Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.74 KB, 31 trang )

Đề tài: NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG
MẠI CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lí do chọn đề tài
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay vấn đề về tranh chấp

thương mại là một vấn đề không thể tránh khỏi giữa các doanh nghiệp, các nhà
đầu tư, hiện nay vấn đề này có rất nhiều những cách giải quyết khác nhau như
giải quyết thông qua con đường thương lượng, giải quyết thông qua hòa giải,
bằng Tòa án, bằng trọng tài thương mại…
Một trong những cách thức rất hiệu quả hiện nay mà các bên có thể lựa
chọn đó là giải quyết thông qua trọng tài thương mại. Trên thế giới việc giải
quyết các tranh chấp thương mại thông qua hình thức trọng tài đã xuất hiện từ rất
lâu và ngày càng được các bên trong tranh chấp thương mại ưu tiên lựa chọn khi
có tranh chấp xảy ra, ở Việt Nam các trung tâm trọng tài thương mại cũng đã
xuất hiện từ khá lâu tuy nhiên hiện nay việc lựa chọn giải quyết tranh chấp
thương mại thông qua hình thức này ở Việt Nam còn khá khiêm tốn, các bên
thường lựa chọn hình thức giải quyết thông qua con đường Tòa án. Việc này
không chỉ ảnh hưởng đến uy tín của các bên trong tranh chấp thương mại bởi
việc giải quyết các tranh chấp thông qua Tòa án thường phải diễn ra theo nguyên
tắc công khai mà còn kéo theo đó là gánh nặng cho Tòa án khi phải giải quyết
quá nhiều các vụ việc phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại nói riêng
và các tranh chấp trong đời sống xã hội nói chung trong khi đó các trung tâm
trọng tài ra đời từ lâu lại không có việc làm, nhiều trung tâm dù đã được thành
lập rất lâu nhưng thường rơi vào tình trạng nhàn rỗi.


Ở nước tà từ năm 2003 pháp lệnh về trọng tài thương mại đã ra đời tiếp
sau đó là luật trọng tài thương mại năm 2010 được hướng dẫn tại Nghị định số


63/2011/NĐ-CP Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật
trọng tài thương mại năm 2010 và Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP Nghị quyết
hướng dẫn luật trọng tài thương mại đã đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của
nền pháp luật trọng tài Việt nam hướng đến những chuẩn mực chung của thế
giới. Những quy định này có những đóng góp to lớn cho việc đặt nền móng hình
thành và phát triển hệ thống trọng tài. Mặc dù vậy, hệ thống quy định hiện hành
về trọng tài thường mại vẫn còn những bất cập, làm cho hệ thống trọng tài chưa
trở thành phương thức hấp dẫn và hiệu quả để các bên lựa chọn giải quyết các
tranh chấp liên quan.
Chính vì những lí do trên đây mà em quyết định chọn đề tài “Nâng cao
hiệu quả giải quyết tranh chấp thương mại bằng hình thức trọng tài thương
mại” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2.

Tình hình nghiên cứu
Hiện nay vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại thông qua hình thức

trọng tài cũng đã có một số đề tài, bài viết, công trình nghiên cứu có liên quan
đến vấn đề trọng tài thương mại của các tác giả như: Đề tài “giải pháp nâng cao
vai trò của trọng tài thương mại trong các tranh chấp kinh tế” của Tiến sĩ Phan
Văn Tính_Viện trưởng viện Rised; đề tài “Sự hỗ trợ của Tòa án đối với giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại” của Tống Văn Huyền. Ngoài ra
còn một số bài viết liên quan như: bài viết “làm thế nào để trọng tài thương mại
Việt Nam làm chỗ dựa của doanh nghiệp” của tác giả Đỗ Văn Đại; bài viết “Tại
sao các doanh nghiệp Việt Nam không "mặn mà" với việc giải quyết tranh chấp
hợp đồng thương mại bằng trọng tài” của Thạc sĩ, Luật sư Phan Thông Anh;


“giải quyết tranh chấp bằng trọng tài: Thực tiễn tại Việt Nam” của PGS,TS Trần
Thị Lan Hương đăng trên tạp chí tài chính số 4/2014;…

3.

Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài mà em lựa chọn là hoạt động giải quyết

tranh chấp thương mại thông qua hình thức trọng tài tại Việt Nam, thực trạng
hoạt động và hướng gải quyết.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là một số quy định của pháp luật về trọng
tài thương mại và thực trạng hoạt động của một số trung tâm trọng tài ở nước ta
hiện nay.
4.

Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài tập chung nghiên cứu về ba nội dung chính
Thứ nhất, nêu được các vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp thương

mại bằng trọng tài thương mại.
Thứ hai, nêu lên được thực trạng giải quyết tranh chấp thương mại của
trọng tài thương mại.
Thứ ba, nêu lên được một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết
tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại.
5.

Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài này em đã sử dụng một phương pháp nghiên cứu

như: Phương pháp thống kế, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, tổng
hợp…



6.

Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận thì phần nội dung của đề tài này

được chia thành ba chương chính:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp thương mại
bằng trọng tài thương mại;
Chương 2: Thực trạng hoạt động của trọng tài thương mại ở nước ta hiện
nay.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trong giải quyết tranh
chấp thương mại của trọng tài thương mại.

PHẦN NỘI DUNG


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1.1

Khái niệm tranh chấp thương mại
Khái niệm về tranh chấp thương mại lần đầu tiên được đề cập đến trong

Điều 238 Luật thương mại năm 1997 theo quy định tại điều luật này thì “Tranh
chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại”. Tuy nhiên khái niệm “hoạt
động thương mại” theo quy định của luật thương mại năm 1997 lại có nội hàm
rất hẹp, quan niệm về tranh chấp thương mại và hoạt động thương mại năm 1997
đã loại bỏ nhiều tranh chấp không được coi là tranh chấp thương mại mặc dù xét
về bản chất hoàn toàn có thể coi là tranh chấp thương mại trong ngữ cảnh đương

đại. Điều này đã tạo ra những xung đột pháp luật giữa pháp luật quốc gia với luật
quôc tế.
Luật thương mại được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 06 năm 2005 thì
không đưa ra khái niệm tranh chấp thương mại, tuy nhiên dựa vào Điều 29 Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi bổ xung năm 2011 quy định về các tranh
chấp về kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án gồm có:
+ Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao
gồm: Mua bán hàng hóa; Cung ứng dịch vụ; Phân phối; Đại diện, đại lý; Ký
gửi;Thuê, cho thuê, thuê mua; Xây dựng, tư vấn, kỹ thuật; Vận chuyển hàng hóa,
hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa, vận chuyển hàng
hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; Mua bán cổ phiếu, trái
phiếu và giấy tờ có giá khác; Đầu tư, tài chính, ngân hàng; Bảo hiểm; Thăm dò,
khai thác.


+ Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá
nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
+ Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành
viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp
nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
+ Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy
định.
Mặc dù Bộ luật tố tụng dân sự 2004 không sử dụng thuật ngữ “tranh chấp
thương mại” mà sử dụng thuật ngữ “tranh chấp về kinh doanh, thương mại”
nhưng nội dung của các tranh chấp về kinh doanh, thương mại được liệt kê tại
Điều này thực chất là các tranh chấp thương mại theo hướng tiếp cận của Luật
thương mại năm 2005.
Từ nội dung được xem xét trên đây ta có thể rút ra định nghĩa về tranh
chấp thương mại như sau: “tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất

đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện
các hoạt động thương mại”.
1.2 Khái niệm và đặc điểm của trọng tài thương
1.2.1 Lịch sử hình thành trọng tài thương mại

mại

“Trọng tài kinh tế nhà nước:
Trọng tài kinh tế nhà nước là mô hình trọng tài do Nhà nước thành lập ra,
có chức năng giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng kinh tế giữa
các doanh nghiệp nhà nước. Mô hình này được xác lập bằng Nghị định 20/TTg
ngày 14/04/1960, trước khi được nâng cấp tại Pháp lệnh Trọng tài kinh tế nhà
nước năm 1990, theo đó, trọng tài được tổ chức ở ba cấp, đó là trọng tài kinh tế
nhà nước, trọng tài kinh tế tỉnh và trọng tài kinh tế huyện. Như vậy, thực chất,
trọng tài kinh tế nhà nước là cơ quan của Nhà nước, vừa thực hiện chức năng


quản lý kinh tế, vừa thực hiện chức năng xét xử của Tòa án nhằm giải quyết các
tranh chấp kinh tế giữa các tổ chức kinh tế nhà nước, chưa thể hiện được vai trò
trọng tài. Trong khi đó toà án nhân dân thời kỳ này không có thẩm quyền giải
quyết các loại tranh chấp kinh tế mà chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
dân sự giữa các cá nhân với nhau, chủ yếu là các vấn đề hôn nhân và gia đình
hoặc tranh chấp liên quan đến hàng hoá có mục đích để sử dụng cá nhân và tiêu
dùng. Mô hình trọng tài kinh tế tồn tại đến năm 1993 và bị thay thế bởi hệ thống
Tòa án kinh tế theo Luật sửa đổi một số điều của Luật Tổ chức Tòa án năm 1993.
Bắt đầu từ thời điểm này, các Tòa án kinh tế sẽ giải quyết các tranh chấp kinh tế.
Trọng tài kinh tế phi nhà nước:
Đối với trọng tài phi nhà nước, tồn tại hai mô hình khác nhau. Mô hình
thứ nhất ra đời từ năm 1963 bằng Nghị định số 59/CP ngày 30/4/1963 của Hội
đồng Chính phủ về việc thành lập Hội đồng Trọng tài ngoại thương. Tiếp sau đó,

ngày 05/10/1964, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 153/CP về việc
thành lập Hội đồng Trọng tài hàng hải. Đến ngày 28/4/1993, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quyết định số 204/TTg về việc thành lập Trung tâm Trọng tài
Quốc tế Việt Nam (VIAC) bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam, trên cơ sở hợp nhất Hội đồng Trọng tài ngoại thương và Hội đồng Trọng
tài thương mại hàng hải. Mô hình trọng tài thứ hai là các trung tâm trọng tài kinh
tế được thành lập theo Nghị định số 116/CP ngày 05/09/1994 của Chính phủ. Có
05 trung tâm trọng tài được thành lập theo Nghị định này (02 Trung tâm tại thành
phố Hà Nội, 01 Trung tâm tại thành phố Hồ Chí Minh, 01 Trung tâm tại Cần Thơ
và 01 Trung tâm tại Bắc Giang).” 1

1 Theo bài viết “Đặc sản tuyên truyền luật trọng tài thương mại”, Bộ tư pháp


Hiện nay các trung tâm trọng tại đã được thành lập ở ba thành phố trực
thuộc trung ương bao gồm 2 trung tâm ở Hà Nội , 4 trung tâm tại Thành phố Hồ
Chí Minh và 1 trung tâm tại Cần Thơ.
1.2.2

Khái niệm về trọng tài thương mại
Khái niệm về trọng tài thương mại lần đầu tiên được đề cập đến trong

pháp lệnh về trọng tài thương mại năm 2003 khi đó trọng tài thương mại được
hiểu là “trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh
trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và tiến hành theo trình tự,
thủ tục do pháp lệnh này quy định”.
Đến ngày 17 tháng 6 năm 2010 Quốc hội đã ban hành Luật trọng tài
thương mại năm 2010. Luật trọng tài thương mại 2010 cũng đã đưa ra khái niệm
về trọng tài thương mại. Theo đó khái niệm về trọng tài thương mại được quy
định trong Luật trọng tài thương mại 2010 và được định nghĩa tại Khoản 1 Điều

3 Luật trọng tài thương mại như sau: “Trọng tài thương mại là phương thức giải
quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của
luật này”.
1.2.3

Đặc điểm của trọng tài thương mại
Cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là sự kết hợp giữa hai yếu tố

thỏa thuận và tài phán
Cụ thể, thỏa thuận làm tiền đề cho phán quyết và không thể có phán quyết
trọng tài thoát ly những yếu tố đã thỏa thuận. Bởi vậy, về nguyên tắc, thẩm
quyền của trọng tài không bị giới hạn bởi pháp luật; các đương sự có thể lựa
chọn bất kỳ lúc nào, bất kỳ trọng tài vụ việc hoặc trọng tài quy chế nào trên thế
giới để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, một khi đã được thỏa thuận thì phán
quyết của trọng tài có tính chất tài phán và bắt buộc các bên phải tuân thủ.


Đương sự được tự định đoạt
Phương thức trọng tài bảo đảm quyền tự định đoạt của các đương sự cao
hơn so với phương thức Tòa án, thể hiện cơ bản là các đương sự trong tố tụng
trọng tài có quyền lựa chọn trọng tài viên, địa điểm giải quyết tranh chấp, quy
tắc tố tụng, luật áp dụng đối với tranh chấp…
Phán quyết trọng tài là chung thẩm
Phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm và không thể kháng cáo trước
bất kỳ cơ quan, tổ chức nào (trừ trường hợp rất đặc biệt liên quan đến hủy phán
quyết trọng tài). Đặc điểm này giúp trọng tài có điều kiện thuận lợi trong việc
giải quyết nhanh chóng, dứt điểm các tranh chấp thương mại.
Có sự hỗ trợ của Tòa án
Pháp luật các nước nhìn chung, trong đó có Việt Nam nói riêng, đều quy
định cơ chế hỗ trợ từ phía Tòa án đối với tổ chức và hoạt động của trọng tài.

Thông qua trình tự công nhận và cho thi hành, Tòa án đảm bảo thực thi trên thực
tế những quyết định của trọng tài khi một hoặc các bên đương sự không tự
nguyện thực hiện (tại Việt Nam, phán quyết của trọng tài Việt Nam đương nhiên
có hiệu lực thi hành). Ngoài ra, Tòa án còn có thể hỗ trợ trọng tài ở các nội dung
khác, như quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, kê biên tài sản, bảo
toàn chứng cứ, cấm hoặc buộc đương sự thực hiện một số hành vi nhất định...
Trọng tài thương mại với tư cách là cơ quan giải quyết tranh chấp. Trọng
tài được hiểu là một cơ quan tài phán có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
phát sinh trong hoạt động thương mại. Ở các nước có nền kinh tế thị trường,
trọng tài được thừa nhận là cơ quan tài phán độc lập tồn tại song song với tòa án.
Trong trường hợp tranh chấp xảy ra giữa các bên thỏa thuận đưa ra giải quyết tại
trọng tài và thỏa thuận này có hiệu lực mà sau đó các bên lại đưa đơn yêu cầu tòa


án giải quyết thì tòa án sẽ từ chối thụ lý vụ việc không thuộc thẩm quyền của
mình. Tuy nhiên xuất phát từ bản chất vốn có, trọng tài có những đặc trưng khác
hẳn với tòa án thể hiện ở những điểm sau:
Trọng tài là tổ chức xã hội nghề nghiệp, không do Nhà nước thành lập mà
do các trọng tài viên thành lập để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh
vực kinh doanh thương mại. Do đó khi xét xử, trọng tài không nhân danh Nhà
nước mà nhân danh “quyền lực tư” để đưa ra phán quyết.
Trọng tài không có thẩm quyền đương nhiên mà xuất phát từ sự thỏa thuận
giữa các bên chủ thể tranh chấp đối với trọng tài, có nghĩa là chính các chủ thể
tranh chấp với việc lựa chọn trọng tài giải quyết tranh chấp cho mình đã trao
quyền lực xét xử cho trọng tài.
Phán quyết của trọng tài vừa có tính tài phán của cơ quan xét xử có thẩm
quyền, vừa thể hiện ý chí, sự thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên trọng tài không
phải là cơ quan xét xử nhà nước cho nên phán quyết của trọng tài không mang
tính quyền lực nhà nước. Phán quyết chỉ có giá trị bắt buộc đối với các bên tranh
chấp mà không có giá trị bắt buộc với bên thứ ba. Như vậy, với tư cách là một cơ

quan tài phán, trọng tài tồn tại độc lập, song song với tòa án và có thẩm quyền
giải quyết các tranh chấp khi được các chủ thể tranh chấp lựa chọn.

1.3

Các hình thức của Trọng tài thương mại
Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức, đó là: trọng tài vụ việc

(trọng tài ad-hoc) và trọng tài thường trực.
1.3.1

Trọng tài vụ việc


Trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa
thuận thành lập để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng tài sẽ chấm dứt
tồn tại khi giải quyết xong vụ tranh chấp.
Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài xuất hiện sớm nhất, được sử dụng
rộng rãi ở các nước trên thế giới. Pháp luật trọng tài của các nước trên thế giới
đều ghi nhận sự tồn tại của hình thức trọng tài này. Tuy nhiên quy định của các
nước về hình thức trọng tài này cũng ở mức độ sâu, rộng khác nhau.
Bản chất của trọng tài vụ việc
Thứ nhất, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và
tự chấm dứt hoạt động khi giải quyết xong tranh chấp.
Tính chất vụ việc hay lâm thời của hình thức trọng tài này thể hiện ở chỗ
trọng tài chỉ được thành lập theo thỏa thuận của các bên tranh chấp để giải quyết
vụ tranh chấp cụ thể giữa các bên. Hình thức trọng tài này chỉ tồn tại và hoạt
động trong thời gian giải quyết tranh chấp giữa các bên, khi giải quyết xong vụ
tranh chấp thì trọng tài tự chấm rứt hoạt động.
Thứ hai, trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy

điều hành và không có danh sách trọng tài viên riêng.
Trọng tài viên được các bên tự lựa chọn hoặc chỉ định có thể là người có
tên trong danh sách trọng tài hoặc ngoài danh sách trọng tài viên của bất cứ trung
tâm trọng tài nào.
Thứ ba, Trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng riêng cho mình
Trọng tài vụ việc chỉ được các bên lựa chọn thành lập khi phát sinh tranh
chấp nên quy tắc tố tụng để giải quyết tranh chấp phải được các bên thỏa thuận
xây dựng. Tuy nhiên để tránh lãng phí thời gian cũng như công sức đầu tư vào


việc xây dựng quy tắc tố tụng, các bên có thể lựa chọn các quy tắc phổ biến, mà
thông thường là quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài uy tín ở trong nước và
quốc tế.
1.3.2. Trọng tài thường trực
Ở các nước trên thế giới trọng tài thường tổ chức dưới những hình thức đa
dạng như: các trung tâm trọng tài ( Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore, Trung
tâm trọng tài quốc tế Hồng Kông), các hiệp hội trọng tài (Hiệp hội trọng tài Hoa
Kỳ, Hiệp hội trọng tài Nhật Bản) hay các viện trọng tài ( Viện trọng tài
Stockholm-Thụy Điển) nhưng chủ yếu là dưới dạng các trung tâm trọng tài.
Về bản chất hầu hết trọng tài các nước trên thế giới đều tồn tại dưới hình
thức trọng tài phi chính phủ, không nằm trong bộ máy nhà nước, tuy nhiên vẫn
có một số khác biệt trong pháp luật trọng tài một số nước châu Á như: Trung
Quốc, Thái Lan. Ở Trung Quốc, các ủy ban trọng tài hợp đồng kinh tế là những
cơ quan nhà nước trực cục quản lý hành chính công thương các cấp. Ở Thái Lan
thì trực thuộc Bộ tư pháp.
Theo pháp luật Việt Nam, trọng tài thường trực được tổ chức dưới dạng các
trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài là tổ chức phi Chính phủ có tư cách pháp
nhân, có con dấu, có tài khoản riêng và trụ sở giao dịch ổn định.
Đặc trưng của trung tâm trọng tài này là:
Thứ nhất, các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, không nằm

trong hệ thống cơ quan nhà nước
Thứ hai, các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, tồn tại độc lập với
nhau.


+ Các trung tâm trọng tài thỏa mãn đầy đủ các điều kiện của pháp nhân
được quy định tại Điều 84 Bộ luật dân sự năm 2005 bao gồm:
+ Được thành lập hợp pháp;
+ Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
+ Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng
tài sản đó;
+ Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập
Thứ ba, tổ chức ở các trung tâm trọng tài rất gọn nhẹ.
Cơ cấu tổ chức của các trung tâm trọng tài gồm có ban điều hành và các
trọng tài viên của trung tâm.
Ban điều hành thì gồm có chủ tịch, một hoặc các phó chủ tịch của trung
tâm trọng tài và có thể có tổng thư ký của trung tâm trọng tài do chủ tịch trung
tâm trọng tài cử.
Bên cạnh ban điều hành thì các trung tâm trọng tài tham gia vào việc giải
quyết tranh chấp khi được các bên tranh chấp chọn hoặc được chỉ định.
Thứ tư, mỗi trung tâm trọng tài tự lựa chọn lĩnh vực hoạt động và có quy
tắc tố tụng riêng, việc lựa chọn lĩnh vực hoạt động của các trung tâm trọng tài là
hoàn toàn phụ thuộc vào đội ngũ trọng tài viên. Mỗi trung tâm trọng tài đều có
điều lệ riêng, đặc biệt là quy tắc tố tụng riêng, được xây dựng dựa vào cơ cấu đặc
thù về tổ chức, hoạt động của trung tâm và không trái với các quy định của pháp
luật trọng tài thương mại.
Thứ năm, hoạt động xét xử của các trung tâm trọng tài được tiến hành bởi
các trọng tài viên của trung tâm.



1.4

Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
Các nguyên tắc khi giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài được

quy định tại Điều 4 Luật trọng tài thương mại 2010 bao gồm các nguyên tắc sau
đây:
Một là, trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các bên nếu thỏa thuận
đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội.
Hai là, trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy
định của pháp luật.
Ba là, các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng
trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình.
Bốn là, giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không công
khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Năm là, phán quyết trọng tài là chung thẩm.
1.5 Điều kiện giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài

Các điều kiện để giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được quy định cụ thể
tại Điều 5 Luật trọng tài thương mại 2010 bao gồm các điều kiện sau:
Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thoả thuận
trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh
chấp.
Trường hợp một bên tham gia thoả thuận trọng tài là cá nhân chết hoặc
mất năng lực hành vi, thoả thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với người thừa kế
hoặc người đại diện theo pháp luật của người đó, trừ trường hợp các bên có thoả
thuận khác.
Trường hợp một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là tổ chức phải chấm
dứt hoạt động, bị phá sản, giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hoặc chuyển



đổi hình thức tổ chức, thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với tổ chức tiếp
nhận quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận
khác.
1.6 Ưu điểm khi lựa chọn giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài thương
mại
Việc giải quyết tranh chấp mềm dẻo, nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm
thời gian, chi phí cho các bên. Nếu như việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án phải
trải qua rất nhiều trình tự, thủ tục, phải đợi một thời gian nhất định, để giải quyết
xong một vụ tranh chấp có khi mất cả năm trời thì việc giải quyết tranh chấp
thông qua trọng tài các bên có thể tự do lựa chọn thủ tục, thời gian, địa điểm,
phương thức giải quyết tranh chấp theo phương thức tiện lợi, nhanh chóng, hiệu
quả nhất cho các bên trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Điều này có thể làm
giảm chi phí, thời gian và tăng hiệu quả cho quá trình giải quyết tranh chấp.
Các bên được lựa chọn trọng tài viên phù hợp với tính chất của vụ tranh
chấp, các trung tâm trọng tài hiện nay đã có số lượng trọng tài viên khá đông đảo
nhiều những trọng tài viên có kỹ năng giải quyết tranh chấp vững vàng bao gồm
cả kiến thức pháp lý, kiến thức xã hội, đội ngũ trọng tài đã dạng ở nhiều lĩnh vực
chuyên môn khác nhau có cả trọng tài viên trong nước và trọng tài viên người
nước ngoài
Đôi với các vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài các bên có thể lựa chọn
luật áp dụng, hoặc trong trường hợp các bên không có thoản thuận về luật áp
dụng thì Hội đồng trọng tài sẽ chọn luật phù hợp nhất với vụ tranh chấp để giải
quyết.
Trọng tài viên giải quyết tranh chấp một cách độc lập, vô tư, khách quan
phù hợp với quy định của pháp luật. Một hội đồng trọng tài có thể gồm một hoặc
ba trọng tài viên hoặc nhiều hơn nữa nếu các bên có yêu cầu. Một trọng tài viên



có thể do một bên chỉ định hoặc các bên thống nhất lựa chọn. Trong bất cứ
trường hợp nào thì trọng tài viên cũng phải độc lập, khách quan. Trọng tài viên là
người đứng ở giữa phân giải để đi đến một phán quyết công bằng, do đó không
được để mình bị ảnh hưởng bởi một bên tranh chấp (cho dù bên đó là bên đã chỉ
định mình) hoặc bất kỳ bên thứ ba nào khác. Trong một số trường hợp trọng tài
viên cũng có thể bị thay đổi như việc thay đối với các thành viên của Hội đồng
xét xử trong tố tụng Tòa án, việc thay đổi trọng tài viên được được ghi nhận
trong Khoản 1 Điều 42 Luật trọng tài thương mại năm 2010 và sẽ bị thay đổi
trong các trường hợp: Trọng tài viên là người thân thích hoặc là người đại diện
của một bên; Trọng tài viên có lợi ích liên quan trong vụ tranh chấp; Có căn cứ
rõ ràng cho thấy Trọng tài viên không vô tư, khách quan; Đã là hòa giải viên,
người đại diện, luật sư của bất cứ bên nào trước khi đưa vụ tranh chấp đó ra
giải quyết tại trọng tài, trừ trường hợp được các bên chấp thuận bằng văn bản,
trong quy tắc tố tụng riêng của các trung tâm trọng tài cũng luôn được thể hiện
vấn đề này.
Mặt khác, khi xét xử, trọng tài viên phải đánh giá tình tiết vụ việc, chứng
cứ, và luận điểm của các bên một cách ðầy ðủ, khách quan, vô tý, tránh những
nhận ðịnh chủ quan, cảm tính, vô cãn cứ. Ðể đảm bảo hiệu lực của tố tụng trọng
tài, trọng tài viên cũng phải tuân thủ đầy đủ các quy định pháp luật có liên quan
trong quá trình xét xử cũng như khi ra phán quyết. Nếu phán quyết của trọng tài
vi phạm pháp luật thì có thể bị hủy.
Trọng tài xét xử một cách công khai, các bên được giữ bí mật về vụ tranh
chấp, không ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp. Đây là một ưu điểm đáng
chú ý giữa trọng tài và Tòa án. Trong khi tố tụng Tòa án và bản án của tòa về
nguyên tắc được công khai thì tố tụng trọng tài và bản án trọng tài lại ngược lại.
Ngoại trừ chính các bên tham gia tranh chấp và hội động trọng tài cùng những
bên liên quan được các bên đồng ý thì không một ai khác được tham gia vào quá


trình xét xử trọng tài và quá trình xét xử trọng tài ra ngoài mà không được sự

đồng ý của bên còn lại. Bên cạnh đó, mỗi bên và hội đồng trọng tài cũng không
được tiết lộ bất kỳ thông tin gì về tranh chấp do vậy các thông tin về vụ tranh
chấp sẽ được giữ kín, uy tín, công việc kinh doanh của các bên không bị ảnh
hưởng, điều này là rất quan trọng bởi vì thông tin về vụ tranh chấp có thể làm
ảnh hưởng đến uy tín của các bên liên quan. Phán quyết trọng tài là bảo mật và
được giữ kín, không tiết lộ cho công chúng nếu các bên không có thỏa thuận
khác.
Phán quyết của trọng tài là phán quyết trung thẩm, có hiệu lực ngay,
không bị kháng cáo, kháng nghị, được cơ quan thi hành án thi hành như một bản
án dân sự. Trong khi các quyết định, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm có thể bị
kháng nghị, kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm, hoặc có thể bị xem xét lại theo
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm và cần phải có sự tham gia của nhiều bên khác
nhau thì các phán quyết của trọng tài lại rất linh động, đơn giản mang tính chung
thẩm tức là nó có giá trị pháp lý ngay đối với các bên, tính chung thẩm không chỉ
có giá trị ngay đối với các đương sự mà nó còn không bị chống án hay kháng
nghị…Tuy nó là một quyết định mang tính pháp lý như quyết định của Tòa án
nhưng nó cũng không dặt vấn đề cưỡng chế thi hành nên khi bên nào không
đồng ý với phán quyết của trọng tài cũng có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố hủy
phán quyết Trọng tài khi có căn cứ cho rằng phán quyết đó là vi phạm các quy
định của pháp Luật trọng tài thương mại.
Phán quyết trọng tài có hiệu lực không chỉ ở Việt Nam mà còn có hiệu lực
ở trên 150 quốc gia, vùng lãnh thổ có tham gia công ước Newyork năm 1958 về
thi hành phán quyết trọng tài mà Việt Nam đã tham gia công ước này năm 1995.
Việc gia nhập công ước nghĩa là bất kỳ phán quyết trọng tài nào tại bất kỳ nước
nào là thành viên công ước mà có một bên của phán quyết ở Việt Nam hoặc tài
sản ở Việt Nam thì đều có thể được Nhà nước Việt Nam công nhận và bảo hộ thi


hành. Ngược lại, bất kỳ phán quyết nào của trọng tài Việt Nam cũng có thể được
công nhận và cho thi hành ở bất kỳ nước thành viên nào của công ước.

Với những gì đã phân tích trên đây ta thấy việc giải quyết các tranh chấp
thương mại trong nền kinh tế thị trường hiện này bằng trọng tài thương mại là
một trong những phương pháp khá hữu hiệu, thể hiện nhiều ưu điểm so với một
số hình thức giải quyết tranh chấp khác mà các bên tranh chấp hoàn toàn có thể
lựa chọn để giải quyết khi có tranh chấp sảy ra.

Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG
MẠI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1 Tình hình hoạt động của trọng tài thương mại


So với Pháp lệnh về trọng tài thương mại năm 2003 Luật trọng tài thương
mại năm 2010 được Quốc hội ban hành ngày 17 tháng 6 năm 2010 có hiệu lực từ
ngày 01 tháng 01 năm 2011 cơ bản đã đáp ứng được những tồn tại hạn chế trong
pháp lệnh trước đây như các quy định về tiêu chuẩn trọng tài viên đã được mở
rộng đối tượng bao gồm cả cá nhân là người nước ngoài, cho phép trọng tài nước
ngoài được mở chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam, Luật cho phép các
Trung tâm trọng tài được ban hành quy tắc tố tụng trọng tài phù hợp với quy
định của Luật và đảm bảo đặc thù của mỗi Trung tâm để tăng thêm tính hấp dẫn
đối với các bên tranh chấp. Nâng cao vị thế của Trọng tài thông qua việc cho
phép Hội đồng Trọng tài được thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng, áp dụng
một số biện pháp khẩn cấp tạm thời. Hạn chế nguy cơ phán quyết của Trọng tài
bị Tòa án tuyên hủy bởi quy định không phù hợp của Pháp lệnh bằng việc đưa ra
các trường hợp mà phán quyết trọng tài bị hủy. Luật trọng tài thương mại cũng
đã thể hiện rõ nét mối quan hệ giữa Trọng tài với Toà án trong toàn bộ quá trình
giải quyết vụ tranh chấp của các bên: Luật đã đưa ra một loạt các quy định mới
nhằm xác định mối quan hệ pháp lý quan trọng này: xác định rõ Tòa án có thẩm
quyền đối với hoạt động trọng tài và liệt kê 8 nội dung thẩm quyền của Toà án
trong quan hệ với Trọng tài bao gồm: thu thập chứng cứ, lưu giữ chứng cứ; đăng
ký phán quyết trọng tài; tuyên thoả thuận trọng tài vô hiệu; xác định thẩm quyền

của Hội đồng trọng tài; giải quyết và yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài; bảo đảm
sự có mặt của người làm chứng; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; chỉ định,
thay đổi trọng tài viên. Quy định tại các điều luật khác liên quan đã cụ thể hoá
nội dung những thẩm quyền này của Toà án. Quy định này đã khắc phục được
những bất cập của Pháp lệnh trọng tài thương mại.
Đối với các nước trên thế giới việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng
hình thức trọng tài đã rất phổ biến bởi lẽ đây là phương pháp giải quyết nhanh
chóng, mềm dẻo, linh hoạt, giúp cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư giảm


nhiều thời gian, công sức chi phí cho việc giải quyết tranh chấp của mình đảm
bảo quyền tự định đoạt của các bên. Ở Việt Nam quốc hội đã ban hành Luật
trọng tài thương mại, theo đó luật này ghi nhận chủ chương mở các hình thức
giải quyết trong tranh chấp, các hoạt động trong kinh doanh, thương mại và một
số tranh chấp dân sự khác, tuy nhiên hình thức này lại chưa được các bên sử
dụng nhiều so với lựa chọn bằng hình thức bằng tòa án.
Thực trạng, vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại thông qua hình thức
trọng tài ở Việt Nam hiện nay chưa được như mong muốn, chúng ta đã ban hành
Luật trọng tài thương mại và có hiệu lực từ ngày…nguyên nhân là do các trung
tâm trọng tài vẫn chưa nhận được nhiều các tranh chấp, hiện nay chúng ta có các
trung tâm trọng tài thương mại như: Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam
9VIAC), Trung tâm trọng tài thương mại Quốc tế Á Châu (ACIAC), Trung tâm
trọng tài thương mại Thành phố Hồ Chí Minh (TRACENT), Trung tâm trọng tài
thương mại Cần Thơ, Trung tâm trọng tài thương mại quốc tế Thái Bình Dương
(PIAC), Trung tâm trọng tài thương mại tài chính ngân hàng và Trung tâm trọng
tài thương mại tài chính. Tổ chức lớn nhất hiện nay là VIAC đóng trên địa bàn
thành phố Hà Nội trong năm 2013 cũng chỉ giải quyết 99 vụ , còn nhiều các
trung tâm trọng tài hiện nay nhận được rất it vụ, thậm chí còn không nhận được
vụ nào trên phạm vi cả nước trong năm 2013 các trung tâm trọng tài mới chỉ giải
quyết được 360 vụ, trong khi các vụ án tranh chấp tại Tòa án lại rất nhiều, chỉ

tính riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội theo Báo cáo kết quả công tác năm
2013 và nhiêm vụ công tác năm 2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
phục vụ ký họp thứ 8 của Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội khóa XIV (số
liệu tính từ ngày 01/10/2013 đến ngày 30/9/2014) thì các Tòa án trên địa bàn
thành phố đã thụ lý 25.996 vụ án các loại và đã giải quyết 25.139 vụ án trong đó
các vụ án về kinh doanh thương mại là 1.424 vụ, giải quyết 1.284 vụ, trên phạm
vi cả nước theo số liệu thống kê số lượng án của Tòa án nhân dân tối cao trong


năm 2013 Tóa án đã thụ lý là 332.944 vụ án các loại trong đó số vụ án về kinh tế
là 14.767 vụ. Như vậy việc giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài nó chưa
phản ánh đúng các tranh chấp phát sinh trong cộng đồng các doanh nghiệp, các
nhà đầu tư, số lượng các vụ án giải quyết tại các Tòa án là rất cao, tuy nhiên tại
các trung tâm trọng tài thương mại lại rất it nên nó không phản ánh đúng tình
hình các tranh chấp hiện nay đây là một điều rất đáng tiếc bởi các trung tâm
trọng tài là một cách phát huy được tối đa quyền lợi của các bên, các bên có
quyền tự do thỏa thuận lựa chọn hình thức trọng tài, địa điểm trọng tài, các trọng
tài viên, trong các vụ án có tranh chấp nước ngoài thì các bên cũng có thể lựa
chọn được luật áp dụng, thậm chí cả địa điểm giải quyết ở nước ngoài, các vấn
đề về giữ bí mật, quyết định của trọng tài mang tính chung thẩm, giải quyết
nhanh, các chi phí các bên cũng có thể tự lựa chọn ở mức vừa phải.
Hiện nay số lượng các trọng tài viên của các trung tâm trọng tài đã được
nâng lên đáng kể về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên số lượng này vẫn còn
tương đối ít, hiện nay số lượng các trọng tài viên trên cả nước mới chỉ có 288
người

2

tuy nhiên số lượng này lại chủ yếu tập chung ở trung tâm trọng tài


thương mại quốc tế Việt Nam với 151 người còn các trung tâm khác thì khá it,
cùng với đó là bảy trung tâm trọng tài phân bố thưa thớt trên phạm vi cả nước
bao gồm hai trung tâm có trụ sở tại Hà Nội, bốn trung tâm ở Thành phố Hồ Chí
Minh và một trung tâm ở Cần Thơ đây cũng là một dào cản khó khăn cho các
doanh nghiệp khi muốn lựa chọn trọng tài viên, lựa chọn trung tâm trọng trọng
tài để giải quyết khi có tranh chấp xảy ra.
Số lượng các vụ tranh chấp được đưa ra giải quyết tại trọng tài trong
những năm qua không ngừng tăng lên trong năm 2013 các trung tâm trọng tài
trên cả nước đã giải quyết 360 vụ tranh chấp. Điều này thể hiện sự quan tâm hơn
2 Theo báo cáo số 15/BC-BTP của Bộ tư pháp, ngày 20 tháng 01 năm 2014


nữa của các doanh nghiệp đến phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài,
tuy nhiên sự gia tăng các vụ tranh chấp được giải quyết tại trọng tài là không lớn
nó chỉ tập chung ở một số trung tâm trọng tài còn một số trung tâm trọng tài thì
giường như it có sự tiến triển chúng ta vẫn còn kém xa xo với các quốc gia, vùng
lãnh thổ trong khu vực về số vụ tranh chấp được giải quyết thông qua trọng tài,
biểu đồ về số vụ tranh chấp thương mại được giải quyết tại Trung tâm trọng tài
quốc tế Việt Nam từ năm 1993 đến năm 2014 sau đây sẽ cho chúng ta thấy điều
đó.

2.1. Bảng thống kê số vụ tranh chấp được giải quyết tại trung tâm trọng tài
Quốc tế Việt Nam . (Nguồn VIAC)

2.2 Nguyên nhân


Việc các trung tâm trọng tài đã được thành lập từ lâu nhưng hiện nay hiệu
quả, vai trò của trọng tài thương mại giường như chưa được đề cao xuất phát từ
một số nguyên nhân chính sau đây:

Các doanh nghiệp thường muốn giải quyết các vụ tranh chấp thông qua
Tòa án hơn là giải quyết thông qua trọng tài, họ thường tin vào phán quyết của
Tòa án hơn là trọng tài mặc dù trên thực tế phán quyết của Trọng tài cùng tương
đương như phán quyết của Tòa án ở thời điểm hiện tại, họ chưa tin lắm về hiệu
lực thi hành các quyết định trọng tài và do họ chưa nhận biết được tính ưu việt
hơn của phương thức giải quyết tranh chấp trọng tài so với phương thức giải
quyết tranh chấp bằng Tòa án, nhiều doanh nghiệp Việt Nam do không có kinh
nghiệm nên rất thờ ơ hoặc không có thỏa thuận nào về việc giải quyết tranh chấp
khi thương thảo hợp đồng vì vậy khi có tranh chấp sảy ra cơ quan đầu tiên mà
các bên nghĩ đến để giải quyết tranh chấp thường là Tòa án.
Nguyên nhân từ phía các cơ quan Tòa án và cơ quan thi hành án, theo quy
định của phap luật Tòa án và cơ quan thi hành án có nhiệm vụ hỗ trợ cho hoạt
động của trọng tài thương mại tuy nhiên trên thực tế sự hỗ trợ này còn khá khiêm
tốn. “ Những nguyên nhân được nêu ra bao gồm: các hoạt động trọng tài quá ít
(84,3%), Tòa án không có thời gian cho hoạt động liên quan đến trọng tài
(43,1%), trọng tài viên chưa yêu cầu Tòa án hỗ trợ (43,1%) và quy định của
pháp luật chưa phù hợp (35,3%), … Về cơ chế thi hành án, phần lớn cho rằng
quy định pháp luật chưa phù hợp và việc chưa có quyết định trọng tài được yêu
cầu thi hành là hai nguyên nhân cơ bản giải thích việc cơ quan thi hành án chưa
có hoạt động hỗ trợ trọng tài.”3
Việc đào tạo các chuyên gia giường như vẫn chưa được chú trọng, nền
trọng tài muốn phát triển được thì cần phải có đội ngũ chuyên gia kinh nghiệm,
3 Hội Luật gia Việt Nam, Báo cáo tổng kết thi hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003, (2009)


giải về chuyên môn, nghiệp vụ. Nên đưa các chuyên gia trẻ tham gia các khóa
học về trọng tài, đưa đi học tại các nơi có điều kiện giảng dạy tôt hoặc cũng có
thể đưa đi các nước có nền đào tạo pháp luật về trọng tài tiến tiến, hoặc mời các
luật sư danh tiếng của nước ngoài cũng như Luật sư tại các hãng luật ở Việt
Nam, vừa phải sử dụng được các ngoại ngữ, am hiểu pháp luật Việt Nam, am

hiểu luật pháp quốc tế có thể sử dụng được tiếng Việt như vậy việc mời họ về là
rất hữu ích cho trọng tài.
Từ những thực trạng và nguyên nhân trên đây cho ta thấy việc các trung
tâm trọng tài đã được thành lập từ lâu, với một vai trò rất quan trọng trong việc
giải quyết các tranh chấp thương mại nhưng hiện nay việc giải quyết thông qua
các trung tâm trọng tài là chưa được như mong muốn, vì vậy vấn đề đặt ra là
phải tìm ra được những giải pháp hữu hiệu nhằm tăng cường hơn nữa hiệu quả
hoạt động của trọng tài thương mại.


Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QỦA GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Cần nâng cao sự giám sát, hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài, việc hỗ trợ
các trung tâm trọng tài của Tòa án vừa góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết
tranh chấp của trọng tài mà còn góp phần giảm sức ép công việc của Tòa án
trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại, sự hỗ trợ của Tòa án là một điều
rất quan trọng không chỉ ở Việt Nam mà còn ở hầu hết các quốc gia trên thế giới,
mặc dù Luật trọng tài thương mại 2010 so với Pháp lệnh trọng tài thương mại
2003 đã có nhiều quy định nhằm tăng cường vai trò của trọng tài thương mại
trong giải quyết tranh chấp như: cho phép Hội đồng trọng tài được thu thập
chứng cư (Điều 46), triệu tập nhân chứng (Điều 47), áp dụng một số biện pháp
khẩn cấp tạm thời (Điều 48,49), hạn chế nguy cơ phán quyết của trọng tài bị Tòa
án tuyên hủy không phù hợp của Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 như quy
định một bên khi không đồng ý với phán quyết của trọng tài có thể làm đơn yêu
cầu Tòa án tuyên bố hủy với quy định mới của Luật trọng tài thương mại 2010
làm mất đi tính trung thẩm của phán quyết trọng tài, các nguy cơ này đã bị hạn
chế tối đa khi quy định rõ các trường hợp phán quyết trọng tài bị hủy (Điều 68).
Tuy nhiên, việc pháp luật quy định như vậy là chưa đủ mà muốn đạt được kết
quả tôt thì sự hỗ trợ của Tòa án là rất cần thiết trong một số việc như đăng ký
phán quyết trọng tài, đảm bảo sự có bặt của nhân chứng, áp dụng một số biện

pháp khẩn cấp tạm thời khi có yêu cầu,…góp phần tạo điều kiện cho trọng tài
làm việc hiệu quả.
Các cơ quan thi hành án cần đảm bảo các phán quyết của trọng tài được
thực thi trên thực tế để đảm bảo các phán quyết của trọng tài không bị hủy, tạo
cơ hội cho phán quyết của trọng tài có thể sửa đổi mà không vi phạm pháp luật.
Các cơ quan thi hành án cần thi hành phán quyết trọng tài một cách có hiệu quả,
một số doanh nghiệp nghĩ rằng phán quyết của trọng tài là không có hiệu lực


×