Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Tiểu thuyết nguyễn bình phương nhìn từ góc độ thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.34 KB, 106 trang )

Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THỊ GIANG

TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
NHÌN TỪ GÓC Độ THỂ LOẠI
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC sĩ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. PHÙNG GIA THẾ

HÀ NỘI, 2016


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Phùng Gia Thế, người thầy đã
tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tôi thực hiện luận văn này bằng tinh
thần khoa học nhiệt tình và nghiêm túc.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầygiáo, cô giáo đã nhiệt tình giảng dạy
trong quá trình tôi học tập tại trường,phong Sau Đại học - trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2 đã tạo mọi điều kiện thuận lọi trong quá trình học tập và nghiên
cứu.
Xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ động viên của gia đình, bạn bè và đồng
nghiệp đã giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, ngày 15 tháng 7 năm 2016
Ngưòi viết

Nguyễn Thị Giang




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung tôi trình bày trong luận văn là kết quả
quá trình nghiên cứu của bản thân tôi.
Trong quá trình nghiên cứu, tôi có tìm hiểu, tham khảo thành quả khoa
học của các tác giả vói sự trân trọng và biết ơn, nhưng những nội dung tôi
nghiên cứu không trùng với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác.
Hà Nội, tháng 7 năm 2016
Người viết

Nguyễn Thị Giang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài.........................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.........................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu..........................................7
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu..................................................................7
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................8
6. Đóng góp của luận văn...............................................................................8
7. Cấu trúc của luận văn.................................................................................8
NỘI DUNG...........................................................................................................9
Chương 1. NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
...............................................................................................................................9
1.1................................................................................................................... K
hát quát về nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương......................9
1.2................................................................................................................... L
oại hình nhân vật tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương.....................................16

1.2.1. Nhân vật dị biệt............................................................................16
1.2.2. Nhân vật cô đơn............................................................................19
1.2.3. Nhân vật sợ hãi, hoài nghi............................................................23
1.2.4. Nhân vật lưỡng hóa......................................................................27
1.2.5. Nhân vật bản năng, tha hóa..........................................................31
1.2.6. Nhân vật đám đông.......................................................................38
Chương 2. KẾT CẤU TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG.............46
2.1. Khái quát về kết cấu tiểu thuyết...........................................................46
2.2. Đặc điểm kết cấu tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương...........................49
2.2.1. Kết cấu đồng hiện.........................................................................49
2.2.2......................................................................................................... K


Chương 3. KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU
THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG.............................................................74
3.1. Không gian nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương...................74
3.1.1. Khái quát về không gian nghệ thuật.............................................74
3.1.2......................................................................................................... Đ
ặc điểm không gian tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương............................76
3.1.2.1.................................................................................................. K
hông gian hiện thực - huyền ảo............................................................77
3.1.2.2. Không gian tâm lí...................................................................84
3.2. Thời gian nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương......................88
3.2.1. Khải quát về thời gian nghệ thuật................................................88
3.2.2. Đặc điểm thời gian nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương.....................................................................................................89
3.2.2.

ỉ. Phi tuyển tính hóa thời gian................................................90


3.2.2.2. “Thời gian trắng”...................................................................94
KẾT LUẬN........................................................................................................98


1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chon đề tài
1.1. Từ sau 1986, những đổi mới ưong đời sống văn hóa - xã hội của nước
ta đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự đổi mới toàn bộ diện mạo nền văn học.
Trên văn đàn, tiểu thuyết ngày càng khẳng định vai trò là “xưomg sống”, là thể
loại “cột trụ” của nền văn học với nhiều tín hiệu đổi mới tích cực, nhiều
khuynh hướng tìm tòi thể nghiệm đa dạng nhằm “khơi thông dòng chảy”
(Nguyên Ngọc). Có thể nói, trong đời sống văn học Việt Nam đương đại, tiểu
thuyết là một trong những hiện tượng phức tạp và cũng gây nhiều tiếng vang
nhất.
Xét từ góc độ thể loại, tiểu thuyết không cam chịu một hình thức hoàn
kết. Điều quan ừọng đối với nó là sự khám phá tối đa với cái thực tại đang dang
dở, “chưa xong xuôi”, cái thực tại đang thành, luôn cần đánh giá lại, tư duy lại.
Như vậy mỗi cuốn tiểu thuyết sẽ là một sự tìm kiếm và khai thác tiềm năng của
thể loại.
1.2. Nằm trong dòng chảy đổi mới văn học kể từ sau 1986, tiểu thuyết
Việt Nam có nhiều tín hiệu mới, nhiều khuynh hướng tìm tòi thể nghiệm đa
chiều. Nhiều tác phẩm, tác giả mới đã lần lượt xuất hiện, tạo được sự chú ý ừên
văn đàn như Nguyễn Xuân Khánh, Châu Diên, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh,
Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà, Y Ban... Trong dòng
chảy này, Nguyễn Bình Phương được giới chuyên môn xem là một trong những
gương mặt tiêu biểu nhất.
Nguyễn Bình Phương trước hết là một nhà thơ. Những sáng tác ban đầu

của ông là các tập thơ: Khách của trần gian (trường ca, 1986), Lam chướng
(1992), Xa thân (1997) cùng một số tiểu luận, truyện ngắn. Ở lĩnh vực tiểu
thuyết, sau sự mở đàu với Vào cõi (1991), Nguyễn Bình Phương tập trung vào


2

thể loại này. Và chính ở đây, tên tuổi của nhà văn dần trở nên quen thuộc ừong
đời sống văn học. Nguyễn Bình Phương được bạn học biết đến nhiều hơn với
sự xuất hiện liên tiếp của những cuốn tiểu thuyết với cách viết mới lạ về cả
hình thức lẫn nội dung: Những đứa trẻ chết già (1994), Trí nhớ suy tàn (2000),
Người đi vẳng (1999), Thoạt kỳ thủy (2004), Ngồi (2006), Mình và họ (2014)...
Có thể nói, với những tiểu thuyết này, Nguyễn Bình Phương đã đem đến cho
đời sống văn học một phong cách mới lạ, riêng biệt. Nhìn một cách tổng quát,
sáng tác của Nguyễn Bình Phương không đi khai thác những biểu hiện bề nổi,
những mâu thuẫn gay gắt ừong quan hệ con người, những đối lập giữa hành vi
và bản chất, giữa bản năng và nhân cách mà chú trọng khám phá và tái hiện
một cách sinh động cõi vô thức và những chấn thương trong tâm lí con người
đương đại. Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương có sự khác lạ về nghệ thuật kết
cấu, nghệ thuật tràn thuật, nghệ thuật xây dựng nhân vật... Sự khai thác đa dạng
hình thức và tiềm năng thể loại là nhân tố hàng đầu thể hiện tư duy tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương.
Với tất cả những lí do trên, chúng tôi lựa chọn việc nghiên cứu Tiểu
thuyết Nguyễn Bình Phương nhìn từ góc độ thể loại làm đề tài luận văn thạc sĩ
của mình. Sự lựa chọn này một mặt giúp người nghiên cứu nhận diện những
nét độc đáo trong cách cắt nghĩa đời sống của nhà văn; một mặt khác, đây cũng
là cách lí giải, phân tích những đóng góp của nhà văn vào tiến trình tiểu thuyết
Việt Nam đương đại.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nguyễn Bình Phương sinh ngày 29/12/1965 tại Thái Nguyên. Thời chiến

ừanh tác giả theo gia đình sơ tán về xã Linh Nham thuộc huyện Đồng Hỷ, đến
1979 mới ừở lại thành phố Thái Nguyên. Ông học hết trung học phổ thông năm
1985 rồi vào bộ đội. Năm 1989 vào học trường viết văn Nguyễn Du, ra


3

trường công tác một năm ở Đoàn kịch nói Quân đội rồi chuyển sáng làm biên
tập viên của Nhà xuất bản Quân đội và hiện nay đang là Tổng biên tập Tạp chí
Văn nghệ quân đội.
Nguyễn Bình Phương viết văn bằng niềm đam mê, sự nhạy cảm cộng với
tri thức văn hóa và văn chương của một cây bút được đào tạo căn bản. Tác giả
viết đều tay ở nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, tản văn, tiểu thuyết... Cho đến
nay, Nguyễn Bình Phương thành công nhất trong lĩnh vực tiểu thuyết với tám
cuốn tiểu thuyết được xuất bản.
Với những nỗ lực tìm hướng đi mới cho tiểu thuyết và quan niệm “Nghệ
thuật tiểu thuyết, ở một chừng mực nào đó chính là nghệ thuật của sự nối kết
các điểm chính với nhau chứ không phải sự nhẫn nại đi theo lộ trình tuần tự đều
đặn của thời gian và sự kiện”, tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương vì thế có nhiều
điểm khác lạ và thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu phê bình văn học.
Nguyễn Bình Phương đã được báo giới đánh giá như một “hiện tượng văn
học”. Đã có nhiều báo cáo khoa học, tiểu luận, khóa luận đại học, luận văn cao
học nghiên cứu về tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Qua quá trình tìm hiểu,
khảo sát những công trình đã nghiên cứu về Nguyễn Bình Phương nói chung và
tiểu thuyết của ông nói riêng, chúng tôi thấy những nghiên cứu trước đã quan
tâm tới các phương diện sau:
2.1. về con đường sáng tạo của Nguyễn Bình Phương
Phùng Văn Khai trong bài Tản mạn Nguyễn Bình Phương đã phác họa
chân dung nhà văn Nguyễn Bình Phương không chỉ ở sự nghiệp văn chương:
“Nếu coi văn chương là một nghề thì cái nghề ấy đã đeo gông đóng số Nguyễn

Bình Phương..., yêu nghề đến ngẩn ngơ, yêu đến hành xác tâm lỉnh, sùng tín
như anh quả hiếm” [27; tr.37], mà còn với đầy đủ từ hình dáng bên ngoài đến
nội tâm bên trong: “Nguyễn Bình Phương cỏ một khuôn mặt rất


4

buồn. Anh ỉt nói trong các đám đông hoặc hai người với nhau. Nhimg anh
chăm chú mọi người, chăm chú vào câu chuyện và rất sắc sảo, độc đáo trong
suy nghĩ” [27; tr.52]. Cũng trong tiểu luận này, Phùng Văn Khai khẳng định
những tiềm năng văn học dồi dào của Nguyễn Bình Phương: “Trữ lượng văn
xuôi Nguyễn Bình Phương là một trữ lượng tiềm tàng mà nhà khai thác đang
vào độ thuận để đưa ra đời sống những thân phận, những tư tưởng, những thắc
mẳc, những lo toan, những dự báo cho chỉnh đời sống này ”[27; tr.91].
Theo Phùng Văn Khai: “Chỉ một thời gian không xa nữa, với nội lực sáng
tạo của nhà văn, chúng ta sẽ có một cái gì đó về văn xuôi đương đại, một cái gì
đó mà phải nói thật rằng chúng ta đã chờ đợ từ lâu, không thể phủ định những
thành tựu văn xuôi trước đó mà là một bức phát triển tiếp nối” [27; tr.98].
2.2. về cái mới trong nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
Trong số những tài liệu nghiên cứu về Nguyễn Bình Phương đã có một số
bài viết trực tiếp đề cập đến nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết, trong đó chủ yếu
bàn về tương quan giữa yếu tố thực và ảo ừong sáng tác của ông.
Tiêu biểu trong số này có: Hoàng Quỳnh Nga với Dấu ẩn của chủ nghĩa
hiện thực huyền ảo trong tiểu thuyết Người đi vẳng của Nguyễn Bình Phương
[40]; Đoàn Minh Tâm với Những đặc trưng của bút pháp hiện thực huyền ảo
trong tiểu thuyết Ngồi của Nguyễn Bình Phương [47]; Nguyễn Thị Thanh
Huyền với Khuynh hướng hiện thực huyền ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương [26]; Nguyễn Chí Hoan với bài viết cấp độ hiện thực và sự huyễn ảo
của ỷ thức trong Thoạt kỳ thủy...
Cái hiện thực huyền ảo được Hoàng Quỳnh Nga chỉ ra trong tiểu thuyết

Người đi vẳng của Nguyễn Bình Phương là hiện thực lai ghép: thành thị - nông
thôn, yếu tố thực - ảo. Nhân vật của Nguyễn Bình Phương được xem là “nhân
vật tàn khuyết về tâm lý”, bao gồm những con người mắc bệnh và chịu sự ám


5

ảnh. Trong các báo cáo khoa học “Lời câm của nhân vật Tỉnh trong Thoạt kỳ
thủy” [39], “Dấu ẩn của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong tiểu thuyết Người
đi vẳng” [40], tác giả đã phân tích những nét độc đáo của Nguyễn Bình Phương
trong việc sáng tạo ra một thế giới nhân vật chịu nhiều ám ảnh, ngôn ngữ đặc
biệt của giấc mơ, ngôn ngữ lời câm chắp dính, phi lôgic.
Đoàn Minh Tâm trên Báo Văn nghệ Trẻ khái quát “Những đặc trưng của
bút pháp huyền ảo trong tiểu thuyết Ngồi [47] ở ba dạng thể: bút pháp huyền ảo
phi lí của Kafka, bút pháp huyền ảo siêu nhiên và huyền ảo tâm lý. Qua đó thấy
được sự ảnh hưởng của chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa hiện
thực huyền ảo đậm nét trong sáng tác của Nguyễn Bình Phương và trong sáng
tác văn chương đương đại nói chung.
Có thể thấy, bút pháp hiện thực huyền ảo của Nguyễn Bình Phương đã
được đề cập đến trong nhiều bài báo, khóa luận và luận văn. Điều này cho thấy,
hiện thực huyền ảo là một khuynh hướng sáng tác đặc trưng của tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương. Từ đó có thể nói, văn học hiện thực huyền ảo là bước
phát triển vượt lên văn học huyền ảo giai đoạn trước.
Kết cấu cũng là một trong những yếu tố cách tân của Nguyễn Bình
Phương được các nhà phê bình nghiên cứu văn học tập trung tìm hiểu khai thác.
Thụy Khuê là người sớm quan tâm tới sáng tác của nhà văn này. Nhà phê bình
đã viết nhiều tiểu luận về tiểu thuyết của nhà văn. Trong bài Thoạt kỳ thủy
trong vùng Cậm Cam hoang vu của Nguyễn Bình Phương, Thụy Khuê nhận
xét: “Thoạt kỳ thủy là bài thơ đẫm máu và nước mắt, đẫm tang thương, đầy
huyễn hoặc, viết về hành trình của một cộng đồng, dù đã nửa phần điên loạn”

[29]. về hình thức nghệ thuật, Thụy Khuê đánh giá: “Thoạt kỳ thủy là cuốn tiểu
thuyết khác thường, khó đọc bởi lối hành văn cẩu trúc truyện rất lạ... không
phải là những trang viết truyền thống vì vậy cần cách đọc không


6

truyền thống. Những yểu tố vừa kịch, vừa phi kịch, vừa thơ, vừa phi thơ là
những mẩu chốt cẩu trúc tiểu thuyết” [29]. Theo Thụy Khuê, để tiếp cận được
Thoạt kỳ thủy của Nguyễn Bình Phương càn tập trung khám phá sự giao thoa
của các thể loại kịch, thơ, tiểu thuyết.
Hoàng Cẩm Giang trong luận văn thạc sĩ cẩu trúc thể loại tiểu thuyết Việt
Nam đầu thể kỉ XXI đã chỉ ra vấn đề về cấu trúc tác phẩm và sự phá vỡ đặc
trưng thể loại trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Hoàng cẩm Giang viết:
“Xen kẽ giữa các dòng tự sự, người đọc liên tục bắt gặp những khúc đoạn lạ
mang chức năng “ngoại đề” - vốn không nằm trong “chính mạch tự sự”... để lại
những khoảng trống mênh mang trên văn bản” [16; 52].
Tác giả Trương Thị Ngọc Hân nhận ra đặc điểm xoắn kép nhiều mạch
chảy song song trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương: “Nguyễn Bình Phương
và cây bút đương đại khác không đi theo lối kết cấu cũ. Ông đã phá tung mọi
rào cản để tạo sự tự do tối đa cho tác phẩm. Ở đó mạch chảy song song đến
cuối tác phẩm đã hòa vào mạch chung, có tác phẩm được xây dựng bởi rất
nhiều mạch tạo thành kiểu đa giọng điệu độc đáo” [22].
Tác giả Bùi Thị Thu khi nghiên cứu “Một số đặc điểm đáng chú ý của
tiểu thuyết truyện ngắn ở Việt Nam những năm gàn đây” [54] đã khảo sát một
số tiểu thuyết đương đại trong đó có tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương. Bùi
Thị Thu đã phân tích một số đặc trưng chung trong cấu trúc, ngôn ngữ, giọng
điệu của tiểu thuyết như “cấu trúc phức họp, cấu trúc hệ thống biểu tượng, sự
mời gọi người đọc của ngôn ngữ và tính đối thoại của giọng điệu”.
Trong các bài viết của mình, các tác giả Thụy Khuê, Trương Thị Ngọc

Hân, Nguyễn Chí Hoan... cũng đi vào phân tích những đổi mới của Nguyễn
Bình Phương trong việc phá vỡ kiểu kết cấu tiểu thuyết truyền thống để thể


7

nghiệm sự cách tân theo hướng kết cấu xoắn kép nhiều mảng, kết cấu liên văn
bản...
Điểm qua các bài viết về tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương, chúng tôi
nhận thấy, cho dù được khám phá từ nhiều bình diện khác nhau song việc
nghiên cứu tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương nhìn từ góc độ thể loại lại chưa
được các nhà nghiên cứu quan tâm thỏa đáng. Chính vì vậy, trên cơ sở những
gợi ý của những người đi trước, chúng tôi đặt vấn đề tập trung tìm hiểu tiểu
thuyết Nguyễn Bình Phương nhìn từ góc độ thể loại với mục đích tìm hiểu sâu
và bổ sung thêm những vấn đề còn bỏ ngỏ, từ đó đề xuất một hướng tiếp cận
tác phẩm từ phương diện cấu trúc và tiềm năng của thể loại.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiền cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát, phân tích tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương nhìn từ góc độ thể
loại; nhìn nhận đánh giá một cách khách quan, khoa học về những khả năng và
giới hạn về các sáng tác của ông. Từ đó làm rõ thêm nét độc đáo trong lối viết
của Nguyễn Bình Phương và khẳng định vai trò của nhà văn trên con đường
cách tân tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích những nét độc đáo, khẳng định đóng góp và giới hạn của tiểu
thuyết Nguyễn Bình Phương nhìn từ góc độ thể loại.
4. Đối tượng, phạm vỉ nghiền cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương nhìn từ góc độ thể loại.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu các tiểu thuyết tiêu biểu của Nguyễn Bình Phương:
- Người đi vẳng (1999)


8

- Thoạt kỳ thủy (2004)
- Ngồi (2006)
- Mình và họ (2014)
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích đối tượng theo quan điểm hệ thống.
- Phương pháp xác định lịch sử - phát sinh.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp so sánh hệ thống.
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa kiến thức về tiểu thuyết với tư cách một thể loại văn học.
- Đưa ra cách tiếp cận mới đối với tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương nhìn
từ góc độ thể loại.
- Chỉ ra những đóng góp và giới hạn của tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương ừong tiến trình tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn gồm 3
chương:
Chương 1. Nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương Chương 2.
Kết cấu tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương Chương 3. Không gian và thời gian
nghệ thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương


9


NỘI DUNG
Chương 1
NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG •
1.1. Khát quát về nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, khái niệm nhân vật được định nghĩa là:
“con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học... một đơn vị nghệ
thuật đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất nó với con người thật trong đời
sống... thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tưởng thẩm mĩ của nhà văn về con
người... luôn gắn chặt với chủ thể trong tác phẩm” [7]. Nhân vật luôn là trưng
tâm của sáng tác văn học, là hình chiếu tư tưởng và năng lực nghệ thuật của
nhà văn. Trong sự biến đổi của kỹ thuật tiểu thuyết đương đại (cấu trúc lắp
ghép, phân mảnh, sự luân chuyển ngôi kể, đa dạng hóa các loại giọng tràn
thuật...), xu hướng xây dựng hình tượng nhân vật cũng thay đổi. Các cây bút
tiêu biểu như Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà... ít chú ý lấy
nguyên mẫu từ trong đời sống mà thiên về hướng mờ hóa, vô danh hóa. Họ
thường dị biệt hóa nhân vật về hình thức và tính cách. Với quan niệm “không
xây dựng nhân vật điển hình”, Nguyễn Bình Phương đã đi có những bước đi
khác biệt so với cách xây dựng nhân vật của tiểu thuyết truyền thống. Bên cạnh
những con người bình thường, nhà văn tạo nên một hệ thống nhân vật mang
tính đặc thù: nhân vật dị biệt, nhân vật cô đơn, lưỡng hóa hoặc kì ảo, hư ảo,
nhân vật bản năng, tha hóa...
Không mở đầu và cíăng không có kết thúc, vừa sắc nét vừa mơ hồ, đọc
tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương người ta có thể dừng ở bất cứ chương
nào, bởi nó không có kết thúc hoặc gợi mở rất nhiều kết thúc. Các nhân vật
không có tiểu sử, hay nói cách khác tiểu sử nhân vật là sự xâu chuỗi những


10

ám ảnh. Lối kết cấu theo dòng tâm trạng như thế tạo cho tác phẩm một không

khí mơ hồ nhuốm màu huyền thoại. Trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương,
nhân vật được miêu tả nhiều nhất không hẳn là nhân vật chính. Nhân vật chính
tồn tại đâu đó ừong những nhân vật, ừong tác giả hay trong người đọc. Thế giới
tâm linh được Nguyễn Bình Phương khai thác triệt để không chỉ ở con người
mà còn ở ngay nơi cảnh vật: dòng sông, ngọn núi, cơn mưa, cây cầu, đường
phố... và cả những yếu tố không hiện diện trực tiếp trong tác phẩm. Huyền
thoại hóa cuộc sống đời thường là một đặc điểm dễ nhận thấy trong toàn bộ
tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương. Đọc Nguyễn Bình Phương, thấy hiện
thực được mô tả trong tác phẩm bao giờ cũng được bao phủ bởi một màn sương
huyền bí và những ảo ảnh mơ hồ. Ngôn ngữ tác phẩm như được cất lên từ một
cõi âm u nào đó, có khi như là những lời thì thầm giữa hư không.
Khảo sát thế giới nhân vật ừong các tiểu thuyết (Người đi vẳng, Thoạt kỳ
thủy, Ngồi, Mình và Họ) của Nguyễn Bình Phương, chúng tôi nhận thấy ừong
mỗi tác phẩm lại có những kiếp đời riêng biệt, không giống nhau, méo mó, cỗi
cằn, thảm hại... Nhân vật tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương không theo một mô
típ có sẵn. Đặc điểm này khiến tác phẩm của nhà văn không dễ đọc và cũng
khó có một cách khai thác chung. Cũng như các nhà văn cùng khuynh hướng,
dấu ấn tư duy đương đại của Nguyễn Bình Phương trước hết thể hiện ở chủ
trương từ giã các lối viết công thức, sáo mòn của truyền thống. Trong tác phẩm
của Nguyễn Bình Phương, không có bóng dáng của nhân vật điển hình mang
tầm khái quát cho mọi tính cách lớn lao trong đời sống. Thay vào đó là đủ thứ
hạng người trong nhân gian, đại đa số là những đám đông bệnh hoạn, u tối,
méo mó cả thể xác lẫn tinh thần. Thế giới người trong tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương đa dạng, song không có nhân vật nào mang tính


11

cách điển hình mà phần lớn đó là những mảnh vỡ méo mó, dị nghịch, điên loạn
(Tính, ông Phừng, ông Phước trong Thoạt kỳ thủy, cụ Điển, ông Điều, lão Bính

trong Người đi vẳng, Khẩn trong Ngồi hay Hiếu, anh trai Hiếu... trong Mình và
Họ...).
Người đi vẳng được xuất bản lần đàu nắm 1999, tiểu thuyết này đã khẳng
định thêm lối đi riêng của Nguyễn Bình Phương ừong thể loại tiểu thuyết.
Trong một phong cách riêng - xen cài giữa thực và ảo, sự đan cài giữa lịch sử
và hiện tại, Người đi vẳng kể về số phận những con người trong một gia đình
ừên đất Thái Nguyên cùng với bóng dáng lịch sử, linh hồn của quá khứ vẫn
đọng trên mảnh đất này. Nếu cuộc khởi nghĩa chống Pháp thất bại năm xưa của
nghĩa quân Đội cấn vẫn chập chờn như một ảo ảnh, xa xôi... thì cuộc sống hiện
thực hôm nay lại tràn ngập sự đổ vỡ và mệt mỏi lòng tin. Ở đây, những kẻ tệ
hại nhất lại được miêu tả như những người bình thường. Không nhân vật trung
tâm, lí tưởng. Không có những bản ca tụng. Tất cả chỉ là một “mớ” người: một
gia đình nhỏ ngang nhiên lừa dối nhau; một đoàn kịch nhếch nhác, hủ bại và
dâm đãng. Vợ chồng Thắng - Hoàn sống yên ổn những vẫn không thể hòa nhập
cùng nhau, họ hành xử với nhau như người xa lạ. Hoàn tìm đến vòng tay của
người đàn ông khác, đó là Cương, còn Cương lại ngủ với Phượng - một cô gái
cùng đoàn. Người đi vẳng là một hiện thể của những con người “tha hóa” và
“bệnh hoạn”. Nhưng các nhân vật “bình thường” ấy lại luôn bị ám ảnh sợ hãi
dày vò khiến nó luôn ở ừong tình trạng thất thường, bất an. Trong Người đi
vẳng Chung là một điển hình. Tiếng rao hoạn lợn với từ “thiến” đầy ám ảnh với
anh ta. Không ai “thiến” Chung những suốt cuộc đời anh ta phải sống ừong sợ
hãi. Nhiều nhân vật khác ừong Người đi vẳng cũng có những ám ảnh tương tự:
hình ảnh cái bóng đen người đàn ông cầm cuốc bổ xuống,.. Rồi Hoàn với sự
“bồn chồn”, “bàng hoàng”


12

thường trực. Rồi những người đàn ông, đàn bà tìm đến nhau, làm tình với nhau:
Thư bạn Hoàn với Thắng, Cương với Phượng, Sơn với Hà... vừa như giải tỏa

ám ảnh tình dục, vừa như một lối thoát tinh thần để có thể lấp đày những
khoảng ừống. Cái đáng sợ như lơ lửng vô hình nhưng nỗi sợ hãi của nhân vật ở
đây là có thật nó ảm ảnh đến sự bất ừắc của cuộc đời. Trong Người đi vẳng
nhân vật gợi nhiều xót xa nhất đó là Sơn, Sơn “không biết yêu, không bao giờ
mơ, hắn chỉ có nhu cầu”. Sơn chết vì một trong vô vàn những nỗi đam mê của
con người. Thèm khát có được bộ dàn nghe nhạc compắc, Sơn bỏ dở buổi xem
phim với Hà, lộn về ừèo lên gác nhà hàng xóm tìm cách lấy trộm bộ dàn máy.
Bị thằng bé “nửa người nửa ngợm” con chủ nhà phát hiện, Sơn bóp chết nó, rồi
hốt hoảng lao ra cửa sổ, ngã lộn và chết ngay với cặp mắt trừng trừng kinh
hoàng. Cái chết của Sơn và của cả thằng bé nữa đều bởi một lý do như chẳng
phải là một lí do gì cả: cái chết giản đơn vô nghĩa biết chừng nào. Người đi
vẳng như một bản nhạc triền miên, u mê hỗn độn như “không ai kết thúc được
đêm”. Kết thúc tác phẩm là cảnh làm tình giữa Thắng và Thư - bạn của Hoàn.
Thắng sững sờ bởi câu nói của Thư: - Thế từ trước đến nay anh làm gì? “Bởi
thực sự anh không nhớ nổi bao nhiêu năm qua cơ quan anh làm gì và bản thân
anh làm gì”, “mọi thứ cứ đều đặn trôi cùng thời gian, u mê, vô nghĩa”. Có thể
coi Người đi vẳng là cuộc đối thoại với hiện thực khốc liệt của đời sống, sự bê
tha, nhếch nhác của con người, sự suy đồi ghê gớm của đạo đức và xã hội;
đồng thời cũng là đối thoại với cô đơn, tha hóa của con người cá nhân trong xã
hội hiện đại. Có lẽ, sự hấp dẫn của tác phẩm là ở chỗ vấn đề mà nhà văn quan
tâm cũng là cái mà con người thời đại quan tâm?
Thoạt kỳ thủy là cuốn tiểu thuyết có cái tên rất lạ - cái tên như gợi về một
tiền kiếp xa xăm. Tuy được trình bày theo một lối cấu trúc lạ, song đó vẫn là
câu chuyện văn chương muôn thưở về thân phận con người. Có thể ví


13

Thoạt kỳ thủy là một tác phẩm của sự dung họp nhiều thủ pháp hội họa, âm
nhạc, điện ảnh để tạo ra một bức tranh có nhiều mảng ghép, với rất nhiều

những vệt màu buồn gợi một không gian u ám, xa xôi, trì đọng đến nghẹ thở.
Trên cái nền ấy là một đám đông không ai rõ mặt người. Rất nhiều người điên,
què quặt, bản năng. Đây là cảnh ăn uống, kia là giết mổ, đánh đập và tình dục.
Trong bức tranh Thoạt kỳ thủy, không thấy nhân vật nào có hình hài cụ thể, rõ
nét, rành mạch. Ở đó người ta chỉ thấy sự điên khùng, nghiện ngập, ưa đánh
đập, bản năng, thất thần, điên dở và đáng thương. Ngụp lặn trong cõi sống triền
miên, họ không có khao khát, không có điểm tựa, không chút lờ mờ cá tính.
Những nhân vật trong Thoạt kỳ thủy chẳng rõ gốc tích gì và rồi cũng biến đi vô
tăm tích giữa cuộc đời. “Quê ông Phùng nghe đâu xa lắm”, gia đình ông Phước
ở đâu “không rõ”, Hiền bỏ đi đâu “không ai rõ”, ông Sung “sau đợt đưa tân
binh lên biên giới phía bắc không thấy quay về xã”, Nam “nghe tin đồn hy sinh
ở Trùng Khánh”... Trên cái nền tăm tối ấy, Tính - nhân vật chính hiện ra đầy
quái dị: “Tay dài. Chân ngắn. Lông tay đỏ hồng, ngón chân không phân đốt...
đi như vượn, ngồi như gấu, không biết chữ”. Tính hầu như không kết nối với
xung quanh bằng quan hệ xã hội gì mà chỉ là những quan hệ bản năng sơ khai
nguyên thủy. Tính là một người điên, lơ ngơ trong cõi thực. Cả cuộc đời của
Tính là sự cô đơn ngập tràn trong lối thoát. Có thể nhận ra Thoạt kỳ thủy là một
câu chuyện miên man đày rẫy những ảo ảnh, xót xa đau đớn về thân phận con
người.
Với Ngồi, người đọc như bị tung vào thế giới bầm dập thác loạn. Một đời
sống đương đại phức tạp như nó vốn thế. Tác phẩm tụ vào ba nhân vật công
chức Khẩn, Nghĩa, Hừng... Họ đến cơ quan chẳng biết để làm gì. Thậm chí cái
cơ quan đó tên là gì nhà văn cũng chẳng cần giới thiệu. Chỉ biết, đó là nơi các
“công chức gia” tán gẫu, chửi bậy, đấu đá và bàn chuyện chơi gái. Ta


14

lại gặp ở đây toàn những khuôn mặt vô hồn và cái mô típ chủ đề quen thuộc
của nhà văn: không có tình yêu trong cõi thực - cõi thực chỉ có tình dục và thác

loạn. Nhân vật trong Ngồi dường như không có gì đề bấu víu ở hiện thực. Đôi
lúc Khẩn và Thúy có đi tìm Quân (chồng Thúy) như là tìm “một cái gì” mà
việc thấy hay không cũng chẳng làm sao. Kết thúc chuyện, Nghĩa bị Sida,
Trương bị điên, Thúy không tìm được chồng và cũng chẳng muốn tìm, Khẩn
bất lực buông xuôi rồi chìm ngỉm đi giữa những khuôn mặt người ào ào trôi
qua, đẹp và xấu, vui tươi hay vô cảm... như một biểu tượng hỗn loạn của cõi
nhân sinh. Trong Ngồi không có tiếng rao hoạn lợn nhưng tiếng gõ mõ “cốc
cốc cốc...” cũng là một ám ảnh đối với nhân vật ở một mình, đối diện với chính
mình giữa cõi vắng của cuộc đời.
Đọc Mình và Họ, có thể nhận ra chưa bao giờ Nguyễn Bình Phương mô tả
hiện thực một cách ừần trụi như thế. Nhân vật chính, Hiếu - một thanh niên
“đọc nhiều sách”, làm việc trong thư viện một cơ quan tại Hà Nội, sống ừong
một phòng trọ tồi tàn nhưng lại là thành viên một băng buôn thuốc phiện và là
người tình của Trang - chủ băng. Ông ngoại Hiếu là “trùm phỉ”, mẹ Hiếu đi tù
vì tội “buôn hàng quốc cấm’, anh Hiếu tham gia chiến tranh biên giới, bị lính
Trung Quốc bắt thả về nhưng hóa điên. Trong Mình và Họ, nhiều nhân vật khá
quan trọng nhưng không có tên riêng. Có hai lái xe, một Land Cruiser của
chuyến lên và một xe màu đen, loại bảy chỗ” của chuyến xuống, nhưng chỉ
được gọi chung là “lái xe”, được nhắc tới 217 lần và làn nào độc giả cũng phải
ngắc ngư hơn một giây để phân định được ai là ai. Vô số các nhân vật khác chỉ
được định danh bằng một đại từ, như “cậu”, “cô”, “chú”, “thím”, “anh”, “hắn”.
Nếu có “bác Lâm”, “bác Song”, thì “chú” chỉ là “chú”. Bạn của Hiếu, kẻ đi
cùng anh suốt chuyến “xe lên”, cũng chỉ được gọi là “hắn”. Trong nhóm những
nhân vật “vô danh” này, “họ” (hay “bọn họ”) và


15

“nó” gây cho độc giả nhiều hoang mang nhất. Và cuốn tiểu thuyết kết thúc
bằng sự từ chối phân biệt: “làm sao để phân biệt được lên với xuống”, “làm sao

để phân biệt được mình với họ?” [4; 302].
Đọc Mình và Họ, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên nhận xét trong lời bạt:
“Mình và Họ của Nguyễn Bình Phương là một cuốn tiểu thuyết xuất sắc bắt
con người đối diện với vực sâu của đời sống và hố thẳm của chính mình trên
những con đường quanh co của thực tại trong một thế giới của Mình và của Họ.
Theo tôi, đây là một trong những tác phẩm văn học đáng đọc nhất hiện nay”
[4].
Phân tích các sáng tác của Nguyễn Bình Phương, có thể nhận thấy quan
niệm rõ rệt của nhà văn: “không có sự sáng tạo, nhà văn sẽ tự tiêu diệt mình”.
Nỗi khắc khoải này đã được nhà văn thể hiện quyết liệt trong mỗi tác phẩm của
ông, ở nhiều thể loại và rõ rệt hơn trong tiểu thuyết. Đọc tiểu thuyết của
Nguyễn Bình Phương, người đọc khó có thể tìm thấy những đặc trưng chung về
những nhân vật. Sự đa dạng, bứt phá trong từng tác phẩm được xem như một
phương diện tài năng và là đặc tính cơ bản tạo nên phong cách của Nguyễn
Bình Phương. Cùng với phương thức huyền thoại, lối tư duy hậu hiện đại, tài
năng ừong việc tạo ra cho mình một thi pháp kết cấu riêng biệt, trong những
thành công nổi bật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương phải kể đến nghệ
thuật xây dựng nhân vật. Tiểu thuyết của ông chứa đựng và thể hiện sinh động
bao câu chuyện về con ngưòi và thời đại. Để nhận biết rõ hơn cách tân của
Nguyễn Bình Phương tiên phương diện này, trong phần tiếp theo của chương 1
chúng tôi tập trung phân tích các loại hình nhân vật tiểu thuyết trong các sáng
tác tiêu biểu của nhà văn.


16

1.2. Loại hình nhân yật tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
1.2.1. Nhân vật dị biệt
Từ sau đổi mới (1986), kiểu nhân vật dị biệt xuất hiện nhiều trong tiểu
thuyết Việt Nam. Có thể kể đến hình tượng người đàn bà câm trong Nổi buồn

chiến tranh của Bảo Ninh. Các nhân vật trong Thiên sứ của Phạm Thị Hoài,
Cõi người rung chuông tận thể của Hồ Anh Thái, Giàn thiêu của Võ Thị Hảo,
Thiên thần sám hối của Tạ Duy Anh.... Đặc biệt, kiểu nhân vật dị biệt xuất hiện
dày đặc trong các tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương như Người đi vẳng,
Thoạt kỳ thủy, Ngồi ... và gần đây nhất là Mình và Họ. Nguyễn Bình Phương
dường như thường trực một cảm quan nghệ thuật và đầy ý thức trong việc tạo
ra những nhân vật dị biệt cho tiểu thuyết. Chúng đông đảo về số lượng và
phong phú ở các dạng thức biểu hiện. Chính ở đây, sự khai thác đời sống trong
tiểu thuyết của ông luôn được thực hiện phong phú hơn, ở những chân trời
khác.
Nhân vật dị biệt được hiểu là những người (nhân vật) sinh ra là người
nhưng có những bất thường (xét cả mặt tiêu cực lẫn tích cực) về thể xác và tinh
thần. Tính, Hưng, ông Phước, ông Phùng {Thoạt kỳ thủy), Khẩn (Ngồi), Sơn
{Người đi vắng), Hiếu {Mình và Họ)... là những thí dụ cụ thể. Một thể xác
“méo mó”, một thế giới tinh thần với bao mạch ngầm rạn vỡ, kì dị. Nhân vật dị
biệt của Nguyễn Bình Phương không phải mặt trái, mà chỉ là góc khuất của
cuộc đời mênh mông, hỗn độn, xô bồ. Có thể nói, bằng kiểu nhân vật dị biệt,
Nguyễn Bình Phương đã tập trung xới lật ngõ ngách tính cách và thế giới tâm
tư của con người, lột tả tận cùng sự nhếch nhác, bê tha, sự đau khổ của cõi
người. Sư khai thác nhân vật dị biệt thể hiện tính chất đa dạng trong cái nhìn và
quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Bình Phương. Đằng sau thế
giới nhân vật khổ đau dị kì là một cái nhìn thẫm đẫm tính chất nhân


17

văn của nhà văn. Đây cũng là một điểm tựa quan trọng tạo nên chiều sâu và sức
sống cho các sáng tác của Nguyễn Bình Phưomg.
Trong Thoạt kỳ thủy, nhân vật “dị biệt” chiếm số luợng đông đảo. Hung bị
tâm thần do dư chấn của chiến tranh. Ồng Phùng bị nhiễm ảo tưởng về tài năng

của mình ở mức mất kiểm soát về tinh thần. Nhân vật dị biệt điển hình trong
Thoạt kỳ thủy là Tính. Tính sinh ra đã có ngoại hình kì dị: “Tóc dài, lưng dài,
chân ngắn. Lông tay đỏ hồng, ngón không phân đốt (...). Tai nhỏ, mồm rộng,
răng cải mả” [2; tr.8]. Khi mẹ Tính mang thai Tính, người cha ừong cơn nghiện
rượu đã đạp chúng bụng bà song bà không sảy thai. Tính vẫn ra đời, nhưng đã
mang một phàn tâm hồn khuyết tật trong một môi trường tha hóa. Từ bé Tính
đã sợ hãi ánh ừăng, chỉ thích theo ông Điện đi chọc tiết lợn, cầm kéo đâm vào
cổ thằng bé điên tới chết để thấy máu phun ra thành những tia ở yết hàu của
nó... Khi Tính chết thì “người Tính nổi rõ, xanh mét, kì quái” [2; tr.102]. Tính
chủ yếu sống với dục vọng hủy diệt. Dục vọng xuất hiện ngay từ thủơ ấu thơ,
thể hiện qua thú vui duy nhất của Tính là giết kiến, giết công cống. Dục vọng
đó lớn dần dưới sự dạy dỗ của các ông thày: ông Điện và Hưng. Bài học đầu
đời mà nó nhận được từ ông Điện là cách cầm dao xọc vào cổ lợn càng làm
sống dậy trong Tính tính hiếu sát: “Tính nghe tiếng dao đi sừn sựt. Ông Điện
vặn dao nghiêng, tiết phun đỏ rực. Tính ngửa cổ ra sau tránh tiết bắn vào, thấy
mặt ông Điện thản nhiên như không ... Tính nhìn dao nuốt nước bọt” [2; tr.24],
“Càng về sau ông Điện càng ít gọi Tính đi theo mình vì ông để ý thấy Tính
nhìn cảnh chọc tiết lợn với vẻ ham muốn đáng nghi. Mắt Tính càng lớn càng
vằn lên” [2; tr.25]. Ham muốn tàn sát ấy của Tính còn bị ảnh hưởng từ Hưng một kẻ “điên” do chấn thương bởi chiến tranh: “Tính sang Hưng chơi. Hưng kể
chuyện cắn cổ Mỹ xong, nói về cảnh đốt trại tù binh, mồm há hốc. Hưng tả: lửa bốc cao căm hờn, bốc từ bẹn đổ lên. Tính nhìn Hưng chằm chằm” [2; tr.35].
Hưng đã mớm cho Tính chất du


18

đãng, bất phục của một kẻ đào ngũ, kích động ham muốn tàn sát vốn đã ngùn
ngụt trong Tính. Tính nhìn yết hàu lợn và cả con người với vẻ thèm thuồng.
Khao khát chọc tiết tồn tại cả ừong con mơ. Tính luôn bị ám ảnh bởi con dao
chọc tiết lợn, thích máu, có những hành động phi lí: “Đêm (...) Tính vùng dậy,
xô cửa ra sân, nhặt đá đáp lên trời” [2; tr.26]. Trong khung cảnh đêm khuya khi

mọi vật đã chìm vào giấc ngủ Tính lại trằn trọc không ngủ được. Trong người
Tính tràn đầy cảm giác bứt rứt đến điên loạn muốn làm một cái gì đó để giải
thoát. Và Tính đã đáp đá lên trời như thế. Tính mang một tâm hồn khuyết tật.
Trong phần nhân tính bị hủy hoại, Nguyễn Bình Phương đã nhìn thấu nỗi đau
trong tâm hồn của con người và sự giày vò về tinh thần của họ.
Thế giới nhân vật tiểu thuyết Người đi vẳng phần lớn là những kẻ “lệch
lạc” về tinh thần. Người đi vẳng phơi bày một xã hội vắng bóng sự gần gũi
mang tính người. Mỗi con người là một cá thể cô độc, tự ẩn náu và chìm khuất
trong thế giới hỗn độn, u sầu. Hoàn không thể vượt qua những ham muốn bản
năng để đến cuối cùng phải bỏ lại cha mẹ, bỏ lại chồng để bước vào một thế
giới mộng ảo. Chìm trong cuộc sống thực vật, không còn là con người bình
thường, Hoàn mãi mãi mang theo những bí mật về tội lỗi, sai trái của mình vào
cõi chết để lại Cương luôn dằn vặt về tội lỗi không có thực - đã gây nên tai nạn
cho Hoàn. Cũng vì ám ảnh này khiến Cương rơi vào cõi ảo, đánh mất bản thân
từ sau tai nạn của Hoàn. Trong thế giới của Người đi vẳng, con người “lệch
lạc” về tinh thần đã tự đánh mất dần đi tình người, sống trong cõi đời như sống
ừên cõi vắng. Đây cũng là điều lí giải tại sao đọc tiểu thuyết của Nguyễn Bình
Phương thường có cảm giác vừa khốc liệt, vừa u buồn.
Trong Mình và Họ, người đọc bắt gặp sự ám ảnh không nguôi của Thuận
sau cuộc chiến. Khi trở về nhà, anh điên dại đến mức đập tất cả những gì liên
quan đến Tàu: “Anh dị ứng với tất cả những gì liên quan tới họ. Hành động đầu
tiên là anh đập vỡ cả cái phích màu đỏ có in hình con công xòe đuôi, sau


19

đó tới cái quạt Li - fan, nồi cơm điện cũng bị đập méo mó” [4; tr. 164], Thuận
trở thành người điên lúc tỉnh lúc mơ. Đôi mắt của Thuận khi thì đỏ rực, khi thì
ừắng hớn, khi thì xám ngắt và rồi ừong những ngày tháng cuối đời là những
chuyến lang thang của một “người điên”. Rõ ràng những con người bước ra từ

bất cứ cuộc chiến nào, khi ừở về thời bình họ sẽ không thể sống như một người
bình thường.
Thiết dựng thế giới nhân vật dị biệt đa dạng, Nguyễn Bình Phương đã
thực sự làm mới tiểu thuyết so với truyền thống. Dưới một cái nhìn nghệ thuật
mới mẻ, nhân vật tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương hiện ra với nhiều thể dạng
phong phú: từ trẻ thành già, chết già, già thành trẻ, biến hình, chuyển kiếp, đột
ngột xuất hiện hay biến mất..., tất cả được nhà văn phủ lên một lớp màu huyễn
hoặc, huyền ảo không giống cuộc đời thường. Phóng chiếu cái nhìn nghệ thuật
độc đáo và sự khai thác đa chiều đời sống, Nguyễn Bình Phương sáng tạo hàng
loạt kiểu nhân vật dị biệt để cùng người đọc suy nghĩ nhiều hơn về cuộc đời, về
tất cả sự hỗn loạn và u buồn của nó và về cả những khát khao vượt thoát ra
khỏi thế giới ấy với tất cả những niềm tin sau cùng về nhân tính.
1.2.2. Nhân vât cô đơn
Với Nguyễn Bình Phương, cô đơn là bản chất của con người hiện đại.
Con người cô đơn là những con người có nhận thức về bản ngã, họ thường
sống nội tâm sống với quá khứ và ẩn ức tinh thần. Con người không chỉ sống
một mình mới cô đơn mà sống giữa “thế giới người” vẫn cô đơn, dường như cô
đơn đã trở thành bản ngã tự thân. Trong tiểu thuyết đương đại, kiểu nhân vật cô
đơn xuất hiện khá nhiều trong tiểu thuyết của các nhà văn tiên phong như Bảo
Ninh, Tạ Duy Anh, Châu Diên, Hồ Anh Thái, Thuận... Ở Nguyễn Bình Phương
phần lớn nhân vật hay con người cô đơn do tác động của hoàn cảnh nhưng
cũng có con người “bị cô đơn” - “tự cô đơn”.


20

Đọc Người đi vẳng, thấy nhà văn chủ trương xây dựng thế giới nhân vật
cô đơn. Ở đây, cô đơn như là một định mệnh đối với con người. Nỗi cô đơn
vừa là sự khẳng định sự tồn tại của con người trước cuộc đời vừa là sự bủa vây,
bao bọc bóp nghẹt cuộc sống của con người. Cô đơn trở thảnh một chướng ngại

ngăn cách sự hòa hợp của con người. Đối với Hoàn, cô đơn là một bản năng
bẩm sinh - “tự cô đơn”, từ khi sinh ra Hoàn đã là một “con bé cô đơn tuyệt
vọng, xung quanh nó không một ai, không một sự dìu dắt” [1; tr.132]. Tâm hồn
Hoàn là một cõi mênh mông, tịch lặng. Kết hôn với Thắng, ngoại tình với
Cương, tai nạn và sự giam cầm ừong nỗi cô đơn tuyệt vọng. Hoàn khát khao
dùng tình yêu để khỏa lấp nỗi trống vắng nhưng khát khao ấy không thể thành
thực. Chính bởi vậy mà ừong những giấc mơ Hoàn luôn khát vọng có được sự
che chở, thấu hiểu. Thắng cũng là một người cô đơn như một định mệnh, cô
đơn bẩm sinh. Là chồng của Hoàn nhưng anh không thể hiểu nổi vợ mình. Với
anh, Hoàn vừa gần gũi thân thiết nhưng lại đầy bí ẩn xa xôi: “Đã có lúc Thắng
tưởng là đã hiểu được Hoàn nhưng cuối cùng anh nhận ra rằng không phải thế,
Hoàn là một tảng đá khép kín không có cửa, chính vì điều đó mà thời gian gàn
đây vợ chồng Thắng xa lạ với nhau” [1; tr.98]. Mặt khác, trở về từ chiến tranh,
anh bị ám ảnh bởi chiến tranh và sống cô đơn bên cạnh người vợ không thể
hiểu mình. Hoàn thấy Thắng lúc nào “cũng âm thầm nuốt tất cả mọi thứ vào
người, không chịu nhả ra cái gì... Bí ẩn đến khó chịu” [1; tr.32]. Thắng luôn là
người giải thích cho họ hàng khi Hoàn không chịu về quê, vì Hoàn sợ nơi
Thắng sinh ra và lớn lên, ghét những người thân của anh, Thắng phải sống âm
thầm chăm sóc Hoàn khi cô bị tai nạn. Sau tai nạn của Hoàn, Thắng ữở nên suy
sụp, hoài nghi ở cuộc sống, luôn bị ám ảnh bởi tội lỗi vì đã bắn nhầm đồng đội,
anh có linh cảm sẽ có tai họa khôn lường giáng xuống, những trăn trở suy nghĩ
ấy không thể chia sẻ với ai. Đối với gia đình thì như vậy còn đối với xã hội, anh
chán nản cảnh sống bon chen, tranh giành nên anh


×