Nguyễn Minh Châu), Quãng đời xưa in bóng (Dũng Hà), Cuốn gia phả để lại
(Đoàn Lê), Phố, Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Bến không chồng (Dương
Hướng), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Nỗi buồn
chiến tranh (Bảo Ninh), Người và xe chạy dưới ánh trăng (Hồ Anh Thái),
Ngày thường (Phùng Khắc Bắc), Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh), Cơ hội
của chúa (Nguyễn Việt Hà), Miền thơ ẩu (Vũ Thư Hiên), Tuổi thơ dữ dội
(Phùng Quán),... Có thể nói tiểu thuyết chặng này viết về mọi đề tài nhưng hệ
quy chiếu phổ biến là các giá trị nhân bản. Không phải sự kiện lịch sử mà số
phận cá nhân mới là trung tâm chú ý. Chính những câu hỏi về con người (trạng
thái tồn tại của nó, ý nghĩa cuộc sống của nó) là nơi giao hội nhiều cảm hứng,
nhiều chủ đề, làm nảy sinh nhiều loại nhân vật, nhiều sắc thái ngôn ngữ, nhiều
cảm thức văn học. Sự phân biệt đề tài chiến ừanh, đề tài sản xuất, đề tài tình
yêu... thực ra chỉ có ý nghĩa hình thức vì mối bận tâm của cá nhân sáng tác lẫn

người đọc nằm ở cái nhìn hiện thực, ở quan niệm nghệ thuật về con người mà
mỗi tác phẩm đề xuất. Nỗ lực đổi mới chặng đường này chủ yếu dồn vào cách
xử lý chất liệu hiện thực: một hiện thực đa chiều, hiện thực vừa có tính tất định,
vừa đáng ngờ, vừa hữu lý vừa phi lý, vừa trật tự vừa hỗn loạn, vừa thuộc về cái
rõ rành


16

lý trí vừa như thuộc cõi siêu linh bí ẩn huyền hồ... đó là sự nới rộng đáng kể
biên độ hiện thực so với tiểu thuyết trước 1975. Soi qua “tấm gương” tiểu
thuyết, có thể thấy các mối quan hệ giữa văn chương với hiện thực, nhà văn với
bạn đọc đều được dân chủ hoá mạnh mẽ. Nhà văn có quyền xem hiện thực là
mục đích phản ánh hay chỉ là phương tiện để công bố tư tưởng riêng, do vậy
anh ta không còn bị lệ thuộc vào hiện thực. Người đọc từ bỏ dần thói quen đối
chiếu những điều tác phẩm kể lại với cuộc sống có thực ngoài tác phẩm để suy
tư về những gì được nhà văn gửi gắm qua cái hiện thực được lựa chọn có khi
đầy tính chủ quan, cá biệt. Người đọc có quyền tin hay không tin câu chuyện
được kể bằng kinh nghiệm cá nhân như thế.
Điều đáng lưu ý là dù nhu cầu đổi mới văn chương đã ừở thành phổ biến
và cấp thiết ừong toàn bộ đời sống văn học nhưng văn xuôi (trong đó có tiểu
thuyết) cho tới chặng cao ừào vẫn tập trung vào sự đổi mới nội dung hiện thực
của tác phẩm, nghĩa là câu hỏi “viết về cái gì” luôn được ưu tiên hơn hẳn câu
hỏi “viết như thế nào?”. Dù viết về người lính hay người nông dân, trí thức hay
doanh nhân, ừẻ em hay người già, người gặp thời hay kẻ lạc thòi, về quá khứ
lịch sử hay về hiện tại, hưởng tới cảm hứng triết luận hay cảm hứng ừào lộng;
ngợi ca, khẳng định hay phê phán, phủ nhận... thì tinh thần chung vẫn là kể một
câu chuyện có đầu có cuối theo logic nhân - quả, sao cho người đọc có thể dễ
dàng quy chiếu ý nghĩa tác phẩm về hình tượng thế giới khách quan. Nói cách
khác, giá trị thẩm mỹ mà tác phẩm đem lại chủ yếu phụ thuộc vào nội dung

hiện thực của câu chuyện. Những biến đổi ở nghệ thuật trần thuật như: điểm
nhìn di động, người kể chuyện, bút pháp huyền thoại hoá, bút pháp hài hước
giễu nhại, ngôn ngữ suồng sã bụi bặm, ... vẫn không đủ tạo ra một bước ngoặt
trong tư duy thể loại.
Trên cái phông chung đó, chúng tôi chú ý đến một số tiểu thuyết mà
những nỗ lực thể nghiệm có khi còn dang dở, hoặc lạ lẫm, khó đọc... nhưng ít


17

nhất chúng đang báo hiệu một ý thức mới về thể loại và việc trả lời câu hỏi “Có
thể viết tiểu thuyết như thế nào?” rõ ràng được tự giác hom, do đó người đọc
tìm được nhiều hứng thú bất ngờ hơn. Có thể kể ra những cuốn như vậy: Thiên
sứ (Phạm Thị Hoài - 1989), Cõi người rung chuông tận thế (Hồ Anh Thái 2002), Trong sương hồng hiện ra (Hồ Anh Thái - 2003),Giàn thiêu (Võ Thị
Hảo - 2003), Thoạt kỳ thuỷ (Nguyễn Bình Phương - 2004), Thiên thần sám
hối (Tạ Duy Anh - 2004), Người sông Mê (Châu Diên - 2004)... Gần đây nhất
là hai cuốn tiểu thuyết được giả thưởng của Hội nhà văn: Mình và Họ (Nguyễn
Bình Phương - 2014) và Miền Hoang (Sương Nguyệt Minh - 2015).
Có thể thấy tư tưởng “sáng tạo nghệ thuật trước hết là sáng tạo hình thức”
hiện đang được coi trọng hơn trước nhiều. Đọc các tiểu thuyết này, ấn tượng
mạnh nhất là sự khác lạ. Dường như nhà văn không phải đang tái hiện bức
tranh hiện thực mà đang trình bày cách thức họ làm ra các “kết cấu nghệ thuật”
như thế nào. Đây là các kết cấu mang rõ tinh thần “khước từ truyền thống”,
nghĩa là “vượt” khỏi mô hình tiểu thuyết quen thuộc, xác lập mối quan hệ mới
giữa văn chương với hiện thực, giữa nhà văn với bạn đọc để tạo ra những kinh
nghiệm đọc mói. Ngoài sự gia tăng mạnh mẽ các yếu tố huyền thoại, trào lộng,
xu hướng ngắn gọn, dồn nén... cuộc thể nghiệm ở các tiểu thuyết trên triển khai
từ quan niệm về tính “trò chơi” của văn chương. Khi Phạm Thị Hoài làn đầu
tiên đưa ra quan niệm này [48], chị dường như đã xúc phạm đến số đông độc
giả vốn luôn tin rằng lý do tồn tại duy nhất của văn chương là chức năng xã hội

nghiêm túc mà nó truyền tải (Văn dĩ tải đạo). Trước đó, tiểu thuyết Thiên sứ
thực sự là một “món lạ”, rất lạ so với “khẩu vị” phổ biến của người đọc Việt
Nam. Từ Thiên sứ, “tiếng gọi của trò chơi” hình như càng ngày càng hấp dẫn
nhiều người viết hơn. Dù nghệ thuật bao giờ chả có hư cấu, bịa đặt, nhưng xem
ra hư cấu ở văn chương truyền thống là


18

để thuyết phục người đọc tin vào tính chất thật của câu chuyện được kể. Còn ở
“trò chơi tiểu thuyết” bây giờ, sự hư cấu, bịa đặt lại cố cho lộ liễu để vừa gián
cách người đọc với câu chuyện, vừa gây men ngờ vực trong họ.
Thiên sứ mở đàu với lời ghi chú “Cuốn sách này bắt đầu từ một điển tích
của nhà văn G. G và những chuyện khó tin của nhà văn F.”. Các chương như
sự lắp ghép ngẫu nhiên những mảnh vụn rời rạc của hiện thực, những chi tiết
như tiện đâu kể đẩy. Cuộc “chơi kết cấu”, “chơi nhân vật” được công khai ngay
ở hình thức văn bản, ở cách đặt tên chương, mục đến cách mô hình hoá nhân
vật. Mỗi nhân vật giống cuộc thử nghiệm của một cái tôi nhỏ bé, tính cách nhân
vật không được nhà văn lý giải mà được người đọc quan sát từ “cuộc chơi” của
chúng. Mỗi nhân vật cũng là một mô hình, được sổ hoá {Mô hình I- Chương 8,
Mổ hình II- Chương 13, Người đàn bà công dân - Chương 17,...). Các chương
được sắp xếp sao cho có khả năng phá vỡ mạnh nhất tính cân xứng, hài hoà của
tiểu thuyết truyền thống: Chương 10 - Không đề chỉ là mươi dòng tự luận của
người kể chuyện. Chương 14 - Ván bài mở ra với bảng phân vai và “tóm tắt lý
lịch” nhân vật như một văn bản kịch. Chương 18 - Nhật ký chị Hằng, Chương
15 - Thơ PH... Nhìn vào hình thức văn bản đã thấy ngay sự sắp đặt, pha trộn, lai
ghép của các thể loại. Tạ Duy Anh xác nhận tính trò chơi trong Thiên thần
sám hối bằng lời Tựa: “CỔM chuyện khó tin này là của một đứa trẻ còn ở
trong bụng mẹ. Neu đọc xong quý vị vẫn không tin thì cũng không sao”. Và
người kể chuyện xưng tôi sẽ chính là cái bào thai ấy. Nguyễn Bình Phương tạo

cho Thoạt kỳ thuỷ cấu trúc đứt gẫy, nhảy cóc liên tục, đan cài vô thức vói hữu
thức, tô đậm cái bất lực của ngôn từ, dường như tác giả đang dùng ánh sáng
Phân tâm học để rọi vào thế giới bí ẩn tăm tối bên trong con người, tạo một
chiều sâu mới cho chủ đề tố cáo bạo lực. “Trò chơi” của Châu Diên được công
khai ngay từ tên truyện Người sông Mê. Tác phẩm không chia chương mà chia
khúc, vừa theo


19

trình tự kiếp luân hồi như quan niệm nhà Phật, vừa ngẫu hứng, vu vơ như lời
hát đồng dao: Kiếp ảo, Kiếp gốc, Kiếp thực, Gốc một — Nhất gốc, Gốc đôi Hai gốc... Lời giói thiệu nhân vật chính “thật thà” đến khó tin: “Khi thì cô này
nghĩ mình là Hoa, có khi chỉnh cô lại cho mình là Hương. Cô này có lúc lẫn
lộn chuyện giữa hai người đàn bà, người tên Hoa và người tên Hương, chả rõ
ai là mẹ và ai là con”. Các nhân vật khác cũng tương tự thế “người nào cũng
nhớ nhớ quên quên” vì họ đều là “người sông Mê ấy mà”. Giàn thiêu của Võ
Thị Hảo trộn lẫn chính sử với dã sử, sự kiện bị xoá hết đường viền thời gian,
không gian, nên lịch sử hiện lên qua kiếp luân hồi của Từ Lộ (khi là nạn nhân
của cái ác, khi là Lý Thần Tông quyền uy, khi lại mang lốt hổ) là một thứ lịch
sử rất đáng ngờ. cấu trúc lồng ghép ở Giàn thiêu in đậm cảm quan Phật giáo.
Câu chuyện về ba kiếp của Từ Lộ - Lý Thần Tông - hổ là sự đan xen ứng chiếu
theo logic nhân quả giữa hai thế giới thực và hư.
Milan Kundera khi bàn về Nghệ thuật tiểu thuyết có một ý rất độc đáo: Ở
bên ngoài tiểu thuyết người ta sống ừong thế giới của những điều khẳng định.
Mọi người đều tin chắc ở lời nói của mình. Trong lãnh địa tiểu thuyết người ta
không khẳng định bởi đây là lãnh địa của “trò chơi” và những giả thuyết.
Những tiểu thuyết Việt Nam đương đại thử nghiệm ừò chơi này có một số điểm
đáng chú ý như sau:
Thứ nhất: Một hiện thực không đáng tin cậy: đó là những bức tranh đầy
tính ước lệ, không theo logic nhân quả. Thiên sứ, Người sông Mê, Thiên thần

sám hối là những bức hoạ bằng ngôn từ theo phong cách lập thể, không nhằm
trình bày một hiện thực phổ biến, khả tín mà là những giấc mơ, những ám ảnh
vô thức, những trò diễn của sân khấu múa rối hay của lễ hội hoá trang. Hiện
thực đó không để người ta tin, mà để người ta nghi ngờ và ngẫm nghĩ. Quan hệ
dân chủ giữa văn học với hiện thực được xác lập đồng thời với việc khước từ sự
áp đặt chân lý lên người đọc (Chuyện 299 người đàn ông cầu hôn


20

chị Hằng, chuyện cô bé 14 tuổi tự đình tăng trưởng trong Thiên sứ, chuyện cái
thai không chịu chào đời vì cảm giác bất an trong Thiên thần sám hối, chuyện
cô gái Mai Trừng được sinh ra để trừng trị cái ác trong Cõi người rung chuông
tận thế,...
Thứ hai: Những nhân vật dị biệt hoặc kỳ ảo: Quang lùn (gợi hình ảnh quỷ
lùn) - người chỉ tôn thờ duy nhất sức mạnh của các nguyên tắc và ý chí, bé Hon
- thiên sứ pha lê đến trần gian chỉ để “ban phát nụ cười và môi hôn thom ngậy
mùi sữa”, Hoài - cô bé mãi mãi 14 tuổi, không chịu làm người lớn vì không
chấp nhận “thế giới phủ thảm của người lớn” (Thiên sứ), Mai Trừng (Cõi
người rung chuông tận thế) có khả năng phát “điện trường” cực mạnh mỗi khi
kẻ ác đến gần, chàng trai 17 tuổi sống lại sau tai nạn điện giật có khả năng đi
ngược thời gian {Trong sương hồng hiện ra), linh hồn của Hoa, Hưomg,
Khánh {Người sông Mẽ), Từ Lộ, Dã nhân, chàng Cá bơn {Giàn thiêu), Tính
{Thoạt kỳ thuỷ) - một con bênh tâm thần hiếu sát chỉ thích nhìn máu chảy... là
những nhân vật được xây dựng như một sự đối thoại, hoặc chối từ quan niệm
điển hình hoá của chủ nghĩa hiện thực truyền thống. Ở đây cái cá biệt, cái “phi
sử thi” là đặc điểm chính.
Thứ ba: Điểm nhìn trần thuật chủ yếu được giao cho các nhân vật dị biệt
đó. Tính chủ quan của câu chuyện là một cách khẳng định kinh nghiệm cá nhân
và làm tăng chất nghịch, chất hài cho tiểu thuyết. Thế giới trong Thiên sứ được

đặt dưới cái nhìn của Hoài - cô bé không chịu làm người lớn và kiên quyết “từ
chối không đứng vào bất kỳ bộ đồng phục quá rộng hoặc quá chật nào”, “khước
từ mọi quan hệ họ hàng với những nhân vật xa lạ kia, khước từ những sản phẩm
confection may hàng loạt”. Điểm nhìn ở Người sông Mê luân chuyển liên tục
từ Hoa sang Hương, Khánh và người thứ ba giấu mặt. Người kể chuyện - thai
nhi trong Thiên thần sám hối hiện diện với khát vọng “chấp nhận cuộc thách
đấu của cái chết khi cái chết “cất giọng đắc thắng


×